Người theo dõi

Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2019

Chữ Quốc Ngữ


Chữ quốc ngữ ra đời lúc nào?
24/04/2019 10:57 GMT+7

TTO - Căn cứ vào những tài liệu viết từ năm 1621 còn lưu giữ, chữ quốc ngữ, tức chữ An Nam viết bằng mẫu tự Latin, có thể được sáng tạo năm 1620 hoặc trước đó một chút.
Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ - Kỳ 2:
Ngôi mộ của giáo sĩ Pina ở sau nhà thờ Phước Kiều trên thế giới. hiện nay - Ảnh: T.L.
Đắc Lộ đã thừa hưởng những di sản được người khác sáng tạo ra để góp phần hoàn thành cuốn tự điển có tiếng Việt đầu tiên trên thế giới
400 năm sau, người Việt, những người thụ hưởng và tự hào thứ chữ này, lại biết rất lơ mơ về lịch sử của nó. Họ không biết chắc ai là người sáng tạo ra chữ Việt, Francesco de Pina hay Alexandre de Rhodes?
Ở đâu, Thanh Chiêm hay Nước Mặn? Lưu giữ thế nào? Phổ biến ra sao? Phát triển thế nào? Lúc nào được sử dụng phổ thông?
Công sức của người Bồ
Trong hai thế kỷ từ 15 đến 17, các thương buôn Bồ Đào Nha có mặt hầu như khắp thế giới. Theo chân họ là những nhà truyền giáo, phần lớn là người Bồ và người Ý, tháp tùng truyền đạo ở những vùng đất mới.
Theo thống kê của linh mục Đỗ Quang Chính thì trong số 145 giáo sĩ thuộc 17 quốc tịch đến Đàng Trong truyền giáo từ năm 1615-1788, có đến 74 người Bồ Đào Nha, 30 người Ý.
Dòng Tên (Jesu) của đạo Thiên Chúa là dòng tu đi truyền đạo thời kỳ ấy. Theo luật của dòng, mỗi khi đến vùng đất mới phải học tiếng địa phương, và với tài năng riêng từng người, họ đã Latin hóa tiếng nói và chữ viết địa phương để những người theo đạo có thể đọc được những kinh sách của đạo.
Thứ chữ Latin này được truyền lại cho các giáo sĩ đến sau. Đây là phương thức mà họ đã thực hiện ở nhiều nơi như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Brasil... trong các thế kỷ 15, 16 trước khi đến Việt Nam. Riêng ở Viễn Đông, dòng tu này thiết lập một trụ sở lớn và lâu dài ở Macau để làm nơi đi và đến cho các giáo sĩ.
Đầu thế kỷ 17, năm 1615, các giáo sĩ Dòng Tên đã đến Đàng Trong và lần lần họ học tiếng Việt. Sau đó, các giáo sĩ này đã bắt tay vào việc Latin hóa chữ Việt.
Tài liệu viết tay của giáo sĩ João Roiz (người Bồ) viết năm 1621 đã có các chữ quốc ngữ ban đầu như An Nam (Việt Nam tức Đàng Trong. Thời điểm này nước ta chưa có vùng đất Nam Bộ), Sinoa (xứ Hóa tức Thuận Hóa), unsai (ông sãi), Cacham (Kẻ Chàm, sau này là Thanh Chiêm), ungue (ông nghè)...
Còn những chữ Việt trong bản tường trình của Gapar Louis (người Bồ) viết năm 1621 cũng đã có chữ ungué (ông nghè), bancô (bàn cổ). Còn Cristoforo Borri (người Ý), tác giả cuốn Xứ Đàng Trong, đến Đàng Trong cùng với Francesco de Pina thành lập trú sở Nước Mặn (Bình Định) năm 1618, trong tác phẩm viết năm 1621 đã có những chữ: Tunchim (Đông Kinh, tức Hà Nội), Lai (Lào), Ainam (Hải Nam), kemoi (kẻ mọi, xứ mọi, Tây Nguyên), Quanguya (Quảng Nghĩa), Quignin (Qui Nhơn), dàdèn lùt (đã đến lúc), nayre (nài), doij (đói), chià (trà), sayc kim (sách kinh), cò (có). Cũng năm 1621, giáo sĩ Bozumi viết các chữ: onsaij (ông sãi), Quanghia (Quảng Nghĩa), Nuoecman (Nước Mặn), da an nua (dạ ăn nữa)...
Như vậy, tới năm 1621, việc Latin hóa tiếng Việt vẫn chưa có dấu thanh. Tài liệu viết tay của giáo sĩ Antonio de Fontes, một học trò của Francesco de Pina, viết năm 1626 đã thấy xuất hiện dấu thanh. Dĩgcham (Dinh Chàm), Núocman (Nước Mặn), Sinúa (xứ Hóa), ondedóc (ông đề đốc), nhít la khấu, khấu la nhít (nhứt là không, không là nhứt).
Và di cảo của Pina vừa tìm thấy ở Thư viện Hoàng gia Bồ Đào Nha giữa năm 2018 thì chữ quốc ngữ đã có dấu như ngày nay. Tài liệu này trưng bày trong Hội thảo về chữ quốc ngữ diễn ra tại Lisbon vào tháng 7-2018.
Chữ quốc ngữ ra đời lúc nào? - Ảnh 3.
Di cảo của Pina, chữ quốc ngữ những năm 1623 - Ảnh: T.L.
Công trình tập thể
Như vậy, có thể khẳng định rằng chữ quốc ngữ ra đời có một quá trình dài từ năm 1618 cho đến 1625 với sự hợp tác của nhiều người chứ không chỉ một người. Và đa số "tác giả" của chữ quốc ngữ đều là người Bồ Đào Nha, người Ý cùng với một số người Việt theo đạo Thiên Chúa góp sức.
Và người được xác định "giỏi tiếng Việt nhứt" và có công lớn nhứt trong việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ chính là giáo sĩ Francesco de Pina người Bồ Đào Nha.
Francesco de Pina đến Hội An đầu năm 1617, thành lập trú sở Nước Mặn năm 1618, rồi thành lập trú sở Thanh Chiêm (tức Kẻ Chàm, Dinh Chàm) năm 1623. Từ năm 1619, Pina đến cư trú tại Thanh Chiêm và cuối năm 1625 ông chết đuối trên biển Cù Lao Chàm do vướng áo chùng không bơi được khi thuyền lật.
Thi thể ông được chôn ở sau nhà thờ Phước Kiều (nay là nhà thờ Thánh Andre), thuộc thôn Thanh Chiêm 1, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Đây là nhà thờ do chính ông thành lập khi đến cư trú tại Thanh Chiêm và là nơi trú ngụ của nhiều giáo sĩ khác, trong đó có Đắc Lộ.
Sau khi ông mất, một học trò tiếng Việt của ông là giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đến Đàng Trong năm 1624, đã ôm tất cả những di cảo của thầy mang về Macau vào năm 1626. Tại Macau thuở ấy còn có hai giáo sĩ cũng chăm chú nghiên cứu chữ quốc ngữ và đã soạn thảo hai cuốn tự điển Việt-Bồ-La và Bồ-Việt.
Đó là hai giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa cư trú ở Macau gần 10 năm. Đáng tiếc là công trình của họ chưa kịp công bố thì tháng 2-1646 Gaspar mất trên đường biển đi đến nước ta và sau đó một năm thì Barbosa cũng mất vì bệnh.
Trong lời nói đầu cuốn Tự điển Việt - Bồ - La của mình, Đắc Lộ có nhắc đến việc "tham khảo" tài liệu của hai giáo sĩ trên, cho thấy Đắc Lộ đã thừa hưởng những di sản được người khác sáng tạo ra để góp phần hoàn thành cuốn tự điển có tiếng Việt đầu tiên trên thế giới.
Điều đáng tiếc là hiện nay vẫn chưa tìm thấy hai cuốn tự điển của Gaspar và Barbosa đã viết. Rất mong số phận của nó giống như cuốn tự điển của Bá Đa Lộc, tưởng đã cháy mất trong một trận hỏa hoạn ở Cà Mau nhưng lại được tìm thấy vào thập niên 1980.
Sau người Bồ là người Pháp
Sau Đắc Lộ, chữ quốc ngữ được phổ biến rộng trong giới theo đạo Thiên Chúa, nhất là các tu sĩ, linh mục... Nó cũng được hoàn thiện dần qua một quá trình rất dài hàng trăm năm và lần lần hoàn chỉnh.
Qua thế kỷ 18, do vấn đề nội bộ, địa bàn truyền giáo của người Bồ được giao lại cho Hội thừa sai người Pháp, và chữ quốc ngữ tiếp tục được các giáo sĩ người Pháp lưu giữ và truyền lại. Trong số những người có công với chữ quốc ngữ được ghi nhận là giáo sĩ Bá Đa Lộc và Taberd, hai người đã thâu góp, chỉnh đốn, ghi nhận chữ quốc ngữ trong hai cuốn tự điển mang tên mình.
Cuốn tự điển Taberd đã được Nhà xuất bản Văn Học in lại năm 2004 với tên Nam Việt dương hiệp tự vị. Riêng cuốn của Bá Đa Lộc đến nay ít nghe nhắc đến dù đã công bố và tặng bản scan cho nước ta từ năm 1984.




Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ -
Kỳ 1: Khởi đầu của chữ quốc ngữ
23/04/2019 10:56 GMT+7
TTO - Nói đến chữ quốc ngữ thường cho rằng giáo sĩ Alexandre de Rhodes (thường gọi là Đắc Lộ), tác giả cuốn Từ điển Việt - Bồ - La in tại La Mã năm 1651, là ông tổ của chữ quốc ngữ. Thế nhưng, sự thật chưa hẳn vậy…
Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ - Kỳ 1: Khởi đầu của chữ quốc ngữ - Ảnh 1.
Tập di cảo của Francesco de Pina lưu giữ tại Thư viện Hoàng gia Bồ Đào Nha
Lâu nay, những người yêu tiếng Việt bình thường và một số tài liệu khi nói đến chữ quốc ngữ thường cho rằng giáo sĩ Alexandre de Rhodes (thường gọi là Đắc Lộ), tác giả cuốn Từ điển Việt - Bồ - La in tại La Mã năm 1651, là ông tổ của chữ quốc ngữ.
Thế nhưng, sự thật chưa hẳn là vậy…
Ngay từ khi bập bẹ, chúng ta đã nói tiếng Việt, và hoàn toàn không có gì khó khăn. Nhưng "tiếng Việt khó quá!" là ý kiến của rất nhiều người phương Tây khi tiếp cận tiếng Việt.
Khi đọc, người Việt không cần phải thay đổi tiếng mà vẫn làm cho một tiếng ấy có nhiều nghĩa khác nhau, bởi vì họ chỉ cần lên giọng hoặc hạ giọng tùy theo cường độ và nhịp điệu.
ĐỖ QUANG CHÍNH
Tiếng Việt khó quá!
Tiếng Việt cấu trúc đơn giản; đơn âm không có "thì", không có chia động từ, không có tiếp đầu ngữ, vĩ ngữ thì có gì là khó?
Xin thưa, đối với người phương Tây, tiếng Việt khó ở chỗ phát âm (nghe và nói).
Giáo sĩ Marini, người đã từng đến Đàng Trong những thập niên đầu thế kỷ 17, viết: "Khi đọc, người Việt không cần phải thay đổi tiếng mà vẫn làm cho một tiếng ấy có nhiều nghĩa khác nhau, bởi vì họ chỉ cần lên giọng hoặc hạ giọng tùy theo cường độ và nhịp điệu" (Lịch sử chữ quốc ngữ, Đỗ Quang Chính, NXB Tôn Giáo 2012, trang 15).
Đây là một nhận xét cực kỳ "mới" mà người Việt chúng ta không bao giờ để ý. Chỉ cần thay đổi chút xíu khẩu âm và không thay đổi khẩu hình thì các chữ "ca, cà, cá, cả" mang nghĩa khác nhau một trời một vực.
Nửa cuối thế kỷ 16, các giáo sĩ thừa sai Dòng Tên (Jésu) đã bắt đầu đến châu Á truyền đạo. Một trong những nơi họ đến ban đầu chính là Trung Quốc, nơi mà trước đó vài thế kỷ, Maco Polo, nhà buôn người Ý, đã đến và mang về nhiều đồ vật lạ lùng của phương Đông.
Dòng Tên là một dòng tu trí thức của đạo Thiên Chúa. Tất cả những giáo sĩ của dòng này đều có trình độ tiến sĩ, nếu ai không đạt được bằng cấp ấy thì buộc phải rời dòng.
Những giáo sĩ này xuất thân từ những nước sử dụng chữ viết Latin nên khi đến những nước sử dụng chữ tượng hình đã gặp khó khăn trong việc truyền đạo. Do là những trí thức có trình độ cao, họ nhanh chóng học nói tiếng của người bản địa.
Song việc truyền đạo không chỉ nói là đủ, mà cần phải có kinh sách để các con chiên có thể học, đọc theo và truyền lại. Bởi không có giáo sĩ, thầy giảng nào có thể thay thế kinh sách. Mà chữ tượng hình thì rất khó học, và mất rất nhiều thời gian để học mới có thể đọc sách được, chứ chưa nói đến việc dịch lại kinh sách nước ngoài.
Mặt khác, việc truyền đạo Thiên Chúa vào các nước này (trong đó có nước ta) vào thời điểm ấy không phải lúc nào cũng suôn sẻ, dễ dàng, liên tục, do tùy thuộc vào sự vui buồn của quan quân địa phương, tùy thuộc vào tình hình chính sự yên ả hay loạn lạc của quốc gia mà các giáo sĩ Dòng Tên đặt chân đến.
Nhiều giáo sĩ sau một thời gian ngắn truyền đạo đã bị bắt, bị giết, bị đuổi đi...
Để có thể truyền lại kinh sách một cách tốt hơn, các giáo sĩ đã nghĩ ra phương pháp "Latin hóa chữ tượng hình". Và họ đã làm việc này ở Ấn Độ, Trung Quốc và Nhựt Bổn.
Chữ quốc ngữ từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19
Latin hóa tiếng Việt
Đầu thế kỷ 17, một số giáo sĩ thuộc Dòng Tên đã đến Hội An. Họ dùng tiếng Hán và Nhựt để giao tiếp với dân địa phương qua phiên dịch của các thương nhân.
Đến năm 1617, giáo sĩ Francesco de Pina người Bồ Đào Nha đến Hội An và Nước Mặn (thuộc Bình Định), rồi trở về cư ngụ tại Thanh Chiêm (Điện Bàn, Quảng Nam) đã học rất nhanh tiếng Việt và trở thành người phương Tây giỏi tiếng Việt nhất thời bấy giờ.
Và để có thể truyền lại kinh sách giáo lý của đạo Thiên Chúa, Pina cùng một số giáo sĩ khác đã có kinh nghiệm Latin hóa tiếng Nhựt, Hán bắt tay vào Latin hóa tiếng Việt.
Thuở ấy, người Việt vẫn nói tiếng Việt như bây giờ. Song do phải trải qua 1.000 năm bị Trung Quốc đô hộ, giới trí thức nước ta bị ảnh hưởng của Trung Hoa rất mạnh. Không rõ trước đó, người Việt có chữ riêng của mình hay không. Song các triều đại của người Việt sau này đều dùng chữ Hán trong các văn bản chính thức.
Khoảng thế kỷ thứ 10, người Việt đã "sáng chế" ra thứ chữ Việt bằng cách mượn chữ Hán mà viết, gọi là chữ Nôm (nghĩa là Nam, sau gọi là quốc âm). Song nếu chữ Hán khó một thì chữ Nôm khó mười. Bởi phải biết và giỏi chữ Hán mới có thể viết được, học được chữ Nôm.
Đối với người Việt học chữ Nôm đã khó, với người ngoại quốc xa lạ với chữ tượng hình thì chữ Nôm càng khó. Vẫn có thể học được, viết được nhưng không thể phổ biến rộng được. Chính vì vậy các giáo sĩ đã nghĩ đến việc Latin hóa tiếng Việt bằng mẫu tự Latin, mà ngày xưa gọi là "chữ Annam viết bằng mẫu tự Latin".
Có một số người được công nhận là "tác giả" chữ quốc ngữ là các giáo sĩ Francesco de Pina, Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa (đều là người Bồ Đào Nha), Cristoforo Borri (người Ý), Alexandre de Rhodes (người Pháp)...
Giáo sĩ Borri chỉ ở nước ta ba năm từ 1615 đến 1618. Còn ba giáo sĩ còn lại đều đến Đàng Trong năm 1624 và đều là học trò tiếng Việt của giáo sĩ Francesco de Pina.
Tuy nhiên, trong số này, chỉ có giáo sĩ Đắc Lộ cho in cuốn sách tiếng Việt đầu tiên là cuốn Từ điển Việt - Bồ - La nên được dân Việt cho là "ông tổ" của chữ quốc ngữ từ hơn trăm năm qua.
Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ - Kỳ 1: Khởi đầu của chữ quốc ngữ - Ảnh 4.
Văn bản chữ quốc ngữ năm 1659 của tu sĩ người Việt Bento Thiện của dòng tu Kẻ Giảng - Ảnh tư liệu
Tại sao là Việt - Bồ - La?
Từ giữa thế kỷ 19, sau khi chiếm Nam kỳ rồi cả nước Việt, người Pháp vừa muốn đẩy mạnh việc phổ biến chữ quốc ngữ vừa muốn tôn vinh văn hóa và nhân vật nước Pháp nên đã không ngần ngại tuyên truyền rằng: Chỉ có mỗi giáo sĩ Đắc Lộ là có công với chữ quốc ngữ với bằng chứng rõ ràng ông là người đầu tiên đứng tên trong cuốn sách chữ Việt - Từ điển Việt - Bồ - La.
Nhưng tại sao cuốn từ điển này hoàn toàn không đề cập gì đến tiếng Pháp trong khi Đắc Lộ là người Pháp?



Người có công đầu với chữ quốc ngữ:
Viết sách giáo khoa
16/09/2018 08:20 GMT+7
TTO - Chánh thức trở thành thầy giáo năm 1864, Trương Vĩnh Ký là người Việt đầu tiên viết sách giáo khoa.
Người có công đầu với chữ quốc ngữ:  Viết sách giáo khoa - Ảnh 1.
Bìa tiếng Pháp cuốn giáo khoa lịch sử Sơ học quy chánh in năm 1877 với trang nội dung về Hai Bà Trưng
Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của đất nước. Phải như thế vì lợi ích và sự tiến hóa
Cuốn Ngữ pháp Annam yếu lược của ông là sách dạy cách đọc và học tiếng Việt đầu tiên do người Việt viết, được Trường Thông ngôn (Collège des Interprètes) cho in bằng thạch bản năm 1864, một phần sách này được nhắc lại trong cuốn lịch sử Việt Nam đầu tiên.
Năm 1867, cuốn sách này được in lại bằng máy in typo. Cuốn Alphabet Annamite (vần quốc ngữ) không rõ năm in đầu tiên nhưng năm 1876 in lần 2 là một trong những cuốn sách quan trọng đầu tiên dành cho người học chữ quốc ngữ.
Sách giáo khoa lịch sử
Năm sau, 1868, ông viết cuốn Nam thoại cơ phạm (Cour pratique de langue Annamite) dành cho học trò mới vào trường học tiếng Việt. Cuốn này năm 1876 được tái bản và sau đó tái bản nhiều lần, đến năm 1895 in lần thứ 5. Năm 1875, ông xuất bản cuốn Bài giảng lịch sử An Nam (Cours d’historie Annamite) với lời nói đầu như sau:
"Cho học trò. Các trường đất Nam Kỳ.
Ớ các trò, ta xin kiếng sách nầy cho các trò, vì làm ra nó là làm cho các trò coi. Dùng tiếng Phalangsa là tiếng đã rộng mà lại hay, chép truyện đất nước ta ra cho anh em coi cho quen thuộc tiếng ấy, trông rằng, lấy cái tiếng anh em đang lo học mà thuật lại truyện anh em đã biết thì sẽ giúp cho anh em dễ thông ý chí lắt léo và hiểu rõ cốt cách tiếng ấy hơn.
Nói tắt một lời, ta muốn làm ích cho anh em, chớ chi ước vậy mà được như làm vậy...
Đến sau khi anh em đã học thành tài, biết bắt, biết hạch [thi] thì hãy dung thứ cho kẻ lớp trước anh em, vì những kẻ ấy thuở trước chẳng có được những phương tiện mà học hành như anh em bây giờ...
Tại Chợ Quán, ngày 25 tháng Hai năm 1875 P.J.B Trương Vĩnh Ký".
Cuốn Manuel Écoles Primaires còn có tên là Sơ học quy chánh do Nhà in Nhà nước xuất bản năm 1876 và tái bản rất nhiều lần ngay sau đó có thể coi là cuốn sách lịch sử Việt Nam đầu tiên tóm tắt bằng chữ quốc ngữ từ đời Hùng Vương đến đời Gia Long.
Phải đến năm 1906 mới có cuốn Đại Nam quốc lược sử của Alfred Schreiner và đến năm 1919, cuốn Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim mới ra đời.
Trong lời mở đầu bằng tiếng Pháp, ông Trương Vĩnh Ký viết: "Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của đất nước. Phải như thế vì lợi ích và sự tiến hóa. Vậy người ta nên tìm cách phổ biến thứ chữ nầy bằng mọi phương tiện".
Phần đầu sách có bảng mẫu tự, dấu, cách viết chữ, số; có bài tập đọc; có bài Khuyến học ca; cách dạy... Trong bài cách dạy, ông viết "Phân lớp ra mà dạy cho dễ: Như học trò đã biết viết, biết đọc thì bắt nó viết mò (chánh tả), bắt nó đọc một đoạn sách cho lẹ, cho xuôi. Viết mò thì lấy những tuồng, vãn, thơ, phú mà nói cho nó viết, viết rồi thì thầy coi mà sửa lại cho nó, cho chính câu chính chữ.
Còn mỗi bữa học, bắt nó kiếm câu hát, câu đối, lời phương ngôn tục ngữ, diêu ngôn... mà viết ra một đôi câu chẳng hạn, đem tới nộp cho thầy sửa, góp những cái ấy lại để một nơi...".
Chuyện Hai Bà Trưng
Những bài học trong sách thì ngắn gọn mà đầy đủ tình tiết, dễ đọc, dễ nhớ trước nay chưa thấy ai viết được như vậy. Về Hai Bà Trưng, ông viết:
"Bà Trưng Trắc đánh với Mã Viện.
Năm Canh Tí, sau Chúa giáng sanh 40 năm, là 7 năm sau Đức chúa Gi giu (Jésu) thăng thiên, tháng hai bà nữ vương Trưng Trắc là con gái ông quan Lạc tướng ở huyện Mê Linh, xứ Giao Chỉ, nguyên là vợ người Thi Sách ở huyện Châu Diên (đời nay là phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây), bị người Tô Định là quan Thái thú lấy phép riêng mà giết đi, nên giận lo trả thù cho chồng, bèn hiệp cùng với em gái là Trưng Nhị cùng kẻ tâm phúc lập binh dậy giặc kéo tới hãm thành.
Người Tô Định chạy riết về Nam Hải về Tàu đi. Khi ấy Cửu Chơn, Nhựt Nam, Hiệp Phố đều ứng theo, phía Lãnh Nam 65 thành cũng đều phục hết, thì bà Trưng Trắc xưng vương đóng đô tại Mê Linh.
Qua tháng chạp năm sau bên Đông Hán (Kiến Võ 17) sai ông tướng Mã Viện kéo binh bộ thủy qua đánh. Qua đến tháng 3 năm sau nữa (Nhâm Dần 42 SGS) quân ông Mã Viện tới Lang Bạc (bây giờ là Tây Hồ tại Hà Nội), bà Trưng Trắc thấy binh nghịch mạnh lắm, liền lui về giữ Cẩm Khê (ở tại địa hạt Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây). Sau ra cự chiến thua đi chết cả hai chị em. Dân có lập miễu tại tỉnh để thờ hai chị em, là nữ anh hùng.
Ông Mã Viện lấy lại được nước Annam thì lập một cái đồng trụ tại đất Khâm Châu nơi Cô Lâu Động; mà có khắc lời thệ rằng "đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" nên kẻ qua người lại sợ nó ngã, lấy đá, lấy gạch, miểng sành mà ném vào dưới chơn nó cho vững, hóa ra lâu đời biệt tích mất đi, bây giờ không biết chắc chỗ nào mà nhìn".
Có thể một số chi tiết chưa phù hợp với quan điểm lịch sử hiện tại nhưng một bài sử như thế nầy thì dễ học, dễ nhớ và không làm cho học sinh sợ môn sử! Đây cũng là phương pháp chung trong việc viết sách giáo khoa thuở ấy, lấy ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ làm đầu.
Kẻ sĩ
Để học sinh có sách tham khảo, sách học, Trương Vĩnh Ký viết hàng loạt sách nhằm mục đích giúp cho người học chữ quốc ngữ có điều kiện tốt hơn để tiếp cận thứ chữ mới này, đồng thời đẩy nhanh quá trình phổ biến chữ quốc ngữ.
Dành một đời cho chữ quốc ngữ nhưng ông luôn đứng giữa hai lằn đạn, bên khen bên chê. Cả đời, dù cộng tác với người Pháp nhưng ông không chịu vào Pháp tịch, luôn ăn mặc theo kiểu người Nam.
Khi Đốc phủ Trần Tử Ca gửi thơ hỏi tại sao ông không vào Pháp tịch, ông đã trả lời: "Tại sao tôi không vô dân tây... Tôi lấy sự ấy làm trái tự nhiên không ăn thua vào đâu cũng như chuyện đời xưa bên Tây nói (về) con kên kên lượm lông công giắt vào mình rồi nhảy vào bầy công...
Thật như vậy, không lý trời sanh tôi ra là con quạ bây giờ biểu tôi thì một hai nói tôi là con cò làm sao đặng?".
Đó chính là cách nghĩ của một kẻ sĩ!
May mắn
Điều may mắn là Trương Vĩnh Ký có một học trò giỏi nối gót tiếp tục con đường phổ biến chữ quốc ngữ. Đó là ông Trương Minh Ký, người viết nhiều sách giáo khoa, dịch thuật các tác phẩm phương Tây và sáng tác bằng chữ quốc ngữ.
Và cũng nhờ những người tiền phong như hai ông Ký này, dám vượt qua những rào cản để đưa chữ quốc ngữ đến mọi người, để hôm nay thứ chữ này trở thành tài sản vô giá của chúng ta, của người Việt.
Người có công đầu với chữ quốc ngữ:  Viết sách giáo khoa - Ảnh 4.
Cuốn Văn phạm tiếng Việt của Trương Vĩnh Ký in năm 1883






Chữ quốc ngữ:
Trăm năm nhớ các tiên hiền
30/11/2019 17:01 GMT+7
TTO - Một tọa đàm về chữ quốc ngữ do Đại học Văn Lang tổ chức sáng 30-11 nhằm kỷ niệm 100 năm chữ quốc ngữ được các chuyên gia đóng góp ý kiến, gợi lại hình ảnh đáng kính của những bậc tiên hiền...
Chữ quốc ngữ: Trăm năm nhớ các tiên hiền - Ảnh 1.
Nhiều bạn trẻ đến dự tọa đàm thích thú với các nội dung tham luận - Ảnh: L.ĐIỀN
Đây là ý tưởng của Câu lạc bộ Văn học - báo chí Văn Lang, nhân dịp vừa tròn 100 năm ngày vua Khải Định ra chiếu dụ ghi nhận khoa thi chữ Hán năm 1919 là khoa thi cuối cùng. Đó cũng chính là bước ngoặt để chữ quốc ngữ có cơ hội phát triển thành ngôn ngữ chính thức của quốc gia như đã thấy.
Buổi đầu gian khó
Tại sao lại có chữ quốc ngữ? Theo ghi nhận của TS Phạm Thị Kiều Ly - người có một tham luận về quá trình hình thành chữ quốc ngữ từ năm 1615 đến 1919, công đầu của việc ghi âm tiếng Việt bằng chữ Latin thuộc về các giáo sĩ thừa sai Dòng Tên - những người đã đến cửa Hàn của xứ Đàng Trong vào ngày 18-1-1615.
"Các giáo sĩ Dòng Tên đều dùng chữ Latin để ghi âm tiếng nói dân bản địa khi đi truyền giáo", TS Kiều Ly nhấn mạnh sở trường này của các giáo sĩ.
Trong ghi nhận của các nhà truyền giáo đến nay còn tìm thấy được, theo như Alexandre De Rhodes thì "tôi phải thú nhận rằng khi vừa tới Đàng Trong và nghe người dân xứ này, đặc biệt là các phụ nữ, nói chuyện thì tôi cảm giác như mình nghe tiếng chim gù và tôi gần như mất hi vọng có thể học được thứ tiếng này". 
Còn Francisco De Pina nhận xét "ngôn ngữ này có thanh điệu như một bản xướng âm, cần phải xướng âm trước đã". 
Chữ quốc ngữ: Trăm năm nhớ các tiên hiền - Ảnh 2.
TS Kiều Ly (bìa phải) trình bày tham luận cùng các diễn giả GS.TS Nguyễn Văn Hiệp (bìa trái) và PGS.TS Hoàng Dũng - Ảnh: L.ĐIỀN
Dù vậy, các nhà truyền giáo đã nỗ lực không ngừng để học tiếng Việt nhằm giao tiếp với dân bản địa, mà việc dùng chữ Latin ghi lại tiếng nói của người Việt chỉ là một công đoạn trong đó.
Theo tìm hiểu của TS Kiều Ly, quá trình ghi âm tiếng Việt từ buổi đầu có công của rất nhiều giáo sĩ tham gia. Chẳng hạn sự ra đời các ký tự â, ơ, ê, ư để ghi âm tiếng Việt là cả một quá trình mày mò, "nghe bạc cả tai" chứ không đơn giản.
Nhớ công các tiên hiền
PGS.TS Hoàng Dũng đóng góp với tọa đàm một tham luận thú vị, đó là trình bày Những giá trị ngôn ngữ và văn hóa của hai cuốn sách Dòng Tên: Từ điển Việt Bồ La (của Alexandre De Rhodes) và Sách sổ sang chép các việc (của Philiphê Bỉnh). 
Đặc biệt là phần khảo cứu về Từ điển Việt Bồ La, PGS Hoàng Dũng đã ghi nhận pho từ điển này chứa đựng nhiều giá trị văn hóa độc đáo: thể hiện cái nhìn của người châu Âu đối với văn hóa Việt Nam về sản vật, về phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian... Một số đến nay trở thành tư liệu cho giới nghiên cứu người Việt vì đây là những ghi nhận sớm còn lưu lại. 
Đến với tọa đàm, PGS.TS Võ Văn Nhơn (Đại học KHXH&NV TP.HCM) điểm lại một phần sự nghiệp của học giả, nhà văn hóa Trương Vĩnh Ký dưới góc nhìn đóng góp cho sự phát triển của tiếng Việt. 
Theo PGS Võ Văn Nhơn, những công trình như phiên âm Truyện Kiều, Lục Vân Tiên ra quốc ngữ, soạn sách giáo khoa dạy quốc ngữ, chép truyện dân gian Việt Nam, sáng tác, ghi chép bút ký bằng quốc ngữ để phổ biến... cho thấy nỗ lực rất lớn trong việc sử dụng và phổ biến chữ quốc ngữ trên nhiều phương diện cả hàn lâm bác học và văn hóa dân gian. 
PGS Võ Văn Nhơn cho rằng "nhờ Trương Vĩnh Ký mà chữ quốc ngữ từ chỗ chỉ là phương tiện phục vụ tôn giáo đã trở thành chữ viết chính thức của quốc gia, nhờ đó mà hình thành một nền quốc văn mới, một nền văn xuôi mới chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Thành ra tôi nghĩ ông Thiếu Sơn có lẽ không nói quá khi gọi Trương Vĩnh Ký là bậc tiên hiền của văn chương quốc ngữ Nam Bộ".
Chữ quốc ngữ: Trăm năm nhớ các tiên hiền - Ảnh 3.
PGS.TS Võ Văn Nhơn
Ghi nhận công lao của các bậc tiên hiền trong quá trình làm ra và hoàn thiện chữ quốc ngữ như đã thấy chính là nối tiếp phần công việc của tiền nhân, là nhiệm vụ văn hóa quan trọng. 
Nói như lời kết của GS.TS Nguyễn Văn Hiệp, chữ quốc ngữ đến nay là một di sản quý giá cần phải bảo tồn và phát huy.
Bí mật của Alexandre De Rhodes
Về Từ điển Việt Bồ La của Alexandre De Rhodes, PGS Hoàng Dũng nhận ra rằng công trình là một "nỗ lực vượt qua khó khăn để tìm hiểu văn hóa Việt Nam". Chẳng hạn từ điển này tổng cộng có đến hơn 20 từ ngữ tục, "nhiều hơn bất kỳ một cuốn từ điển tiếng Việt hiện đại nào".
Nhưng tầm vóc của Alexandre De Rhodes không chỉ ở chỗ đó. Vấn đề là làm thế nào để người bản xứ không ngại ngần nói những từ tục cho một nhà truyền giáo nghe và ghi lại?
PGS Hoàng Dũng cho biết ông từng trao đổi với các linh mục quen thân và được biết rằng các giáo dân không bao giờ dám nói tục hoặc chửi thề trước mặt các cha xứ. Cho nên ghi nhận được các từ tục này quả là một "bí mật truyền giáo" của Alexandre De Rhodes vậy.







Francesco De Pina –
người đầu tiên tạo chữ quốc ngữ
25/04/2019 13:24 GMT+7
TTO - Roland Jacques - linh mục, nhà ngôn ngữ học người Pháp - luôn tin rằng Francesco De Pina (người Bồ Đào Nha), chớ không phải Đắc Lộ, là tác giả chữ quốc ngữ.
Francesco De Pina - người đầu tiên tạo chữ quốc ngữ - Ảnh 1.
Pina đánh dấu thanh tiếng Việt bằng khuôn nhạc
Để chứng minh "lòng tin" của mình, R. Jacques đã bỏ ra hơn mười năm lục tung các thư tịch của Dòng Tên ở châu Âu tìm bằng chứng.
Và cuối cùng, tại Thư viện Hoàng gia Lisbon của Bồ Đào Nha, ông đã tìm được hai tác phẩm của Pina chưa hề được công bố.
Đó là bức thơ viết dở dài 7 trang Pina viết năm 1623 (một năm trước khi Đắc Lộ đến Đàng Trong và học tiếng Việt năm 1624) gửi cho bề trên Jerómino Rodiguez ở Macau, và một tiểu luận dài 22 trang tựa đề Nhập môn tiếng Đàng Ngoài.
Linh mục De Pina đến Đàng Trong năm 1617. Đó là giáo sĩ đầu tiên đã miệt mài nghiên cứu tiếng nói.
Giáo sĩ Gaspar Luis
Francesco De Pina sanh tại thành Guarda, Bồ Đào Nha khoảng năm 1585, gia nhập Dòng Tên vào năm 19 tuổi, sau đó đến xứ Goa (Ấn Độ) sống ít lâu trước khi sang Trung Quốc truyền đạo. Năm 1611, ông theo học tại Học viện Macau (Collège de Macau) về khoa học xã hội, thần học và tiếng Nhật.
Năm 1617, ông thụ phong linh mục và được cử đến Đàng Trong làm việc tại trú sở Hội An. Qua năm 1618, Pina đến cư trú tại Nước Mặn với Buzomi và Borri, người Ý.
Năm 1619, ông đến Thanh Chiêm mua đất dựng nhà thờ và năm 1623 thành lập trú sở Thanh Chiêm. Pina chết đuối trên bờ biển Quảng Nam ngày 15-12-1625.
Dịp đó, tàu Bồ Đào Nha từ Campuchia về Macau, bỏ neo ở hải phận Quảng Nam, gần Cù Lao Chàm, Pina cùng một người Việt Nam chèo thuyền ra tàu để lấy các đồ phụng sự.
Khi trở vào bờ, bất ngờ gió bão nổi lên, thuyền lật, Pina vì vướng áo chùng không bơi được nên chết đuối, còn người kia bơi vào bờ thoát nạn. Theo linh mục Đỗ Quang Chính, xác ông được đưa về Hội An làm lễ an táng rất trọng thể.
Gần đây, theo ông Đinh Trọng Tuyên - người dân Thanh Chiêm rất quan tâm đến chữ quốc ngữ, Pina được chôn cất sau nhà thờ Phước Kiều, nay là nhà thờ Thánh Andre, nhà thờ chính ông mua đất và xây dựng đầu tiên năm 1619, thuộc thôn Thanh Chiêm 1, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Việc Latin hóa thổ âm, đặc biệt là những tiếng của những quốc gia dùng chữ tượng hình, đã được các giáo sĩ thực hiện từ thế kỷ 15-16. Các công trình Latin hóa này được thực hiện với mục đích duy nhứt là làm cho các con chiên có thể đọc được kinh sách đạo Thiên Chúa, để đạo giáo này phổ biến mạnh hơn.
Đối với tiếng Việt, Pina cũng thực hiện Latin hóa với mục đích trên.
Vừa đến Hội An, Pina lao vào học tiếng Việt và chỉ trong thời gian rất ngắn, ông đã có thể đàm thoại với người bản xứ mà không cần qua phiên dịch. Giáo sĩ Gaspar Luis, người đến Đàng Trong năm 1624 cùng với Đắc Lộ, đã ghi lại như sau: "Linh mục De Pina đến Đàng Trong năm 1617. Đó là giáo sĩ đầu tiên đã miệt mài nghiên cứu tiếng nói".
Khi Đắc Lộ đến Thanh Chiêm vào năm 1624 thì đã thấy Pina giảng Kinh thánh mà không cần phiên dịch. Và Pina cũng là giáo sĩ duy nhứt giảng Kinh thánh bằng tiếng Việt ở Thanh Chiêm.
Nghiên cứu và sáng tạo
Không chỉ vậy, để có thể nghiên cứu tiếng Việt chuẩn hơn, ông đã xin về Thanh Chiêm từ năm 1619, trước khi trú sở này được thành lập vào năm 1623.
Trong tài liệu mà Roland Jacques tìm được, ông viết: "Đối với việc nghiên cứu tiếng nói, Kẻ Chàm vẫn là nơi tốt nhất với tư cách là trung tâm triều đình (thời điểm này Thanh Chiêm, tức Kẻ Chàm, là nơi đóng dinh Trấn Quảng Nam).
Hội An xưa là thủ đô kinh tế của Đàng Trong và là khu phố chợ quan trọng, một trung tâm thương mại lớn của cả vùng miền Trung. Do là khu thương mại, mua bán nên dân cư cũng hỗn tạp, ngôn ngữ cũng lai tạp.
Trong khi đó, Thanh Chiêm là "thủ đô" chính trị của Đàng Trong thời kỳ này, tiếng nói ổn định hơn và có nhiều trí thức hiểu biết về chữ nghĩa hơn. Vì vậy, việc lựa chọn của Pina rõ ràng là nhắm vào việc nghiên cứu tiếng Việt chuẩn xác hơn. Tại nơi này, ông cũng thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với quan trấn thủ dinh trấn.
Francesco De Pina - người đầu tiên tạo chữ quốc ngữ - Ảnh 3.
Một bản di cảo của giáo sĩ Pina
Đối với việc nghiên cứu tiếng Việt, Pina bắt đầu bằng suy nghĩ mà đã có nhiều người phương Tây nói đến là tiếng Việt tuy khó nhưng lại "du dương hòa điệu", "giống như bản nhạc liên hồi". Khi nghe người Việt nói, C. Borri cho rằng: "Người nào có tài về âm nhạc, biết phân biệt âm thanh thì tiếng Việt là tiếng dễ dàng đối với họ" (Lịch sử chữ quốc ngữ, Đỗ Quang Chính, NXB Tôn Giáo 2012, trang 15).
Việc Latin hóa tiếng Việt là công việc được tiến hành lâu dài và tiệm tiến. Ban đầu, các giáo sĩ chỉ có thể ghi lại âm tiếng Việt bằng những từ ngữ mà "chỉ có họ mới hiểu được" như Cecham (Kẻ Chàm, một cách gọi xưa của Thanh Chiêm), Quamguya (Quảng Nghĩa), Quinin (Qui Nhơn), nayre (nài, nài voi), Onsaij (ông sãi)... rồi tiến đến Ke Cham (Kẻ Chàm), Qui nin (Qui Nhơn), ten si (tiến sĩ), dau nhu (đạo Nho), ba hon (ba hồn) bai via (bảy vía)... sau hết mới có dấu như ngày nay.
Do đó, khi bắt đầu nghiên cứu sáng tạo chữ quốc ngữ, Pina ghi lại tiếng nói của người Việt bằng "những khung nhạc". Và trong tài liệu mới đây được triển lãm trong hội thảo chữ quốc ngữ vào tháng 7-2018 tại Lisbon, Bồ Đào Nha, người ta đã thấy những khung nhạc để thể hiện dấu âm của tiếng Việt.
Chính những người Bồ và người Ý mới có thể tạo ra những dấu (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng) của chữ quốc ngữ. Nếu chữ Ba là nốt La (A) thì Bá là nốt La thăng (A#), Bả là nốt Mi (E), Bà là nốt Rê (D)... trong âm nhạc. Đây cũng là một nguyên tắc đánh dấu âm của tiếng Việt mà người Pháp như Đắc Lộ, vốn chữ không có dấu, không thể làm được.
Cũng trong tài liệu trên, Pina ghi chép khá nhiều chữ, từ những chữ bình thường dễ nghe dễ đọc đến những chữ khó nghe, khó viết như "chớ đi", "đừng làm", "khoãn đã nào" [khoan đã nào], "có đi thì đến", "bán bạo nheo" [bán bao nhiêu], "bao mlớn" [bao lớn]... và tất cả những chữ này đều rất gần với chữ Việt hiện nay.
Linh mục Pina được người Việt giúp sức
Có một điều chắc chắn rằng việc sáng tạo chữ quốc ngữ của Pina được sự giúp sức của các giáo sĩ đồng lứa và khá nhiều thanh niên Việt theo đạo. Chính người Việt đã giúp ông có được những dấu âm tuyệt vời cho chúng ta ngày nay.
Trong báo cáo gửi cho cha bề trên năm 1623, Pina viết: "Về phần con, con đã soạn song một tiểu luận về chính tả và các thanh điệu của ngôn ngữ nầy... Con phiên âm theo chữ Bồ Đào Nha sao cho người của chúng ta có thể đọc và học các từ đó".
Những ghi chép này là những bằng chứng vững chắc chứng minh việc Pina đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ từ trước khi Đắc Lộ đến Thanh Chiêm.




Trương Minh Ký –
Nhà văn viết chữ quốc ngữ đầu tiên
29/04/2019 14:39 GMT+7
TTO - Trương Minh Ký (1855-1900), bút danh Mai Nham, hiệu là Thế Tải, là người học trò nổi bật của Trương Vĩnh Ký.
Trương Minh Ký - Nhà văn viết chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 1.
Báo Nam Kỳ do Trương Minh Ký làm chủ bút
Trương Minh Ký luôn bị cái bóng của thầy che mờ nên đời sau rất ít người biết về ông một cách đầy đủ.
Một người thông tuệ
Ông sinh năm 1855 tại Hanh Thông Xã (Gò Vấp) trong một gia đình buôn bán. Bảy tuổi, năm 1862, cũng là năm Nam Kỳ mất vào tay quân Pháp, ông mất mẹ. Cũng vì vậy mà ông được cha chăm sóc tốt, cho ăn học đàng hoàng.
Ông bắt đầu học chữ nho với cha và bà nội và học chữ quốc ngữ với giáo sĩ Puginier Phước, người thành lập giáo xứ Hạnh Thông Tây cách nhà ông chừng hai cây số.
Là người cực kỳ thông tuệ nên Puginier Phước trước khi ra Bắc nhận nhiệm sở mới đã giới thiệu ông vào Trường Thông ngôn (Trường Khải Tường) ngay khi thành lập (tháng 5-1862). Và tại đó ông đã gặp thầy Trương Vĩnh Ký.
Năm 1872, ông ra trường và trở thành thầy giáo dạy chữ nho và chữ quốc ngữ ngay nơi mình đã học. Nối nghiệp thầy Trương Vĩnh Ký, ông trở thành một thầy giáo nổi tiếng và hai năm sau, năm 1874, ông được thăng hạng: "Trương Minh Ký, nguyên làm thầy giáo dạy giúp hạng ba lên hạng nhì, lương đồng niên ăn 1.400 quan tiền" (Gia Định Báo số 3 ngày 1-2-1874).
"Dạy giúp" là một thứ bậc trong nghề giáo thời ấy.
Hai truyện văn xuôi đầu tiên đăng ngày 1-12-1881 trên Gia Định Báo của Trương Minh Ký
Năm 1880, Thống đốc Nam Kỳ dân sự đầu tiên Le Myre de Vilers đã cử ông dẫn một đoàn học sinh gồm 11 em sang Alger du học bậc cao đẳng. Trong số 11 em này có một "em" sau này khá nổi tiếng trong giới thầy giáo lẫn báo chí là Diệp Văn Cương.
Diệp Văn Cương (1862-1929), đồng môn của Nguyễn Trọng Quản - tác giả cuốn truyện Thầy Lazaro Phiền in năm 1887, sau khi tốt nghiệp trở về làm giáo sư Trường Chasseloup Laubat (nay là Lê Quý Đôn) và từng là chánh tổng tài cuối cùng (1909-1910) của tờ Gia Định Báo.
Trong chuyến đi này ông Trương Minh Ký đã đi thăm Paris, khi trở về ông viết một du ký dài 2.000 câu bằng văn vần "Như Tây nhựt trình" (Nhựt ký đi Tây) in tại Sài Gòn năm 1889.
Sau chuyến đi, trở về ông được bầu làm ủy viên Hội đồng thành phố Sài Gòn và chuyển sang làm chủ bút tờ Gia Định Báo từ giữa năm 1881 đến năm 1896.
Từ năm 1897, ông làm chủ bút tờ báo tư nhân Nam Kỳ (còn gọi là Nam Kỳ nhựt trình) cho đến giữa năm 1900, báo đóng cửa. Tháng 8-1900, ông mất đột ngột ở tuổi 45. Trong năm 1889, ông được thống đốc Nam Kỳ cử làm phiên dịch cho phái đoàn Hoàng gia nhà Nguyễn do hoàng thân Miên Triện dẫn đầu đi dự hội chợ quốc tế tại Paris.
Trong chuyến đi, tại Paris, ông được hoàng thân Miên Triện ban cho cái tên "Thế Tải". Sau chuyến đi này về, ông xuất bản cuốn du ký Chư quấc thại hội dài 2.000 câu thơ song thất lục bát.
Nếu 16 năm làm chủ bút Gia Định Báo ông đã gieo mầm cho văn học Việt, thì chỉ ba năm sau cùng (1897-1900) làm chủ bút tờ Nam Kỳ, ông thể hiện rõ tài năng trong nghề báo.
Quá trình làm báo viết văn
Được đánh giá là người có kiến văn sâu rộng cả ba ngôn ngữ Việt, Pháp, Hán; ông làm thầy giáo dạy chữ quốc ngữ và chữ nho trong 8 năm.
Sau khi chuyển sang làm báo ông viết nhiều sách giáo khoa như Ấu học khải mông, Tập dạy học tiếng Phansa và tiếng Annam, Hiếu kinh diễn nghĩa, Pháp học tân lương, Quấc ngữ sơ giai, Tiểu học gia ngôn... và sáng tác, dịch thuật thơ truyện.
Cuốn sách 100 bài học tiếng Pháp (Pháp học tân lương) gồm bài giảng về từ ngữ, văn phạm tiếng Pháp và tiếng Việt mà ngày nay cũng có thể dùng được cho người muốn học tiếng Pháp.
Thời ông làm chủ bút tờ Gia Định Báo, tờ báo này chính thức trở thành công báo, hầu hết các trang báo đều đăng ròng các văn bản, nghị định... của chính quyền. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy rằng Gia Định Báo thời Trương Minh Ký có hai thay đổi căn bản và rất có lợi cho việc tìm hiểu xã hội cuối thế kỷ 19.
Đó là phần Công vụ báo có đăng nguyên văn biên bản các buổi họp của Hội đồng quản hạt Nam Kỳ (do vậy mà có khi báo tăng lên đến 20 trang). Đây là việc vô tiền khoáng hậu, bởi xưa nay các nhà chính trị không bao giờ muốn đưa những chuyện họ bàn bạc lên báo. Những phát biểu trong các buổi họp rất có thể ảnh hưởng đến hình ảnh của họ và đôi khi để lại những di chứng không lành!
Trương Minh Ký - Nhà văn viết chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 4.
Trương Minh Ký (người cầm gậy) chụp cùng phái đoàn Hoàng gia Huế dự Hội chợ quốc tế Paris 1889
Và ở phần Thứ vụ, Tạp vụ có dành một phần nhỏ cho những sáng tác văn học. Và đây là trang văn học đầu tiên trên báo chí quốc ngữ nước ta. Hai truyện ngắn văn xuôi Tên chăn bò và Thằng ăn trộm với con heo, viết lại theo nội dung thơ La Fontaine của Trương Minh Ký in trên số ra ngày 1-12-1881 là những truyện đầu tiên của nền văn học nước ta.
Với tiền lệ Truyện Kiều viết lại theo nội dung Kim Vân Kiều truyện bằng văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân, thì hai truyện văn xuôi của Trương Minh Ký phải được coi là truyện sáng tác đầu tiên. Hai truyện này sau đó, năm 1884, được in chung với 128 truyện khác trong tập Truyện Phansa diễn ra quốc ngữ của Trương Minh Ký.
Song ông cũng là một nhà báo tài năng. Nếu 16 năm làm chủ bút Gia Định Báo ông đã gieo mầm cho văn học Việt, thì chỉ ba năm sau cùng (1897-1900) làm chủ bút tờ Nam Kỳ, ông thể hiện rõ tài năng trong nghề báo.
Nam Kỳ là tờ báo tư nhân, do ông A. Schreiner, một doanh nhân, làm chủ. Tờ báo tuy chỉ sống có ba năm nhưng lại là một tờ báo "đúng nghĩa" so với các báo khác trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Mặt báo phong phú tin tức từ ngoài nước cho đến trong nước. Báo đã có mục giao lưu với bạn đọc xa gần và mức quảng cáo khá mạnh (8 trang trong số 16 trang). Đọc báo Nam Kỳ chúng ta có thể thấy được một phần nào đó xã hội thế kỷ 19, đặc biệt là xã hội Sài Gòn.
Báo này có rất nhiều sáng tác thơ văn và truyện dịch. Năm 1895, truyện Một ngàn lẻ một đêm được chuyển ra tiếng Pháp thì năm 1897 đã có bản dịch tiếng Việt trên Nam Kỳ. Để làm được tất cả những điều này, chủ bút Trương Minh Ký với bút danh Mai Nham đã phải mất rất nhiều công sức viết, dịch và lựa chọn các tin bài đưa lên mặt báo...
Vì sao?
Là nhà văn, nhà báo quốc ngữ lớp đầu tiên song Trương Minh Ký suốt 100 năm qua vẫn chưa được biết đến trọn vẹn. Với quá trình đóng góp cho chữ quốc ngữ và hoạt động báo chí văn chương, không hiểu vì sao ông bị xóa tên khỏi bản đồ đường phố Sài Gòn sau ngày 30-4-1975? Phải chăng vì ông là cháu họ của Trương Minh Giảng? Phải chăng vì ông luôn bị lầm lẫn với ông Trương Vĩnh Ký? Phải chăng vì ông cộng tác với Pháp?...





Trương Vĩnh Ký –
Thầy dạy chữ quốc ngữ đầu tiên
27/04/2019 21:39 GMT+7
TTO - Dù có rất nhiều ý kiến khác nhau về ông Trương Vĩnh Ký, song có lẽ không ai có thể phủ nhận rằng ông là người Việt đầu tiên "làm thầy giáo" chữ quốc ngữ.
Trương Vĩnh Ký - Thầy dạy chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 1.
Chân dung Trương Vĩnh Ký
Sách nầy để cho con trẻ mới vô trường, học những điều đại lược mà phá ngu. Hai nữa là để tập coi, tập đọc, tập viết tiếng An Nam trong chữ quốc ngữ cho trúng tiếng, cho nhằm giọng, phân biệt ra cho rõ ràng...
Lời nói đầu của TRƯƠNG VĨNH KÝ trong cuốn Vần quốc ngữ...
Chỉ riêng điều này, ông xứng đáng là "tiền hiền" trong số những người có công sáng tạo và phổ biến chữ quốc ngữ ở nước ta.
Pháp mở trường thông ngôn
Tháng 5-1862, sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, gồm Biên Hòa, Gia Định và Định Tường, phó đô đốc Charner đã ký lịnh thành lập Trường Thông ngôn (Collège des Interprèste) dạy hai thứ tiếng Pháp và quốc ngữ nhằm đào tạo thông ngôn cho quân đội viễn chinh.
Ngày xưa, trường được dân chúng và báo chí gọi là Trường Khải Tường, vì trường đặt trong khuôn viên chùa Khải Tường; và cơ sở đó nay là Trường Lê Quý Đôn.
Vì sao quân Pháp không sử dụng tiếng Pháp mà phải dùng cả chữ quốc ngữ ở Nam kỳ?
Thực tế, sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, quân Pháp phải dùng rất nhiều giáo sĩ Thiên Chúa để làm thông ngôn trong việc giao tiếp với dân chúng. Song không phải giáo sĩ nào cũng "hết mình" vì công việc. Một số thông ngôn đã lợi dụng công việc để truyền đạo.
Năm 1861, giáo sĩ Paulus Galy (tên Việt là Lý) được cử đến làm thông ngôn cho đồn Thuận Kiều đóng tại làng Thuận Kiều thuộc 18 thôn vườn trầu.
Đến năm 1863, không rõ công trạng làm thông ngôn của ông thế nào nhưng ông đã thành lập được giáo xứ Bà Điểm và lập nhà thờ sau chợ. Và cuối cùng vị giáo sĩ này trở thành chủ chăn ở giáo xứ Bà Điểm và rời bỏ công việc thông ngôn. Đó là một nguyên nhân.
Nguyên nhân thứ hai là giới giáo sĩ Thiên Chúa lúc bấy giờ muốn "tham chánh" để chia sẻ quyền lực với quân đội Pháp. Đây là yêu cầu khó chấp nhận đối với giới quân đội.
Cuối cùng, một giải pháp trung dung được cả hai phía chấp thuận là "sử dụng chữ viết của công giáo ở Nam kỳ". Đó là chữ Annam viết bằng mẫu tự Latin, tức chữ quốc ngữ, chữ Việt ngày nay.
Trong suốt mấy trăm năm hình thành, chữ quốc ngữ, do chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn, luôn bị coi là thứ chữ "của người ngoại quốc" và chỉ phổ biến trong các nhà thờ và các xứ đạo Thiên Chúa.
Việc chánh quyền Pháp ở Nam kỳ chấp nhận cho phổ biến rộng rãi thứ chữ này là một bước đi quan trọng đối với các giáo sĩ. Và chính vì vậy Trường Thông ngôn ra đời.

Trương Vĩnh Ký - Thầy dạy chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 3.
Lịch sử Việt Nam viết bằng tiếng Pháp in năm 1877 của Trương Vĩnh Ký
Vai trò của Trương Vĩnh Ký
Ngay khi Trường Thông ngôn thành lập, ông Trương Vĩnh Ký được mời làm giáo sư. Và ông trở thành người Việt đầu tiên làm thầy giáo dạy chữ Việt, một công việc không hề dễ dàng lúc bấy giờ. Và năm 1864, sau khi từ Pháp trở về, ông được bổ nhiệm làm giám đốc trường này.
Cái khó khăn đầu tiên là làm sao có được giáo trình một thứ chữ mới rợi đối với mọi người? Sau khi trở thành giám đốc, Trương Vĩnh Ký đã viết cuốn sách giáo khoa đầu tiên mang tên Ngữ pháp tiếng Annam (Abrégé de grammaire Annamite)  in năm 1867.
Sau đó là hàng loạt sách giáo khoa như Chuyện tiếng An Nam và tiếng Langsa, Sách tập nói chuyện tiếng An Nam và tiếng Langsa, Phép lịch sự An Nam, Văn phạm tiếng An Nam, Chữ quốc ngữ và lịch sử An Nam...
Riêng cuốn Văn phạm tiếng An Nam đã dày 304 trang in. Sách giáo khoa của ông rất chi tiết, từ cách đánh vần cho tới những từ ngữ, các danh từ, động từ, tính từ... đều phân biệt chi tiết. Ví dụ "con ốc" là loài ốc nói chung, khác với "con ốc vặn" mà ta gọi là ốc vít. Còn con cò thì khác với cò súng, con ngựa khác với ván ngựa (bộ ván), con ngựa của cây đờn...
Sách của ông cũng dạy đặt câu sao cho trúng cách và phân chia từ thấp đến cao một cách có hệ thống và khoa học. Đây lại là công việc của một người quả là rất đáng nể!
Không chỉ viết sách dạy chữ, ông còn viết cả lịch sử, chuyển âm truyện thơ Lục Vân Tiên, Kiều, Trương Lương... cho học trò có sách để đọc tham khảo.
Trong lời nói đầu cuốn Vần quốc ngữ và lịch sử An Nam, ông viết: "Sách nầy để cho con trẻ mới vô trường, học những điều đại lược mà phá ngu. Hai nữa là để tập coi, tập đọc, tập viết tiếng An Nam trong chữ quốc ngữ cho trúng tiếng, cho nhằm giọng, phân biệt ra cho rõ ràng...".
Ông đã làm thầy giáo trong suốt 22 năm kể từ năm 1864 cho đến năm 1886, thời điểm ông rời Sài Gòn ra Huế làm cố vấn cho vua Đồng Khánh theo đề nghị của toàn quyền Đông Dương Paul Bert.
Suốt thời gian này, ông có 9 năm trực tiếp ở các trường (từ 1864-1869 làm giám đốc Trường Thông ngôn, từ 1872-1876 làm giám đốc Trường Sư phạm) và đã viết khoảng 25 cuốn sách giáo khoa dành cho học trò học, trong số gần 200 tác phẩm của ông.
Đó là một số lượng rất lớn đối với một thầy giáo dạy chữ quốc ngữ trong điều kiện chưa có tiền lệ.
Thuở ấy, rất khó tìm được học sinh cho trường, do trong dân chúng truyền miệng nhau chữ quốc ngữ là thứ chữ của người ngoại quốc, học nó sẽ mất gốc hoặc bị Pháp bắt đi mất.
Ban đầu học sinh Trường Thông ngôn là lính Pháp, con em những người cộng tác với Pháp và con cháu của giới theo đạo Thiên Chúa. Về sau, để có học sinh, chánh quyền thực dân ra lịnh mỗi làng phải chọn một hay hai em trong lứa tuổi từ 10 đến 16 đi học.
Làng xã thường nhắm vào các gia đình có tiền của để bắt đi học, nên "kiếm người đi học mà như đi đánh giặc". Dù học nội trú, không tốn tiền, lại có tiêu vặt phí nhưng không mấy gia đình muốn con đi học. Sợ mất con, rất nhiều gia đình có tiền đã mướn người đi học thế.
Nghiệp làm thầy của ông Trương Vĩnh Ký để lại khá nhiều dấu ấn tốt đẹp. Một lớp khá đông học trò của ông, sau là những công chức mẫn cán của chế độ hoặc là những người có công lớn đối với nền văn học, văn hóa của nước nhà.
Nổi bật là các ông Trương Minh Ký (nhà báo, nhà văn, thầy giáo), Đặng Thúc Liêng (nhà báo, nhà văn), Nguyễn Khắc Huề (thầy giáo)...
Trương Vĩnh Ký - Thầy dạy chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 4.
Một trang sách giáo khoa của Trương Vĩnh Ký
Trường quốc ngữ đầu tiên ở Sài Gòn
Trước đó, trường dạy tiếng Annam viết bằng mẫu tự Latin đã được giáo sĩ Puginier Phước thành lập đầu năm 1860 mang tên d’Adran (nay là khuôn viên Trường Võ Trường Toản và Trưng Vương) khi giáo sĩ này phụ trách Tiểu Chủng viện Sài Gòn.
Và giáo sĩ Puginier Phước cũng là người thành lập giáo xứ Hạnh Thông Tây và dạy chữ quốc ngữ cho các giáo dân ở đây, trong số đó có Trần Tử Ca và Trương Minh Ký.



Hà Hương phong nguyệt là tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên?


Hà Hương
Bìa tác phẩm Hà Hương phong nguyệt vừa ra mắt - Ảnh: MAI THUY
Về tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của Việt Nam, có ý kiến cho rằng đó là Tố Tâm (1925) của Song An Hoàng Ngọc Phách; lại có sự chọn lựa khác, chẳng hạn Truyện Thầy Lazaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản; hoặc Kiếp phong trần (1882) của Trương Vĩnh Ký.
Vấn đề vẫn còn đang bỏ ngỏ. Và hiện nay, sự xuất hiện đầy đủ văn bản Hà Hương phong nguyệt (1914) là rất cần thiết, thêm một “ứng cử viên” sáng giá cho cuộc trao đổi, tranh luận của các nhà nghiên cứu.
Lâu nay giới nghiên cứu vẫn chưa đồng thuận về tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của Việt Nam. Nay, lại có hướng tiếp cận mới khi bộ tiểu thuyết Hà Hương phong nguyệt của nhà văn Lê Hoằng Mưu lần đầu tiên được công bố trọn vẹn sau 104 năm 'tuyệt tích giang hồ'.
Từ nhiều năm nay, nhà nghiên cứu Võ Văn Nhơn đã bỏ nhiều công sức tìm kiếm lại văn bản từ nhiều nguồn khác nhau để nay có thể công bố trọn vẹn tác phẩm Hà Hương phong nguyệt. Đây có lẽ là một trong những vấn đề đáng quan tâm nhất thuộc lĩnh vực văn bản học gần đây.
Sở dĩ sự việc này khiến giới học thuật quan tâm vì 3 lẽ:
1. Tác phẩm từng bị đánh giá viết về tình dục, dâm thư, đồi bại, làm phương hại cho đạo đức, thuần phong mỹ tục trái với quan niệm đương thời; và đã tạo ra cuộc bút chiến dữ dội trong thập niên 1920.
2. Do áp lực từ công luận, nhà cầm quyền thuộc địa phải ra lệnh tịch thu, tiêu hủy.
3. Và hơn cả thế, sự ra đời của Hà Hương phong nguyệt đã khiến nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là tiểu thuyết chữ quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam.
Với dung lượng đáng kể, với hệ thống nhân vật đa dạng, ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo, đặc biệt là nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật khá đặc sắc, tác phẩm này của Lê Hoằng Mưu xứng đáng là tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của Nam Bộ, của Việt Nam, như Bình Nguyên Lộc, Bằng Giang đã khẳng định.
Theo nhà nghiên cứu Võ Văn Nhơn
Ý kiến này thuyết phục không?
Thiết nghĩ, một khi đã gọi tiểu thuyết hiện đại, trước hết phải căn cứ vào cách hành văn, diễn đạt.
Xét về cách hành văn với phong cách biền ngẫu, câu chữ du dương, nhịp nhàng vần điệu xuyên suốt cả hàng trăm trang sách như: "Miễn là già cứu Nguyệt Ba khỏi nạn. Hữu này, xưa mụ tưởng Nguyệt Ba là đáng, nay mới tường thăm ván bán thuyền, còn Hà Hương là gái chính chuyên, mụ lại tưởng nó ôm duyên đi bán.
Con muốn vậy mẹ đâu dám cản", cá nhân người viết cho rằng gọi chính xác nhất Hà Hương phong nguyệt vẫn là truyện thơ, một sự nối dài của truyện thơ nôm khuyết danh Lâm tuyền kỳ ngộ, Phạm Công - Cúc Hoa, Chàng Chuối tân truyện, Thạch Sanh, Lưu nữ tướng...
Vậy đâu là những cột mốc đầu tiên của thể loại tiểu thuyết của Việt Nam, từ tác phẩm đến tác giả? Câu hỏi đặt ra không thừa, bởi lẽ nào một vấn đề thuộc về văn học sử vẫn còn cứ mãi "lửng lơ con cá vàng" mà mỗi người nói mỗi phách?
Dù thế nào chăng nữa, việc công bố tác phẩm này từ nhà nghiên cứu Võ Văn Nhơn rất đáng ghi nhận, biểu dương vì đã góp phần làm rõ hơn diện mạo, hành trình ban đầu hình thành thể loại tiểu thuyết hiện đại ở Nam Bộ và Việt Nam nói chung.
Riêng về vấn đề văn bản học, điều khiến bạn đọc hài lòng nhất còn là việc chú thích, giải thích rõ ràng các vốn từ cũ từng sử dụng hơn trăm năm trước ở Nam Bộ, cho thấy sự cẩn trọng của nhóm thực hiện trong quá trình ôn cố tri tân.
Cần xem lại định nghĩa về tiểu thuyết
Trao đổi trong buổi tọa đàm Hà Hương phong nguyệt sáng 16-6 tại Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia TP.HCM), nhà báo Trần Nhật Vy cho rằng cần phải xem lại định nghĩa về tiểu thuyết. Ông chia sẻ: "Nếu xem tiểu thuyết như định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, thì sẽ thấy đầy đủ các lý lẽ như tiến sĩ Võ Văn Nhơn nêu ra để chứng minh Hà Hương phong nguyệt là tiểu thuyết đầu tiên nếu nói về độ dài, cấu trúc. Tuy nhiên, nếu so sánh với các định nghĩa khác trong Việt Nam tân từ điển của Thanh Nghị hay Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của thì khái niệm tiểu thuyết ở đây khác hẳn".
Đáp lời ông Trần Nhật Vy, nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh chia sẻ không nhất thiết phải dựa vào các cuốn từ điển kể trên, bởi trước hết chất lượng của chúng cũng cần bàn luận lại. Thay vào đó, để chứng minh được Hà Hương phong nguyệt là tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên, chúng ta phải xem xét cốt truyện, diễn biến tâm lý, cấu trúc nhân vật… so với các tác phẩm đương thời.
LÊ MINH QUỐC - MAI THỤY

* Uống nước thì phải nhớ nguồn. Lẽ đời vốn xưa nay vẫn thế. Nhưng vẫn còn sót lại những thằng người vong bản "ăn cháo đái bát". Mấy hôm nay lại um sùm về chữ Quốc Ngữ. LTD tui sưu tập dược một ít bài viết, gom lại để các bạn xem chơi. Khi các bạn truy cập vào hai line bên dưới các bạn có thể tìm đọc được tất cả các bài viết cùng hình ảnh kèm theo
LTD
https://tuoitre.vn/francesco-de-pina-nguoi-dau-tien-tao-chu-quoc-ngu-20190424202638287