Người theo dõi

Thứ Ba, 31 tháng 1, 2017

Ðánh giá di sản Hồ Chí Minh qua hiện tình đất nước

Ðánh giá di sản Hồ Chí Minh qua hiện tình đất nước
Luật Sư Ðào Tăng Dực (Danlambao) - Như một nhân vật lịch sử đương đại, Hồ Chí Minh được những người Cộng Sản Việt Nam tôn sùng đến mức độ thần thánh, nhưng ông lại bị những người quốc gia, nhất là người Việt hải ngoại kết án là một tội đồ dân tộc.

Cả hai bên không thiếu những người cực đoan, sử dụng những danh từ quá khích để thóa mạ lập trường của nhau.

Bài này là một cố gắng khách quan đánh giá vị trí thực sự của Hồ Chí Minh trong lịch sử đất nước. Ngôn từ tôi sử dụng luôn trung dung và những sách vở dẫn chứng tương đối không thiên vị.

Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 (Charles Fenn, t.16). Tên thật là Nguyễn Sinh Cung. Có thể nói ông và Mao Trạch Ðông suýt soát tuổi với nhau. Mao Trạch Ðông sinh ngày 26 tháng 12 năm 1893. Hai nhà lãnh tụ cộng sản của đầu thế kỷ 20 không những chia xẻ lý tưởng cộng sản mà còn gặp nhau nhiều lần trên con đường tranh đấu chông gai trước mắt của họ.

Tuy nhiên sự khác biệt giữa hai nhân vật sẽ giúp chúng ta đáng giá khách quan vai trò và vị trí của Hồ Chí Minh.

Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2017

Tận Nhật Tầm Xuân Bất Kiến Xuân

Tận Nhật Tầm Xuân Bất Kiến Xuân



Một mình trong ngôi nhà vắng lặng và kha khá tinh tươm sau hơn ba tiếng đồng hồ dọn dẹp, tôi tự sướng bằng cách lắng nghe từng giây phút cuối cùng của năm lặng lẽ trôi qua. Ngày Tết không còn háo hức tôi, nhưng cái cảm giác đón nhận mùa Xuân thì vẫn có; một chút nôn nao, một chút đợi chờ, dù rằng không biết nôn nao và chờ đợi cái gì. Hớp một ngụm trà, châm một điếu thuốc (nói bỏ hoài mà chỉ bỏ được cái đầu lọc) rồi chồm lên giá sách lại rút một cuốn sách bất kỳ lại mở một trang bất kỳ(thói quen mà) tôi gặp:

嗅梅
盡日尋春不見春
芒鞋蹅遍岭頭雲
歸来偶把梅花嗅
春在枝頭已十分
無盡藏

Thứ Hai, 23 tháng 1, 2017

THƠ NGUYỄN DU

Những ngày Tết đang đến gần, túi rổng, chẳng việc gì làm đành táy máy đọc thơ xưa và hý hoáy đôi giòng chuyển ngữ, một phần vì đồng điệu với người xưa và… tủi phận mình.
Gởi đến các bạn để sẻ chia như là một tí quà xuân nhiều sai sót, mong các cao nhân lượng tình tha thứ và chỉ vẽ thêm.
KÍNH CHÚC CÁC BẠN VÀ GIA ĐÌNH MỘT NĂM MỚI AN KHANG - HẠNH PHÚC.
Lê Thường Dân

渡龍尾江
故國回頭淚,
西風一路塵。
纔過龍尾水,
便是異鄕人。
白髮沙中見,
離鴻海上聞。
親朋津口望,
為我一沾巾。

Độ Long Vĩ giang
Cố quốc hồi đầu lệ,
Tây phong nhất lộ trần.
Tài qua Long Vĩ thuỷ,
Tiện thị dị hương nhân.
Bạch phát sa trung hiện,
Ly hồng hải thượng văn.
Thân bằng tân khẩu vọng,
Vị ngã nhất triêm cân.

Qua sông Long Vỹ
Quê cũ quay đầu rơi lệ
Bui tung cơn gió tây về
Vừa mới qua sông Long Vĩ
Bắt đầu làm kẻ xa quê
Tóc trắng nhòa trong bãi lạnh
Chim hồng kêu xót ngoài xa
Người đưa bên kia bến ngóng
Lệ tuôn khăn ướt đầm đìa
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
------------------

Thứ Sáu, 20 tháng 1, 2017

NGHE MÙA XUÂN TỚI

NGHE MÙA XUÂN TỚI

Ta lặng lẽ ngồi nghe mùa xuân tới
Thở nhẹ nhàng cho cây cỏ thêm xanh
Hãy cảm thụ như là không đón nhận
Đời bừng lên muôn hoa nở trên cành

Ta lặng lẽ ngồi nghe mùa xuân tới
Để biết mình đang sống giữa nhân gian
Một cơn gió đang lơ mơ ngoài ngõ
Một mùa xanh từ chiếc lá rơi vàng

Thứ Hai, 16 tháng 1, 2017

LÂM ẤP LIÊN MINH LẠC VIỆT NỔI DẬY ĐÁNH ĐUỔI ĐÔ HỘ TRUNG HOA

LÂM ẤP LIÊN MINH LẠC VIỆT NỔI DẬY ĐÁNH ĐUỔI ĐÔ HỘ TRUNG HOA
Published February 1, 2013 | Posted in Lịch Sử
Nguyễn Văn Diễn
II/9A .- SỬ TẦU – SỬ VIỆT


Sử gia Việt Nam khi viết sử Việt từ giai đoạn lệ thuộc Trung Hoa trở về trước thường truy cứu từ sử Trung Hoa. Sử gia Trung Hoa khi ghi chép các chuyện ở biên ngoại, họ thường dựa theo báo cáo của bọn quan lại trấn nhậm. Bọn này đa số là bọn có tội bị đày, tham nhũng, gian ác… nói chung là bọn sâu dân mọt nước. Làm thì lếu, báo cáo thì hay, miễn sao có lợi cho họ… Do vậy, lịch sử Việt Nam trong thời kỳ Trung Hoa đô hộ trở về trước không khỏi bị trình bày sai lạc. Điển hình là “giặc” Lâm Ấp mà bọn quan lại đô hộ Tầu này gán cho người Chàm để chạy tội.
Mặt khác, nguồn gốc quốc gia Việt Thường của người Lâm Ấp cũng nằm trong chủ trương bôi xóa dấu ấn Bách Việt nhằm mục đích đồng hóa “Man di” và chia rẽ hai dân tộc Việt Lạc và Việt Thường.
Tuy nhiên, người Trung Hoa khi chép sử các nước Việt phương Nam đã vô tình để lộ ra nhiều sơ hở khiến chúng ta có thể suy ra những sự thực khi tìm về nguồn gốc của người Lâm Ấp. Sau đây là những sự kiện rất quan trọng mà chúng tôi xin đề nghị các sử gia Việt Nam ngày nay xét lại.
II/9B .- LÂM ẤP LIÊN MINH LẠC VIỆT NỔI DẬY ĐÁNH ĐUỔI ĐÔ HỘ TRUNG HOA
Sử gia Phạm Cao Dương trong sách Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam, từ trang 114 đến trang 122 đã dẫn rất nhiều sách sử Trung Hoa để trình bày tiểu mục “Người Lâm Ấp quấy phá Giao châu” chúng tôi xin trưng dẫn những đoạn như sau (Những đoạn có danh mục A, B, C… chữ nghiêng là phần trích dẫn):
  A- “Lâm Ấp: Quốc giới của Việt Thường thời xưa, đời Tần là huyện Lâm Ấp thuộc Tượng Quận …tr.117…
Đời nhà Tần, Tầu chỉ mới chiếm được vài nước Bách Việt ở sát bờ sông Dương Tử (Trường Giang) mà nước Việt Thường là một. Họ đổi tên nước Việt Thường thành huyện Lâm Ấp. Vậy Lâm Ấp có thể là tên một địa danh quan trọng của nước Việt Thường và nằm trong nhóm nước bị nhà Tần chiếm rồi gom lại thành một quận gọi là Tượng Quận. Tượng Quân không nằm ở Việt Nam mà nằm bên Tầu, sát với bờ Nam sông Dương Tử. Câu B dưới đây do chúng tôi ngắt ra khỏi câu A:
    B- “… đời Hán đổi làm huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam.” tr. 11
    C- ”Trung tâm của nước này theo các nhà khảo cứu hiện đại là các vùng kế cận thành phố Huế ngày nay” tr.116,
     Huyện Lâm Ấp thuộc Tượng Quận ở bên Tầu thời Nhà Tần và huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam ở vùng Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên thời lệ thuộc nhà Hán là hai địa bàn khác nhau, cách nhau nhiều ngàn cây số; còn thời gian của hai giai đoạn này cách nhau chừng 260 năm. (Kể từ năm 221 tr.CN, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư đem nửa triệu quân xâm lăng các nước Việt phương Nam đến năm 43 sau CN, Mã Viện thôn tính nước ta vào thời Hai Bà Trưng).
Sử gia Phạm Cao Dương và nhiều sử gia khác nghĩ rằng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên là quốc giới của nước Việt Thường, có nghĩa nước Việt Nam xưa có tên là Việt Thường. Cách suy nghĩ này không đúng vì lẫn lộn hai địa danh cùng mang tên Lâm Ấp và Việt Thường vừa ở bên Tầu vừa ở bên ta, do vậy gây nhiều sai lầm khác rất quan trọng, chúng tôi sẽ bàn tới ở tiểu mục nước Việt Thường ở đâu?
A- Trong “Bulletin des Amis du Vieux Huế” (Đô Thành Hoài Cổ), Học giả Đào Duy Anh viết bài “Les colonnes de bronze du Mã Viện” xác định rằng trụ đồng Mã Viện ở núi Đồng Trụ cũng gọi là núi Lam Thành thuộc tỉnh Nghệ An. Ông nói rằng sách Ngô Lục và sách Tùy Thư đều chép như thế,
B- “… dẹp xong tàn quân của tướng Đô Dương ở huyện Cư Phong, quận Cửu Chân, Mã Viện kéo quân vào Nhật Nam, tiến sát vùng biên giới thì dân Chàm đem vàng bạc dâng cống chúc mừng. Mã Viện liền tâu xin phong cho dân Chàm ở đất Tượng Lâm.(Nguồn gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam, Bình Nguyên Lộc)
C- Sử gia Phạm Văn Sơn trong Việt sử Tân Biên (tr.198) chép theo sách Lĩnh Ngoại: Cột đồng Mã Viện ở Lâm Ấp (Chiêm Thành). Ông chép thêm: Khâm Định Việt Sử Tiền Biên, Nghệ An Thi Tập, Vân Đài Loại Ngữ… cũng nói Đồng Trụ ở Lâm Ấp… tại Nghệ An huyện Hưng Nguyên có một hòn núi gọi là Đồng Trụ ăn vào giữa làng Phú Điền và Nghĩa Liệt. Núi này ở đồng bằng đột khởi lên một ngọn cao chạy thẳng xuống Lam Giang…
D- “Sự xuất hiện của người Chàm đã được sử Trung Hoa nói tới trong một biến cố xảy ra ở huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam trong thời Đông Hán, đời Hòa Đế niên hiệu Vĩnh Nguyên thứ 14, tức năm 102 sau TL. Năm đó hơn 3000 người ở huyện này đã nổi lên cướp phá, đốt các dinh thự… Để đề phòng những cuộc biến loạn mới, nhà Hán đặt chức Tướng Binh Trưởng Sử ở huyện này” Tr.114.
Đất Bình, Trị, Thiên cổ tên là gì thì không ai biết vì là đất hoang “khỉ ho cò gáy, cho ăn đá gà ăn muối…” có lẽ có một vài bộ lạc Chàm sống rải rác ven sông và bờ biển. Tuy nhiên, điều nay khoáng quan trọng, việc tìm hiểu việc làm của Mã Viện trong cuộc xâm lược đất Lĩnh Nam thì chúng tôi thấy rất rõ:
Sau khi Mã Viện diệt nhà Trưng và chiếm cứ toàn bộ đất Lĩnh Nam và miền Bắc Việt Nam, y kéo quân vào vùng biên giới quận Nhật Nam. Người Lâm Ấp rất lo sợ, họ đem vàng bạc, châu báu “dâng cống” cho Mã Viện và xin quy phục. Mã Viên bèn xin Hán triều đặt tên vùng đất người Lâm Ấp đang cư trú ở vùng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên là huyện Tượng Lâm, bổ nhiệm huyện lệnh Tầu lo việc cai trị và đặt huyện này dưới quyền thống trị của Thái thú quận Nhật Nam. Cái khéo của Mã Viện là kết hợp đất Tượng Quận và huyện Lâm Ấp ở bên Tầu thành huyện Tượng Lâm cho người Lâm Ấp ở bên Việt (rất đông sử gia Việt đều tưởng rằng địa danh Tượng Quận ở phía Nam sông Dương Tử là tên cũ của địa danh Tượng Lâm).
Chẳng những thế, y cướp đoạt hàng ngàn trống đồng và các dụng cụ bằng đồng dùng trong việc thờ cúng của dân Việt đúc thành một trụ đồng rất lớn và trồng giữa ranh giới Nghệ An và Quảng Bình để phân biệt đất Lâm Ấp và đất Lạc Việt dù rằng Tượng Lâm cũng là một huyện trực thuộc quận Nhật Nam.
Mã Viện biết rất rõ nhóm dân hối lộ vàng bạc cho y là con cháu người Lâm Ấp ở Tượng Quận (bên Tầu) nên y đặt tên huyện Tượng Lâm và phong đất này cho họ. Tuy nhiên y vẫn cứ gọi họ là Chàm, tại sao? – Rõ ràng y muốn dấu tung tích của đám dân này để chia rẽ hai đồng chủng Lạc Việt và Việt Thường cũng có thể y dấu tung tích của họ để ẵm trọn số vàng bạc hối lộ vì sợ phải chia cho vua quan nhà Hán
Kể từ đoạn nầy, chúng tôi chỉ nói về người Lâm Ấp ở địa bàn Tượng Lâm và xin quý độc giả tạm quên địa bàn “huyện Lâm Ấp và Tượng Quận bên Tầu”. Khi minh định Lâm Ấp không phải là Chàm, chúng tôi sẽ dùng lại huyện Lâm Ấp này.
Huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam là một trong 9 quận Việt cổ đang bị Tầu đô hộ. Ba ngàn dân huyện Tượng Lâm nổi dậy tấn công huyện lỵ, đốt phá các dinh thự… Vậy đây không phải là Chàm xâm lăng “nước ta” mà là dân Lâm Ấp ở huyện Tượng Lâm nổi dậy chống lại quan quân đô hộ. Rõ ràng bọn quan lại đô hộ Tàu đã vu cáo cho Chàm để chạy tội tham ô, gian ác, hiếp đáp dân lành đến độ dân chúng huyện Tượng Lâm đã nổi lên “làm loạn”!
 A- “Năm 137, Hậu Hán Thư lại ghi rằng người Man ở cõi xa thuộc huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam là bọn Khu Liên đem vài ngàn người đánh huyện Tượng Lâm, đốt thành quách, công sở, giết người Trưởng lại. Thứ sử Giao Châu là Phàn Diễn đem hơn một vạn quân thuộc hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân đến cứu, nhưng quân lính sợ phải đi xa đã quay lại đánh phá phủ lỵ . Phàn Diễn tuy dẹp được bọn quân sĩ làm phản nhưng thế lực quân Man mỗi ngày một mạnh” (Tr.114)
Lại dân Man (Lâm Ấp) nổi dậy dưới sự lãnh đạo của một người (tộc trưởng?) tên là Khu Liên. Họ đốt phá thành quách, công sở và giết Trưởng lại Tầu chứ không cướp bóc của dân Việt. Hơn một vạn quân Giao Chỉ và Cửu Chân được điều động tới dẹp loạn. Một vạn quân này hẳn là người Lạc Việt mới hợp tác với quân Lâm Ấp đánh lại bọn quan lại Trung Hoa. Sau vụ này, huyện lỵ Tượng Lâm vẫn còn nằm trong tay nghĩa quân Tượng Lâm.
B- “Năm sau (năm 138), Thị Ngự Sữ Giả Xương sang công cán ở quận Nhật Nam đã cùng với các châu quận hợp sức đánh Khu Liên nhưng đánh không lại, lại bị bọn Khu Liên phản công và bao vây hơn một năm khiến quân Hán lâm vào tình trạng thiếu lương ăn và vua Hán lo ngại triệu tập các Công khanh … Sau nhiều cuộc nghị luận sôi nổi, cựu thứ sử Tinh Châu là Chúc Lương và Trương Kiều, người đã dẹp giặc Ích Châu đã được triều đình bổ làm thái thú Cửu Chân và thứ sử Giao Châu (phủ đô hộ đóng ở Giao Chỉ). nhờ khéo phủ dụ, hai viên quan mới này đã ổn định được tình thế.” Tr.115
Rõ ràng, vị anh hùng tên là Khu Kiên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của dân Tượng Lâm nổi lên lật đổ chính quyền đô hộ Trung Hoa chứ không có Chiêm Thành nào ở đây cả… Các Thứ sử và Thái thú ở hai quận cực Nam Giao Châu Đô hộ phủ này hễ có biến là báo cáo về Tầu rằng, giặc Chàm tấn công “nước ta” để chạy tội tham ô, bạo ngược khiến dân Việt vì căm hờn mà nổi dậy.
Vậy Lâm Ấp là ai mà các sử gia Việt đều theo Tầu mà gọi là Chàm? Và mỉa mai thay, các sử gia của ta cũng bắt chước Tầu gọi rằng: “ giặc Chàm đánh nước ta!”
   A- “Năm 144 hơn một ngàn người ở quận Nhật Nam lại nổi dậy đốt phá các huyện ấp. Họ liên kết cả với người Cửu Chân. Thứ sử Giao Châu là Hạ Phương dùng ân nghĩa chiêu dụ. Quân giặc đều ra hàng cả”. Tr.115
    B- “Năm 160, khi nhân dân huyện Cư Phong dưới sự lãnh đạo của Chu Đạt chống lại sự tham bạo của viên huyện lệnh, “quân Man” (Lâm Ấp) đã tiếp tay. Số người làm loạn lên tới bốn, năm ngàn. Họ tấn công vào quận Cửu Chân. Thái thú Nghê Thức ra đánh bị tử trận… Nhà Hán sai Đô úy quận Cửu Chân là Ngụy Lãng đi đánh, phá tan được. Nhưng tướng giặc vẫn còn chiếm đóng Nhật Nam, thế lực ngày một cường thịnh. Nhà Hán lại phải sai Hạ Phương sang chiêu dụ. Nhờ uy tín có sẵn, Hạ Phương đã khiến được 20.000 quân giặc đầu hàng” Tr.115
Lại có 2 cuộc nổi dậy của nô lệ Việt, lần trước năm 144 có hơn 1000 người; lần sau, năm 160, đông hơn, có đến 5000 người. Chẳng những vậy, lại có thêm quân Lâm Ấp liên minh tiếp trợ. Dân Việt nổi dậy dưới sự lãnh đạo của anh hùng Chu Đạt tấn công quận Cửu Chân và giết được thái thú Nghê Thức. Tuy nhiên, hình như nghĩa quân không chiếm được quận lỵ Cửu Chân. Do vậy họ tiến vào Nhật Nam và phối hợp với nghĩa quân ở đây tấn công giải phóng quận Nhật Nam. Từ đó, phong trào dân chúng nổi dậy bùng lên mãnh liệt và trở thành một cuộc Khởi nghĩa thật sự. Nghĩa quân chiếm được quận Nhật Nam và các huyện của quận này trong một thời gian dài.
Nhà Hán sai tướng Ngụy Lãng điều quân từ Cửu Chân vào Nhật Nam đánh dẹp cuộc nổi dậy có quy mô lớn của Chu Đạt, nhưng quân Ngụy Lãng đã bị thất bại, có thể y đã bị giết chết. Sau đó, nhà Hán phải sai thứ sử Giao Châu là Hạ Phương đem đại quân từ Giao Chỉ đến đàn áp. Chắc chắn cuộc đàn áp rất tàn khốc, đến độ các đạo Nghĩa quân đang chiếm giữ quận Nhật Nam và các huyện của quận này đã phải đầu hàng. Tổng số Nghĩa quân đầu hàng lên tới 20.000 người. Như thế có nghĩa là dân Việt huyện Cư Phong ở Cửu Chân và quận Nhật Nam cùng nổi dậy dưới sự lãnh đạo của anh hùng Chu Đạt rất đông. Có lẽ sau khi Chu Đạt bị tử trận (?) thì Nghĩa quân mới đầu hàng. Nếu số Nghĩa quân đầu hàng lên tới 20.000 thì số bị Nghĩa quân bị tàn sát không dưới 10.000.
A- “Theo các tài liệu của người Tàu, niên đại chính thức của sự thành lập vương quốc của người Chàm là năm 192. Năm đó con của viên công tào bản xứ tên là Khu Liên, đã lợi dụng tình trạng suy yếu của nhà Hán, giết viên huyện lệnh huyện Tượng Lâm và xưng làm vua. Khu Liên cũng là tên của nhóm người nổi loạn năm 137. Vương quốc này được người Trung Hoa gọi là Lâm Ấp là do sự gọi tắt của Tượng Lâm Ấp có nghĩa là kinh đô hay đúng hơn là lỵ sở của Tượng Lâm (có nghĩa là rừng voi). Trung tâm của nước này theo các nhà khảo cứu hiện đại là các vùng kế cận thành phố Huế ngày nay”. Tr.116
Năm 192, sau hơn 320 năm định cư ở huyện Tượng Lâm quận Nhật Nam, người Lâm Ấp đứng lên lâp quốc. Họ xưng quốc hiệu là gì thì không ai biết, chúng tôi tạm gọi là (Tân) Việt Thường. Tuy nhiên các sử gia Tầu thì cứ gọi là nước Lâm Ấp, là Chàm. Rõ ràng người Tầu chỉ muốn coi Lâm Ấp là Chàm và dứt khoát dập tắt việc quay trở lại dòng giống Việt Thường cổ! Không muốn người Lạc Việt liên kết với đồng chủng Việt Thường vốn rất quật cường dù chỉ là con cháu một nhóm dân chạy loạn.
B- “Năm 433, tiến hơn một bước nữa, Phạm Dương Mại (vua nước Lâm Ấp) sai sứ sang cống nhà Tống, xin quản lãnh Giao Châu nhưng không được vua nhà Tống chấp nhận”. Tr.120
     C- “Phạm Dương Mại do đó tiếp tục cướp phá Giao Châu khiến năm 446 nhà Tống phải cử Đàn Hòa Chi và Tông Xác đem quân đi đánh… quân Chàm đại bại. Chỉ Phạm Dương Mại và các con chạy thoát được thân…” Tr.120
Tới giai đoạn này, nước Lâm Ấp đã đủ mạnh, đã có nhiều liên hệ mật thiết với nhân dân các quận Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ… đã tự thấy có đủ tầm vóc nói chuyện với nhà Tống để “xin quản lãnh Giao Châu” (lời chép của Sử gia Trung Hoa với tư thế nước lớn). Chúng tôi nghĩ đấy là cuộc vận động của vua Lâm Ấp đòi nhà Tống phải chấp nhận cho Giao Châu tự trị. Tuy nhiên, nhà Tống không chấp nhận.
Vua Lâm Ấp Phạm Dương Mại liền tạo sức ép quân sự bằng cách cho quân đội tấn công thẳng vào phủ trị Giao Châu. Mười ba năm sau tức là năm 446 nhà Tống sai tướng Đàn Hòa Chi và Tông Xác đem đại binh giải cứu Giao Chỉ, trong đánh ra, ngoài đánh vào khiến quân Lâm Ấp đại bại. Vua Phạm Dương Mại và con trai thoát được nhưng quân đội Lâm Ấp thì bị tàn sát toàn bộ, vô cùng khủng khiếp. Nước Lâm Ấp từ đó suy yếu hẳn. Cuộc chiến này giằng co suốt 13 năm, chắc chắn vô cùng cam go khiến Lâm Ấp kiệt quệ và đi đến chỗ đại bại.
Chúng tôi đã dẫn chứng những tài liệu của sử gia Phạm Cao Dương và một số học giả khác ghi lại từ các sách sử Trung Hoa nói về các cuộc chiến tranh giữa Trung Hoa và Lâm Ấp đồng thời chỉ ra những phần quan trọng để xác minh rằng Lâm Ấp không phải là Chàm (Chiêm Thành), mà là một dòng dân rất gần với Việt tộc. Họ thường xuyên liên minh với dân Việt đánh đuổi xâm lược Trung Hoa. Cho đến năm 192 là năm người Lâm Ấp ở huyện Tượng Lâm chính thức lập quốc. Các cuộc liên minh nổi dậy giữa Việt tộc với Lâm Ấp như trên còn kéo dài liên tục vào những năm tiếp theo: 220, 230, 248, 353, 399, 413, 415, 420, 424, 431, 433, 446, 448, 627…808
Trong suốt thời gian kể trên người Lâm Ấp liên tục liên minh với dân Việt đánh phá các phủ huyện đô hộ Tàu ở các quận Nhật Nam, Cửu Chân có khi tràn tới quận Giao Chỉ… Dù ghi như trên, thỉnh thoảng sử gia Phạm Cao Dương vẫn theo sát sách sử Trung Hoa, cứ gọi Lâm Ấp là Chàm.
Chúng tôi xin mời quý độc giả xem qua Việt Sử Toàn Thư của Sử gia Phạm Văn Sơn trước:
     A- “… Trung quốc lại trở về cái cảnh tam phân ngũ liệt gần giống như thời Đông Chu … các ngai vàng luôn luôn thay đổi. Do vị trí của nó, Giao châu thuộc về NamTống … Năm 448 Lâm Ấp nhân cơ hội (Trung Hoa nội loạn) cử Sứ sang điều đình với Tống triều xin lãnh đất Giao châu, nhưng đề nghị của họ không được chấp thuận”. Trang 131
     B- “Trái lại năm 468 tháng ba, mùa hạ, triều Tống cử Đàn Hòa Chi sang làm thứ sử Giao châu và đánh Lâm Ấp. Vua Lâm Ấp sợ xin trả lại những người Nhật Nam bị Lâm Ấp bắt trước đây và nộp vàng để tạ tội”.tr.131
Đoạn sau đây khá dài, xin tóm tắt:
     Mặc dù Lâm Ấp nộp vàng xin tạ tội nhưng đại quân Đàn Hòa Chi vẫn tấn công, tàn sát dân Lâm Ấp cực kỳ dã man. Vua Phạm Dương Mại phải dẫn vợ con chạy trốn. Quân Tống tha hồ vơ vét vàng bạc.Tr.131
     C- “Sử không ghi rõ ràng sau cuộc thắng trận này nhà Tống có lập nền đô hộ ở Lâm Ấp không, có lẽ họ đã cho Lâm Ấp đầu hàng và hàng năm nộp cống.”Tr.131
Việt Sử Tân Biên cũng của Sử gia Phạm Văn Sơn (gồm 7 cuốn với khoảng 4000 trang) ghi thêm:
     A- “Người ta nghi rằng khai sinh ra nước Lâm Ấp là bọn giặc bể dòng giống Mã Lai đã xâm nhập vào đất Trung Việt trước kỷ nguyên có kinh thành là Khu Túc ở Huế bây giờ…”Tr. 215/Q.I.
     B- “Họ (Lâm Ấp) hợp giống với Cao Miên và giống Chiêm Thành trong khi một chi phái của họ hợp với giống Mông Cổ và dân tộc Việt Nam” Cũng trang 215/QI.
Sử gia Phạm Văn Sơn viết “người ta nghi” tức là các sử gia không biết đích xác Lâm Ấp là ai, họ ngờ rằng Lâm Ấp là giặc bể từ Mã Lai đến. Nhưng họ quên rằng, nhiều năm trước, khi Tần Thủy Hoàng xua quân tấn công các nước Việt phương Nam và tàn sát dân Việt vô cùng dữ dội. Nhiều dòng Bách Việt trong đó có dân Ấp Lâm của nước Việt Thường đã dùng thuyền chạy về phương Nam tị nạn. Cũng do vậy, cái tên nước Việt Thường, quốc giới của Việt Thường, Tượng Quận… dính vào ba tỉnh miền Trung này. Và, thêm một minh xác rất quan trọng: Hai tên hai châu Ô, Châu Rí của Chiêm Thành hoàn toàn chưa xuất hiện trong giai đoạn 1000 năm lệ thuộc này.
Tôi nghĩ, các sử gia Tầu quá biết Lâm Ấp là Việt Thường (Bách Việt) nhất là khi Mã Viện đặt tên huyện Tượng Lâm cho dân tị nạn đang sống ở đó, tuy nhiên nhất định họ cứ phải theo chủ trương chia rẽ hai dòng Việt Lạc và Việt Thường.
Tại sao có sự giống Mông Cổ ở đây? Điều này không lạ, theo Tiến sĩ J.Y.Chu trên Tạp chí khoa học The Nation Academy Of Science – USA ngày 29/7/1990 thì người Hiện đại đầu tiên xuất hiện từ đông Phi Châu cách đây vào khoảng 150.000. Từ đây họ dần dần di cư ra khắp thế giới. Có nhóm tiến về phía đông qua Ấn Độ, tới bán đảo Trung Ấn rồi tách ra làm hai: Một nhóm tiến lên phía đông bắc băng qua bắc Việt Nam, Trung Hoa, Mông Cổ, đông Tây Bá lợi Á rồi băng qua eo biển Bering mà vào Châu Mỹ. Nhóm thứ hai đi xuống phía nam, vào Thái Lan, Mã Lai rồi ra các quần đảo ở Đông Nam Á. Trong nhóm lên phía bắc Á chắc chắn có tổ tiên Miêu Viêm tức Bách Việt và nhiều tổ tiên của các chủng khác như Tây Tạng, Mãn, Mông … Vậy Việt Thường có giống Mông Cổ cũng không lạ vậy.
Từ các đoạn trích dẫn ghi trên chúng tôi có suy luận như sau:
Chúng ta đã biết lịch sử giữa Chiêm Thành và Đại Việt kể từ năm 981 (thời nhà Tiền Lê), đến các nhà Lý, Trần và các họ về sau cho tới Chúa Nguyễn là những cuộc chiến tranh tàn khốc và hận thù triền miên cho đến khi Chiêm Thành bị Việt tộc nuốt trọn. Trong khi đó giữa Lâm Ấp và Việt tộc, các quận Nhật Nam, Cửu Chân luôn luôn kết hợp ngoài đánh vào, trong nổi dậy, cùng tấn công kẻ xâm lược Trung hoa rất nhịp nhàng trong suốt 700 năm gần như không ngưng nghỉ.
Nếu Lâm Ấp là Chiêm Thành với mảnh đất chỉ bằng vài tỉnh nhỏ (Bình, Trị, Thiên), chắc chắn họ không dám xin “lãnh” Giao châu vốn là thủ phủ 9 quận Việt tộc đang bị Tầu đô hộ. Chín quận này đất rộng người đông gấp 20 lần Lâm Ấp.
Nói cách khác, Lâm Ấp kiên trì, tích cực, liên tục hợp tác với Việt tộc tấn công các phủ trị đô hộ Trung Hoa đến độ vua quan Trung Hoa đàn áp dữ dội mà đi vào diệt vong là do họ chung dòng Bách Việt với Việt tộc, hai dân tộc cùng mang nổi căm thù đô hộ Trung Hoa cực kỳ sâu nặng. Chúng tôi tin rằng, vua quan Lâm Ấp đã có quyết định khôn ngoan khi vừa giúp giải phóng đồng chủng 9 quận vừa quyết tâm thâu hồi lại quê hương Việt Thường của họ.
Một điều rất rõ ràng là trong khi nước Lâm Ấp với kinh đô đặt tại Khu Túc trong phạm vi tỉnh Thừa Thiên hiện nay đang gây sóng gió liên tục với quan quân đô hộ Trung Hoa, thì Chiêm Thành đã lập quốc rất lâu trước đó với kinh đô Chiêm Bà (Quảng Ngãi) sau đó dời về Đồ Bàn (Quảng Nam). Chứng tỏ Lâm Ấp là Việt Thường – Chiêm Thành là Chàm, hai dân tộc này hoàn toàn khác nhau.

Thứ Ba, 10 tháng 1, 2017

TRẦN TẾ XƯƠNG

TRẦN TẾ XƯƠNG (1870-1907)

Vẳng nghe tiếng ếch bên tai,
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.


Tôi đã đọc hết những gì ông để lại. Không nhiều, bởi vì cuộc đời của ông không dài, nhưng thơ ông làm cho tôi khoái, rồi khi va vấp thì tôi đau. Rồi khi không còn sức để bon chen nữa, tôi mới thấy tôi buồn. Những bài thơ mang đầy tính châm chọc của ông như là những bức ký họa thật buồn của một giai đoạn giao thời. Nhưng lại là một giai đoạn giao thời của một thế nước ngã nghiêng. Biết bao nhiêu cảm xúc không vui dồn tụ nơi tâm hồn nhạy cảm làm ông không chịu nổi. Để giờ đây, ngồi viết những giòng này về ông thì tôi cũng không thể nào phân định rõ những xúc cảm của mình, nghĩa là vẫn khoái, vẫn đau, vẫn buồn như mọi khi. Tất nhiên là không thể nào vui vì những câu thơ đầy tính châm chọc. 

Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2017

Tình Yêu

Tình Yêu
 


Em chớp mắt cho xanh thêm lá biếc
Cho chồi non theo gió đẩy đưa cành
Tiếng Xuân gọi mơ hồ trong giấc lạnh
Heo may nồng hương lộng ngát trời xanh

Cái gì đó ngủ đông từ lâu lắm
Nụ cười em hé mở nắng len vào
Chút lấp lánh như vươn vai thức dậy
Cỏ êm đềm lay động bước xôn xao

Thứ Ba, 3 tháng 1, 2017

XIN NHƯ HÔM QUA


XIN NHƯ HÔM QUA


Nhân loại bây giờ quên cầm bút viết thư
Thói quen ấy đã trở thành quá khứ
Và vì tôi là một phần nhân loại cũ
Nên lắm khi không liên lạc được với thời này



Ngày hôm nay cái điện thoại cầm tay
Giúp kết nối loài người trên trái đất
Ta dễ yêu những con người xa lắc
Người trong nhà lắm lúc lại thờ ơ



Thứ Hai, 2 tháng 1, 2017

Vì sao sau 1000 năm bị phương bắc đô hộ nhân dân ta vẫn giữ được tiếng nói của mình?


 Vì sao sau 1000 năm bị phương bắc đô hộ nhân dân ta vẫn giữ được tiếng nói của mình?


Vì sao sau một ngàn năm đô hộ, bá quyền Trung Quốc vẫn không Hán hoá được Việt Nam?

Từ thượng cổ, người Trung Hoa đã tự tạo cho mình niềm tin rằng vua chúa của họ là “Thiên tử” (con Trời), được ban cho “thiên mệnh” trị vì bàn dân thiên hạ. Từ khi vị hoàng đế đầu tiên (Tần Thủy Hoàng đế) thống nhất các nước nằm trong lưu vực sông Hoàng, nơi này được gọi là Trung Quốc – hàm ý quốc gia ở trung tâm toàn cõi đất. Trăm họ tộc Hoa người Trung quốc được coi là thần dân. Những dân tộc không cùng dòng giống với người Hoa sống ở những khoảng đất chung quanh đều bị coi là man di như Hung Nô phía Bắc, Bách Việt phía Nam. Sau nhà Tần, các triều đại nhà Hán vẫn lấy danh nghĩa làm theo “mệnh trời”, tiếp tục chính sách bành trướng của Tần Thủy Hoàng chiếm hữu đất đai của các dân tộc này sáp nhập vào Trung Quốc. Còn tinh vi hơn, đàn bà con gái của các dân tộc này bị ép lấy người Hán, để rồi con cái họ trở thành người Hán vì mang huyết thống cha theo chế độ phụ hệ một chiều của người Tàu; bằng cách này, chỉ sau vài trăm năm, các dân tộc này đều bị tuyệt giống. Thật ra, đó là cách duy nhất để cung cấp nhân công cho một nền kinh tế có căn bản là nông nghiệp, khi người Hán chỉ là thiểu số so với toàn thể số dân đại lục Trung Hoa thời đó (vào khoảng 50 triệu, bằng dân số đế quốc La Mã cùng thời). Trong khoảng một ngàn năm gần như toàn thể các tộc Bách Việt sống ở phía Nam sông Dương Tử đều đã bị Hán hoá và tuyệt chủng. Chỉ còn lại duy nhất một dân tộc thoát được nạn này là dân tộc Lạc Việt, tổ tiên chủ yếu của dân tộc Việt Nam sau này: không những không bị đồng hoá mà, kỳ diệu hơn, còn giành được độc lập, giữ được một phần đất phía Bắc và tiếp tục bành trướng về phía Nam để tạo thành một quốc gia riêng, biệt lập với Trung Quốc, điều đã khiến cho cuộc Nam tiến của người Hán xuống cực Nam của vùng Đông Nam Á bị khựng lại từ hơn một ngàn năm nay.