Người theo dõi

Thứ Hai, 26 tháng 11, 2018

BÁCH VIỆT SỬ: NHỮNG LỚP BỤI MỜ CỦA LỊCH SỬ (1)


BÁCH VIỆT SỬ: NHỮNG LỚP BỤI MỜ CỦA LỊCH SỬ (1) 
Đỗ Thành

LGT. Trân trọng giới thiệu với quí vị và các bạn, anh Đỗ Thành là người Triều Châu ở Việt Nam, hiện định cư tại Hoa Kỳ mà tôi vừa quen biết qua “mối tình văn hoá”. Anh có hiểu biết sâu sắc về quan hệ Việt Hoa tuy anh không viết tốt lắm tiếng Việt. Tôi đã khuyến khích anh cứ viết ra rồi tôi sẽ sửa lại để người đọc hiểu được anh muốn nói gì. Tuy không có thời gian để sửa chữa cho hoàn bị bài viết của anh, tôi chỉ sửa được phần lớn những lỗi chính tả thông thường còn cấu trúc câu văn và ý của tác giả được giữ nguyên vẹn. Kính mong quí vị dành cho Đỗ Thành một tình cảm trân trọng để khuyến khích anh góp phần vào việc làm sáng tỏ nguồn gốc dân tộc Việt.

( Một bài viết rất thú vị, như lời người post bài bên trên đã nói “Tuy không có thời gian để sửa chữa cho hoàn bị bài viết của anh, tôi chỉ sửa được phần lớn những lỗi chính tả thông thường còn cấu trúc câu văn và ý của tác giả được giữ nguyên vẹn.” Tôi cồ gắng chỉnh sửa lại một số lỗi chính tả, chủ yếu là hỏi, ngã và một ít cấu trúc văn phạm. Rất có thể, tôi sửa không hết, nếu các bạn nhận ra thì xin thông cảm, các bạn có thể truy cập tại đường line ở cuối cùng bài viết. Xin Chân Thành Cám Ơn Tác giả: anh Đỗ Thành) Lê Thường Dân

Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2018

Chương 4. Múa Gây Vườn Hoang


Chương 4; Múa Gây Vườn Hoang

VÀI SUY NGHĨ VỀ VĂN HÓA ÂU LẠC, CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG VĂN HÓA NÔ DỊCH VÀ
CUỘC HÀNH HƯƠNG BI PHẨN CỦA THẨM THUYÊN KỲ.


Sau năm 43 Mã Viện phá hủy toàn bộ định chế xã hội cũng như triệt tiêu toàn bộ những biểu tượng văn hóa của Âu Lạc, thiết lập một hệ thống hành chánh hoàn toàn mới và cây trụ đồng ngạo nghễ với hàng chữ “Đồng trụ chiết. Giao chỉ diệt”. Một biểu tượng của sự hãnh tiến của bạo lực và xâm lược. Rất nhiều sử gia sau này diễn dịch cái biểu tượng này như là một lời đe dọa để làm cho nhân dân Âu Lạc lo sợ và không dám nổi loạn nữa. Lo sợ thì có lo sợ, nhưng nổi lọan thì vẫn cứ nổi loạn. Và song song theo đó vẫn còn một nguồn lực khác đang lưu chảy trong lòng nhân dân Âu Lạc với một sức mạnh vô biên, nó âm thầm đối kháng lại với sự hà khắc nghiệt ngã và lòng tham vô độ của các quan lại Tàu. Song song theo đó thì có những tên quan Tàu có chính sự đàng hoàng, nhưng ẩn giấu phía sau cái chính sự đàng hoàng ấy là một âm mưu vô cùng hiểm độc như Tích Quang, Nhâm Diên trước đó và tiếp theo sau là Hạ Phương, Nhiếp, Triệu Xương, Đào Hoàng, Cao Biền… Chúng tạo ra sự yên bình trong cuộc sống của người dân và từng bước  thu phục nhân tâm bằng những quyền lợi vật chất, bằng thứ “liêm sĩ, lễ nghĩa củ từ”, trước tiên là chúng đặt các địa danh bằng tiếng Hán, với mục đích rất rõ ràng là tiêu diệt chữ viết, tiếng nói, rồi chia tách sát nhập liên miên nhằm hủy hoại sự liên kết của cộng đồng Âu Lạc, chúng nhân danh “khai hóa” để mở trường học dạy chữ Hán và lễ nghĩa, thay đổi phong tục tập quán của nhân dân Âu Lạc. Điển hình cho loại quan lại chính sự đàng hoàng này là Sĩ Nhiếp với cái học hàm Nam Giao học tổ đến buồn cười (khổ thay gần hai thiên niên kỷ rồi mà vẫn còn những thằng người chưa sáng mắt)

Thứ Ba, 20 tháng 11, 2018

Chương 3. Múa Gây Vườn Hoang



Chương 3. Múa Gây Vườn Hoang


THỜI KỲ CHỐNG VĂN HÓA NÔ DỊCH  VÀ KHẲNG ĐỊNH MỘT QUỐC GIA (111tcn-880scn)

Tôi không chấp nhận cái nhóm từ “ thời kỳ bắc thuộc” mà trong các cuốn sử đã ghi và cho đến hôm nay còn có rất nhiều người sử dụng.
Thử nhìn lại lịch sử và nghiêm túc soát xét một cách thật khách quan về các vấn đề sau để tìm xem Văn Hóa Việt Nam được xây dựng và phát triển ra sao.

1.049 NĂM GIỮ GÌN ĐẤT NƯỚC VÀ VĂN HÓA DÂN TỘC.

1. Cuộc chiến giữ nước không giống ai
Sự thôn tính của Hán tộc vô cùng bạo liệt. Gần một trăm tộc Việt lần lượt bị đồng hóa bởi tư tưởng, văn hóa và các lĩnh vực khác, một số khác thì tuôn ra biển đông tìm về phương nam ở Bắc Bộ ngày nay và tạo nên Lạc Việt, một số khác dạt về Tây nhập vào Âu Việt vùng Quảng Tây và tây bắc Bắc bộ ngày nay tạo nên sự gắn kết lần nữa của Núi Non và Sông Nước để sau này các nhà viết sử gọi là Âu Lạc của An Dương Vương, mà ông An Dương Vương vẫn còn đó những mơ hồ, nhưng Âu Lạc (núi, sông) thì đã rõ và còn mãi đến hôm nay.
Năm 230tcn nhà Tần thống nhất Trung Quốc, tiến hành một cuộc cải cách sâu rộng. Tư tưởng Nho Giáo hình thành và trở thành tư tưởng chủ đạo trong đời sống xã hội Trung Quốc từ trước đó hơn ba trăm năm gần như bị xóa sổ.
Nhưng không vì thế mà mà Tần Thủy Hoàng không nhìn về phương Nam. Đồ Thư mang quân nam tiến, lao vào một cuộc chiến tranh không đối thủ.

Thứ Tư, 14 tháng 11, 2018

HOA LAN



Rất thú vị. 12 khỗ thơ viết về Hoa Lan. Người xưa không chơi hoa mà thưởng thức hoa. Hoa nở tự nhiên trong vườn, có chăm sóc nhưng không gò ép. Tôn trọng một cách tuyệt đối dáng vẻ tự nhiên và những câu thơ cũng thế. Hoa nụ, hoa nở, hoa tàn. Người xưa cảm thụ một cách sâu sắc. không đắm đuối với sắc hương,  không hời hợt với úa tàn Mỗi trình tự chuyển hóa đều có một nét đẹp riêng của nó.

Tạ Thiên Huân
Tạ Thiên Huân 謝天燻 hiệu Thoái Viên 退園, chưa rõ sinh và mất năm nào, quê quán ở đâu. Từng làm quan vào đời Trần, đến chức Tả tham tri chính sự. 



蘭其一
為愛幽叢僕屢更,
孤吟不覺夜窗明。

偶然拾得花中趣,

習習香風筆底生。


Lan kỳ 01 
Vị ái u tùng bộc lũ canh,

Cô ngâm bất giác dạ song minh.

Ngẫu nhiên thập đắc hoa trung thú,

Tập tập hương phong bút để sinh.

Tạ Thiên Huân

Khoái nhánh lan rừng ghé lại thăm
Bóng trăng rót xuống giọng thơ ngâm
Chợt đâu trong lúc say sưa ấy
Dưới bút len vào ngọn gió thơm
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

Thứ Tư, 7 tháng 11, 2018

NGHĨ VỀ VIỆT NAM SỬ LƯỢC VÀ TRẦN TRỌNG KIM


NGHĨ VỀ VIỆT NAM SỬ LƯỢC VÀ TRẦN TRỌNG KIM
 MAI KHẮC ỨNG

Thứ bảy, 26 Tháng 12 2009 06:30
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/nghi-ve-viet-nam-su-luoc-va-tran-trong-kim
tăng kích thước chữ
Tôi ra đời 14 năm sau, ngày Trần Trọng Kim cho phát hành (1921) cuốn “Việt Nam Sử Lược”. Chính phủ Trần Trọng Kim xuất hiện trước Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà lâm thời 5 tháng. Suy nghĩ của tôi về cuốn “Việt Nam Sử Lược” và Chính phủ Trần Trọng Kim, xin được phép đặt trong hai thời đoạn cụ thể đó.
1;Tên tôi là Mai Khắc Ứng nên thời học tại khoa Sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, hễ kiểm tra miệng xếp theo thứ tự A,B,C thường là người được hỏi sau cùng. Một buổi chiều cuối năm 1962, sau hồi kẻng “thu không” khoảng mười lăm phút, tôi theo Thầy Trần Quốc Vượng ra khỏi lớp. Lúc đó, mấy lối đi về phía nhà ăn của Ký túc xá Láng học trò trường Trung học Trung Hoa và sinh viên Khoa Xã Hội trường Đại Học Tổng Hợp đã gõ đũa vào bát lanh canh.
Là một học sinh xuất thân từ trường Bổ túc Văn hoá Công Nông Nghệ An, vì trường ở Cổng Chốt cháy phải ra Đông Triều rồi vào Đại học, tôi có tuổi đời xấp xỉ tuổi Thầy, nên tình thầy trò cũng là tình anh em. Thân thiện và cởi mở đã tạo cho tôi nhiều cơ hội gần gủi các Thầy.
Đi dọc hành lang từ lớp ra đường trục, Thầy Vượng đảo mắt rất nhanh rồi khe khẻ nhắc tôi “Hãy tìm cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim mà đọc”. Lời căn dặn dè dặt chỉ đủ cho tôi nghe nhưng sao mà ấm áp vậy. “Việt Nam Sử Lược” như một dòng sữa ngọt rót vào tâm hồn tôi từ buổi chiều đáng nhớ đó.

Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2018

Chương 2. MÚA GÂY VƯỜN HOANG


Chương 2. MÚA GÂY VƯỜN HOANG


CA DAO VÀ THƠ

A. Những ngẫm nghĩ về ca dao
Mẹ ru cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn
Bà ru mẹ… Mẹ ru con
Liệu mai sau các con còn nhớ chăng?
Nguyễn Duy

Tiếng nói tuyệt diệu để thể hiện tư tưởng t do Âu Lạc là... Ca Dao hay chính xác là Thơ. 
Ký ức không cho tôi nhớ lại những lời mẹ tôi ru trong những ngày đầu đời, nhưng tôi có thể cảm nhận được sự ngọt ngào trong những lời ru ấy. Khi đã lớn khôn rồi gặp khó khăn trong cuộc sống tôi lại về với mẹ hoặc khi cảm sốt mà có mẹ gần bên, tôi có cảm giác như nghe lại được lời ru ấy. Trong cuộc sống, khi đi đó đi đây tôi nghe ai đó ru cháu, ru con, ru em, tôi cũng có cảm giác như mẹ ru mình. Tôi không nhớ hết được, thậm chí gần như không nhớ gì nội dung những lời ru ấy. Nhưng giọng ru của mẹ tôi thì không bao giờ tôi quên được. Tất nhiên là lời mẹ tôi ru những đứa em tôi. Bây giờ thì mẹ tôi đã mất rồi, nhưng giọng ru ấy thì vẫn còn đây, khi tôi nhớ mẹ và cả khi viết những giòng này.
Lớn lên một chút, tôi sống với ông nội. Những đêm trời trong gió mát hay những buổi trưa hanh nắng tôi lại nghe ông nội nói thơ, thỉnh thoảng ông lại hát hay hò thơ… Bạch Viên Tôn Các, Lục Vân Tiên, Thoại Khanh Châu Tuấn…v…v
Tôi đến trường năm tôi năm tuổi, không phải đến bằng con đường đàng hoàng như người ta. Tôi đến trường vì sự nghịch ngợm làm ông nội chịu hết xiết, nên ông đem tôi gởi cho ông thầy giáo quen, lúc thầy đang dạy một lớp học trong làng mà học trò đâu chừng hơn một chục và kẻ lớn, người nhỏ chẳng đều nhau. Và khi tôi yên vị ở dãy bàn cuối lớp mà chẳng có cuốn tập cây viết nào. Tôi được nghe thầy giảng hai câu:
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Dẫu rằng khác giống nhưng chung một giàn…
Thầy giảng, tôi dỏng tai nghe. Kết quả là tôi không hiểu gì ráo. Nhưng hai câu đó tôi nhớ như in.
Rồi khi lớn lên một chút, thay vì loăng quăng với những trò chơi con nít thì tôi lại bắt đầu bằng một thứ trò chơi không giống ai, đi theo một ông cụ hàng xóm chăm chút những dây bầu dây bí, những khóm bông mười giờ, bông móng tay… và… những bài học thuộc lòng với những câu thơ ngăn ngắn. Màu xanh cây lá, màu lục của các chồi non, những giòng thơ êm êm mở ra những khung trời mộng mơ bé xíu.
Thế rồi… con đường học hành của tôi là con đường… lu bu cùng với thơ. Tôi tập làm thơ. Tập gần hết cuộc đời mình, từ một tên lu bu, tôi trở thành kẻ lơ mơ và bây giờ ngồi viết những giòng cũng rất lơ mơ. Thực tình tôi viết những giòng này cũng không biết để làm chi. Thôi cứ gọi là một lời tâm sự gởi đến người thân và bạn bè. Con đường tôi đi nó chông chênh thế ấy, mơ màng thế ấy và vì thế luôn luôn đối diện với khó khăn, thiếu thốn. Tôi không thể nào làm gì được khi mà không có thơ người, không có thơ tôi. Tôi dốt toán, cộng trừ nhân chia lam nham thì được, tính lời, tính lỗ thì thua. Thôi thì nghe lời Cụ Tiên Điền vậy:
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao. (Kiều)
Hai số phận ấy; phong trần và thanh cao, tôi chẳng biết cái nào hay cái nào dở. Bởi vì phong trần thì tôi biết quá rành, nghĩa là cứ lu bu lang bang suốt thì không gió bụi là gì. Còn thanh cao thì chưa bao giờ nghe ai nói tôi là thanh cao, mà có nói thì tôi cũng chẳng biết thanh cao là cái quái gì. Thành ra vô phương so sánh. Hổng biết nên trách hay cám ơn ông trời đây ta.
Có nhiều lúc, tôi ngồi nhớ lại mọi chuyện đã xảy ra trong đời mình, từ những xúc cảm đến những hình ảnh đã từng lướt qua trước mắt, cả những việc làm đầy những trúng trật, đúng sai của mình. Có những thứ trở thành kỷ niệm, có những chuyện muốn quên đi và cả những điều tưởng chừng chìm đâu mất, bổng dưng hiển hiện trở về, lúc đó, những khái niệm đúng sai, trúng trật đều không còn nữa. Tất cả làm cho tâm hồn lắng xuống rồi gợi thành những ước vọng của ngày mai, ngày mốt hay xa hơn. Thậm chí, còn mường tượng ra cái ngày mình ngủm nó ra làm sao nữa. Không hiểu người khác có như thế không? Nhưng tôi thì là vậy. Cứ tưởng là khi tâm hồn lắng xuống là như giòng sông phẳng lặng. Nhưng không phải thế, vẫn còn đó những ngọn sóng, chẳng qua là nó êm đềm hơn hay là chìm xuống và chờ một cơn gió. Đúng là cái đầu lu bu.
Từ những lần như thế, càng lúc nó càng dẫn dắt những hiểu biết còm cõi của tôi lang thang vào một nơi mà tôi thích nhất. Những vần điệu êm đềm. Thơ.
Ai đó, thích một cái gì, dù tốt hay xấu cũng đem hết đời mình mà lăn vào. Thậm chí còn lăn qua lộn lại trăm bề. Và cái không khí họ thở luôn luôn đậm cái mùi mà họ thích; Không khí của nhà kinh doanh, nhà tài chính luôn luôn đậm đặc hơi tiền. Của nhà hóa học thì đầy mùi hóa chất. Của tay nghiện rượu thì nồng nặc hơi men. Của nhà khảo cổ thì chỉ là mùi ẩm mốc, rêu phong. Của nhà đạo đức hay những anh công an, cảnh sát thì ngửi ở đâu cũng có mùi tội lỗi… Tôi cũng không ngoại lệ. Nhưng không khí của tôi thì rất mơ hồ, chừng như có, chừng như không, như mơ mơ, như thật thật. Cái không khí ấy gần như trùm phủ lấy mọi người, dù người đó không thích thơ, chẳng biết trên đời này có thơ. Tôi không nói quá đâu? Một Chí Phèo, một Thị Nở và cả một ai đó mà bị cuộc sống xô vào nơi dung tục, nói năng bạt mạng, không một chữ lộn lưng. Nhưng khi mà họ thấy lòng mình rung cảm trước một điều gì đó. Xin thưa, đó là tô cháo hành, là rung cảm, là thơ. Nói một cách rõ ràng hơn, sự rung cảm của con người trước sự việc, sự vật và trước một người nào đó, có thể là cả những con vật, cội cây nào đó, đều rất đáng để nên… thơ. Có điều là họ không viết ra thôi, có thể vì họ không viết được hay không thích hoặc đang bận buông mình vào thứ khác, nhưng trong lòng họ đang thì thầm, miệng họ có khi còn lẩm bẩm. Chính cái đó làm cho con người sống, vì những thứ đó là thơ. Nói tóm lại “…thơ là vần điệu của ngôn ngữ, nhưng trước nhất phải là vần điệu của tấm lòng…” Có thể muôn loài cũng vậy. Chẳng qua là chúng ta không hiểu được đấy thôi.
Đường xanh chi bấy cỏ ven bờ.
Cho bước chân về chớm ngẩn ngơ.
Chó vện gọi bồ ủng ẳng,
Gà con lạc má lơ ngơ.
Dưới  sông con cá long rong ruổi,
Trong nắng chuồn chuồn lất phất phơ.
Ai đó kèm nhèm hai mắt ngó,
Nghe buồng phổi nhẹ một hơi thơ.
Tôi đã từng viết như vậy, xin đừng hiểu lầm là tôi biết rõ tâm tình của vạn vật. Chẳng qua là vạn vật tặng tôi thơ. Chỉ có vậy.
Nhưng biết đâu những tiếng thì thào của cành lá, rì rào của sóng nước, tiếng tí tách của mưa rơi, những long lanh của nắng ban mai, trầm tư của ráng chiều… cả tiếng lào xào của sỏi đá. Những âm thanh, dáng vẻ của tạo vật đang chuyển tải đến lòng ta những rung cảm của sự cộng sinh. Sẽ cảm nhận được mà, nhất là những con người có tấm lòng hiền như… thơ. Có ai mà không từng rung động trước âm thanh ấy, dáng vẻ ấy và cả những tiếng chim hót, vịt kêu, gà gáy, chó sủa, heo la, con trâu, con bò nghé ngọ… và cuối cùng là giọng nói nhỏ nhẻ của cô hàng xóm. Tất cả những thứ đó cho ta êm đềm, dù có lắm lúc chói tai. Nhưng đó là cảm xúc chủ quan của ta, mà chúng ta thấy khi thì rất thơ mà cũng có lúc lại không thơ. Nhưng khi đã khách quan hơn thì đó là vần điệu của tạo hóa, trong đó có vần điệu của loài người và có thể là vần điệu của muôn loài. Bây giờ khi chúng ta được cổ nhân truyền lại một sản phẩm vô giá đó là chữ viết. Chữ viết ghi lại những vần điệu của lòng ta và ta gọi những là thơ, là nhạc. Nhưng trước khi trở thành thơ thành nhạc thì đó là… Ca Dao.

Thứ Năm, 1 tháng 11, 2018

Chương 1. Múa gậy vườn hoang


Chương 1. Múa gậy vườn hoang





Một Thoáng Lơ Mơ Về Cổ  Sử
            A. Những giòng sử về thời kỳ dựng nước cùng với những tên người, địa danh khó chấp nhận.
            Theo sữ cũ. Tục truyền rằng vua Đế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc Hồ Nam Trung Quốc) gặp một nàng tiên, lấy nhau và sinh ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho Đế Nghi làm vua phương bắc và phong cho Lộc Tục làm vua phương nam, Xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Bờ cõi của Xích Quỷ bấy giờ, phía bắc giáp Động Đình Hồ, phía nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp Biển Đông.
Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm Tuất (279tcn?) và lấy con gái Động Đình Đình Quân là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi xưng là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ ra một bọc trăm trứng, nở được một trăm con trai. Lạc Long Quân bảo Âu Cơ: Ta giòng dõi Long Quân, nhà người giòng dõi thần tiên, ăn ở lâu không được; nay được nmột trăm đứa con thì nhà ngươi đem năm mươi đứa lên núi, còn năm mươi đứa thì ta mang về biển Đông.
Gốc tích này có lẽ từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỷ chia ra những nước nhỏ gọi là Bách Việt. Lạc Long Quân phong người con trưởng sang làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương.
Cứ theo sử cũ thì nước văn Lang chia ra 15 bộ:
1. Văn Lang (Bạch Hạc)
2. Châu Diên (Sơn Tây)
3. Phúc Lộc (Sơn Tây)
4. Tân Hưng (Hưng Hóa, Tuyên Quang)
5. Vũ Định (Thái Nguyên, Cao Bằng)
6. Vũ Ninh (Bắc Ninh)
7. Lục Hải (Lạng Sơn)
8. Ninh Hải (Quảng Yên)
9. Dương Tuyền (Hải Dương)
10. Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Đinh, Ninh Bình)
11. Cửu Chân (Thanh Hóa)
12. Hoài Hoan ( Nghệ An)
13. Cửu Đức (Hà Tĩnh)
14. Việt Thường (Quảng Bình, Quảng Trị)
15. Bình Văn (?)
(Thực ra, những tên gọi mang âm Hán Việt này xuất hiện khi Triệu Đà thành lập nhà nước Nam Việt nhưng không phổ biến lắm, rồi khi nhà Hán dứt nhà Triệu xâm lăng Nam Việt, Âu Lạc rơi vào thời bắc thuộc lần thứ 1, nhà Hán thiết lập một hệ thống hành chính mới với những cái tên như trên, nhưng khi nói thì nói bằng tiếng Tàu, mãi về lâu về dài khi nhân dân Âu Lạc tự tạo ra âm Hán Việt để đọc chữ Hán, nên mới có những tên người và địa danh rặt Tàu: Thí dụ: Thiên >Trời =, Địa>đất=, Tử>mất=, Tồn>Còn= ,  Tử>Con=, Tôn>Cháu=…)
Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc, Hưng Yên) đặt tướng văn là Lạc Hầu, tướng võ là Lạc Tướng, con trai vua là Quan Lang, con gái vua là Mị Nương, các quan nhỏ gọi là Bồ Chính. Quyền chính trị thì cứ cha truyền con nối, gọi là phụ đạo.
(VNSL của Trần Trọng Kim)
Sử ghi như vậy. Nhưng tôi thì… tôi không chịu.