Người theo dõi

Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2019

Cuộc tiến hóa của tiếng nước Nam


Cuộc tiến hóa của tiếng nước Nam
Chủ nhật 30/05/2010 12:00:00 (GMT +7)
Tác giả: Phạm Quỳnh

Nguồn: www.bee.net.vn
Tôi không có ý trình bày ở đây với quý ngài về quá trình tiến hóa của tiếng nước Nam trong quá khứ, về lịch sử nguồn gốc và sự hình thành của nó. Chắc chắn chủ đề này cũng lý thú và không kém thu hút sự chú ý của cử tọa am hiểu và sành sỏi các vấn đề ngôn ngữ học như quý vị mà vinh dự cho tôi hôm nay là được quý vị lắng nghe. Nhưng vấn đề đó đến nay vẫn chưa được nghiên cứu sâu sắc để có thể trình bày một cách sáng sủa và toàn diện.
Một số nhà bác học ngữ văn như ngài Henri Paspéro, Cha Souvignet, cũng có lần soi rọi qua vào nguồn gốc của tiếng nước Nam. Song các nguồn gốc đó vẫn đang còn mờ mịt; và nếu dựa vào cuốn từ điển của Cha Rhodes, ta có thể so sánh tiếng nước Nam thế kỷ XVI với tiếng nước Nam hiện nay, thì lại vẫn còn thiếu những thư tịch cổ xưa về tiếng nước tôi, điều đó khiến cho ta không lần lại được quá trình tiến hóa của tiếng nói ấy qua các thời đại.
Mặt khác, các văn bản cổ của nước Nam đều viết bằng chữ Nôm, một thứ chữ dùng chữ Hán biến cải đi để ghi âm tiếng Nam, và các ngài nên biết thứ chữ này rất ít bảo đảm, nên người viết văn, người sao chép cũng như người đọc có thể tha hồ tự ý suy diễn, giải thích. Những khó khăn này làm cho việc nghiên cứu một cách khoa học đối với tiếng Nam chưa được đảm bảo chắc chắn lắm.
Đồng thời, dù có quan tâm đến lịch sử của vấn đề, nhưng theo ý tôi nó vẫn chẳng bằng việc nghiên cứu tiếng Nam hiện thời, cái tiếng nói đang trải qua một sự biến đổi sâu sắc, có thể nói là một sự tiến hóa đang diễn ra ngay trước mắt ta. Vì thế câu chuyện tôi đem ra thảo luận với quý ngài hôm nay là sự phát triển hiện thời của tiếng nước tôi chứ không phải sự tiến hóa trong lịch sử của nó.
Hiện thời ở xứ tôi đang có phong trào khôi phục ngôn ngữ dân tộc mà nguồn gốc của nó đáng để ta đi sâu tìm hiểu. Phong trào này phát sinh từ phản ứng chống lại chữ Hán là thứ chữ viết duy nhất của giới nhà nho bao lâu nay, và cũng có nguyên nhân từ ảnh hưởng của văn hóa Pháp.
Chữ Hán ở nước tôi có vai trò gần như chữ Latin ở các nước Âu châu thời trung cổ trước khi hình thành các ngôn ngữ dân tộc khác nhau. Đó là thứ chữ bác học do tầng lớp văn nhân gọi là “nhà nho” sử dụng. Là lớp tinh hoa duy nhất của đất nước, họ tỏ thái độ bề trên coi khinh khẩu ngữ.


Phạm Quỳnh - hiệu Thượng Chi, bút danh: Hoa Đường, Hồng Nhân - là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt - thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp - để viết lý luận, nghiên cứu.
Ông chủ trương chiến đấu bất bạo động nhưng không khoan nhượng cho chủ quyền độc lập, tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung, Nam), chống lại sự bảo hộ của Pháp và kiên trì chủ trương chủ nghĩa quốc gia với thuyết Quân chủ lập hiến.

Các tác phẩm chính: - Thượng Chi văn tập (5 tập) (Bộ Quốc gia giáo dục, Sài Gòn, 1962) - Pháp du hành trình nhật ký (NXB Hội Nhà văn - H, 2004) - Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 - 1932 (NXB Tri thức, H,2007) - Một tháng ở Nam Kỳ - Mười ngày ở Huế - Luận giải về văn học và triết học (Nxb. Văn hoá Thông tin và Trung tâm văn hoá - ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, H, 2003) - Hoa Đường tùy bút Đối với họ, đó là thứ tiếng tầm thường của dân chúng, không đáng để người có học chăm lo bồi đắp. Không chỉ có sách là viết bằng chữ Hán, mà các giấy tờ hành chính, quan phương, cũng như thư từ cá nhân đều như vậy cả.

Tiếng nói của người Nam, tiếng Nôm, hoặc tiếng nói thông tục chỉ dành cho người thất học, cho dân chúng. Họa hoằn mới có người hạ cố viết văn bằng tiếng Nôm: đó là để soạn những bài ca hay bài thơ ngắn như một thứ giải khuây sau những thời gian đèn sách nghiêm túc.
Chỉ có một ngoại lệ vào hồi đầu thế kỷ XIX: một nhà nho làm quan là Nguyễn Du đã viết Nôm cả một cuốn Kim Vân Kiều, cuốn tiểu thuyết bằng thơ đó thực sự là một kiệt tác, nó cho thấy những khả năng của tiếng Nam và một khi nhà văn có tài sử dụng nó thì có lợi đến đâu.
Bị các nhà nho phớt lờ đi vì nó không được dạy trong trường học, nhưng tiếng Nôm vẫn được nuôi dưỡng trong dân chúng là nơi vẫn có những nhà thơ họ yêu thích giống như các ca sĩ hát rong Phương Tây hát về tình yêu và mùa xuân, ngợi ca quá khứ tốt đẹp và cảnh đồng áng yên bình.
Vì thế mà, bên cạnh nền văn học viết chính thống mà ta có thể gọi là văn học Hán-nôm vì nó bao gồm tất cả những tác phẩm của các tác giả người Nam viết bằng chữ Hán (các sách sử ký, địa dư, triết học, luân lý), còn có một nền văn học dân gian đa phần là truyền khẩu, có thể là một trong những nền văn học phong phú nhất thế giới, một cái mỏ không vơi cạn những điều chỉ dẫn quý báu cả cho những người nghiên cứu ngữ học và những nhà văn hóa dân gian, bởi vì nó phát ra trực tiếp từ dân chúng, nó diễn tả dưới hình thức khi thì mộc mạc đơn giản, khi thì tinh nghịch ranh mãnh tâm hồn dân chúng nước tôi.
Trong khi các nhà nho khép mình trong tháp ngà vui thú viết những bài thơ chữ Hán - giống như các bài thơ chữ Latin vậy - hoặc là bình chú các kinh sách cổ, thì dân chúng làm hình thành tiếng nói và sản sinh ra một nền văn học phong phú bao gồm các câu phương ngôn, ngạn ngữ, tục ngữ nói về những chuyện xa xưa hay các tập tục từng vùng quê, các bài ca dao dài ngắn kể chuyện những người tài, những danh nhân lịch sử của nước Nam, của Trung Hoa, những anh hùng truyền thuyết hay có thật, các bài dân ca huê tình dịu dàng, mượt mà ngân lên trong những đêm hè dưới mái nhà tranh nhỏ bé hay giữa ruộng đồng ao hồ bao la và như dội lại trong không gian vắt vẻo lên tới đỉnh ngọn tre xào xạc.
Những bài ca ấy thật ngọt ngào, quyến rũ. Ai đã một lần nghe các cô thôn nữ cấy lúa ở đồng bằng Bắc Bộ hay những cô gái chèo thuyền tam bản ở Huế hát những câu ca như: Núi cao chi lắm núi ơi Núi che mặt trời không thấy người yêu
[Montagne, ô montagne, pourquoi êtes-vous si haute? Vous cachez le soleil et vous me cachez le visage de mon bien ai mé!] Hẳn sẽ không bao giờ quên cái giọng buồn man mác không sao nắm bắt nổi kiểu như thơ Lamartine, nó cho thấy chiều sâu của thơ ca nòi giống mình cũng như khả năng tuyệt diệu của tiếng mẹ đẻ trong việc diễn tả những tình cảm như vậy.
Trong khi các nhà nho say sưa vịnh cảnh và người Trung Hoa thì các ca sĩ dân gian đã tìm được chất giọng như thế để thổ lộ tình yêu trắc trở, để gợi nhắc kỷ niệm bùi ngùi.
Nhờ nỗ lực âm thầm của những người bình dân du ca đó, những kẻ sáng tạo thực sự nên tiếng nói của chúng tôi, thứ tiếng này đã có được một cái nền dân gian rất phong phú mà các văn nhân, nho gia chúng tôi đã quá xem thường, quá hạ thấp, và không biết cách vun xới và khai thác nó một cách đúng đắn để sản sinh ra một nền văn học dân tộc vừa độc đáo vừa lý thú như văn học Nhật Bản chẳng hạn.
Bất luận thế nào đi nữa, trước phong trào phục hồi hiện nay, tiếng Nam vẫn chưa bao giờ được giảng dạy và được chăm sóc vì giá trị của bản thân nó. Ngoài một số tác phẩm ghi lại bằng chữ Nôm như Kim Vân Kiều, Cung oán, Nhị độ mai..., - đó là những bài thơ dài do các nhà nho sáng tác, còn lại toàn bộ nền văn học dân gian gần như là hoàn toàn truyền miệng, và không ai bao giờ có ý nghĩ tập hợp, giữ gìn những bông hoa đẹp của xứ sở đã đưa lại cho tiếng mẹ đẻ âm sắc mùi vị quyến rũ ấy.
Để cho tiếng Nôm trở thành một nền văn học đáng gọi là văn chương, nó đang còn thiếu một Ronsard hay một Rabelais, những người ở vào hoàn cảnh tương tự đã biết chối bỏ tiếng Latin, biết hy sinh danh tiếng nhà văn của mình để viết bằng thứ tiếng dân gian thông dụng hồi bấy giờ là tiếng Pháp, nhờ họ và những người kế tục sự nghiệp của họ mà chỉ trong vòng chưa đầy trăm năm tiếng Pháp đã trở nên một thứ tiếng đẹp nhất Châu Âu.
Khi mà hệ thống nhà trường truyền thống chỉ dạy tiếng Hán vẫn còn sống vật vờ, thì tiếng Nam không phát triển lên được và bị liệt vào hàng nôm na mách qué, bị tầng lớp nhà nho coi thường.
Nhưng cái nhà trường lỗi thời không đáp ứng được các nhu cầu hiện đại đó đã biến mất, để nhường chỗ cho nền giáo dục Tây phương đang ngày càng phổ biến trong dân chúng. Phong trào cách tân tiếng Nam tôi nói ở trên chính là được bắt đầu với sự quảng bá của chữ quốc ngữ. Phong trào này đi liền với sự tiến bộ của nền giáo dục kiểu Pháp và sự tàn tạ của lối học kiểu Tàu.
Các ngài đều biết chữ quốc ngữ là gì. Đó là cách dùng chữ cái Latin ghi âm tiếng Nam do các giáo sĩ Âu châu, nhất là các giáo sĩ Pháp, phát minh ra trong khoảng thế kỷ XV-XVII. Dưới dạng thức như hiện nay nó chính là sự nghiệp của một bậc giáo sĩ cấp cao, người đã đóng vai trò rất quan trọng trong những bước đầu xây dựng quan hệ Pháp - Nam và kết liền số phận nước Nam với nước Pháp: giám mục d’Adran.
Chúng tôi chịu ơn ông, con người đáng kính đó, và chịu ơn những bậc sùng đạo trước ông đã đặt chân đến nước Nam, đã tạo ra một công cụ tuyệt diệu giải phóng cho trí tuệ là chữ quốc ngữ, thứ chữ này nhờ sử dụng bảng chữ cái Latin và hệ thống ghi âm vô cùng thích hợp với các ngữ điệu của tiếng nước tôi đã xích chúng tôi lại gần hơn nữa với các chữ viết âu châu và đã cho chúng tôi một ưu thế vô giá đối với các chữ viết Trung Hoa và Nhật Bản.
Người Nhật, người Hoa cũng muốn Latin hóa tiếng nước họ, nhưng ngoài việc hệ thống ngữ âm của họ kém phong phú hơn của chúng tôi và chưa sẵn sàng cho việc ghi âm, thì họ lại không có cơ hội tốt để có được một cách ghi âm đơn giản, tiện lợi, đầy đủ và uyển chuyển như chữ quốc ngữ.
Chắc chắn là người ta vẫn có thể thấy cách ghi âm này còn những chỗ chưa hợp lý, nhưng nó đã được thử thách, nó đã trở thành thứ chữ viết thông dụng khắp nước Nam từ biên giới Trung Hoa đến vịnh Thái Lan; nó đã có một hình hài riêng và người ta không thể nghĩ đến cải cách nó gì hơn như là việc cải cách chính tả tiếng Pháp. Trong những chuyện này, tốt quá hóa xấu, thế gian này không có gì hoàn thiện cả, hãy cứ để cho những sự sáng tạo của con người mang dấu vết dở dang, đấy là dấu hiệu của chính sự sống trong quá trình tiến hóa không ngừng của nó.
Nói đúng ra, những người sáng tạo sùng đạo đã làm ra bộ chữ quốc ngữ không hề ngờ tới một vận may to lớn đã khiến họ một ngày kia trở thành người làm ra chữ viết của cả một dân tộc. Khi phát minh ra chữ quốc ngữ, họ chỉ nhằm mục đích ghi lại những từ ngữ tiếng Nam để đem dùng vì mục đích riêng và tiếp đó là để dạy cho các con chiên của họ các sách giáo lý Cơ đốc cũng như các sách tôn giáo khác. Thực tế là, mãi đến gần đây, chữ quốc ngữ vẫn không vượt qua được bậc cửa của các giáo đoàn và chủng viện, và những người Nam đầu tiên biết dùng thông thạo thứ chữ đó là các giáo sĩ Cơ đốc.
Ban đầu, những người này rụt rè đem dạy thứ chữ đó cho trẻ nhỏ đã, sau mới đến người lớn, như một sự luyện tập hữu ích cho việc giảng đạo của họ, còn trong thâm tâm họ không có ý định phế bỏ chữ Hán hay chữ Nôm.
Nhưng dần dần về sau, cộng tác với các ông thầy và cộng sự người Âu của mình, họ cho xuất bản không chỉ các bản dịch những cuốn sách đạo chỉ dùng cho giáo dân Cơ đốc, mà còn cả những cuốn sách nhỏ về luân lý thông thường, về những câu chuyện kể vui nhộn, thậm chí cả những sách phổ biến khoa học mà tất thảy mọi người đều đọc được.
Với các ấn phẩm đó, chữ quốc ngữ có thể nói là đã được thế tục hóa và ngày càng lan rộng trong dân chúng. Chỉ có một số nhà nho là vẫn cố chấp coi khinh nó vì lý do kép: trước hết vì đó là thứ chữ viết ngoại lai do các nhà truyền giáo Cơ đốc mang tới, tiếp đến vì đó là thứ chữ ghi lại lời ăn tiếng nói thông thường không xứng để giới tinh hoa vun xới.
Chính ở Nam Kỳ mới là nơi chữ quốc ngữ được phổ biến sớm và với tốc độ nhanh chóng nhờ nỗ lực của một nhóm tác giả người Nam sốt sắng và chăm chỉ như Trương Vĩnh Ký, Paulus Của, những người được học từ các giao đoàn ra, những người đã làm việc rất nhiều để phổ biến thứ chữ viết mới này thông qua các xuất bản phẩm yếu lược dành cho các trường tiểu học công đầu tiên mở ra ở xứ này, cũng như các sách sưu tầm những bài ca dao, dân ca cho đông đảo dân chúng thích đọc để giải trí.
Vả chăng xứ Nam Kỳ cũng dành sẵn những điều kiện tối hảo cho việc truyền bá chữ quốc ngữ. Trở thành đất thuộc Pháp trước các xứ khác của nước Nam, và lại là nơi ít mang dấu ấn sâu sắc của Trung Hoa như Bắc Kỳ và Trung Kỳ, Nam Kỳ đã khá nhanh chóng bỏ rơi việc học chữ Hán để chuyển qua học chữ Pháp.
Muốn thế thì nhất thiết phải biết chữ quốc ngữ như là khâu nhập môn để làm quen với bảng chữ cái Pháp. Mặt khác, Nam Kỳ không có tầng lớp nhà nho thủ cựu và cố chấp như ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, nó cởi mở hơn đối với mọi cái mới, điều này giải thích vì sao chữ quốc ngữ và chữ Pháp lại được phổ biến dễ dàng trong mọi tầng lớp xã hội ở đây.
Nhưng, như rồi các ngài sẽ thấy, nếu việc thiếu một tầng lớp nhà nho am hiểu văn hóa Trung Hoa, tự phụ về sự hơn hẳn của mình và khư khư bám lấy đặc quyền, nên đã tạo thuận lợi cho sự phổ biến chữ quốc ngữ trên phương diện chữ viết, thì chữ quốc ngữ lại có phần gây cản trở sự phát triển của tiếng Nam trên phương diện một ngôn ngữ.
Bởi vì dù sao đi nữa, tiếng Nam cũng chịu ảnh hưởng nhiều của tiếng Hán, giống như tiếng Pháp đối với tiếng Latin, mà có thể còn ở mức độ rộng hơn. Không có sự góp phần của chữ Hán thì nó không những không thể giàu có lên được, mà còn để mất đi một số lượng lớn những từ đã thông dụng mà nếu không biết chữ Hán thì không thể biết từ nguyên và nghĩa đích xác.
Chính vì thế mà ở Nam Kỳ, mặc dù chữ quốc ngữ được phổ biến nhanh chóng, nhưng tiếng Nam lại không có được những tiến bộ lớn và không có được sự tiến hóa như ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
Trong hai xứ này, chữ quốc ngữ ban đầu được lớp nhà nho tiếp nhận một cách thù nghịch. Nhưng khi nhận ra tiện ích của thứ chữ viết mới này thì rốt cuộc họ đã chấp nhận nó và ngày càng xa rời chữ Nôm là thứ chữ dần dần bị bỏ rơi hoàn toàn. Đồng thời cũng có một sự biến đổi sâu sắc diễn ra trong tinh thần các nhà nho chúng tôi đối với văn hóa Tây phương nói chung và đối với nền giáo dục Pháp nói riêng.
Vào khoảng năm 1900, sau khi Trung Hoa bị Nhật Bản đánh bại, một nhóm nhà cải cách Trung Hoa đã nhận ra nguyên nhân sự yếu kém của dân tộc mình, nên đã quyết tâm học theo văn minh Tây phương.
Một số lượng lớn các nhà nho Trung Hoa đã sang học tập ở âu châu và Hoa Kỳ và khi trở về họ đã bắt tay vào dịch sang tiếng Hán các tác phẩm tiêu biểu nhất của những nhà triết học và bác học lớn Tây phương.
Có nhiều bản dịch đó, nhất là những tác phẩm của Darwin, Kant, của các nhà triết học Pháp thế kỷ XVIII: Rousseau, Montesquieu, Voltaire, Diderot đã được truyền qua Đông Dương và được các nhà nho chúng tôi ngốn ngấu đọc, qua các tư tưởng mới mẻ đó họ khám phá ra nền văn minh Tây phương ở những cái cao cả và sâu sắc của nó.
Họ kinh ngạc thực sự. Nếu như hồi đầu họ có thái độ kỳ thị cái học Tây phương thì bây giờ họ lại say mê. Không thể dịch thẳng từ tiếng Pháp, họ bèn dịch lại từ tiếng Hán sang tiếng Nam không chỉ các tác phẩm của Rousseau và Montesquieu, của Darwin và Kant, mà cả những sách giáo khoa thường thức khoa học do các tác giả Trung Hoa viết cho các trường học mới ở Trung Quốc, và khi dịch như thế họ dùng luôn chữ quốc ngữ.
Nhờ đó tiếng Nam nhanh chóng trở nên phong phú bởi một loạt từ ngữ mới vay mượn của chữ Hán: các thuật ngữ kỹ thuật, các từ trừu tượng mà bản thân người Trung Hoa và trước họ là người Nhật, nhờ sự phong phú của thứ chữ ghi ý đã dịch thoát hoặc phiên âm được các thứ tiếng âu châu.
Người ta đã tranh luận nhiều về việc du nhập các từ ngữ mới tiếng Hán-nhật vào tiếng Nam: người ta suy tính xem, nên chăng du nhận hoàn toàn và đơn giản vốn từ vựng kỹ thuật của tiếng Pháp thay cho vay mượn qua cái cầu chữ Hán. Có nhiều điều để nói về chủ đề này; lát nữa tôi sẽ đề cập tới.
Nhưng cần phải ghi nhớ một thực tế hiển nhiên là: trước khi ở nước tôi có tầng lớp Tây học có khả năng dịch sang tiếng Nam các tác phẩm Pháp, có khả năng phổ biến bằng tiếng mẹ đẻ những tri thức khoa học mới, thì các nhà nho lớp cũ đã làm việc đó nhờ cảm hứng từ các sách Trung Hoa và họ cũng đã làm phong phú thêm tiếng nước tôi bằng một số lượng đáng kể các từ ngữ mới từ đó đã trở nên thông dụng.
Khi lớp tinh hoa mới được đào tạo trong các trường Pháp đã có thể bắt tay vào việc dịch thuật và phổ biến bằng thứ tiếng dân tộc cần thiết cho việc giáo dục đám đông, nó đã có sẵn một thứ tiếng do các bậc tiền bối là các nhà nho lớp cũ chuẩn bị cho việc tiếp nhận cái mà họ gọi là “tân thư”.
Nói đúng ra, những người Tây học trong lớp tinh hoa này, qua phản ứng rất dễ hiểu chống lại nền văn hóa Hán-nôm cổ xưa, thì ban đầu cũng còn do dự mãi trước việc thừa nhận thứ tiếng mới này và những tiếng vay mượn từ tiếng Hán. Có một thời gian đã xảy ra một thứ “xung đột tân cựu” quanh chuyện ngôn ngữ này, một cuộc xung đột kéo dài không lâu và đã được thu xếp ổn thỏa.
Bằng sự nhân nhượng lẫn nhau, hai phái tân học và cựu học đã đồng ý được với nhau về vấn đề quan trọng này và về việc cùng hợp tác để hoàn thiện ngôn ngữ dân tộc mà trong vòng mươi, mười lăm năm qua đã đạt được sự tiến bộ lớn và đã sản sinh ra một nền văn học mới rất đáng chú ý.
Các tác phẩm viết bằng quốc ngữ xuất hiện ngày càng nhiều và đa dạng: lịch sử, tiểu thuyết, thơ, sân khấu, sách giáo khoa, các bản dịch văn học cổ điển Pháp và Trung Hoa...
Hàng chục tờ báo và tạp chí bằng chữ viết mới được xuất bản ở Hà Nội và Sài Gòn và được đủ mọi tầng lớp xã hội tìm đọc, từ anh phu kéo xe tranh thủ giữa hai cuốc xe ngồi dưới bóng cây đọc các tin vặt trong ngày đến ông quan nằm trên giường, ngồi trong nhiệm sở nhấm nháp một bài viết hay những vần thơ của một nữ thi sĩ trẻ.
Phong trào phục hưng hay đúng hơn là cuộc canh tân tiếng Nam này lại ít được biết đến trong những người Pháp sống ở nước tôi, thậm chí ngay cả lớp công chúng đặc biệt thân với nước Nam.
Trừ một số ngoại lệ đáng quý, những người này thường chỉ bằng lòng với việc học thứ tiếng nói thông thường, khẩu ngữ, và quan tâm rất ít đến các ấn phẩm tiếng Nam. Nếu như họ có khi nào đọc một bài trên báo chí và vấp phải những từ ngữ Hán-nôm khó hiểu, họ sẽ vất tờ báo xuống và nói như đanh đóng cột: "Đây không phải tiếng Nam. Đây là tiếng Hán !" Lời xét đoán này quả là rất thô thiển.
Ngược lại, những người đang thật sự “Nam hoá”, như thường thấy ở các nhà truyền giáo và những người quan tâm thiết thực đến sự tiến hóa của tiếng Nam, thì lại có nhiều cảm tình với phong trào này. Ở cương vị chủ bút một tờ tạp chí, tôi thường nhận được thư từ của các nhà truyền giáo đánh giá cao những nỗ lực của chúng tôi trong việc đổi mới tiếng Nam và khen ngợi những kết quả chúng tôi đạt được.
Một trong số họ, Đức Cha H (*) có lẽ là người Âu duy nhất mà tôi biết đã sử dụng tiếng nước tôi thành thạo bậc thầy, không chỉ khẩu ngữ, mà cả ngôn ngữ văn chương của những người có học. Một hôm ông đã có nhã ý nói với tôi rằng ông đã học được cách viết tiếng Nam qua báo chí của chúng tôi. Quả thực, ông đã viết tiếng Nam hoàn toàn như một nhà nho nước Nam.
Tôi đã đăng cho ông một bài viết về "Các hệ thống luân lý hiện thời", trong đó ông phê phán thuyết khoa học luận và quyết định luận, một vấn đề hóc búa ngay cả đối với một nhà triết học chuyên nghiệp viết bằng tiếng Pháp; cách trình bày của ông bằng tiếng Nam sáng sủa, cách ông dùng thuật ngữ chuyên môn triết học chính xác tới mức dù chủ đề bài viết phức tạp nhưng tất cả độc giả của chúng tôi đều hiểu ông và, do chỗ ông ký một bút danh lấy tên người Nam, cứ ngỡ ông là một nhà văn của dân tộc tôi.
Đức cha H. và tôi, chúng tôi thường nói về sự tiến hóa của tiếng Nam và tương lai của nó. Ông bảo tôi: "Các ngài có cái phúc lớn là có một thứ chữ viết ghi âm khiến các ngài gần với các thứ chữ viết Âu châu. Như vậy các ngài có thể lấy ở tiếng Pháp tất cả những vay mượn cần thiết, chuyển thoải mái những từ tiếng Pháp sang quốc ngữ của các ngài.
Mặt khác, tiếng các ngài phần lớn phát sinh từ tiếng Trung Hoa; những vay mượn mà các ngài có thể lấy từ đó có thể nói là vô tận, bởi vì những từ Hán mà các ngài vay mượn thì các ngài đọc theo kiểu tiếng Nam, do đó chúng như là những từ tiếng Nam vậy. Đấy là những ưu thế vô giá. Tiếng các ngài như vậy là có thể giàu có, đổi mới vô tận. Tôi hoàn toàn tin tưởng vào tương lai của tiếng Nam".
Những lời nói khích lệ này làm yên lòng chúng tôi trước nhưng phán xét vội vã của những người ít nhiều có hiểu biết.
Bây giờ tôi xin quay lại vấn đề đã lướt qua lúc nãy, đó là những sự vay mượn từ tiếng Hán và những từ ngữ mới. Tôi đã nói tới việc tiếng nước tôi vốn bị lớp nhà nho coi khinh một thời gian dài song lại được vun xới trong dân chúng như thế nào và nó có cái vốn dân gian phong phú ra sao. Nó chỉ thiếu vốn từ trừu tượng và kỹ thuật đối với những tri thức hiện đại, một tập hợp thuật ngữ chuyên ngành để biểu đạt các tư tưởng mới và các phát minh mới.
Tôi tin rằng sự thiếu hụt đó không phải chỉ riêng cho tiếng nước tôi: nó là chung cho tất cả các thứ tiếng hạng hai không theo kịp sự tiến bộ chung của các khoa học và của văn minh. Ở trên kia, tôi đã cho thấy việc các nhà nho nước tôi, do hoàn cảnh bắt buộc phải học theo các tư tưởng và tri thức hiện đại đã bổ sung sự thiếu hụt đó bằng cách vay mượn những từ ngữ mới trong tiếng Hán và họ đã nhanh chóng thành công trong việc có thể gọi là hỗn nhập ngôn ngữ.
Nhưng liệu những sự vay mượn đó có hợp lý không, có nên làm không. Hẳn là không bao giờ nên tiến hành việc một ngôn ngữ này vay mượn một ngôn ngữ khác. Nhưng việc tiếng Nam vay mượn tiếng Hán có bản chất rất đặc biệt và nội một việc những từ ngữ mới của tiếng Hán du nhập tiếng Nam không hề khó khăn, hầu như là tự nhiên, đã cho thấy những sự gần gụi sâu xa giữa hai thứ tiếng này.
Vả chăng, nói tiếng Nam vay mượn từ ngữ tiếng Hán là không hoàn toàn chính xác: tiếng Nam không "vay mượn" thô thiển từ ngữ tiếng Hán nằm trong khẩu ngữ, bạch thoại, là thứ tiếng không nói thống nhất như nhau trong tất cả các tỉnh của Trung Hoa; tiếng Nam, cũng như tiếng Triều Tiên, cũng như tiếng Nhật Bản, cũng như chính tiếng bạch thoại, vay mượn ở một cái kho chung là tiếng Hán, một thứ tử ngữ chung cho tất cả các dân tộc vùng Viễn Đông chịu ảnh hưởng văn hóa và văn minh Trung Hoa, giống như tiếng Hy Lạp và tiếng Latin chẳng hạn là hai tử ngữ chung cho các dân tộc Tây phương hay ít nhất cũng góp phần tạo nên phần lớn các thứ tiếng âu châu hiện thời.
Khi các ngài vay mượn chẳng hạn của tiếng Anh những từ như sleeping-car, rocking- chau, smoking-room hay tea-room - điều này hình như bây giờ đang trở thành mốt vì tôi thấy đâu đâu cũng là những Royal-Hotel và những Cinema-palace - thì thế là các ngài đã thực sự vay mượn rồi, bởi vì những từ tiếng Anh này chuyển trực tiếp qua tiếng Pháp mà vẫn giữ nguyên chính tả và phát âm gốc của chúng.
Nhưng khi bị thôi thúc bởi nhu cầu tìm kiếm những thuật ngữ phù hợp để chỉ một phát minh hay biểu đạt một tư tưởng mới, các ngài tìm về lại tiếng Hy Lạp và tiếng Latin để tạo nên những từ mới như électro-dynamique hay psycho-analyse, thì nếu các ngài muốn, đó cũng là những sự vay mượn, nhưng là những vay mượn có bản chất khá đặc biệt, đừng nên lẫn với những vay mượn đối với tiếng Anh.
Và nếu có đôi khi một nhà văn hay nhà báo nào đó chế nhạo thứ tiếng lóng Hy-la của các nhà bác học và các triết gia thì họ đã không nhận biết sự cần thiết và tính hợp thức của việc đó, và nếu có dịp họ lại không ngần ngại sử dụng cũng những từ ngữ ấy để chỉ cũng những sự vật ấy và biểu đạt cũng những tư tưởng ấy.
Những sự vay mượn các thứ tiếng cổ theo kiểu này, miễn là chúng được thực hiện có lựa chọn, có phân biệt, và đáp ứng được các quy luật bí mật của sự hài âm và phát âm - vì tôi nghĩ đấy chính là điều kiện không thể thiếu để tạo ra những từ mới - sẽ làm giàu cho ngôn ngữ thay vì làm cho nó cồng kềnh lên hoặc bị sai lệch đi.
Thế nhưng, những vay mượn của tiếng Nam đối với tiếng Hán lại chính xác và có cùng một bản chất như sự vay mượn của tiếng Pháp đối với tiếng Hy Lạp hoặc tiếng Latin. Khi xem xét vấn đề theo cách đó và đặc thù ngôn ngữ học, vấn đề này không còn quan trọng nữa và trở thành một điều hết sức tự nhiên, sự hỗn nhập tiếng Hán vào tiếng Nam thời nào cũng diễn ra, theo một cách gần như tự phát.
Tuy nhiên nếu như vấn đề này vẫn cứ được nêu ra đó là vì một số khá lớn đồng bào trẻ tuổi của chúng tôi được đào tạo hoàn toàn trong các trường Pháp, bằng phản ứng tự nhiên chống lại nền văn hóa Trung Hoa già cũ và tinh thần nho học cổ xưa, đã bỏ rơi hẳn chữ Hán và như thế là lại rơi vào sai lầm ngược với sai lầm của các nhà nho lúc trước không muốn nghe nói gì đến việc học chữ Pháp.
Song cuối cùng họ cũng đã thừa nhận sai lầm của mình và đã ý thức được rằng việc học chữ Hán là không thể thiếu để có hiểu biết đầy đủ về tiếng Nam, rằng tiếng Nam hoàn toàn độc lập với nền văn hóa kinh viện Trung Hoa già cũ đã bao thế kỷ qua chế ngự giới trí thức nước Nam, rằng cần phải học chữ Hán không phải vì thứ chữ đó mà vì phải chuyển biến theo thứ tiếng dân tộc phát sinh từ đấy ra, một việc không tốn mấy thời gian và cũng không mấy khó nhọc.
Chính vì vậy một số lớn thanh niên Tây học của chúng tôi sau khi có được tấm bằng trong các trường Pháp đã quay sang học chữ Hán, nhưng không học theo cách của các nhà nho xưa dành cả đời bình giảng những cuốn sách cũ, mà theo cách người ta dạy tiếng Latin ở trường trung học hay cao đẳng.
Hình như Chính quyền Đông Dương, trong chương trình trung học và cao đẳng ở thuộc địa, đang có ý định thay tiếng Hy lạp và Latin bằng tiếng Hán, đây sẽ là một biện pháp hoàn toàn đúng đắn và hợp thời, bởi vì những người trẻ của chúng tôi cần văn hóa Hy-la ít hơn là văn hóa Trung Hoa.
Và cũng như ở Pháp việc học tiếng Hy Lạp và tiếng Latin không có nghĩa là các ngài chịu ảnh hưởng của nước Hy Lạp hay nước ltalia hiện thời, thì ở nước tôi việc học tiếng Hán không có nghĩa là chúng tôi đi theo Trung Hoa.
Ảnh hưởng Trung Hoa vốn đã quá tai hại đối với sự tiến hóa tinh thần của dân chúng nước tôi, nó đã đè quá nặng lên chúng tôi, nên chẳng dại gì chúng tôi lại bị rơi vào đó nữa. Nhưng dẫu sao hai mươi thế kỷ của văn hóa Trung Hoa đã để lại những dấu vết không thể xóa nhòa trong ngôn ngữ chúng tôi, và để không bị quên mất hoàn toàn chúng tôi buộc phải học tiếng Hán như một tử ngữ, cái tử ngữ đã và vẫn đang góp phần tạo nên phương ngữ dân tộc chúng tôi.
Nhưng nếu tiếng Nam có phần phát xuất từ tiếng Hán là thứ tiếng vẫn không ngừng làm giàu cho nó bằng các từ ngữ mới, thì hiện giờ tiếng Nam cũng bắt đầu vay mượn tiếng Pháp.
Những vay mượn này gồm có những từ ngữ Pháp dịch sang những từ ngữ Nam tương đương, có khi là phiên âm những từ Pháp sang âm tiếng Nam, hay có khi là đưa nguyên xi các từ Pháp vào tiếng Nam. Mặc dù bản chất hai thứ tiếng khác nhau, một tiếng đa âm tiết còn một tiếng đơn âm tiết, nhưng quy luật cuộc sống thực bắt buộc những vay mượn đó ngày càng nhiều lên và càng ngày càng làm giàu cho tiếng nước

Post ngày: 10/20/17 
Nguồn: Lý Học Đông Phương

Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2019

Chữ Quốc Ngữ


Chữ quốc ngữ ra đời lúc nào?
24/04/2019 10:57 GMT+7

TTO - Căn cứ vào những tài liệu viết từ năm 1621 còn lưu giữ, chữ quốc ngữ, tức chữ An Nam viết bằng mẫu tự Latin, có thể được sáng tạo năm 1620 hoặc trước đó một chút.
Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ - Kỳ 2:
Ngôi mộ của giáo sĩ Pina ở sau nhà thờ Phước Kiều trên thế giới. hiện nay - Ảnh: T.L.
Đắc Lộ đã thừa hưởng những di sản được người khác sáng tạo ra để góp phần hoàn thành cuốn tự điển có tiếng Việt đầu tiên trên thế giới
400 năm sau, người Việt, những người thụ hưởng và tự hào thứ chữ này, lại biết rất lơ mơ về lịch sử của nó. Họ không biết chắc ai là người sáng tạo ra chữ Việt, Francesco de Pina hay Alexandre de Rhodes?
Ở đâu, Thanh Chiêm hay Nước Mặn? Lưu giữ thế nào? Phổ biến ra sao? Phát triển thế nào? Lúc nào được sử dụng phổ thông?
Công sức của người Bồ
Trong hai thế kỷ từ 15 đến 17, các thương buôn Bồ Đào Nha có mặt hầu như khắp thế giới. Theo chân họ là những nhà truyền giáo, phần lớn là người Bồ và người Ý, tháp tùng truyền đạo ở những vùng đất mới.
Theo thống kê của linh mục Đỗ Quang Chính thì trong số 145 giáo sĩ thuộc 17 quốc tịch đến Đàng Trong truyền giáo từ năm 1615-1788, có đến 74 người Bồ Đào Nha, 30 người Ý.
Dòng Tên (Jesu) của đạo Thiên Chúa là dòng tu đi truyền đạo thời kỳ ấy. Theo luật của dòng, mỗi khi đến vùng đất mới phải học tiếng địa phương, và với tài năng riêng từng người, họ đã Latin hóa tiếng nói và chữ viết địa phương để những người theo đạo có thể đọc được những kinh sách của đạo.
Thứ chữ Latin này được truyền lại cho các giáo sĩ đến sau. Đây là phương thức mà họ đã thực hiện ở nhiều nơi như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Brasil... trong các thế kỷ 15, 16 trước khi đến Việt Nam. Riêng ở Viễn Đông, dòng tu này thiết lập một trụ sở lớn và lâu dài ở Macau để làm nơi đi và đến cho các giáo sĩ.
Đầu thế kỷ 17, năm 1615, các giáo sĩ Dòng Tên đã đến Đàng Trong và lần lần họ học tiếng Việt. Sau đó, các giáo sĩ này đã bắt tay vào việc Latin hóa chữ Việt.
Tài liệu viết tay của giáo sĩ João Roiz (người Bồ) viết năm 1621 đã có các chữ quốc ngữ ban đầu như An Nam (Việt Nam tức Đàng Trong. Thời điểm này nước ta chưa có vùng đất Nam Bộ), Sinoa (xứ Hóa tức Thuận Hóa), unsai (ông sãi), Cacham (Kẻ Chàm, sau này là Thanh Chiêm), ungue (ông nghè)...
Còn những chữ Việt trong bản tường trình của Gapar Louis (người Bồ) viết năm 1621 cũng đã có chữ ungué (ông nghè), bancô (bàn cổ). Còn Cristoforo Borri (người Ý), tác giả cuốn Xứ Đàng Trong, đến Đàng Trong cùng với Francesco de Pina thành lập trú sở Nước Mặn (Bình Định) năm 1618, trong tác phẩm viết năm 1621 đã có những chữ: Tunchim (Đông Kinh, tức Hà Nội), Lai (Lào), Ainam (Hải Nam), kemoi (kẻ mọi, xứ mọi, Tây Nguyên), Quanguya (Quảng Nghĩa), Quignin (Qui Nhơn), dàdèn lùt (đã đến lúc), nayre (nài), doij (đói), chià (trà), sayc kim (sách kinh), cò (có). Cũng năm 1621, giáo sĩ Bozumi viết các chữ: onsaij (ông sãi), Quanghia (Quảng Nghĩa), Nuoecman (Nước Mặn), da an nua (dạ ăn nữa)...
Như vậy, tới năm 1621, việc Latin hóa tiếng Việt vẫn chưa có dấu thanh. Tài liệu viết tay của giáo sĩ Antonio de Fontes, một học trò của Francesco de Pina, viết năm 1626 đã thấy xuất hiện dấu thanh. Dĩgcham (Dinh Chàm), Núocman (Nước Mặn), Sinúa (xứ Hóa), ondedóc (ông đề đốc), nhít la khấu, khấu la nhít (nhứt là không, không là nhứt).
Và di cảo của Pina vừa tìm thấy ở Thư viện Hoàng gia Bồ Đào Nha giữa năm 2018 thì chữ quốc ngữ đã có dấu như ngày nay. Tài liệu này trưng bày trong Hội thảo về chữ quốc ngữ diễn ra tại Lisbon vào tháng 7-2018.
Chữ quốc ngữ ra đời lúc nào? - Ảnh 3.
Di cảo của Pina, chữ quốc ngữ những năm 1623 - Ảnh: T.L.
Công trình tập thể
Như vậy, có thể khẳng định rằng chữ quốc ngữ ra đời có một quá trình dài từ năm 1618 cho đến 1625 với sự hợp tác của nhiều người chứ không chỉ một người. Và đa số "tác giả" của chữ quốc ngữ đều là người Bồ Đào Nha, người Ý cùng với một số người Việt theo đạo Thiên Chúa góp sức.
Và người được xác định "giỏi tiếng Việt nhứt" và có công lớn nhứt trong việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ chính là giáo sĩ Francesco de Pina người Bồ Đào Nha.
Francesco de Pina đến Hội An đầu năm 1617, thành lập trú sở Nước Mặn năm 1618, rồi thành lập trú sở Thanh Chiêm (tức Kẻ Chàm, Dinh Chàm) năm 1623. Từ năm 1619, Pina đến cư trú tại Thanh Chiêm và cuối năm 1625 ông chết đuối trên biển Cù Lao Chàm do vướng áo chùng không bơi được khi thuyền lật.
Thi thể ông được chôn ở sau nhà thờ Phước Kiều (nay là nhà thờ Thánh Andre), thuộc thôn Thanh Chiêm 1, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Đây là nhà thờ do chính ông thành lập khi đến cư trú tại Thanh Chiêm và là nơi trú ngụ của nhiều giáo sĩ khác, trong đó có Đắc Lộ.
Sau khi ông mất, một học trò tiếng Việt của ông là giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đến Đàng Trong năm 1624, đã ôm tất cả những di cảo của thầy mang về Macau vào năm 1626. Tại Macau thuở ấy còn có hai giáo sĩ cũng chăm chú nghiên cứu chữ quốc ngữ và đã soạn thảo hai cuốn tự điển Việt-Bồ-La và Bồ-Việt.
Đó là hai giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa cư trú ở Macau gần 10 năm. Đáng tiếc là công trình của họ chưa kịp công bố thì tháng 2-1646 Gaspar mất trên đường biển đi đến nước ta và sau đó một năm thì Barbosa cũng mất vì bệnh.
Trong lời nói đầu cuốn Tự điển Việt - Bồ - La của mình, Đắc Lộ có nhắc đến việc "tham khảo" tài liệu của hai giáo sĩ trên, cho thấy Đắc Lộ đã thừa hưởng những di sản được người khác sáng tạo ra để góp phần hoàn thành cuốn tự điển có tiếng Việt đầu tiên trên thế giới.
Điều đáng tiếc là hiện nay vẫn chưa tìm thấy hai cuốn tự điển của Gaspar và Barbosa đã viết. Rất mong số phận của nó giống như cuốn tự điển của Bá Đa Lộc, tưởng đã cháy mất trong một trận hỏa hoạn ở Cà Mau nhưng lại được tìm thấy vào thập niên 1980.
Sau người Bồ là người Pháp
Sau Đắc Lộ, chữ quốc ngữ được phổ biến rộng trong giới theo đạo Thiên Chúa, nhất là các tu sĩ, linh mục... Nó cũng được hoàn thiện dần qua một quá trình rất dài hàng trăm năm và lần lần hoàn chỉnh.
Qua thế kỷ 18, do vấn đề nội bộ, địa bàn truyền giáo của người Bồ được giao lại cho Hội thừa sai người Pháp, và chữ quốc ngữ tiếp tục được các giáo sĩ người Pháp lưu giữ và truyền lại. Trong số những người có công với chữ quốc ngữ được ghi nhận là giáo sĩ Bá Đa Lộc và Taberd, hai người đã thâu góp, chỉnh đốn, ghi nhận chữ quốc ngữ trong hai cuốn tự điển mang tên mình.
Cuốn tự điển Taberd đã được Nhà xuất bản Văn Học in lại năm 2004 với tên Nam Việt dương hiệp tự vị. Riêng cuốn của Bá Đa Lộc đến nay ít nghe nhắc đến dù đã công bố và tặng bản scan cho nước ta từ năm 1984.




Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ -
Kỳ 1: Khởi đầu của chữ quốc ngữ
23/04/2019 10:56 GMT+7
TTO - Nói đến chữ quốc ngữ thường cho rằng giáo sĩ Alexandre de Rhodes (thường gọi là Đắc Lộ), tác giả cuốn Từ điển Việt - Bồ - La in tại La Mã năm 1651, là ông tổ của chữ quốc ngữ. Thế nhưng, sự thật chưa hẳn vậy…
Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ - Kỳ 1: Khởi đầu của chữ quốc ngữ - Ảnh 1.
Tập di cảo của Francesco de Pina lưu giữ tại Thư viện Hoàng gia Bồ Đào Nha
Lâu nay, những người yêu tiếng Việt bình thường và một số tài liệu khi nói đến chữ quốc ngữ thường cho rằng giáo sĩ Alexandre de Rhodes (thường gọi là Đắc Lộ), tác giả cuốn Từ điển Việt - Bồ - La in tại La Mã năm 1651, là ông tổ của chữ quốc ngữ.
Thế nhưng, sự thật chưa hẳn là vậy…
Ngay từ khi bập bẹ, chúng ta đã nói tiếng Việt, và hoàn toàn không có gì khó khăn. Nhưng "tiếng Việt khó quá!" là ý kiến của rất nhiều người phương Tây khi tiếp cận tiếng Việt.
Khi đọc, người Việt không cần phải thay đổi tiếng mà vẫn làm cho một tiếng ấy có nhiều nghĩa khác nhau, bởi vì họ chỉ cần lên giọng hoặc hạ giọng tùy theo cường độ và nhịp điệu.
ĐỖ QUANG CHÍNH
Tiếng Việt khó quá!
Tiếng Việt cấu trúc đơn giản; đơn âm không có "thì", không có chia động từ, không có tiếp đầu ngữ, vĩ ngữ thì có gì là khó?
Xin thưa, đối với người phương Tây, tiếng Việt khó ở chỗ phát âm (nghe và nói).
Giáo sĩ Marini, người đã từng đến Đàng Trong những thập niên đầu thế kỷ 17, viết: "Khi đọc, người Việt không cần phải thay đổi tiếng mà vẫn làm cho một tiếng ấy có nhiều nghĩa khác nhau, bởi vì họ chỉ cần lên giọng hoặc hạ giọng tùy theo cường độ và nhịp điệu" (Lịch sử chữ quốc ngữ, Đỗ Quang Chính, NXB Tôn Giáo 2012, trang 15).
Đây là một nhận xét cực kỳ "mới" mà người Việt chúng ta không bao giờ để ý. Chỉ cần thay đổi chút xíu khẩu âm và không thay đổi khẩu hình thì các chữ "ca, cà, cá, cả" mang nghĩa khác nhau một trời một vực.
Nửa cuối thế kỷ 16, các giáo sĩ thừa sai Dòng Tên (Jésu) đã bắt đầu đến châu Á truyền đạo. Một trong những nơi họ đến ban đầu chính là Trung Quốc, nơi mà trước đó vài thế kỷ, Maco Polo, nhà buôn người Ý, đã đến và mang về nhiều đồ vật lạ lùng của phương Đông.
Dòng Tên là một dòng tu trí thức của đạo Thiên Chúa. Tất cả những giáo sĩ của dòng này đều có trình độ tiến sĩ, nếu ai không đạt được bằng cấp ấy thì buộc phải rời dòng.
Những giáo sĩ này xuất thân từ những nước sử dụng chữ viết Latin nên khi đến những nước sử dụng chữ tượng hình đã gặp khó khăn trong việc truyền đạo. Do là những trí thức có trình độ cao, họ nhanh chóng học nói tiếng của người bản địa.
Song việc truyền đạo không chỉ nói là đủ, mà cần phải có kinh sách để các con chiên có thể học, đọc theo và truyền lại. Bởi không có giáo sĩ, thầy giảng nào có thể thay thế kinh sách. Mà chữ tượng hình thì rất khó học, và mất rất nhiều thời gian để học mới có thể đọc sách được, chứ chưa nói đến việc dịch lại kinh sách nước ngoài.
Mặt khác, việc truyền đạo Thiên Chúa vào các nước này (trong đó có nước ta) vào thời điểm ấy không phải lúc nào cũng suôn sẻ, dễ dàng, liên tục, do tùy thuộc vào sự vui buồn của quan quân địa phương, tùy thuộc vào tình hình chính sự yên ả hay loạn lạc của quốc gia mà các giáo sĩ Dòng Tên đặt chân đến.
Nhiều giáo sĩ sau một thời gian ngắn truyền đạo đã bị bắt, bị giết, bị đuổi đi...
Để có thể truyền lại kinh sách một cách tốt hơn, các giáo sĩ đã nghĩ ra phương pháp "Latin hóa chữ tượng hình". Và họ đã làm việc này ở Ấn Độ, Trung Quốc và Nhựt Bổn.
Chữ quốc ngữ từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19
Latin hóa tiếng Việt
Đầu thế kỷ 17, một số giáo sĩ thuộc Dòng Tên đã đến Hội An. Họ dùng tiếng Hán và Nhựt để giao tiếp với dân địa phương qua phiên dịch của các thương nhân.
Đến năm 1617, giáo sĩ Francesco de Pina người Bồ Đào Nha đến Hội An và Nước Mặn (thuộc Bình Định), rồi trở về cư ngụ tại Thanh Chiêm (Điện Bàn, Quảng Nam) đã học rất nhanh tiếng Việt và trở thành người phương Tây giỏi tiếng Việt nhất thời bấy giờ.
Và để có thể truyền lại kinh sách giáo lý của đạo Thiên Chúa, Pina cùng một số giáo sĩ khác đã có kinh nghiệm Latin hóa tiếng Nhựt, Hán bắt tay vào Latin hóa tiếng Việt.
Thuở ấy, người Việt vẫn nói tiếng Việt như bây giờ. Song do phải trải qua 1.000 năm bị Trung Quốc đô hộ, giới trí thức nước ta bị ảnh hưởng của Trung Hoa rất mạnh. Không rõ trước đó, người Việt có chữ riêng của mình hay không. Song các triều đại của người Việt sau này đều dùng chữ Hán trong các văn bản chính thức.
Khoảng thế kỷ thứ 10, người Việt đã "sáng chế" ra thứ chữ Việt bằng cách mượn chữ Hán mà viết, gọi là chữ Nôm (nghĩa là Nam, sau gọi là quốc âm). Song nếu chữ Hán khó một thì chữ Nôm khó mười. Bởi phải biết và giỏi chữ Hán mới có thể viết được, học được chữ Nôm.
Đối với người Việt học chữ Nôm đã khó, với người ngoại quốc xa lạ với chữ tượng hình thì chữ Nôm càng khó. Vẫn có thể học được, viết được nhưng không thể phổ biến rộng được. Chính vì vậy các giáo sĩ đã nghĩ đến việc Latin hóa tiếng Việt bằng mẫu tự Latin, mà ngày xưa gọi là "chữ Annam viết bằng mẫu tự Latin".
Có một số người được công nhận là "tác giả" chữ quốc ngữ là các giáo sĩ Francesco de Pina, Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa (đều là người Bồ Đào Nha), Cristoforo Borri (người Ý), Alexandre de Rhodes (người Pháp)...
Giáo sĩ Borri chỉ ở nước ta ba năm từ 1615 đến 1618. Còn ba giáo sĩ còn lại đều đến Đàng Trong năm 1624 và đều là học trò tiếng Việt của giáo sĩ Francesco de Pina.
Tuy nhiên, trong số này, chỉ có giáo sĩ Đắc Lộ cho in cuốn sách tiếng Việt đầu tiên là cuốn Từ điển Việt - Bồ - La nên được dân Việt cho là "ông tổ" của chữ quốc ngữ từ hơn trăm năm qua.
Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ - Kỳ 1: Khởi đầu của chữ quốc ngữ - Ảnh 4.
Văn bản chữ quốc ngữ năm 1659 của tu sĩ người Việt Bento Thiện của dòng tu Kẻ Giảng - Ảnh tư liệu
Tại sao là Việt - Bồ - La?
Từ giữa thế kỷ 19, sau khi chiếm Nam kỳ rồi cả nước Việt, người Pháp vừa muốn đẩy mạnh việc phổ biến chữ quốc ngữ vừa muốn tôn vinh văn hóa và nhân vật nước Pháp nên đã không ngần ngại tuyên truyền rằng: Chỉ có mỗi giáo sĩ Đắc Lộ là có công với chữ quốc ngữ với bằng chứng rõ ràng ông là người đầu tiên đứng tên trong cuốn sách chữ Việt - Từ điển Việt - Bồ - La.
Nhưng tại sao cuốn từ điển này hoàn toàn không đề cập gì đến tiếng Pháp trong khi Đắc Lộ là người Pháp?



Người có công đầu với chữ quốc ngữ:
Viết sách giáo khoa
16/09/2018 08:20 GMT+7
TTO - Chánh thức trở thành thầy giáo năm 1864, Trương Vĩnh Ký là người Việt đầu tiên viết sách giáo khoa.
Người có công đầu với chữ quốc ngữ:  Viết sách giáo khoa - Ảnh 1.
Bìa tiếng Pháp cuốn giáo khoa lịch sử Sơ học quy chánh in năm 1877 với trang nội dung về Hai Bà Trưng
Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của đất nước. Phải như thế vì lợi ích và sự tiến hóa
Cuốn Ngữ pháp Annam yếu lược của ông là sách dạy cách đọc và học tiếng Việt đầu tiên do người Việt viết, được Trường Thông ngôn (Collège des Interprètes) cho in bằng thạch bản năm 1864, một phần sách này được nhắc lại trong cuốn lịch sử Việt Nam đầu tiên.
Năm 1867, cuốn sách này được in lại bằng máy in typo. Cuốn Alphabet Annamite (vần quốc ngữ) không rõ năm in đầu tiên nhưng năm 1876 in lần 2 là một trong những cuốn sách quan trọng đầu tiên dành cho người học chữ quốc ngữ.
Sách giáo khoa lịch sử
Năm sau, 1868, ông viết cuốn Nam thoại cơ phạm (Cour pratique de langue Annamite) dành cho học trò mới vào trường học tiếng Việt. Cuốn này năm 1876 được tái bản và sau đó tái bản nhiều lần, đến năm 1895 in lần thứ 5. Năm 1875, ông xuất bản cuốn Bài giảng lịch sử An Nam (Cours d’historie Annamite) với lời nói đầu như sau:
"Cho học trò. Các trường đất Nam Kỳ.
Ớ các trò, ta xin kiếng sách nầy cho các trò, vì làm ra nó là làm cho các trò coi. Dùng tiếng Phalangsa là tiếng đã rộng mà lại hay, chép truyện đất nước ta ra cho anh em coi cho quen thuộc tiếng ấy, trông rằng, lấy cái tiếng anh em đang lo học mà thuật lại truyện anh em đã biết thì sẽ giúp cho anh em dễ thông ý chí lắt léo và hiểu rõ cốt cách tiếng ấy hơn.
Nói tắt một lời, ta muốn làm ích cho anh em, chớ chi ước vậy mà được như làm vậy...
Đến sau khi anh em đã học thành tài, biết bắt, biết hạch [thi] thì hãy dung thứ cho kẻ lớp trước anh em, vì những kẻ ấy thuở trước chẳng có được những phương tiện mà học hành như anh em bây giờ...
Tại Chợ Quán, ngày 25 tháng Hai năm 1875 P.J.B Trương Vĩnh Ký".
Cuốn Manuel Écoles Primaires còn có tên là Sơ học quy chánh do Nhà in Nhà nước xuất bản năm 1876 và tái bản rất nhiều lần ngay sau đó có thể coi là cuốn sách lịch sử Việt Nam đầu tiên tóm tắt bằng chữ quốc ngữ từ đời Hùng Vương đến đời Gia Long.
Phải đến năm 1906 mới có cuốn Đại Nam quốc lược sử của Alfred Schreiner và đến năm 1919, cuốn Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim mới ra đời.
Trong lời mở đầu bằng tiếng Pháp, ông Trương Vĩnh Ký viết: "Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của đất nước. Phải như thế vì lợi ích và sự tiến hóa. Vậy người ta nên tìm cách phổ biến thứ chữ nầy bằng mọi phương tiện".
Phần đầu sách có bảng mẫu tự, dấu, cách viết chữ, số; có bài tập đọc; có bài Khuyến học ca; cách dạy... Trong bài cách dạy, ông viết "Phân lớp ra mà dạy cho dễ: Như học trò đã biết viết, biết đọc thì bắt nó viết mò (chánh tả), bắt nó đọc một đoạn sách cho lẹ, cho xuôi. Viết mò thì lấy những tuồng, vãn, thơ, phú mà nói cho nó viết, viết rồi thì thầy coi mà sửa lại cho nó, cho chính câu chính chữ.
Còn mỗi bữa học, bắt nó kiếm câu hát, câu đối, lời phương ngôn tục ngữ, diêu ngôn... mà viết ra một đôi câu chẳng hạn, đem tới nộp cho thầy sửa, góp những cái ấy lại để một nơi...".
Chuyện Hai Bà Trưng
Những bài học trong sách thì ngắn gọn mà đầy đủ tình tiết, dễ đọc, dễ nhớ trước nay chưa thấy ai viết được như vậy. Về Hai Bà Trưng, ông viết:
"Bà Trưng Trắc đánh với Mã Viện.
Năm Canh Tí, sau Chúa giáng sanh 40 năm, là 7 năm sau Đức chúa Gi giu (Jésu) thăng thiên, tháng hai bà nữ vương Trưng Trắc là con gái ông quan Lạc tướng ở huyện Mê Linh, xứ Giao Chỉ, nguyên là vợ người Thi Sách ở huyện Châu Diên (đời nay là phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây), bị người Tô Định là quan Thái thú lấy phép riêng mà giết đi, nên giận lo trả thù cho chồng, bèn hiệp cùng với em gái là Trưng Nhị cùng kẻ tâm phúc lập binh dậy giặc kéo tới hãm thành.
Người Tô Định chạy riết về Nam Hải về Tàu đi. Khi ấy Cửu Chơn, Nhựt Nam, Hiệp Phố đều ứng theo, phía Lãnh Nam 65 thành cũng đều phục hết, thì bà Trưng Trắc xưng vương đóng đô tại Mê Linh.
Qua tháng chạp năm sau bên Đông Hán (Kiến Võ 17) sai ông tướng Mã Viện kéo binh bộ thủy qua đánh. Qua đến tháng 3 năm sau nữa (Nhâm Dần 42 SGS) quân ông Mã Viện tới Lang Bạc (bây giờ là Tây Hồ tại Hà Nội), bà Trưng Trắc thấy binh nghịch mạnh lắm, liền lui về giữ Cẩm Khê (ở tại địa hạt Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây). Sau ra cự chiến thua đi chết cả hai chị em. Dân có lập miễu tại tỉnh để thờ hai chị em, là nữ anh hùng.
Ông Mã Viện lấy lại được nước Annam thì lập một cái đồng trụ tại đất Khâm Châu nơi Cô Lâu Động; mà có khắc lời thệ rằng "đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" nên kẻ qua người lại sợ nó ngã, lấy đá, lấy gạch, miểng sành mà ném vào dưới chơn nó cho vững, hóa ra lâu đời biệt tích mất đi, bây giờ không biết chắc chỗ nào mà nhìn".
Có thể một số chi tiết chưa phù hợp với quan điểm lịch sử hiện tại nhưng một bài sử như thế nầy thì dễ học, dễ nhớ và không làm cho học sinh sợ môn sử! Đây cũng là phương pháp chung trong việc viết sách giáo khoa thuở ấy, lấy ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ làm đầu.
Kẻ sĩ
Để học sinh có sách tham khảo, sách học, Trương Vĩnh Ký viết hàng loạt sách nhằm mục đích giúp cho người học chữ quốc ngữ có điều kiện tốt hơn để tiếp cận thứ chữ mới này, đồng thời đẩy nhanh quá trình phổ biến chữ quốc ngữ.
Dành một đời cho chữ quốc ngữ nhưng ông luôn đứng giữa hai lằn đạn, bên khen bên chê. Cả đời, dù cộng tác với người Pháp nhưng ông không chịu vào Pháp tịch, luôn ăn mặc theo kiểu người Nam.
Khi Đốc phủ Trần Tử Ca gửi thơ hỏi tại sao ông không vào Pháp tịch, ông đã trả lời: "Tại sao tôi không vô dân tây... Tôi lấy sự ấy làm trái tự nhiên không ăn thua vào đâu cũng như chuyện đời xưa bên Tây nói (về) con kên kên lượm lông công giắt vào mình rồi nhảy vào bầy công...
Thật như vậy, không lý trời sanh tôi ra là con quạ bây giờ biểu tôi thì một hai nói tôi là con cò làm sao đặng?".
Đó chính là cách nghĩ của một kẻ sĩ!
May mắn
Điều may mắn là Trương Vĩnh Ký có một học trò giỏi nối gót tiếp tục con đường phổ biến chữ quốc ngữ. Đó là ông Trương Minh Ký, người viết nhiều sách giáo khoa, dịch thuật các tác phẩm phương Tây và sáng tác bằng chữ quốc ngữ.
Và cũng nhờ những người tiền phong như hai ông Ký này, dám vượt qua những rào cản để đưa chữ quốc ngữ đến mọi người, để hôm nay thứ chữ này trở thành tài sản vô giá của chúng ta, của người Việt.
Người có công đầu với chữ quốc ngữ:  Viết sách giáo khoa - Ảnh 4.
Cuốn Văn phạm tiếng Việt của Trương Vĩnh Ký in năm 1883






Chữ quốc ngữ:
Trăm năm nhớ các tiên hiền
30/11/2019 17:01 GMT+7
TTO - Một tọa đàm về chữ quốc ngữ do Đại học Văn Lang tổ chức sáng 30-11 nhằm kỷ niệm 100 năm chữ quốc ngữ được các chuyên gia đóng góp ý kiến, gợi lại hình ảnh đáng kính của những bậc tiên hiền...
Chữ quốc ngữ: Trăm năm nhớ các tiên hiền - Ảnh 1.
Nhiều bạn trẻ đến dự tọa đàm thích thú với các nội dung tham luận - Ảnh: L.ĐIỀN
Đây là ý tưởng của Câu lạc bộ Văn học - báo chí Văn Lang, nhân dịp vừa tròn 100 năm ngày vua Khải Định ra chiếu dụ ghi nhận khoa thi chữ Hán năm 1919 là khoa thi cuối cùng. Đó cũng chính là bước ngoặt để chữ quốc ngữ có cơ hội phát triển thành ngôn ngữ chính thức của quốc gia như đã thấy.
Buổi đầu gian khó
Tại sao lại có chữ quốc ngữ? Theo ghi nhận của TS Phạm Thị Kiều Ly - người có một tham luận về quá trình hình thành chữ quốc ngữ từ năm 1615 đến 1919, công đầu của việc ghi âm tiếng Việt bằng chữ Latin thuộc về các giáo sĩ thừa sai Dòng Tên - những người đã đến cửa Hàn của xứ Đàng Trong vào ngày 18-1-1615.
"Các giáo sĩ Dòng Tên đều dùng chữ Latin để ghi âm tiếng nói dân bản địa khi đi truyền giáo", TS Kiều Ly nhấn mạnh sở trường này của các giáo sĩ.
Trong ghi nhận của các nhà truyền giáo đến nay còn tìm thấy được, theo như Alexandre De Rhodes thì "tôi phải thú nhận rằng khi vừa tới Đàng Trong và nghe người dân xứ này, đặc biệt là các phụ nữ, nói chuyện thì tôi cảm giác như mình nghe tiếng chim gù và tôi gần như mất hi vọng có thể học được thứ tiếng này". 
Còn Francisco De Pina nhận xét "ngôn ngữ này có thanh điệu như một bản xướng âm, cần phải xướng âm trước đã". 
Chữ quốc ngữ: Trăm năm nhớ các tiên hiền - Ảnh 2.
TS Kiều Ly (bìa phải) trình bày tham luận cùng các diễn giả GS.TS Nguyễn Văn Hiệp (bìa trái) và PGS.TS Hoàng Dũng - Ảnh: L.ĐIỀN
Dù vậy, các nhà truyền giáo đã nỗ lực không ngừng để học tiếng Việt nhằm giao tiếp với dân bản địa, mà việc dùng chữ Latin ghi lại tiếng nói của người Việt chỉ là một công đoạn trong đó.
Theo tìm hiểu của TS Kiều Ly, quá trình ghi âm tiếng Việt từ buổi đầu có công của rất nhiều giáo sĩ tham gia. Chẳng hạn sự ra đời các ký tự â, ơ, ê, ư để ghi âm tiếng Việt là cả một quá trình mày mò, "nghe bạc cả tai" chứ không đơn giản.
Nhớ công các tiên hiền
PGS.TS Hoàng Dũng đóng góp với tọa đàm một tham luận thú vị, đó là trình bày Những giá trị ngôn ngữ và văn hóa của hai cuốn sách Dòng Tên: Từ điển Việt Bồ La (của Alexandre De Rhodes) và Sách sổ sang chép các việc (của Philiphê Bỉnh). 
Đặc biệt là phần khảo cứu về Từ điển Việt Bồ La, PGS Hoàng Dũng đã ghi nhận pho từ điển này chứa đựng nhiều giá trị văn hóa độc đáo: thể hiện cái nhìn của người châu Âu đối với văn hóa Việt Nam về sản vật, về phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian... Một số đến nay trở thành tư liệu cho giới nghiên cứu người Việt vì đây là những ghi nhận sớm còn lưu lại. 
Đến với tọa đàm, PGS.TS Võ Văn Nhơn (Đại học KHXH&NV TP.HCM) điểm lại một phần sự nghiệp của học giả, nhà văn hóa Trương Vĩnh Ký dưới góc nhìn đóng góp cho sự phát triển của tiếng Việt. 
Theo PGS Võ Văn Nhơn, những công trình như phiên âm Truyện Kiều, Lục Vân Tiên ra quốc ngữ, soạn sách giáo khoa dạy quốc ngữ, chép truyện dân gian Việt Nam, sáng tác, ghi chép bút ký bằng quốc ngữ để phổ biến... cho thấy nỗ lực rất lớn trong việc sử dụng và phổ biến chữ quốc ngữ trên nhiều phương diện cả hàn lâm bác học và văn hóa dân gian. 
PGS Võ Văn Nhơn cho rằng "nhờ Trương Vĩnh Ký mà chữ quốc ngữ từ chỗ chỉ là phương tiện phục vụ tôn giáo đã trở thành chữ viết chính thức của quốc gia, nhờ đó mà hình thành một nền quốc văn mới, một nền văn xuôi mới chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Thành ra tôi nghĩ ông Thiếu Sơn có lẽ không nói quá khi gọi Trương Vĩnh Ký là bậc tiên hiền của văn chương quốc ngữ Nam Bộ".
Chữ quốc ngữ: Trăm năm nhớ các tiên hiền - Ảnh 3.
PGS.TS Võ Văn Nhơn
Ghi nhận công lao của các bậc tiên hiền trong quá trình làm ra và hoàn thiện chữ quốc ngữ như đã thấy chính là nối tiếp phần công việc của tiền nhân, là nhiệm vụ văn hóa quan trọng. 
Nói như lời kết của GS.TS Nguyễn Văn Hiệp, chữ quốc ngữ đến nay là một di sản quý giá cần phải bảo tồn và phát huy.
Bí mật của Alexandre De Rhodes
Về Từ điển Việt Bồ La của Alexandre De Rhodes, PGS Hoàng Dũng nhận ra rằng công trình là một "nỗ lực vượt qua khó khăn để tìm hiểu văn hóa Việt Nam". Chẳng hạn từ điển này tổng cộng có đến hơn 20 từ ngữ tục, "nhiều hơn bất kỳ một cuốn từ điển tiếng Việt hiện đại nào".
Nhưng tầm vóc của Alexandre De Rhodes không chỉ ở chỗ đó. Vấn đề là làm thế nào để người bản xứ không ngại ngần nói những từ tục cho một nhà truyền giáo nghe và ghi lại?
PGS Hoàng Dũng cho biết ông từng trao đổi với các linh mục quen thân và được biết rằng các giáo dân không bao giờ dám nói tục hoặc chửi thề trước mặt các cha xứ. Cho nên ghi nhận được các từ tục này quả là một "bí mật truyền giáo" của Alexandre De Rhodes vậy.







Francesco De Pina –
người đầu tiên tạo chữ quốc ngữ
25/04/2019 13:24 GMT+7
TTO - Roland Jacques - linh mục, nhà ngôn ngữ học người Pháp - luôn tin rằng Francesco De Pina (người Bồ Đào Nha), chớ không phải Đắc Lộ, là tác giả chữ quốc ngữ.
Francesco De Pina - người đầu tiên tạo chữ quốc ngữ - Ảnh 1.
Pina đánh dấu thanh tiếng Việt bằng khuôn nhạc
Để chứng minh "lòng tin" của mình, R. Jacques đã bỏ ra hơn mười năm lục tung các thư tịch của Dòng Tên ở châu Âu tìm bằng chứng.
Và cuối cùng, tại Thư viện Hoàng gia Lisbon của Bồ Đào Nha, ông đã tìm được hai tác phẩm của Pina chưa hề được công bố.
Đó là bức thơ viết dở dài 7 trang Pina viết năm 1623 (một năm trước khi Đắc Lộ đến Đàng Trong và học tiếng Việt năm 1624) gửi cho bề trên Jerómino Rodiguez ở Macau, và một tiểu luận dài 22 trang tựa đề Nhập môn tiếng Đàng Ngoài.
Linh mục De Pina đến Đàng Trong năm 1617. Đó là giáo sĩ đầu tiên đã miệt mài nghiên cứu tiếng nói.
Giáo sĩ Gaspar Luis
Francesco De Pina sanh tại thành Guarda, Bồ Đào Nha khoảng năm 1585, gia nhập Dòng Tên vào năm 19 tuổi, sau đó đến xứ Goa (Ấn Độ) sống ít lâu trước khi sang Trung Quốc truyền đạo. Năm 1611, ông theo học tại Học viện Macau (Collège de Macau) về khoa học xã hội, thần học và tiếng Nhật.
Năm 1617, ông thụ phong linh mục và được cử đến Đàng Trong làm việc tại trú sở Hội An. Qua năm 1618, Pina đến cư trú tại Nước Mặn với Buzomi và Borri, người Ý.
Năm 1619, ông đến Thanh Chiêm mua đất dựng nhà thờ và năm 1623 thành lập trú sở Thanh Chiêm. Pina chết đuối trên bờ biển Quảng Nam ngày 15-12-1625.
Dịp đó, tàu Bồ Đào Nha từ Campuchia về Macau, bỏ neo ở hải phận Quảng Nam, gần Cù Lao Chàm, Pina cùng một người Việt Nam chèo thuyền ra tàu để lấy các đồ phụng sự.
Khi trở vào bờ, bất ngờ gió bão nổi lên, thuyền lật, Pina vì vướng áo chùng không bơi được nên chết đuối, còn người kia bơi vào bờ thoát nạn. Theo linh mục Đỗ Quang Chính, xác ông được đưa về Hội An làm lễ an táng rất trọng thể.
Gần đây, theo ông Đinh Trọng Tuyên - người dân Thanh Chiêm rất quan tâm đến chữ quốc ngữ, Pina được chôn cất sau nhà thờ Phước Kiều, nay là nhà thờ Thánh Andre, nhà thờ chính ông mua đất và xây dựng đầu tiên năm 1619, thuộc thôn Thanh Chiêm 1, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Việc Latin hóa thổ âm, đặc biệt là những tiếng của những quốc gia dùng chữ tượng hình, đã được các giáo sĩ thực hiện từ thế kỷ 15-16. Các công trình Latin hóa này được thực hiện với mục đích duy nhứt là làm cho các con chiên có thể đọc được kinh sách đạo Thiên Chúa, để đạo giáo này phổ biến mạnh hơn.
Đối với tiếng Việt, Pina cũng thực hiện Latin hóa với mục đích trên.
Vừa đến Hội An, Pina lao vào học tiếng Việt và chỉ trong thời gian rất ngắn, ông đã có thể đàm thoại với người bản xứ mà không cần qua phiên dịch. Giáo sĩ Gaspar Luis, người đến Đàng Trong năm 1624 cùng với Đắc Lộ, đã ghi lại như sau: "Linh mục De Pina đến Đàng Trong năm 1617. Đó là giáo sĩ đầu tiên đã miệt mài nghiên cứu tiếng nói".
Khi Đắc Lộ đến Thanh Chiêm vào năm 1624 thì đã thấy Pina giảng Kinh thánh mà không cần phiên dịch. Và Pina cũng là giáo sĩ duy nhứt giảng Kinh thánh bằng tiếng Việt ở Thanh Chiêm.
Nghiên cứu và sáng tạo
Không chỉ vậy, để có thể nghiên cứu tiếng Việt chuẩn hơn, ông đã xin về Thanh Chiêm từ năm 1619, trước khi trú sở này được thành lập vào năm 1623.
Trong tài liệu mà Roland Jacques tìm được, ông viết: "Đối với việc nghiên cứu tiếng nói, Kẻ Chàm vẫn là nơi tốt nhất với tư cách là trung tâm triều đình (thời điểm này Thanh Chiêm, tức Kẻ Chàm, là nơi đóng dinh Trấn Quảng Nam).
Hội An xưa là thủ đô kinh tế của Đàng Trong và là khu phố chợ quan trọng, một trung tâm thương mại lớn của cả vùng miền Trung. Do là khu thương mại, mua bán nên dân cư cũng hỗn tạp, ngôn ngữ cũng lai tạp.
Trong khi đó, Thanh Chiêm là "thủ đô" chính trị của Đàng Trong thời kỳ này, tiếng nói ổn định hơn và có nhiều trí thức hiểu biết về chữ nghĩa hơn. Vì vậy, việc lựa chọn của Pina rõ ràng là nhắm vào việc nghiên cứu tiếng Việt chuẩn xác hơn. Tại nơi này, ông cũng thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với quan trấn thủ dinh trấn.
Francesco De Pina - người đầu tiên tạo chữ quốc ngữ - Ảnh 3.
Một bản di cảo của giáo sĩ Pina
Đối với việc nghiên cứu tiếng Việt, Pina bắt đầu bằng suy nghĩ mà đã có nhiều người phương Tây nói đến là tiếng Việt tuy khó nhưng lại "du dương hòa điệu", "giống như bản nhạc liên hồi". Khi nghe người Việt nói, C. Borri cho rằng: "Người nào có tài về âm nhạc, biết phân biệt âm thanh thì tiếng Việt là tiếng dễ dàng đối với họ" (Lịch sử chữ quốc ngữ, Đỗ Quang Chính, NXB Tôn Giáo 2012, trang 15).
Việc Latin hóa tiếng Việt là công việc được tiến hành lâu dài và tiệm tiến. Ban đầu, các giáo sĩ chỉ có thể ghi lại âm tiếng Việt bằng những từ ngữ mà "chỉ có họ mới hiểu được" như Cecham (Kẻ Chàm, một cách gọi xưa của Thanh Chiêm), Quamguya (Quảng Nghĩa), Quinin (Qui Nhơn), nayre (nài, nài voi), Onsaij (ông sãi)... rồi tiến đến Ke Cham (Kẻ Chàm), Qui nin (Qui Nhơn), ten si (tiến sĩ), dau nhu (đạo Nho), ba hon (ba hồn) bai via (bảy vía)... sau hết mới có dấu như ngày nay.
Do đó, khi bắt đầu nghiên cứu sáng tạo chữ quốc ngữ, Pina ghi lại tiếng nói của người Việt bằng "những khung nhạc". Và trong tài liệu mới đây được triển lãm trong hội thảo chữ quốc ngữ vào tháng 7-2018 tại Lisbon, Bồ Đào Nha, người ta đã thấy những khung nhạc để thể hiện dấu âm của tiếng Việt.
Chính những người Bồ và người Ý mới có thể tạo ra những dấu (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng) của chữ quốc ngữ. Nếu chữ Ba là nốt La (A) thì Bá là nốt La thăng (A#), Bả là nốt Mi (E), Bà là nốt Rê (D)... trong âm nhạc. Đây cũng là một nguyên tắc đánh dấu âm của tiếng Việt mà người Pháp như Đắc Lộ, vốn chữ không có dấu, không thể làm được.
Cũng trong tài liệu trên, Pina ghi chép khá nhiều chữ, từ những chữ bình thường dễ nghe dễ đọc đến những chữ khó nghe, khó viết như "chớ đi", "đừng làm", "khoãn đã nào" [khoan đã nào], "có đi thì đến", "bán bạo nheo" [bán bao nhiêu], "bao mlớn" [bao lớn]... và tất cả những chữ này đều rất gần với chữ Việt hiện nay.
Linh mục Pina được người Việt giúp sức
Có một điều chắc chắn rằng việc sáng tạo chữ quốc ngữ của Pina được sự giúp sức của các giáo sĩ đồng lứa và khá nhiều thanh niên Việt theo đạo. Chính người Việt đã giúp ông có được những dấu âm tuyệt vời cho chúng ta ngày nay.
Trong báo cáo gửi cho cha bề trên năm 1623, Pina viết: "Về phần con, con đã soạn song một tiểu luận về chính tả và các thanh điệu của ngôn ngữ nầy... Con phiên âm theo chữ Bồ Đào Nha sao cho người của chúng ta có thể đọc và học các từ đó".
Những ghi chép này là những bằng chứng vững chắc chứng minh việc Pina đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ từ trước khi Đắc Lộ đến Thanh Chiêm.




Trương Minh Ký –
Nhà văn viết chữ quốc ngữ đầu tiên
29/04/2019 14:39 GMT+7
TTO - Trương Minh Ký (1855-1900), bút danh Mai Nham, hiệu là Thế Tải, là người học trò nổi bật của Trương Vĩnh Ký.
Trương Minh Ký - Nhà văn viết chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 1.
Báo Nam Kỳ do Trương Minh Ký làm chủ bút
Trương Minh Ký luôn bị cái bóng của thầy che mờ nên đời sau rất ít người biết về ông một cách đầy đủ.
Một người thông tuệ
Ông sinh năm 1855 tại Hanh Thông Xã (Gò Vấp) trong một gia đình buôn bán. Bảy tuổi, năm 1862, cũng là năm Nam Kỳ mất vào tay quân Pháp, ông mất mẹ. Cũng vì vậy mà ông được cha chăm sóc tốt, cho ăn học đàng hoàng.
Ông bắt đầu học chữ nho với cha và bà nội và học chữ quốc ngữ với giáo sĩ Puginier Phước, người thành lập giáo xứ Hạnh Thông Tây cách nhà ông chừng hai cây số.
Là người cực kỳ thông tuệ nên Puginier Phước trước khi ra Bắc nhận nhiệm sở mới đã giới thiệu ông vào Trường Thông ngôn (Trường Khải Tường) ngay khi thành lập (tháng 5-1862). Và tại đó ông đã gặp thầy Trương Vĩnh Ký.
Năm 1872, ông ra trường và trở thành thầy giáo dạy chữ nho và chữ quốc ngữ ngay nơi mình đã học. Nối nghiệp thầy Trương Vĩnh Ký, ông trở thành một thầy giáo nổi tiếng và hai năm sau, năm 1874, ông được thăng hạng: "Trương Minh Ký, nguyên làm thầy giáo dạy giúp hạng ba lên hạng nhì, lương đồng niên ăn 1.400 quan tiền" (Gia Định Báo số 3 ngày 1-2-1874).
"Dạy giúp" là một thứ bậc trong nghề giáo thời ấy.
Hai truyện văn xuôi đầu tiên đăng ngày 1-12-1881 trên Gia Định Báo của Trương Minh Ký
Năm 1880, Thống đốc Nam Kỳ dân sự đầu tiên Le Myre de Vilers đã cử ông dẫn một đoàn học sinh gồm 11 em sang Alger du học bậc cao đẳng. Trong số 11 em này có một "em" sau này khá nổi tiếng trong giới thầy giáo lẫn báo chí là Diệp Văn Cương.
Diệp Văn Cương (1862-1929), đồng môn của Nguyễn Trọng Quản - tác giả cuốn truyện Thầy Lazaro Phiền in năm 1887, sau khi tốt nghiệp trở về làm giáo sư Trường Chasseloup Laubat (nay là Lê Quý Đôn) và từng là chánh tổng tài cuối cùng (1909-1910) của tờ Gia Định Báo.
Trong chuyến đi này ông Trương Minh Ký đã đi thăm Paris, khi trở về ông viết một du ký dài 2.000 câu bằng văn vần "Như Tây nhựt trình" (Nhựt ký đi Tây) in tại Sài Gòn năm 1889.
Sau chuyến đi, trở về ông được bầu làm ủy viên Hội đồng thành phố Sài Gòn và chuyển sang làm chủ bút tờ Gia Định Báo từ giữa năm 1881 đến năm 1896.
Từ năm 1897, ông làm chủ bút tờ báo tư nhân Nam Kỳ (còn gọi là Nam Kỳ nhựt trình) cho đến giữa năm 1900, báo đóng cửa. Tháng 8-1900, ông mất đột ngột ở tuổi 45. Trong năm 1889, ông được thống đốc Nam Kỳ cử làm phiên dịch cho phái đoàn Hoàng gia nhà Nguyễn do hoàng thân Miên Triện dẫn đầu đi dự hội chợ quốc tế tại Paris.
Trong chuyến đi, tại Paris, ông được hoàng thân Miên Triện ban cho cái tên "Thế Tải". Sau chuyến đi này về, ông xuất bản cuốn du ký Chư quấc thại hội dài 2.000 câu thơ song thất lục bát.
Nếu 16 năm làm chủ bút Gia Định Báo ông đã gieo mầm cho văn học Việt, thì chỉ ba năm sau cùng (1897-1900) làm chủ bút tờ Nam Kỳ, ông thể hiện rõ tài năng trong nghề báo.
Quá trình làm báo viết văn
Được đánh giá là người có kiến văn sâu rộng cả ba ngôn ngữ Việt, Pháp, Hán; ông làm thầy giáo dạy chữ quốc ngữ và chữ nho trong 8 năm.
Sau khi chuyển sang làm báo ông viết nhiều sách giáo khoa như Ấu học khải mông, Tập dạy học tiếng Phansa và tiếng Annam, Hiếu kinh diễn nghĩa, Pháp học tân lương, Quấc ngữ sơ giai, Tiểu học gia ngôn... và sáng tác, dịch thuật thơ truyện.
Cuốn sách 100 bài học tiếng Pháp (Pháp học tân lương) gồm bài giảng về từ ngữ, văn phạm tiếng Pháp và tiếng Việt mà ngày nay cũng có thể dùng được cho người muốn học tiếng Pháp.
Thời ông làm chủ bút tờ Gia Định Báo, tờ báo này chính thức trở thành công báo, hầu hết các trang báo đều đăng ròng các văn bản, nghị định... của chính quyền. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy rằng Gia Định Báo thời Trương Minh Ký có hai thay đổi căn bản và rất có lợi cho việc tìm hiểu xã hội cuối thế kỷ 19.
Đó là phần Công vụ báo có đăng nguyên văn biên bản các buổi họp của Hội đồng quản hạt Nam Kỳ (do vậy mà có khi báo tăng lên đến 20 trang). Đây là việc vô tiền khoáng hậu, bởi xưa nay các nhà chính trị không bao giờ muốn đưa những chuyện họ bàn bạc lên báo. Những phát biểu trong các buổi họp rất có thể ảnh hưởng đến hình ảnh của họ và đôi khi để lại những di chứng không lành!
Trương Minh Ký - Nhà văn viết chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 4.
Trương Minh Ký (người cầm gậy) chụp cùng phái đoàn Hoàng gia Huế dự Hội chợ quốc tế Paris 1889
Và ở phần Thứ vụ, Tạp vụ có dành một phần nhỏ cho những sáng tác văn học. Và đây là trang văn học đầu tiên trên báo chí quốc ngữ nước ta. Hai truyện ngắn văn xuôi Tên chăn bò và Thằng ăn trộm với con heo, viết lại theo nội dung thơ La Fontaine của Trương Minh Ký in trên số ra ngày 1-12-1881 là những truyện đầu tiên của nền văn học nước ta.
Với tiền lệ Truyện Kiều viết lại theo nội dung Kim Vân Kiều truyện bằng văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân, thì hai truyện văn xuôi của Trương Minh Ký phải được coi là truyện sáng tác đầu tiên. Hai truyện này sau đó, năm 1884, được in chung với 128 truyện khác trong tập Truyện Phansa diễn ra quốc ngữ của Trương Minh Ký.
Song ông cũng là một nhà báo tài năng. Nếu 16 năm làm chủ bút Gia Định Báo ông đã gieo mầm cho văn học Việt, thì chỉ ba năm sau cùng (1897-1900) làm chủ bút tờ Nam Kỳ, ông thể hiện rõ tài năng trong nghề báo.
Nam Kỳ là tờ báo tư nhân, do ông A. Schreiner, một doanh nhân, làm chủ. Tờ báo tuy chỉ sống có ba năm nhưng lại là một tờ báo "đúng nghĩa" so với các báo khác trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Mặt báo phong phú tin tức từ ngoài nước cho đến trong nước. Báo đã có mục giao lưu với bạn đọc xa gần và mức quảng cáo khá mạnh (8 trang trong số 16 trang). Đọc báo Nam Kỳ chúng ta có thể thấy được một phần nào đó xã hội thế kỷ 19, đặc biệt là xã hội Sài Gòn.
Báo này có rất nhiều sáng tác thơ văn và truyện dịch. Năm 1895, truyện Một ngàn lẻ một đêm được chuyển ra tiếng Pháp thì năm 1897 đã có bản dịch tiếng Việt trên Nam Kỳ. Để làm được tất cả những điều này, chủ bút Trương Minh Ký với bút danh Mai Nham đã phải mất rất nhiều công sức viết, dịch và lựa chọn các tin bài đưa lên mặt báo...
Vì sao?
Là nhà văn, nhà báo quốc ngữ lớp đầu tiên song Trương Minh Ký suốt 100 năm qua vẫn chưa được biết đến trọn vẹn. Với quá trình đóng góp cho chữ quốc ngữ và hoạt động báo chí văn chương, không hiểu vì sao ông bị xóa tên khỏi bản đồ đường phố Sài Gòn sau ngày 30-4-1975? Phải chăng vì ông là cháu họ của Trương Minh Giảng? Phải chăng vì ông luôn bị lầm lẫn với ông Trương Vĩnh Ký? Phải chăng vì ông cộng tác với Pháp?...





Trương Vĩnh Ký –
Thầy dạy chữ quốc ngữ đầu tiên
27/04/2019 21:39 GMT+7
TTO - Dù có rất nhiều ý kiến khác nhau về ông Trương Vĩnh Ký, song có lẽ không ai có thể phủ nhận rằng ông là người Việt đầu tiên "làm thầy giáo" chữ quốc ngữ.
Trương Vĩnh Ký - Thầy dạy chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 1.
Chân dung Trương Vĩnh Ký
Sách nầy để cho con trẻ mới vô trường, học những điều đại lược mà phá ngu. Hai nữa là để tập coi, tập đọc, tập viết tiếng An Nam trong chữ quốc ngữ cho trúng tiếng, cho nhằm giọng, phân biệt ra cho rõ ràng...
Lời nói đầu của TRƯƠNG VĨNH KÝ trong cuốn Vần quốc ngữ...
Chỉ riêng điều này, ông xứng đáng là "tiền hiền" trong số những người có công sáng tạo và phổ biến chữ quốc ngữ ở nước ta.
Pháp mở trường thông ngôn
Tháng 5-1862, sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, gồm Biên Hòa, Gia Định và Định Tường, phó đô đốc Charner đã ký lịnh thành lập Trường Thông ngôn (Collège des Interprèste) dạy hai thứ tiếng Pháp và quốc ngữ nhằm đào tạo thông ngôn cho quân đội viễn chinh.
Ngày xưa, trường được dân chúng và báo chí gọi là Trường Khải Tường, vì trường đặt trong khuôn viên chùa Khải Tường; và cơ sở đó nay là Trường Lê Quý Đôn.
Vì sao quân Pháp không sử dụng tiếng Pháp mà phải dùng cả chữ quốc ngữ ở Nam kỳ?
Thực tế, sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, quân Pháp phải dùng rất nhiều giáo sĩ Thiên Chúa để làm thông ngôn trong việc giao tiếp với dân chúng. Song không phải giáo sĩ nào cũng "hết mình" vì công việc. Một số thông ngôn đã lợi dụng công việc để truyền đạo.
Năm 1861, giáo sĩ Paulus Galy (tên Việt là Lý) được cử đến làm thông ngôn cho đồn Thuận Kiều đóng tại làng Thuận Kiều thuộc 18 thôn vườn trầu.
Đến năm 1863, không rõ công trạng làm thông ngôn của ông thế nào nhưng ông đã thành lập được giáo xứ Bà Điểm và lập nhà thờ sau chợ. Và cuối cùng vị giáo sĩ này trở thành chủ chăn ở giáo xứ Bà Điểm và rời bỏ công việc thông ngôn. Đó là một nguyên nhân.
Nguyên nhân thứ hai là giới giáo sĩ Thiên Chúa lúc bấy giờ muốn "tham chánh" để chia sẻ quyền lực với quân đội Pháp. Đây là yêu cầu khó chấp nhận đối với giới quân đội.
Cuối cùng, một giải pháp trung dung được cả hai phía chấp thuận là "sử dụng chữ viết của công giáo ở Nam kỳ". Đó là chữ Annam viết bằng mẫu tự Latin, tức chữ quốc ngữ, chữ Việt ngày nay.
Trong suốt mấy trăm năm hình thành, chữ quốc ngữ, do chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn, luôn bị coi là thứ chữ "của người ngoại quốc" và chỉ phổ biến trong các nhà thờ và các xứ đạo Thiên Chúa.
Việc chánh quyền Pháp ở Nam kỳ chấp nhận cho phổ biến rộng rãi thứ chữ này là một bước đi quan trọng đối với các giáo sĩ. Và chính vì vậy Trường Thông ngôn ra đời.

Trương Vĩnh Ký - Thầy dạy chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 3.
Lịch sử Việt Nam viết bằng tiếng Pháp in năm 1877 của Trương Vĩnh Ký
Vai trò của Trương Vĩnh Ký
Ngay khi Trường Thông ngôn thành lập, ông Trương Vĩnh Ký được mời làm giáo sư. Và ông trở thành người Việt đầu tiên làm thầy giáo dạy chữ Việt, một công việc không hề dễ dàng lúc bấy giờ. Và năm 1864, sau khi từ Pháp trở về, ông được bổ nhiệm làm giám đốc trường này.
Cái khó khăn đầu tiên là làm sao có được giáo trình một thứ chữ mới rợi đối với mọi người? Sau khi trở thành giám đốc, Trương Vĩnh Ký đã viết cuốn sách giáo khoa đầu tiên mang tên Ngữ pháp tiếng Annam (Abrégé de grammaire Annamite)  in năm 1867.
Sau đó là hàng loạt sách giáo khoa như Chuyện tiếng An Nam và tiếng Langsa, Sách tập nói chuyện tiếng An Nam và tiếng Langsa, Phép lịch sự An Nam, Văn phạm tiếng An Nam, Chữ quốc ngữ và lịch sử An Nam...
Riêng cuốn Văn phạm tiếng An Nam đã dày 304 trang in. Sách giáo khoa của ông rất chi tiết, từ cách đánh vần cho tới những từ ngữ, các danh từ, động từ, tính từ... đều phân biệt chi tiết. Ví dụ "con ốc" là loài ốc nói chung, khác với "con ốc vặn" mà ta gọi là ốc vít. Còn con cò thì khác với cò súng, con ngựa khác với ván ngựa (bộ ván), con ngựa của cây đờn...
Sách của ông cũng dạy đặt câu sao cho trúng cách và phân chia từ thấp đến cao một cách có hệ thống và khoa học. Đây lại là công việc của một người quả là rất đáng nể!
Không chỉ viết sách dạy chữ, ông còn viết cả lịch sử, chuyển âm truyện thơ Lục Vân Tiên, Kiều, Trương Lương... cho học trò có sách để đọc tham khảo.
Trong lời nói đầu cuốn Vần quốc ngữ và lịch sử An Nam, ông viết: "Sách nầy để cho con trẻ mới vô trường, học những điều đại lược mà phá ngu. Hai nữa là để tập coi, tập đọc, tập viết tiếng An Nam trong chữ quốc ngữ cho trúng tiếng, cho nhằm giọng, phân biệt ra cho rõ ràng...".
Ông đã làm thầy giáo trong suốt 22 năm kể từ năm 1864 cho đến năm 1886, thời điểm ông rời Sài Gòn ra Huế làm cố vấn cho vua Đồng Khánh theo đề nghị của toàn quyền Đông Dương Paul Bert.
Suốt thời gian này, ông có 9 năm trực tiếp ở các trường (từ 1864-1869 làm giám đốc Trường Thông ngôn, từ 1872-1876 làm giám đốc Trường Sư phạm) và đã viết khoảng 25 cuốn sách giáo khoa dành cho học trò học, trong số gần 200 tác phẩm của ông.
Đó là một số lượng rất lớn đối với một thầy giáo dạy chữ quốc ngữ trong điều kiện chưa có tiền lệ.
Thuở ấy, rất khó tìm được học sinh cho trường, do trong dân chúng truyền miệng nhau chữ quốc ngữ là thứ chữ của người ngoại quốc, học nó sẽ mất gốc hoặc bị Pháp bắt đi mất.
Ban đầu học sinh Trường Thông ngôn là lính Pháp, con em những người cộng tác với Pháp và con cháu của giới theo đạo Thiên Chúa. Về sau, để có học sinh, chánh quyền thực dân ra lịnh mỗi làng phải chọn một hay hai em trong lứa tuổi từ 10 đến 16 đi học.
Làng xã thường nhắm vào các gia đình có tiền của để bắt đi học, nên "kiếm người đi học mà như đi đánh giặc". Dù học nội trú, không tốn tiền, lại có tiêu vặt phí nhưng không mấy gia đình muốn con đi học. Sợ mất con, rất nhiều gia đình có tiền đã mướn người đi học thế.
Nghiệp làm thầy của ông Trương Vĩnh Ký để lại khá nhiều dấu ấn tốt đẹp. Một lớp khá đông học trò của ông, sau là những công chức mẫn cán của chế độ hoặc là những người có công lớn đối với nền văn học, văn hóa của nước nhà.
Nổi bật là các ông Trương Minh Ký (nhà báo, nhà văn, thầy giáo), Đặng Thúc Liêng (nhà báo, nhà văn), Nguyễn Khắc Huề (thầy giáo)...
Trương Vĩnh Ký - Thầy dạy chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 4.
Một trang sách giáo khoa của Trương Vĩnh Ký
Trường quốc ngữ đầu tiên ở Sài Gòn
Trước đó, trường dạy tiếng Annam viết bằng mẫu tự Latin đã được giáo sĩ Puginier Phước thành lập đầu năm 1860 mang tên d’Adran (nay là khuôn viên Trường Võ Trường Toản và Trưng Vương) khi giáo sĩ này phụ trách Tiểu Chủng viện Sài Gòn.
Và giáo sĩ Puginier Phước cũng là người thành lập giáo xứ Hạnh Thông Tây và dạy chữ quốc ngữ cho các giáo dân ở đây, trong số đó có Trần Tử Ca và Trương Minh Ký.



Hà Hương phong nguyệt là tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên?


Hà Hương
Bìa tác phẩm Hà Hương phong nguyệt vừa ra mắt - Ảnh: MAI THUY
Về tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của Việt Nam, có ý kiến cho rằng đó là Tố Tâm (1925) của Song An Hoàng Ngọc Phách; lại có sự chọn lựa khác, chẳng hạn Truyện Thầy Lazaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản; hoặc Kiếp phong trần (1882) của Trương Vĩnh Ký.
Vấn đề vẫn còn đang bỏ ngỏ. Và hiện nay, sự xuất hiện đầy đủ văn bản Hà Hương phong nguyệt (1914) là rất cần thiết, thêm một “ứng cử viên” sáng giá cho cuộc trao đổi, tranh luận của các nhà nghiên cứu.
Lâu nay giới nghiên cứu vẫn chưa đồng thuận về tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của Việt Nam. Nay, lại có hướng tiếp cận mới khi bộ tiểu thuyết Hà Hương phong nguyệt của nhà văn Lê Hoằng Mưu lần đầu tiên được công bố trọn vẹn sau 104 năm 'tuyệt tích giang hồ'.
Từ nhiều năm nay, nhà nghiên cứu Võ Văn Nhơn đã bỏ nhiều công sức tìm kiếm lại văn bản từ nhiều nguồn khác nhau để nay có thể công bố trọn vẹn tác phẩm Hà Hương phong nguyệt. Đây có lẽ là một trong những vấn đề đáng quan tâm nhất thuộc lĩnh vực văn bản học gần đây.
Sở dĩ sự việc này khiến giới học thuật quan tâm vì 3 lẽ:
1. Tác phẩm từng bị đánh giá viết về tình dục, dâm thư, đồi bại, làm phương hại cho đạo đức, thuần phong mỹ tục trái với quan niệm đương thời; và đã tạo ra cuộc bút chiến dữ dội trong thập niên 1920.
2. Do áp lực từ công luận, nhà cầm quyền thuộc địa phải ra lệnh tịch thu, tiêu hủy.
3. Và hơn cả thế, sự ra đời của Hà Hương phong nguyệt đã khiến nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là tiểu thuyết chữ quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam.
Với dung lượng đáng kể, với hệ thống nhân vật đa dạng, ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo, đặc biệt là nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật khá đặc sắc, tác phẩm này của Lê Hoằng Mưu xứng đáng là tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của Nam Bộ, của Việt Nam, như Bình Nguyên Lộc, Bằng Giang đã khẳng định.
Theo nhà nghiên cứu Võ Văn Nhơn
Ý kiến này thuyết phục không?
Thiết nghĩ, một khi đã gọi tiểu thuyết hiện đại, trước hết phải căn cứ vào cách hành văn, diễn đạt.
Xét về cách hành văn với phong cách biền ngẫu, câu chữ du dương, nhịp nhàng vần điệu xuyên suốt cả hàng trăm trang sách như: "Miễn là già cứu Nguyệt Ba khỏi nạn. Hữu này, xưa mụ tưởng Nguyệt Ba là đáng, nay mới tường thăm ván bán thuyền, còn Hà Hương là gái chính chuyên, mụ lại tưởng nó ôm duyên đi bán.
Con muốn vậy mẹ đâu dám cản", cá nhân người viết cho rằng gọi chính xác nhất Hà Hương phong nguyệt vẫn là truyện thơ, một sự nối dài của truyện thơ nôm khuyết danh Lâm tuyền kỳ ngộ, Phạm Công - Cúc Hoa, Chàng Chuối tân truyện, Thạch Sanh, Lưu nữ tướng...
Vậy đâu là những cột mốc đầu tiên của thể loại tiểu thuyết của Việt Nam, từ tác phẩm đến tác giả? Câu hỏi đặt ra không thừa, bởi lẽ nào một vấn đề thuộc về văn học sử vẫn còn cứ mãi "lửng lơ con cá vàng" mà mỗi người nói mỗi phách?
Dù thế nào chăng nữa, việc công bố tác phẩm này từ nhà nghiên cứu Võ Văn Nhơn rất đáng ghi nhận, biểu dương vì đã góp phần làm rõ hơn diện mạo, hành trình ban đầu hình thành thể loại tiểu thuyết hiện đại ở Nam Bộ và Việt Nam nói chung.
Riêng về vấn đề văn bản học, điều khiến bạn đọc hài lòng nhất còn là việc chú thích, giải thích rõ ràng các vốn từ cũ từng sử dụng hơn trăm năm trước ở Nam Bộ, cho thấy sự cẩn trọng của nhóm thực hiện trong quá trình ôn cố tri tân.
Cần xem lại định nghĩa về tiểu thuyết
Trao đổi trong buổi tọa đàm Hà Hương phong nguyệt sáng 16-6 tại Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia TP.HCM), nhà báo Trần Nhật Vy cho rằng cần phải xem lại định nghĩa về tiểu thuyết. Ông chia sẻ: "Nếu xem tiểu thuyết như định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, thì sẽ thấy đầy đủ các lý lẽ như tiến sĩ Võ Văn Nhơn nêu ra để chứng minh Hà Hương phong nguyệt là tiểu thuyết đầu tiên nếu nói về độ dài, cấu trúc. Tuy nhiên, nếu so sánh với các định nghĩa khác trong Việt Nam tân từ điển của Thanh Nghị hay Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của thì khái niệm tiểu thuyết ở đây khác hẳn".
Đáp lời ông Trần Nhật Vy, nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh chia sẻ không nhất thiết phải dựa vào các cuốn từ điển kể trên, bởi trước hết chất lượng của chúng cũng cần bàn luận lại. Thay vào đó, để chứng minh được Hà Hương phong nguyệt là tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên, chúng ta phải xem xét cốt truyện, diễn biến tâm lý, cấu trúc nhân vật… so với các tác phẩm đương thời.
LÊ MINH QUỐC - MAI THỤY

* Uống nước thì phải nhớ nguồn. Lẽ đời vốn xưa nay vẫn thế. Nhưng vẫn còn sót lại những thằng người vong bản "ăn cháo đái bát". Mấy hôm nay lại um sùm về chữ Quốc Ngữ. LTD tui sưu tập dược một ít bài viết, gom lại để các bạn xem chơi. Khi các bạn truy cập vào hai line bên dưới các bạn có thể tìm đọc được tất cả các bài viết cùng hình ảnh kèm theo
LTD
https://tuoitre.vn/francesco-de-pina-nguoi-dau-tien-tao-chu-quoc-ngu-20190424202638287