Người theo dõi

Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2018

Chương 2. MÚA GÂY VƯỜN HOANG


Chương 2. MÚA GÂY VƯỜN HOANG


CA DAO VÀ THƠ

A. Những ngẫm nghĩ về ca dao
Mẹ ru cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn
Bà ru mẹ… Mẹ ru con
Liệu mai sau các con còn nhớ chăng?
Nguyễn Duy

Tiếng nói tuyệt diệu để thể hiện tư tưởng t do Âu Lạc là... Ca Dao hay chính xác là Thơ. 
Ký ức không cho tôi nhớ lại những lời mẹ tôi ru trong những ngày đầu đời, nhưng tôi có thể cảm nhận được sự ngọt ngào trong những lời ru ấy. Khi đã lớn khôn rồi gặp khó khăn trong cuộc sống tôi lại về với mẹ hoặc khi cảm sốt mà có mẹ gần bên, tôi có cảm giác như nghe lại được lời ru ấy. Trong cuộc sống, khi đi đó đi đây tôi nghe ai đó ru cháu, ru con, ru em, tôi cũng có cảm giác như mẹ ru mình. Tôi không nhớ hết được, thậm chí gần như không nhớ gì nội dung những lời ru ấy. Nhưng giọng ru của mẹ tôi thì không bao giờ tôi quên được. Tất nhiên là lời mẹ tôi ru những đứa em tôi. Bây giờ thì mẹ tôi đã mất rồi, nhưng giọng ru ấy thì vẫn còn đây, khi tôi nhớ mẹ và cả khi viết những giòng này.
Lớn lên một chút, tôi sống với ông nội. Những đêm trời trong gió mát hay những buổi trưa hanh nắng tôi lại nghe ông nội nói thơ, thỉnh thoảng ông lại hát hay hò thơ… Bạch Viên Tôn Các, Lục Vân Tiên, Thoại Khanh Châu Tuấn…v…v
Tôi đến trường năm tôi năm tuổi, không phải đến bằng con đường đàng hoàng như người ta. Tôi đến trường vì sự nghịch ngợm làm ông nội chịu hết xiết, nên ông đem tôi gởi cho ông thầy giáo quen, lúc thầy đang dạy một lớp học trong làng mà học trò đâu chừng hơn một chục và kẻ lớn, người nhỏ chẳng đều nhau. Và khi tôi yên vị ở dãy bàn cuối lớp mà chẳng có cuốn tập cây viết nào. Tôi được nghe thầy giảng hai câu:
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Dẫu rằng khác giống nhưng chung một giàn…
Thầy giảng, tôi dỏng tai nghe. Kết quả là tôi không hiểu gì ráo. Nhưng hai câu đó tôi nhớ như in.
Rồi khi lớn lên một chút, thay vì loăng quăng với những trò chơi con nít thì tôi lại bắt đầu bằng một thứ trò chơi không giống ai, đi theo một ông cụ hàng xóm chăm chút những dây bầu dây bí, những khóm bông mười giờ, bông móng tay… và… những bài học thuộc lòng với những câu thơ ngăn ngắn. Màu xanh cây lá, màu lục của các chồi non, những giòng thơ êm êm mở ra những khung trời mộng mơ bé xíu.
Thế rồi… con đường học hành của tôi là con đường… lu bu cùng với thơ. Tôi tập làm thơ. Tập gần hết cuộc đời mình, từ một tên lu bu, tôi trở thành kẻ lơ mơ và bây giờ ngồi viết những giòng cũng rất lơ mơ. Thực tình tôi viết những giòng này cũng không biết để làm chi. Thôi cứ gọi là một lời tâm sự gởi đến người thân và bạn bè. Con đường tôi đi nó chông chênh thế ấy, mơ màng thế ấy và vì thế luôn luôn đối diện với khó khăn, thiếu thốn. Tôi không thể nào làm gì được khi mà không có thơ người, không có thơ tôi. Tôi dốt toán, cộng trừ nhân chia lam nham thì được, tính lời, tính lỗ thì thua. Thôi thì nghe lời Cụ Tiên Điền vậy:
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao. (Kiều)
Hai số phận ấy; phong trần và thanh cao, tôi chẳng biết cái nào hay cái nào dở. Bởi vì phong trần thì tôi biết quá rành, nghĩa là cứ lu bu lang bang suốt thì không gió bụi là gì. Còn thanh cao thì chưa bao giờ nghe ai nói tôi là thanh cao, mà có nói thì tôi cũng chẳng biết thanh cao là cái quái gì. Thành ra vô phương so sánh. Hổng biết nên trách hay cám ơn ông trời đây ta.
Có nhiều lúc, tôi ngồi nhớ lại mọi chuyện đã xảy ra trong đời mình, từ những xúc cảm đến những hình ảnh đã từng lướt qua trước mắt, cả những việc làm đầy những trúng trật, đúng sai của mình. Có những thứ trở thành kỷ niệm, có những chuyện muốn quên đi và cả những điều tưởng chừng chìm đâu mất, bổng dưng hiển hiện trở về, lúc đó, những khái niệm đúng sai, trúng trật đều không còn nữa. Tất cả làm cho tâm hồn lắng xuống rồi gợi thành những ước vọng của ngày mai, ngày mốt hay xa hơn. Thậm chí, còn mường tượng ra cái ngày mình ngủm nó ra làm sao nữa. Không hiểu người khác có như thế không? Nhưng tôi thì là vậy. Cứ tưởng là khi tâm hồn lắng xuống là như giòng sông phẳng lặng. Nhưng không phải thế, vẫn còn đó những ngọn sóng, chẳng qua là nó êm đềm hơn hay là chìm xuống và chờ một cơn gió. Đúng là cái đầu lu bu.
Từ những lần như thế, càng lúc nó càng dẫn dắt những hiểu biết còm cõi của tôi lang thang vào một nơi mà tôi thích nhất. Những vần điệu êm đềm. Thơ.
Ai đó, thích một cái gì, dù tốt hay xấu cũng đem hết đời mình mà lăn vào. Thậm chí còn lăn qua lộn lại trăm bề. Và cái không khí họ thở luôn luôn đậm cái mùi mà họ thích; Không khí của nhà kinh doanh, nhà tài chính luôn luôn đậm đặc hơi tiền. Của nhà hóa học thì đầy mùi hóa chất. Của tay nghiện rượu thì nồng nặc hơi men. Của nhà khảo cổ thì chỉ là mùi ẩm mốc, rêu phong. Của nhà đạo đức hay những anh công an, cảnh sát thì ngửi ở đâu cũng có mùi tội lỗi… Tôi cũng không ngoại lệ. Nhưng không khí của tôi thì rất mơ hồ, chừng như có, chừng như không, như mơ mơ, như thật thật. Cái không khí ấy gần như trùm phủ lấy mọi người, dù người đó không thích thơ, chẳng biết trên đời này có thơ. Tôi không nói quá đâu? Một Chí Phèo, một Thị Nở và cả một ai đó mà bị cuộc sống xô vào nơi dung tục, nói năng bạt mạng, không một chữ lộn lưng. Nhưng khi mà họ thấy lòng mình rung cảm trước một điều gì đó. Xin thưa, đó là tô cháo hành, là rung cảm, là thơ. Nói một cách rõ ràng hơn, sự rung cảm của con người trước sự việc, sự vật và trước một người nào đó, có thể là cả những con vật, cội cây nào đó, đều rất đáng để nên… thơ. Có điều là họ không viết ra thôi, có thể vì họ không viết được hay không thích hoặc đang bận buông mình vào thứ khác, nhưng trong lòng họ đang thì thầm, miệng họ có khi còn lẩm bẩm. Chính cái đó làm cho con người sống, vì những thứ đó là thơ. Nói tóm lại “…thơ là vần điệu của ngôn ngữ, nhưng trước nhất phải là vần điệu của tấm lòng…” Có thể muôn loài cũng vậy. Chẳng qua là chúng ta không hiểu được đấy thôi.
Đường xanh chi bấy cỏ ven bờ.
Cho bước chân về chớm ngẩn ngơ.
Chó vện gọi bồ ủng ẳng,
Gà con lạc má lơ ngơ.
Dưới  sông con cá long rong ruổi,
Trong nắng chuồn chuồn lất phất phơ.
Ai đó kèm nhèm hai mắt ngó,
Nghe buồng phổi nhẹ một hơi thơ.
Tôi đã từng viết như vậy, xin đừng hiểu lầm là tôi biết rõ tâm tình của vạn vật. Chẳng qua là vạn vật tặng tôi thơ. Chỉ có vậy.
Nhưng biết đâu những tiếng thì thào của cành lá, rì rào của sóng nước, tiếng tí tách của mưa rơi, những long lanh của nắng ban mai, trầm tư của ráng chiều… cả tiếng lào xào của sỏi đá. Những âm thanh, dáng vẻ của tạo vật đang chuyển tải đến lòng ta những rung cảm của sự cộng sinh. Sẽ cảm nhận được mà, nhất là những con người có tấm lòng hiền như… thơ. Có ai mà không từng rung động trước âm thanh ấy, dáng vẻ ấy và cả những tiếng chim hót, vịt kêu, gà gáy, chó sủa, heo la, con trâu, con bò nghé ngọ… và cuối cùng là giọng nói nhỏ nhẻ của cô hàng xóm. Tất cả những thứ đó cho ta êm đềm, dù có lắm lúc chói tai. Nhưng đó là cảm xúc chủ quan của ta, mà chúng ta thấy khi thì rất thơ mà cũng có lúc lại không thơ. Nhưng khi đã khách quan hơn thì đó là vần điệu của tạo hóa, trong đó có vần điệu của loài người và có thể là vần điệu của muôn loài. Bây giờ khi chúng ta được cổ nhân truyền lại một sản phẩm vô giá đó là chữ viết. Chữ viết ghi lại những vần điệu của lòng ta và ta gọi những là thơ, là nhạc. Nhưng trước khi trở thành thơ thành nhạc thì đó là… Ca Dao.


B. Ca Dao Xuất Hiện Từ Lúc Nào

Khi chưa tự tạo ra cho mình một nguồn thực phẩm để sống, chỉ hái trên cây, nhặt dưới đất những thứ có thể ăn được, và hái nhặt một trái hay một thứ gì ăn được và đưa cho một người khác, hành động đó biểu hiện cho tình cảm, trước nhất là tình cảm huyết thống, kế đến tình cảm giới tính, và cuối cùng là tình cảm cộng đồng. Những sợi dây tình cảm mong manh ấy lần lần thoát ra khỏi quán tính. Khi tình cảm đã xuất hiện và ca dao xuất hiện theo. Như vậy thì ca dao đã có mặt từ trước khi khi ông cả Ruộng tìm ra cách trồng lúa.
Không biết các dân tộc khác thì ra sao? Chớ dânViệt Nam mình thì là như vậy.
1- Trời mưa nước chảy sông Đoài
Cỏ lên đè lúa, cá trôi lềnh bềnh
2- Thương nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội mấy đèo cùng qua
3 - Thương chồng nên phải gắng công
Nào ai xương sắt da đồng chi đây.
4 - Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
5 - Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Giả dụ như năm câu ca dao trên là cổ nhất thì lúc nó xuất hiện là lúc nào. Có trời mà biết. Có thể nghĩ là khi mà yêu cầu cuộc sống cần có sự nhận xét, cần có tình yêu, sự tương trợ, đùm bọc lẫn nhau thì đã có những câu như thế rồi. Bởi vì khi cái nhu cầu ấy thực sự làm cho cõi lòng xao động, dù bất cứ trạng thái nào, yêu, thương, giận, ghét..., thì ca dao xuất hiện để mà giải bày, thể hiện. Cách nói có thể khác, ngôn ngữ có thể khác, dù rằng chỉ là tiếng Việt mà thôi. Nhưng khi cần đến thì tùy theo thời điểm mà người ta nói ra, mỗi lần khác đi một ít do sự biến đổi của ngôn ngữ, môi đường sống, do cần thiết của âm điệu và do cả sự đáp ứng nhu cầu của tâm hồn và cả của sự thẩm thấu đương đại mà đến hôm nay nó có một hình thức như thế và cũng kể luôn cái việc tam sao thất bản hay nói theo ngôn ngữ hiện đại là biến tấu, là thay thế một vài từ hay nhiều từ, có khi là cả một câu cho phù hợp với tình cảm hay bất cứ một điều gì đó cho phù hợp, kể cả ngôn ngữ. Lần hồi thì cái ý ban đầu còn đó, nhưng câu nói ban đầu, nếu có cách nào đó mà ta nghe lại được, thì có lẽ cứ như là nghe tiếng… nước ngoài. Vì vậy, ca dao thì rất cũ, nhưng luôn luôn mới. Thành ra ông Lê văn Siêu nghi ngờ về việc hai câu 5 xuất hiện từ thời Hai Bà Trưng. Ông nghi ngờ cũng đúng. Vì làm sao mà thời đó có những câu lục bát gẫy gọn trơn tru đến thế? Làm ǵ có nhiễu điều, gía gương (!?). Nhưng ông lại quên là nhân dân Âu Lạc lúc này đang trong thời kỳ văn minh đồ đồng. Trống đồng, thạp đồng mũi tên đồng và cả chiếc thuyền cũng bằng đồng thì cái gương đồng chắc có lẽ phải xuất hiện rất lâu trong đời sống. Còn phủ nhận ư? Chắc cũng không có một lý do nào xác đáng. Vì vậy, có một điều cần lưu ý. Hai câu 1 có thể ước tính là xuất hiện khi dân tộc đã đi vào thời kỳ văn minh lúa nước.
1. Trời mưa nước chảy sông Đoài
Cỏ lên đè lúa, cá trôi lềnh bềnh
Thiên nhiên đôi khi cũng ác. Nhưng có lẽ không phải vậy. Chẳng qua là chúng ta không biết cách để nương theo. Hoặc thậm chí là cho rằng quá khôn nên kênh lại.
Hai câu 2 thì có lẽ là sớm nhất khi mà quan hệ tính giao thoát ra khỏi quán tính, người ta tìm đến nhau mà bất chấp hiểm nguy, cách trở là vì yêu cầu của tình yêu chớ không phải vì yêu cầu của tính giao.
2. Thương nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua
Hay
Ai về cho em về theo
Ngó truông truông rậm, nó đèo đèo cao
Hồi đó muốn đến với người yêu thì phải đi… bộ. Vậy mà cũng tới với tình vẫn ở lại với tình rồi không đi đâu nữa, có lẽ vì sợ mỏi chân. Bây giờ thì đi xe, đi tàu, đi cả máy bay siêu thanh, có lẽ vì vậy mà lắm khi đi… huốt
Hai câu 3 phải xuất hiện trong hoặc sau thời kỳ đồ sắt, đồ đồng.
3. Thương chồng nên phải gắng công
Nào ai xương sắt da đồng chi đây.
 Hai câu 4 thì ít ra phải xuất hiện khi mà con người biết gây gỗ, ạch đụi nhau, nên mới kêu gọi…
4. Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Và hai câu cuối cùng thì chỉ xuất hiện khi mà con người có khái niệm về quốc gia.
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Và cũng có thể cần một sự liên kết ban đầu nào đó giữa người và người sẽ nãy sinh;
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây dụm lại nên hòn núi cao
 Nhưng giọng điệu ban đầu của nó thì có thánh cũng không biết. Có điều chắc chắn là khi đọc lên nghe cũng phải êm tai cái đã. Và chính vì cái êm tai đó mà nó biến đổi, thậm chí biến đổi đến độ không quan tâm đến những nghịch lý. Như hai câu 4. Không biết lúc nó xuất hiện thì trái bí ra làm sao. Chớ trái bí bây giờ dù là bí rợ hay bí đao mà trồng có giàn như bầu, khổ qua, su hào, mướp thì giàn nào mà chịu nổi. Hay đó là trái mướp. Tôi thiên về trái mướp mà tôi không dám sửa, không phải vì ngán công ước Bern, với lại đối với ca dao thì công ước Bern vô hiệu, mà tại vì tôi không biết trái bí thời câu ca dao đó xuất hiện nó bao lớn, người trồng thả dây cho bò lang trên mặt đất hay làm giàn, có thể vì lúc đó rừng thì mênh mông, cây cối thì bạt ngàn, thành ra còn khối cây để mà làm giàn. Ngoại trừ mấy anh làm biếng.
- Ru con con ngủ cho lành
Mẹ đi gánh nước rửa bành ông voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng
Có thể xem bốn câu trên được xuất hiện vào thế kỷ thứ III không? Chắc chắn rồi, chớ là sao mà gọi là có thể.
Hay như hai câu dưới đây thì chắc chắn là hiện đại, nó nãy sinh từ khi loại vé số năm con tăng lên sáu con cho giải đặc biệt;
Vé số sáu con khó dò
Đất lung bán trước, đất gò bán sau
Không thể nào biết đích xác ai là tác giả, nhưng biết chắc là tay nhà thơ ngang xương chắc cũng chẳng văn chương chữ nghĩa gì đâu, nhưng lại xúc cảnh sinh tình trước cảnh te tua vì chơi vé số.
Cứ như thế có thể xem xét sự xuất hiện của từng câu ca dao qua nội dung để khớp vào những giai đoạn lịch sử của dân tộc. Có khiên cưỡng không? Có thể bạn không đồng ý với tôi. Nhưng cả tôi và bạn cùng có thể mĩm cười với ý kiến của mình khi nhớ lại cái “có quyền” của Trung Niên Thi Sĩ. Hay nói khác hơn là như tôi vậy. Múa gậy vườn hoang.
Khi ông cả Ruộng và nhóm của ông thực hiện việc đem lúa trời về ruộng, chắc chắn sẽ phát sinh câu ca dao dưới đây:
Đêm trời tang, trăng soi không rõ
Ấy là điềm mưa gió tới nơi
Đêm nào sao sáng xanh trời
Ấy là nắng ráo yên vui suốt ngày
Những ai chăm việc cấy cày
Điềm trời trông đó, liệu xoay việc làm
Hoặc là
Mây kéo đàng Đông vừa trông vừa chạy
Mây kéo đàng Nam vừa làm vừa chơi
Nhìn ngắm thiên nhiên, nương theo mưa nắng để mà sống là lẽ đương nhiên. Những kinh nghiệm được tích lũy phải truyền lại đời sau như thế nào cho dễ nhớ, tất nhiên không thể nói vòng vo được mà phải gọn và êm
Hễ mà cây trái được mùa
Nhờ sông đầy nước nhờ mưa đầy trời
Ai ơi nên nhớ lấy lời
Xem trời, coi đất liệu thời làm ăn
Hoặc đi sâu vào chi tiết bằng cách nhìn và nắm bắt những phản ứng của động thực vật trước những đổi thay của thời tiết để mần ruộng, đi đứng;
- Én bay thấp mưa ngập bờ ao
Én bay cao mưa rào lại tạnh
- Những người đi biển làm nghề
Thấy giòng nước nóng thì về đừng đi
Sóng lừng bụng biển ầm ì
Bão giông sắp tới chớ hề ra khơi.
- Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm
Chà đây là hai câu mà tôi rất khoái. Bởi vì hồi mới lớn lên tôi thường hay áp dụng cái câu này để mà chuẩn bị cho những cuộc hò hẹn của mình, mà đã khoái thì phải ăn theo.

      Bước ra ngoài phố chợt buồn,
Tìm không thấy bóng con chuồn chuồn bay.
      Nắng mưa dự đoán sao đây,
Để mà chuẩn bị phút giây hẹn hò.
      “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa,
Bay cao thì nắng bay vừa thì râm”.
      Giờ đây phố xá ầm ầm,
Cây xanh thưa thớt lầm lầm bụi bay.
      Người ta xả rác luôn tay,
Con chuồn chuồn bỏ chốn này ra đi.
      Còn anh thì cứ loay hoay,
Mưa bay tưởng nắng, nắng đầy tưởng mưa.
      Lắm phen trớt quớt hẹn hò,
Em hờn giận để câu thơ anh buồn.
     Anh không nở quạu chuồn chuồn
Bèn quạu phố bẩn, bèn buồn phố dơ

Rồi khi thấy mình có một chút khôn khôn bèn tác động vào thiên nhiên thì có ngay lời cảnh báo
Nước non là nước non trời
Ai phân được nước ai dời được non.
Nhưng đôi khi cũng phải cần một chút mạo hiểm
Ra khơi mới biết cạn sâu
Ở trong lạch hói biết đâu mà dò
Rồi cả những kinh nghiệm gieo trồng tùy theo thế đất với những so sánh sát sườn và... thú vị
- Cơm ăn một bát sao no
Ruộng cày một bận sao cho đành lòng
Lung cấy lúa, gò gieo bông
Không ươm được đậu thì trồng ngô khoai
Và dạy cả những cách chế tạo nông cụ
- Gỗ kiền thì để đóng cày
Gỗ lim gỗ sến đóng ngay cây bừa
Lưỡi đừng nhỏ cũng đừng to
Tùy theo thế đất cho vừa cạn sâu

Tất nhiên không có gì để khẳng định hay phủ nhận những câu ca dao trên là xuất hiện sớm nhất cũng như có thể xác định chính xác thời điểm xuất hiện. Đây chỉ là giả dụ. Trong “Giao Châu ký” của Lưu Hân Kỳ được viết vào khoảng những năm 380-420 có đoạn như sau “Phong tục Giao Châu thích đánh trống gảy đàn, những đứa mục đồng cưỡi trâu ở đồng lạch cũng hát nghêu ngao những bài ca xa xa, trẻ con nhóm lại dưới trăng, vỗ tay tạo nhịp rầm rộ để khiến cho bài ca hay…”. Như vậy thì ca dao phải xuất hiện từ lâu lắm để trở thành văn hóa. Có lẽ, đây chưa phải là một văn bản xưa nhất nói về ca dao của dân ta từ thời nước Việt bị mang tên Giao Chỉ. Nếu thế thì ca dao xuất hiện trước nữa rồi. Bởi vì, Khổng Tử có nói rằng “Dân Bách Việt rất thích ca múa, vừa làm việc vừa ca vè...” và ông “khinh bỉ ?!”mà cho rằng: “xướng ca vô loại, chẳng nên ca múa như dân nam man” . Nghe mà buồn cười. Thôi thì ghé mắt lan man qua Luận ngữ một tí: - Phu tử ngồi ăn bên cạnh người có tang thì ăn không no. Ngày nào đi phúng điếu về thi cả ngày không ca hát” (Tử thực hữu tang giả chi trắc, vị thường bảo dã. Tử ư thị nhật, khốc tắc bất ca). - “Phu tử lúc ở nước Tề, học nhạc Thiều ba tháng, ăn không biết mùi thịt. Ông nói rằng: Chẳng ngờ học nhạc vui đến thế” ( Tử tại Tề, văn thiều tam nguyệt bất tri nhục vị. Viết: bất đồ vi nhạc chi chí ư tư dã) – “Phu tử đàn hát với ai, người ta hát câu nào hay, thì bắt hát lại để người họa theo”  (Tử dữ nhân ca nhi thiện, tất sử phản chi, nhi hậu họa chi” (Thuật Nhi VII)
Ngộ nghe. Thôi mặc ai nói gì thì nói. Người Âu Lạc cứ hát cứ hò với ca dao.
Ông Lê văn Siêu viết “Lời nói muốn lọt vào tai người nghe, trước hết phải là một lời thơ.” Và ông còn giải thích thêm “Lời thơ muốn được truyền từ người này qua người nọ trước hết phải hợp với nhịp sống nội tâm cũng như ở ngoại cảnh” (VNVHS. Tr 16. Nxb Văn Học năm 2006). Đến trang 22, sau khi phủ nhận những chứng tích cụ thể, vì không thể tìm được, thì ông lại viết một câu thật cảm động “ ...Song với sự suy nghĩ kỹ càng của chúng ta bây giờ thì chứng tích cụ thể của nền cổ văn học ấy đã có ngay trong tiếng nói, ngay trong âm thanh, ngay trong khả năng tạo thêm tiếng mới để diễn dịch tâm tình và tư tưởng, và thêm nữa ở ngay trong phong tục hát ví giữa trai gái các thôn ấp trong những dịp hội hè về mùa Xuân”. Điều này hoàn toàn đúng. Không riêng bất cứ một dân tộc nào, mà tất cả muốn tiến bộ, muốn tồn tại thì sự phát triển ngôn ngữ bao giờ cũng là một điều kiện tất yếu.  Không biết các dân tộc khác thì sao. Nhưng với dân tộc Việt Nam, tiếng Việt phát triển được là nhờ một phần rất lớn của Ca dao. Có phải đó là đặc trưng của ngôn ngữ Việt. Nếu thế thì dân tộc Việt đều là thi sĩ hết ư? Có lẽ vậy, nếu không thì tại sao chúng ta lại có một kho tàng ca dao khổng lồ đến thế.

Sự Thay Đổi Ngôn Ngữ Của Ca Dao
Biến thiên của lịch sử, thay đổi môi trường sống, điều kiện sống làm cho ngôn ngữ thay đổi, bớt đi từ này không còn phù hợp, thêm những tiếng kia để cho sự diễn đạt được tinh tươm, đáp ứng những yêu cầu đương đại và ca dao thì cũng thế. Và còn có cả những giao lưu văn hóa của các bộ tộc, dân tộc. Do đó, cùng là ngôn ngữ, nhưng xưa khác, nay khác, vùng này không giống vùng kia. (Vâng, dợ, dạ / cái, o, cô / u. mệ, má/ như thế, như rứa, như vậy bắc, trung, nam)… – cóc ngõ, nhẫn, sảy, lểu đểu, chăng, mạc, dầu, bui… (thời Trần, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm hay trước nữa) hiểu biết, cho đến, mất, lảo đảo, không, vẻ, gì, chỉ… (hiện đang sử dụng). Cũng chẳng biết tiếng Việt chúng ta thời nay giống thời Âu Lạc được mấy phần, chắc là khác nhau nhiều lắm. Nếu như có ai đã từng đọc được những tác phẩm xưa như bản dịch của Tuệ Tĩnh diễn nôm Thiền Tông Khóa Hư Ngữ Lục của Trần Thái Tôn hay Cư Trần Lạc Đạo của Trần Nhân Tôn, thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm chắc sẽ gặp rất nhiều những từ vựng mà ngày nay không còn thông dụng nữa. Và lắm khi chúng ta không thể nào hiểu được tiền nhân muốn nói gì. Dù vẫn còn lác đác đó đây những từ Việt cổ trong ca dao nhưng hầu hết đều được thay đổi. Không thay đổi tiếng thì thay đổi nghĩa.
Hiểu sao đây khi người Hà Nội vào Huế, người Sài Gòn ra đất Thần Kinh nghe câu hò thế này.
Hởi o xương nác bên đàng,
Sao o múc ánh trăng vàng đổ đi.
(Hởi cô tát nước bên đàng,
Sao  múc ánh trăng vàng đổ đi.).
Có lạ lùng lắm không. Điều kiện giao thông bây giờ làm cho con người gần gũi lại, sự giao lưu rộng ra, nên sẽ hiểu ngay và cảm nhận tức khắc. Nhưng cách đây một trăm năm, người Sài Gòn, người Hà Nội sẽ điếc ngay. Tôi nhớ năm tôi hai mươi tuổi (1967), lần đầu tiên đến Huế. Tôi có quen một cô, chúng tôi có một thứ tình cảm được gọi là trên bạn bè một tí, tôi nghĩ thế và khi thời cơ đến tôi nắm nay cô ấy toan thổ lộ lòng mình. Cô gạt tay ra, rồi cau mày nói một câu mà tôi nghe như chim hót và không hiểu gì ráo “Ni, ni cái anh ni tề. Anh mần chi mô mà dị rứa?”. Và chính vì cái không hiểu ấy mà cái công tò vè hơn một tháng của tôi đi đứt. Ca dao là thế, sử dụng thứ tiếng mà mình đang dùng, mọi người cùng hiểu để biểu lộ một tình cảm, giải tỏa một nỗi buồn hay đem đến một niềm vui, sự khoái chí hoặc phê phán một điều gì đó. Người ta ngâm nga. Hay dở, đúng sai không cần. Hãy nói ra cái đã, những câu nói ấy là sự rung cảm của chính mình bật ra có vần có điệu, có thể là sản phẩm của mình hay mình đã nghe của ai đó, cũng có thể là mới hoặc từ xưa để lại, mà bản thân người đó được thẩm thấu từ lời ru của bà, của mẹ, của chị hay nghe ở đâu đó vào một thời điểm mà lòng ta dễ rung động nhất, được pha chế thêm cho phù hợp với hoàn cảnh, mục đích và bằng ngôn ngữ mang tính đương đại hay địa phương. Bởi thế, ca dao xuất hiện từ rất xưa, và liên tục xuất hiện theo yêu cầu của cuộc sống. nhưng luôn luôn được thể hiện bằng một loại ngôn ngữ mới toanh. Nếu còn chăng là cái nền không bao giờ suy suyển, đó là cái hồn người. Nhưng bây giờ ít ai biết đến ca dao, nên nếu bất chợt nghe thấy thì gọi đó là quê mùa. Một cách hiểu dốt nát, kỳ cục. Nhưng thực ra thì không phải vậy. Và có lẽ cũng nên đọc lại và tìm hiểu thêm tại sao đại thi hào  Nguyễn Du lại kết thúc danh tác Kim Vân Kiều bằng hai câu:
Lời quê góp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh.
Một thay đổi nhỏ trong câu chữ cũng làm thay đổi rất nhiều thứ. Ca dao là một sáng tác mang tính tập thể, người sử dụng tùy theo nhu cầu tình cảm của mình hoặc vì một lý do nào đó, đôi khi còn có cả tính cách của người sử dụng, thành ra sẽ không lạ gì khi mà nhìn thấy có nhiều câu có nội dung na ná như nhau, nhưng ý nghĩa thì khác đi khá xa. Thời tôi còn con nít, tôi còn chứng kiến những câu hò câu hát bâng quơ trên đồng lúa, hoặc chuyên chở trên những chiếc ghe, chiếc xuồng trôi suốt những giòng sông, kinh rạch, hoặc những câu hò đối đáp trong những dịp kỳ yên, hội hè rất ấn tượng.
Nữ:
Hò hơ… sẩy chân em té xuống bùn,
Cái dây lưng em đứt hỏi anh hun chỗ nào?
Hay
Hò hơ… vén quần em lội qua lung,
Quần em tuột xuống hỏi anh hun chỗ nào?

Mèn ơi. Một cái câu hỏi như trời giáng. Đưa ra sự kiện đứt giây lưng rồi hỏi hun chỗ nào thì quả là trớ trêu.
Nam:
Hò hơ… em ơi đừng hỏi thấp cao,
Đứt hay không đứt ờ hơ… thì chỉ má đào… anh mới…ờ ớ hun.
Chà anh này có vẻ rất nghiêm túc đây. Tất nhiên cũng có anh chàng nào hơi cà khịa (hay thật thà) một chút, nhắm ai kịp bụm miệng anh ta khi anh ta thay câu thứ hai bằng một câu như thế này.
Hò hơ… em ơi đừng hỏi thấp cao,
Đứt hay không đứt ờ hơ…thì chỗ nào… anh cũng…ờ ớ hun.
Có sao đâu? Câu hỏi đã oái oăm rồi mà… Với lại, khi thương nhau thì hun hít tùm lum tà la, đâu có ai rảnh hơi mà nghĩ ngợi chỗ nào nên hun, chỗ nào không nên hun. Hơn nữa, trên thân thể người mình yêu thì chỗ nào mà không thơm. Mà đã thơm thì hun, thì hít là lẽ tự nhiên.
Kinh nghiệm bản thân cho tôi biết thế, dạy tôi biết thế và tôi chẳng lý do gì mà không làm một bài thơ nhái theo ca dao. Ai cấm tôi nào? Múa gậy vườn hoang mà.

LÝ CHIM QUYÊN
     “Chim quyên ăn trái nhản lòng,

Thia thia quen chậu vợ chồng quen hơi.”

     Khi  em  thoang thoảng  mồ  hôi,
Thêm mùi lá bưởi, cộng mùi hoa chanh.
     Đã  làm  cho  đắm  say  anh,
Cái hương quê ấy thị thành cũng thua.
     Ai  xui  hay  tại  lơ  ngơ ?
Choáng hơi hướm lạ giở trò tham sang.
     Không quen, nên quá ngở ngàng,
Cũng may hương cũ không sang mũi người.
     Hết hồn. Từ đó đành thôi
Để trăm năm đắm đuối mùi hương em.
Cái mùi mồ hôi là một thứ nước hoa mà tạo hóa ban cho muôn loài. Nhưng cuộc sống hiện đại, có rất nhiều người chê. Tội nghiệp, người ta chạy theo những mùi thơm giả tạo, nên dần quên những thứ mà thiên nhiên ban tặng, tất nhiên quên luôn cách sử dụng để làm cho cuộc sống luôn khỏe mạnh, thăng hoa. Họ quên mất khái niệm “vợ chồng quen hơi“. Hình như “hơi vợ chồng” thời hiện đại cứ thay đổi xoành xoạch theo các nhản hiệu nước hoa, hóa mỹ phẩm. Cho nên cái hơi vợ chồng thường xảy ra ở một nơi … trớt quớt. Con người đồ vật hóa bản thân mình. Tôi có nghe một ai đó nói với tôi về mồ hôi như thế này “Mồ hôi của người khỏe mạnh và sạch sẽ là hương thơm, của người bệnh thì tanh, của người bầy hầy thì hôi…”. Hai vế sau thì tôi đồng ý ngay, nhưng vế đầu thì… rất, rất lâu khi mà tôi đã quen hơi, tôi mới cho là đúng. Và có lẽ, nếu chẳng có cái hơi thì chắc cú là không có cái hun. Tất nhiên cái hơi ấy chắc chắc không phải do hóa mỹ phẩm. Tôi không dám cho những câu thơ vỏ vẻ của tôi như là ca dao, nhưng nếu không có ca dao thì nó chẳng có gì để mà ăn theo.
Vô hình chung ca dao trở thành một kho kinh nghiệm sống, và gần với ca dao lại có những hình thức khác gọi là cách ngôn, tục ngữ, những thứ này trở thành một cái kim chỉ nam để luôn luôn điều chỉnh cho con người được sống một cách thực nhất, hồn nhiên nhất và hữu hiệu hơn nhiều giữa những giáo điều mang tên đạo đức. Cũng phải thôi, bởi vì nó luôn luôn biến hóa và thể hiện đúng mực những vần điệu của tấm lòng của một thời đương đại. Chính những thay đổi đó, biến tấu đó làm ca dao sống và ca dao luôn luôn mới, luôn luôn thay đổi. Có một biến tấu rất thú vị. Cái khó nó  cái khôn và Cái khó nó  cái khôn. Hai câu chỉ khác nhau có một cái ngéo của chữ “b”. nhưng ý nghĩ hoàn toàn khác. Cái khó khăn trong công việc làm cho người ló cái khôn ra. Sự khó nghèo trong cuộc sống làm cho cái khôn bị bó chặt, không thực hiện được làm cho người ta bỏ mặc, buông xuôi.
Đi vào thế giới của ca dao, tức là đi vào nỗi lòng của dân tộc. Ở đó là hiền hoà, là lạc quan trong cuộc sống.
Nữ
- Chim mõ kiếng đậu trên miếng cỏ
Con mèo đuôi cụt nằm mụt đuôi kèo
Anh mà đối được em theo anh liền
Nam
- Con cá đối nằm trên cối đá
Chim vàng lông đậu giữa vồng lang
Anh mà đối được hỏi nàng theo không?
Đây là hai câu hò đối đáp với một câu hỏi rất khó, nêu ra những hình tượng rất thật, sử dụng một kiểu nói lái rất đặc trưng của tiếng Việt, được hát ra kèm theo một điều kiện rất… ngon cơm. Và câu hát trả lời cũng không kém thông minh, báo trước một cuộc tình duyên cũng rất… ngon cơm. Ấy thế mà cũng có những câu, mà nói theo thời thượng bây giờ là ca dao nhái. Nhưng lại để diễn đạt một sự kiện không nhái chút nào. Khi mà cô gái ra điều kiện cho một cuộc vợ chồng.
Nữ
Con chim  kiếng nằm trên miếng cỏ
Chim vàng lông đáp xuống vồng lang
Đính hôn vui vẻ thiếp chàng
Mâm trầuhũ rượu đàng hoàng mới rước dâu
Và đuợc đáp ứng ngay tức khắc.
Nam
Chim chìa vôi bay ngang đám thuốc
Con cá bãi trầu lội tuốt mương cau
Song đăng phẩm vật dâng cao
Bái đườngthỉnh lộccáo chàorước dâu
Từ một câu hát đối đáp riêng tư với cái lối nói lái ngặt nghèo được biến thể thành một cuộc thách cưới với đầy đủ nghi thức, lễ vật không kém phần hoành tráng. Thậm chí còn mang theo phần khoa trương thanh thế hầu đãm bảo cho một cuộc tình chồng vợ (!?). dĩ nhiên tình yêu thì không chỉ có thế. Nó đơn giản hơn nhiều, chỉ là yêu thôi mà nhưng cách thể hiện thì rất ư… tế nhị (hay phức tạp ?)
Do vậy, không thể tìm hiểu được một cách chính xác xuất xứ cũng như nguyên bản của một câu ca dao. Nhưng có một điều chúng ta biết chắc chắn là trong quá trình cuộc sống. Ca dao phản ảnh một cách chân thực nhất về tình cảm con người, cũng như mọi sinh hoạt của đời sống.
Cụ Vương Hồng Sển có kể một câu ca dao cười ra nước mắt. Thời Pháp chiếm đóng Sài Gòn có hai vợ chồng đi bán hàng rong cho các tây đầm đi chơi khuya, trên đường về đói bụng. Nhờ cố học tiếng bồi để giao tiếp và chí thú làm ăn bất kể sớm khuya. Khi rủng rỉnh tí tiền còm, anh chồng bỏ theo cô gái khác. Hàng đêm một mình một gánh hàng rong. Vừa buồn, vừa uất ức kẻ bạc tình, chị hát mấy câu:
“ Thượng Thơ bán giấy, Thủ Ngữ treo cờ.
Bu lon, ỏm lết, bít tết, xạc xây ờ
(Buillon, omelette, beef-staek, sacré)
Menu đánh dạo… ờ hớ… bây giờ mày bỏ tao… ơ”
Câu hò nửa nạc nửa mỡ ấy vừa ngộ, vừa buồn. Nó diễn tả đúng cái nghề nghiệp, thân phận và nỗi lòng của người hò làm người nghe mắc cười và… chua xót. Chua xót cho tình người, tình đời và cho cả vận nước (?). Biết đâu trong khoảng thời gian Nhâm Diên, Tích Quang, rồi sau này là Sĩ Nhiếp làm thái thú, các ông này tích cực quảng bá văn hóa Hán Nho ở Âu Lạc, khi mà dân tộc lại có một ngôn ngữ thuần Việt, thì hai câu ca dao dưới đây đã xuất hiện để diễn đạt sự bức rức, lực bực của người thời đó .
Tam hoàng, ngũ đế chi thư,
Thầy ngồi thầy để củ từ thầy ra.
Câu ca dao chế nhạo một ông thầy đồ rất “chi hồ giả dã” mà không nghiêm túc trong phong cách và...vọng ngoại. Bây giờ người ta sính tiếng Anh, chúng ta cũng nghe được những câu nửa Việt nửa Ăng Lê. Tôi nhớ ra là những năm đầu thập niên 70, tôi có nghe một câu thế này:
Diu ơi. May hớt rốc cành
Diu gô về Mỹ bỏ mình à long
(You ơi. My heart broken,
You go về Mỹ bỏ mình alone.)
Một lời than não nuột của một cô me Mỹ cũng bằng một ngôn ngữ pha chè rất ấn tượng mà buồn nát ruột. Chắc chắn tác giả những câu ca dao pha chè này không phải là người làm thơ. Nhưng gán ghép hai loại ngôn ngữ thành những câu có vần có điệu diễn tả chính xác tâm trạng và suy nghĩ của mình đến thế ấy thì một nhà thơ có nghề chắc cũng phải lắc đầu… khen hay.
Nó vẫn tồn tại, dù rằng chỉ tồn tại để cười chơi. Nhưng nó phản ảnh rất sinh động cuộc sống tình cảm của một lớp người làm ta vừa xốn mắt vừa ngậm ngùi thông cảm. Bởi vì dù sao đi nữa trong tấm lòng họ cũng có một vần điệu nào đó. Mà không có làm sao được. Nhịp đập của trái tim vẫn còn khi nhanh khi chậm kia mà. Xin phép mấy ông bác sĩ chuyên khoa tim mạch hé.
Khi viết mấy chữ “lắc đầu… khen hay.” Tôi lại nhớ hai câu:
Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp, lắc đầu khen ngon.
Hai câu này tôi thường được nghe như thế. Về mặt ngôn ngữ thì quả nhiên hơi ngược ngạo, nhưng diễn tả như thế là hoàn toàn hợp lý. Các nhà ngôn ngữ học đã từng công nhận cách sử dụng sự phủ định để xác nhận một sự thật không thể chối cãi là gì? Chắc không ít người đã từng nghe từng hát bài hát “Con Gái” của Ngọc Lễ mà. Nhưng tôi bị phản đối và thỉnh thoảng vẫn nghe và vẫn thấy người ta viết
Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp,gật đầu khen ngon. (trớt quớt)

Và thể điệu, thể điệu cũng biến hóa ra cho phù hợp với nội dung. Câu chữ của ca dao ngắn dài tùy ý để có thể ngâm, hò, vè, hát, nói dậm, hò đối đáp, hát huê tình… Từ đó, ca dao sản sinh ra những thứ mà người đời nay gọi là văn hóa dân gian, nó trở thành nền tảng cho những thể cách thơ và âm nhạc. Nhưng có điều rất đặc biệt, những câu ca dao theo thể lục bát lại chiếm đa số. Tại sao lại thế? Đây là một vấn đề mà tôi nghĩ các nhà ngôn ngữ, âm ngữ học cần phải nghiên cứu đây. Nhưng theo cái ý mọn của tôi thì thế này; Gần hơn tám mươi phần trăm dân số của đất nước đều sống ở đồng bằng với kinh rạch, mương đào chằng chịt. Sự khoáng đạt của hình thể địa lý, những giòng chảy mượt mà của giòng sông, con kênh nơi cư trú đã làm nên tính cách con người. Tính cách và tâm hồn như hòa theo theo cái khoáng đạt của trời đất mênh mông, của sông nước êm đềm đã tạo nên một ngôn ngữ có tới sáu thanh và giọng nói phải mang một cái âm điệu thì thầm đầy tính dàn trải, nhưng luôn hòa quyện cùng nhau tạo nên sự biến hóa một cách nhẹ nhàng, nhưng chặt chẽ của vần chân và vần lưng, tạo nên một sự liền mạch, gắn bó vào nhau rồi sau này khi biến thành thơ viết, lục bát và song thất lục bát tuôn chảy không hạn kỳ. Lục bát trôi dài suốt theo những giòng sông, song thất lục bát lan tỏa suốt theo trời đất mênh mông… Có phải chăng vì thế mà chúng ta có những truyện thơ rất nổi tiếng mà đỉnh cao là Kiều, là Cung Oán ngâm khúc, là Chinh Phụ Ngâm… Những thể khác cũng được ca dao biến đổi như thế.
Vè Uống Rượu
Uống một ly nhâm nhi tình bạn,
Uống hai ly giải hạn cơn sầu
Uống ba ly mũi chảy đầy râu
Uống bốn ly ngồi đâu nói đó
Uống năm ly cho chó ăn chè
Uống sáu ly ai nói nấy nghe
Uống bảy ly làm xe lội nước
Uống tám ly chân bước, chân quỳ
Uống chín ly còn  mà kể
Uống mười ly khiên để xuống xuồng
Ngoại trừ lục bát và song thất lục bát. Rất hiếm thấy một nhà thơ nào sử dụng vần như thế trong các thể thơ khác. Cũng có thể nói như thế này, vần là điều kiện ắt có và đủ để làm thành thơ và cũng chính vần đã làm nên thể điệu. Tôi không biết thi ca thế giới có loại ngôn ngữ nào sử dụng vần lưng trong thơ của mình hay không? Nhưng thơ Tàu, thơ Tây mà tôi từng đọc thì không thấy. Chắc có lẽ vì kém hiểu biết mà thường hay ồn ào ((một thứ ít thấy của người làm thơ) về cái vần lưng tuyệt cú mèo của thơ nước mình.
Và câu chữ cũng thế, không bó buộc theo bất cứ một quy luật nào, nhưng lại theo một quy luật gần như bất biến là âm điệu nằm trong câu chữ phải được sắp xếp sao cho gây cho người nghe những ấn tượng mạnh mẽ hoặc êm đềm.
- Thú vị tình thâm
Lấy phải con vợ đái dầm, thú vị tình khai
- Nhớ ai cơm chẳng buồn nhai
Chống đủa thở dài hết chín lần xơi
Tôi xin bát nữa là mươì
Đối phúc cùng trời có sống được chăng?

- Vốn khi xưa anh ở trên trời
Đứt dây rớt xuồng làm người trần gian
Vốn khi khi xưa anh thiệt thợ hàn
Anh hàn nồi bảy nồi ba
Bắt cô mười tám đem ra anh cũng hàn
Cô này to lỗ tốn than
Đồng đâu mà đổ cho dàn cái lỗ ni
Hết đồng anh lại pha chì
Mười ngày chín tháng cô  mình thọ thai
Sinh ra thằng bé con trai
Lớn lên giống bố đụng ai nó cũng hàn.
Với một sức sáng tạo phong phú như thế. Ca dao đã tạo nên một nền tảng cho những nhà thơ tha hồ mà lựa chọn cho mình một thể điệu yêu thích. Còn việc có hay bằng hay hay hơn ca dao hay không thì… hên xui.
Tất nhiên sự tồn tại của những câu ca dao và cả thơ nữa, bao giờ cũng chờ một yếu tố quan trọng là sự gạn lọc của thời gian. Ca dao xuất phát từ lòng người và sản sinh ra trong quá trình cuộc sống và là nền tảng cho các hình thái văn hóa dân gian, là mẹ đẻ của Thơ và góp một phần rất lớn vào âm nhạc. Với tính chất ấy giòng sông thơ chảy suốt những triệu triệu giòng đời.
            Trong suốt quá trình giành lấy nền tự chủ, rồi xây dựng củng cố và mở rộng giang sơn, tư tưởng tự do ấy đã làm cho tư tưởng Hán Nho buộc phải vặn mình lột xác để hòa nhập, chứ không thể đứng trên hay đứng ngoài giòng chảy của tư tưởng Âu Lạc mà đỉnh điểm là chuyến hành phương Nam với hơn hai trăm năm cuốc cày đi mở đất. Cuộc hành trình ấy đâu chỉ có khai hoang lập ấp, mở nước an dân. Hầu hết các chúa Nguyễn và quan lại Đàng Trong đều mang theo cái văn chương bác học của Đông Đô để đi vào miền đất mới. Nguyễn Ư Dĩ, Trần Đức Hòa, Đào Duy Từ, Võ Phi Thừa, Nguyễn Cư Trinh… Đặc biệt là hoàng thân Tôn Thất Dục đã tạo ra cây đàn bầu, và nhờ đó những làn điệu dân ca trở nên phát triển hơn, mượt mà hơn, nếu như những câu ca dao xứ Bắc đã biến thành Cò lả, Quan Họ, ca trù, chèo… tiếp tục trở thành Nam Bình, Nam Ai, các điệu lý, tuồng. Rồi sau… sau nữa ở miền đất mới Nam Kỳ nảy sinh một hình thức rất đặc sắc là các bài bản cải lương và truyện thơ Nôm đã làm thành một loại hình diễn đạt thơ độc đáo. Nói thơ. Tất cả đều xuất phát từ hát thơ, ru thơ. 
Ca dao phát triển nhanh hơn, nhiều hơn, phản ảnh một cách sinh động những tâm tình của những người đi dựng nước và mở nước. Những thứ ấy khởi đi từ Đông Sơn Thanh Hóa vươn ra núi Tản sông Hồng lớn dần lên... dần lên rồi lan tỏa dọc theo dãy Trường Sơn, rồi cất cánh tung bay trong bầu trời khoáng đạt của đồng bằng sông Cửu Long.
Ca dao đã làm giàu ngôn ngữ van trùm phủ một non song hơn bốn ngàn năm. Biết đâu chừng những giòng cổ tự trên những phiến đá ở hang Pá Màng, xã Liệt Tè, Thuận Châu, Sơn La lại là những câu ca dao. Rất có thể như thế. Nếu như đó là chữ Việt cổ.

Ca dao ở mỗi miền
Những câu ca mang theo hơi thở, nỗi lòng của con người hòa nhập vào cái khôn cùng của tạo vật. Từ xứ Bắc mượt mà, duyên dáng, đáo để… Và có một chút gì đó sang trọng.
- Ai làm cái nón quai thao,
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh.
- Hởi anh đi đường cái quan,
Dừng chân đứng lại em than vài lời.
Đi đâu mấy vội anh ơi,
Việc quan đã có chị tôi ở nhà…
- Ước gì sông hẹp một gang
Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi
- Ru con con ngủ cho lành
Mẹ đi gánh nước rửa bành ông voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng
- Sông Tô nước chảy trong ngần
Con thuyền buồm trắng chạy gần chạy xa
Thon thon hai mái chèo hoa
Lượn đi lượn lại như là bướm gieo
… … …
            Và cũng mang theo một triết lý nào đó:
Thằng Bờm
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi một xâu cá mè
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
Phú ông đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi. Bờm cười.
            Tôi vướng víu rất nhiều về cụm từ “Phú ông xin đổi…“. Một thái độ lịch sự bất thường của anh nhà giàu khi đưa ra những cái giá không tưởng để “xin đổi” cái quạt mo. Ông ta thật sự là con người lịch thiệp ư? Ông ta muốn giúp cho thằng Bờm ngây ngô thoát nghèo ư? Ông ta vung tiền qua cửa nhằm chứng tỏ sự giàu sang ư?... Dù đặt ra hàng ngàn câu hỏi cũng không thể giải đáp được cái thái độ thật sự của ông nhà giàu. Bởi vì, ông ta không hiểu cái giá trị thật sự của cây quạt mo. Và có lẽ tôi cũng không thể nào lượng định được giá trị thật của nó. Nó vô giá, từ vô giá này ai muốn hiểu sao thì tùy. Nhưng cái cười khì của Bờm khi đổi được cây quạt để đổi lấy nâm xôi, thì… chịu. Vừa thật tiễn vừa thật giá và thật lòng.
            Và tính cách của ca dao xứ Bắc thì đành mượn hai câu thơ, cũng đã trở thành ca dao, của Nguyễn Công Trứ để đánh giá vậy “Không thơm như thể hoa nhài. Không thanh lịch cũng là người Tràng An”
Vào… Miền Trung nắng lửa mưa dầu, ầm ào giông bão,  trúc trắc đá sỏi trên đường làng quê:
- Anh đến cùng hoa thì hoa đã nở
Anh đến cùng đò thì đò đã chở qua sông
Anh đến cùng em thì em đã lấy chồng
Em yêu anh như rựa đọ, có mặn nồng chi mô
- Ngó em không dám ngó lâu,
Ngó qua một chút đỡ sầu mà thôi.
- Em thương anh hái dâu quên giỏ,
Cắt cỏ quên liềm,
Xuống sông gánh nước hũ chìm, gióng trôi.
Cầu mô cao bằng cầu danh vọng
Nghĩa mô nặng bằng nghĩa chồng con
Ví dầu nước chảy đá mòn
Xa nhau nghìn dặm lòng còn nhớ thương.
- Anh nói với em
Như rựa chém xuống đá
Như rạ cắt xuống đất
Như mật rót vào tai...
Bây chừ anh đã nghe ai
Bỏ em giữa chốn thuyền chài rứa ni?
 … … …
Có một chút gì đó vướng víu trong âm điệu để thể hiện một tấm lòng giữa người với người trong những khó khăn; giữa người với đất, dù là đất khô cằn; giữa người và trời, dù là trời đầy giông bão; giữa người và thiên nhiên, dù thiên nhiên khắc nghiệt. Vì vậy, ca dao miền Trung mang một âm hưởng nghèn nghẹn nhưng chất trữ tình cũng vì thế mà đậm hơn. Và ở trong “ Cái khó nó lại ló cái… tình “
Và… đến Nam Bộ mênh mông mây trắng, bạt ngàn lúa xanh. Man mác, hào phóng và nghịch ngợm, táo tợn, đầy tính bất ngờ. Nhưng sự chân chất, hào sảng được đẩy lên rất cao để vẽ nên tấm bản đồ còn mới nguyên mùi mồ hôi, nước mắt và nụ cười.
- Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi.
- Phải chi cắt ruột đừng đau
Chiều nay tui cắt ruột, tui trao anh đem dìa
- Anh dìa, em nắm vạt áo em la làng
Bỏ chữ thương, chữ nhớ lại giữa đàng cho em.
- Ghe ai mũi đỏ xanh lườn,
Phải ghe Gia Định xuống vườn kiếm em.
- Bắt con cá lóc nướng trui
Làm mâm rượu trắng đãi người bạn xa
- Canh chua điên điển cá linh
Ăn chỉ một mình thì chẳng biết ngon.
- Mẹ già như chuối chín cây
Gió lay mẹ rụng con rày mồ côi
Mồ côi buồn lắm ai ơi
Chén cơn bát nước ngùi ngùi lòng con.

Hình thành từ xứ Bắc, cuộc hành trình suốt giòng lịch sử đến đồng bằng Nam Bộ, bắt đầu từ cuộc Nam chinh của vua Lý Thánh Tôn. Ca dao từng bước trở nên khoáng đạt, tinh nghịch hơn và phong phú hơn. Trong quá trình hình thành, ca dao từ ngâm chuyển sang hò, hát, ru… những loại hình bắt nguồn từ ca dao ấy mang đầy tình địa phương hoặc nghề nghiệp; hò Huế, hò sông Mã, hò trạo, hò giả gạo, hò xay lúa, hò cấy, hò gặt lúa, hát huê tình, hát dưng bông, hát quan họ, hát cò lả, hát xẩm, chầu văn, ngâm sa mạc… hò Đồng Tháp, hò Bạc Liêu… và nói thơ. Nghĩa là trong quá trình sinh hoạt, lao động. Ca dao hình thành và biến thể theo yêu cầu tình cảm của con người, của cộng đồng. Và ca dao là thơ và cũng có nghĩa là nhạc.
Ca dao thể hiện hết mọi khía cạnh của đời sống, nói lên cảm nghĩ của mình, của mọi cảnh đời và cả những cái nhìn về thiên nhiên, cũng không thiếu những phê phán những hành vi thiếu đứng đắn. Cuối cùng tất cả đều hòa quyện lại và trở thành một di sản chung của dân tộc. Tất cả được diễn đạt bằng một cái nhìn lạc quan dù đang đứng trước những khó khăn.
Sẽ tìm thấy trong ca dao những tình huống rất thực, thực đến trần trụi nhưng không hề tục tĩu. Nhưng cần phải có một sự nhận xét kỷ và đúng, kẻo thôi lại hiểu đó là nôm na, là mách qué. Tất nhiên, trong cuộc sống đã từng xuất hiện những loại như thế nhưng thời gian không cho nó tồn tại. Những câu ca dao được dẫn ra dưới đây hầu hết là loại đó. Nhưng trong cái kho tàng vô giá này vừa ẩn chứa, vừa phơi bày những giá trị đạo đức thật nhất và cần thiết nhất cho cuộc sống.
- Thứ nhất là đỗ thủ khoa
Thứ hai vợ đẹp, thứ ba ỉa đồng.
Câu này sẽ rất dễ làm cho các nhà bảo vệ môi trường nhăn mặt. Nhưng quy luật của tạo hóa được những người am hiểu cuộc sống muôn loài đã nói một câu mà những con người hiện đại cần suy nghĩ ”trời đất có tình”. Người ỉa đồng chưa bao giờ nghĩ đó là mất vệ sinh, là ô nhiểm môi trường, không phải họ thiếu ý thức, mà đó chính là sống theo quy luật của tạo vật, chẳng nhẽ đi xây toilet cho thú rừng... Người hiện đại làm ô nhiểm môi trường nhiều quá nên mới có khái niệm này thôi. Cái thải ra, cái không cần của loài này lại là điều kiện sống, thậm chí là nguồn sống cho loài kia. Động vật hít vào đế hấp thụ oxy, thở ra thải vào không khi khí carbonic; thực vật hấp thụ carbonic trả lai oxy, có gì là dơ là sạch đâu. Nhận vào là cảm thụ, trả lại là hiến dâng. Đất và nước có nhiệm vụ chuyển hóa và cân bằng. Và cả muôn loài cũng thế. Cuộc sống hiện đại thì lại khác. Tất nhiên, trong một thành phố người đông hơn kiến mà cứ làm trò ỉa đồng, đái đường thì quả là quái gỡ. Cuộc sống hiện đại hiểu được một phần quy luật đó, nhưng tiếc thay, vì hiểu cạn xợt, nên làm sạch và giữ gìn được có chút xíu, mà làm dơ và hủy hoại thì một đống tầy huầy. Mà sự hủy hoại lại lớn hơn nên phải phát lên lời kêu gọi giữ gìn. Sẵn đây tôi xin chân thành cám ơn nhà nghiên cứu Phan Ngọc về những giòng ông đã viết:“… Để thưởng thức thơ cổ cho thú, ta cần nhớ điểm sau đây: Tâm hồn của chúng ta thay đổi quá nhiều. Hiện nay chúng ta sống trong thế giới do ta tạo ra và do những quy luật tự nhiên mà ta nắm bắt một phần tạo nên. Thói quen ấy càng tăng lên với nền văn minh tiêu thụ đã cắt đứt mối quan hệ của ta với vũ trụ. Ta nhìn thế giới với con mắt của tên ăn cướp, cho nên không thể nào có lại được cái cảm quan rằng mình thống nhất với vũ trụ. Thằng ăn cướp ấy xem núi sông, cây cỏ như những đồ dùng và con người được hắn nhìn ở khía cạnh một đối tượng để rút một công dụng gì đấy… Không chỉ cái nhìn ngây thơ vào thế giới thần linh mất đi, mà cả cái nhìn ngây thơ vào thế giới bên ngoài cũng mất nốt. Quan hệ bạn bè bị thu hẹp vào quan hệ công việc. Quan hệ thầy trò cũng thế, quan hệ vua tôi chuyển thành quan hệ phân công. Rồi quan hệ nam nữ có nguy cơ chuyển thành quan hệ tính giao. Luật pháp là những đồ vật do ta chế tạo ra đang thay thế mọi quan hệ xã hội, dù đó là quan hệ gia đình. Cái khâu cuối cùng tưởng chừng vĩnh viễn là quan hệ mẹ con đang mất với lối đẻ con trong môi trường nhân tạo. Ta đang cố đồ vật hóa thế giới thì thế giới đồ vật trả thù: Ta Biến Thành Đồ Vật…( NV viết hoa) ” (Đỗ Phủ, Nhà Thơ Thánh. Trang 355)
Đấy người ta đang nhìn về và cư xử với vạn vật như thế, thì đâu phải chỉ là ô nhiễm môi trường sống mà còn ô nhiễm cả tâm hồn. Thế nên cái việc ỉa đồng, đái đường đâu có là gì so với những đống rác khổng lồ thời hiện đại. Người ta xả rác trên mặt đất, sông suối biển hồ, trên trời và cả trong tâm hồn mình. Mà xót thay, khi sản xuất, tiêu dùng và đi đến sùng thượng hàng hóa một cách vô tội vạ, gần như đồng nghĩa với hủy hoại chính mình, thì con người lại có quan niệm là làm thế cho sạch, cho sướng con người. Đạo Bụt không có khái niệm dơ sạch ”Thị chư pháp không tướng bất sinh, bất diệt; bất cấu, bất tịnh; bất tăng, bất giảm. (Bát nhã ba la mật tâm kinh). Khái niệm, trong đó có khái niệm dơ sạch, là của con người. Thiên nhiên không có khái niệm gì cả. Và chính vì có một khái niệm phân biệt ấy con người đã hủy hoại thiên nhiên, hủy hoại tâm hồn và hủy hoại... thơ.
 Đâu có nhà sản xuất nào đưa ra một quy trình thu hồi lại những bao bì và những sản phẩm quá hạn sử dụng đâu. Nếu có thì chỉ có một loại duy nhất là bia. Người thu hồi lại chai, nhưng lon thì tha hồ cho người tiêu dùng muốn làm chi đó thì tùy. Nhưng khi người ta nốc bia đến tràn họng, rồi ói mửa tùm lum ta la thì cứ vô tư.  Con người tìm mọi cách để cho công việc bớt đi nặng nhọc và khoái chí nhưng không vì thế mà con người nhàn hạ hơn mà chỉ làm cho hối hả hơn. Bởi thế cho nên… hổng biết nói sao đây ta. Mệt thiệt đó chớ.
Gần một ngàn trang sách viết về Đỗ Phủ. Tôi không thể nào đọc và hiểu nổi trong nhiều năm, nếu như không có lời hướng dẫn trên. Tất nhiên không có một lời nào hướng dẫn cho tôi về cách đọc, hiểu và cảm thụ một câu ca dao. Nhưng đoạn văn ấy thì có một giá trị còn hơn thế nữa. Ông Phan Ngọc đã sống, đã nhìn và đã chiêm nghiệm suốt cả một đời chỉ để tìm ra một cách sống cho chính bản thân ông và cho… tôi.
Ôi. Đọc thơ có dính dáng gì đến môi trường đâu ta?
- Trèo lên cây khế giữa ngày
Váy thì tụt mất lưỡi cày thò ra
Lưỡi cày ba góc chẻ ba
Muốn đem đòn gánh mà va lưỡi cày
- Sáng trăng suông em nghĩ tối trời
Em ngồi em để cái sự đời em ra
Sự đời như cái lá đa
Đen như mõm chó chém cha cái sự đời
Những cái hớ hênh này thì cũng thường thôi. Cái mất lịch sự không phải nằm ở chỗ hớ hênh mà nằm ở nơi người nhận ra điều đó và lợi dụng nó mà không hiểu gì về những lý do đích thực. Cái “sự đời”, “cái lá đa đen như mõm chó” ấy là cổng truyền sinh, một điều rất thiêng liêng chứ không phải là cái thô lậu của sự dục lạc.
 - Anh nay quyết chí đi tu,
Tam quy ngủ giới tu chùa Hồ Sen.
Thấy cô má phấn răng đen,
A Di Đà Phật anh quên mất chùa.
Có ai mua mõ thì mua.
Một người tu hành mà như thế, thì việc quên chùa, bán mõ tất nhiên phải xãy ra. Tu hành là việc không ai cấm, mà cũng chẳng ai ép. Việc đời cũng thế. Khi mà ép buộc người hay tự ép buộc mình thì cái hậu quả bao giờ cũng tréo ngoe. Ca dao phản ảnh một cách sinh động những cái tréo ngoe ấy.
- Mấy cô đội gạo lên chùa,
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư.
Sư về sư ốm tương tư,
Ốm lăn, ốm lóc cho sư trọc đầu.
Ai làm cho dạ sư sầu,
Cho ruột sư héo như bầu đứt dây.
Cái cô yếm thắm này chắc là tội lỗi đầy người? Hết chuyện rồi, mang cái yếm thắm của mình làm bùa dụ dỗ ông sư (?). Nhưng suy cho cùng, yêu chớ có ghét đâu mà có tội. Cô yếm thắm yêu ông sư. Nhưng ông sư mà lâm vào cái hoàn cảnh  như thế là tại ông sư… khó dứt được lòng trần. Họ có tội không? Xin thưa là không. Cái có tội chính là cái lề thói mang tính áp đặt. Tôi bổng nhớ lại bài thơ mà tôi làm hồi lúc đi tu trốn quân dịch. Chẳng ai bỏ bùa tôi. Mà tại vì…
ăn một hạt cơm chay,
anh nhớ em…
…thêm một chút
tụng một thời kinh,
anh tụng một thời tình
những buổi chiều,
bên hàng dâm bụt xanh.

anh đứng chờ em qua cổng.

cơn gió chiều bay lồng lộng.
anh chờ em.
đến bạc áo nâu sồng
Tôi không tự bao che cho mình hay là bênh vực cho ông sư bị bệnh tương tư. Nhưng tôi làm cái việc oái oăm trên chẳng qua là cuộc sống đẩy tôi vào chỗ tréo ngoe. Nhưng chẳng sao, tôi tu trốn quân dịch mà. Ai kêu em đẹp làm chi? Với lại tôi chỉ chờ em và ngắm em chớ có làm gì đâu. Đừng giận anh em nhé!
Từ đó, có thể nhận ra sự tự do có một giá trị cao quý đến độ nào cho cuộc sống, tất nhiên phải hiểu tự do không có nghĩa là muốn làm gì thì làm. Ta có quyền múa gậy vườn hoang, nhưng không thể có khái niệm”tự do phạm tội”. Không thể múa gậy giữa chợ vừa đụng tùm lum tà la vùa xốn mắt người, không thể múa gậy vườn có chủ làm tổn hại cây trái của người ta. Bởi vì khi làm một điều gì đó trái với nhưng định chế của thiên nhiên là đã mất tự do rồi. Nhưng tự do yêu đương mà bảo là không được thì hơi quái. Tôi yêu em. Có quyền. Em từ chối tôi. Có quyền. Em yêu ông sư, ông linh mục, em có quyền. Ông sư hay ông linh mục đáp lại hay chối từ, có quyền. Bùi Giáng đã khẳng định bao nhiêu lần cái “có quyền” ấy
Đấy là tự do của ca dao. Còn những nhà thơ thì liệu có dám là một bài thơ như thế không? Tất nhiên, không ai cấm, tôi chỉ viết thơ tình thôi mà.
-Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười chúm chím thưa anh giận gì
Thôi mà anh giận em chi
Muốn cưới vợ bé em thì cưới cho.
Một bà vợ hết ý. Nhưng chẳng biết ông chồng có cưới vợ bé không ta? Nếu như anh ta làm thiệt thì quả là anh ta… khùng. Anh ta mất tiêu cái tự do rồi.
- Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ba muơi tết có thịt treo trong nhà
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà cha cô đàn ông
Số cô có vợ có chồng
Có  con đầu lòng không gái thì trai
Cái số của cô này hay thật đấy chả bù cái số của ông thầy bói lại là cái số ruồi bu. Cái số đi “nói dóc ăn tiền”. Trong khi ca dao toàn là “nói dóc nghe chơi” để mà êm cái lỗ tai để mà cười khà cho... khoái
-Tử vi xem số cho người
Số thầy thầy để cho ruồi nó bu.
Vậy cho nên, những thứ gọi là thuần phong mỹ tục và đạo lý hình như có một vị trí rất khiêm tốn trong ca dao. Chỉ có những tình cảm chât thật nhất được diễn đạt đúng theo vần điệu của lòng.
- Bà già tuổi tám mươi tư,
Ngồi trong cửa sổ viết thư kén chồng.
Tình yêu đôi lứa là một động thái mang tính như nhiên của muôn loài. Không phân biệt bất cứ thứ gì. Cần thì tỏ lộ, tìm kiếm. Thế thôi. Bà già tám mươi tư tuổi vẫn được quyền yêu như thường, chỉ sợ là yêu không nổi, mà còn yêu nổi tức là bà ấy vẫn còn có một thân thể khỏe mạnh, một tinh thần minh mẫn và một dung nhan có thể làm xao động lòng ai. Muốn được thế thì bà ấy phải có một phong cách sống rất chuẩn để có thể thách thức thời gian, để đàng hoàng ngồi viết lá thư… kén chồng. Nghĩa là lựa chọn cho phù hợp chứ không phải hơi lớn tuổi rồi đụng đâu lấy đó và tất nhiên không hề lụm cụm khi đến nơi hò hẹn. Bao nhiêu người làm được thế nhỉ? Ít xịt. Thú thật, tôi mới hơn sáu mươi thôi, muốn viết một lá thư tình cũng hơi… bị ngọng. Có rất nhiều lý do: ngón tay lóng ngóng thì làm sao có thể có một nét chữ rồng bay phụng múa như ngày xưa, đầu óc mụ mẫm lấy ra đâu những câu văn mượt mà gẫy gọn như thuở nào. Viết thư tình mà chữ như gà bới, câu cú lôm côm thì cưa ai cho đổ đây. Ôi ông già nào được bà ấy chọn mà dám chối từ mới... lạ. Tất nhiên ông già ấy cũng phải đạt ít nhất một tiêu chuẩn... Không lụm cụm.
Có chồng càng dễ chơi ngang
Đẻ ra con thiếp con chàng con ai ?
Rất dễ bị sốc khi có một bà vợ tuyên bố như thế. Nhưng coi lại xem sự đúng sai được xem xét trên cơ sở nào. Con người, đạo lý hay những định chế đầu cua tai nheo gì đó.
Nhưng trường hợp này thì bạn nghĩ sao đây:
Đang khi lửa tắt cơm sôi
Heo la con khóc chồng đòi tòm tem
Đượm than ủ chín nồi cơm
Heo no, con ngủ, tem tòm thì tom
Thôi thì chuyện ai nấy liệu lường vậy
Nhưng dù gì thì vị trí con người vẫn là một yếu tố chủ đạo. Một quan điểm con người rất con người chính là cộng sinh và bằng lòng với sự cộng sinh ấy, nghĩa là bằng lòng với cuộc sống. Bằng lòng với cuộc sống, không có nghĩa là không có chí tiến thủ, mà là biết đủ thì đủ, không vọng động với những thứ phù phiếm xa hoa. Thời nào cũng thế, luôn luôn có những yêu cầu ảo. Càng tiến bộ nhiều chừng nào thì những yêu cầu ảo đó tăng lên và vây chặt lấy chúng ta. Cuộc sống tự tại bị triệt hạ. Và con người mệt bở hơi tai, quên ăn, quên ngủ, quên yêu, quên ỉa vì những điều bá láp. Ca dao đã ghi lại cho chúng ta một lối sống rất đáng yêu.
- Nhà ta giàu sang
Có ngô làm vàng
Có bắp làm bạc
Có một đàn hạc
Là ổ gà ri
Nhà chạm long ly
Nứa che xanh đỏ
Lọng che ta có
Là cả vòm trời
Sướng nhất trên đời
Là anh cày cuốc.
Có một tài sản “ghồ ghề“ như thế thì sướng là quá phải rồi. Có một thời con người thoải mái với nó, nhưng hôm nay lại không phải là chuyện dễ dàng gì? Có ai đó cười khì và bảo tôi… khùng.
Không thể nào đưa ra hết những câu ca dao tiêu biểu cho mỗi khía cạnh của đời sống. Mà lại là một đời sống xuyên suốt mấy ngàn năm. Tất cả mọi tình cảm, tâm tư, mọi sinh hoạt… và vô vàn thứ nữa được ca dao chuyển tải từ thế hệ này đến thế hệ khác. Và cũng chính ca dao lại đã thai nghén bao đời rồi trở dạ sinh thơ và cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho biết bao nhiêu loại hình văn học khác. Vua Lê Thái Tổ khi đi chinh phạt Điêu Cát Hã trở về đã chẳng từng lấy cảm hứng từ hai câu ca dao “Đường lên Mường Lễ bao xa, trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh “ để làm thơ đó sao?

  

Chinh Điêu Cát Hãn hoàn quá Long Thu đê
Kỳ khu hiểm lộ bất từ nan
Lão ngã do tồn thiết thạch can
Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ
Tráng tâm di tận vạn trùng san
Biên thùy hảo vị trù phương lược
Xã tắc ưng tu kế cửu an
Hư đạo nguy than tam bách khúc
Như kim chỉ tác thuận lưu khan
Gập ghềnh đường hiểm chẳng e xa
Dạ sắt khăng khăng mãi đến già
Lẽ phải quét quang mây phủ tối
Lòng son san phẳng núi bao la
Biên cương cần tính mưu phòng thủ
Xã tắc sao cho vững thái hòa
Ghềnh thác ba trăm lời cổ ngữ
Từ nay xem chẳng nổi phong ba
                             4.1429
 ( Lê Quý Đôn.  Kiến Văn Tiểu Lục)
Đây là một cảm hứng từ ca dao xưa nhất mà chúng ta được biết, và được ghi lại bằng sách vở hẵn hoi. Nhưng ca dao là nguồn cảm hứng cho thơ thì chắc chắn là xuất hiện từ lâu lắm. Còn hiện nay thì dù ca dao không còn phổ biến như xưa, nhưng đã thẩm thấu và hòa vào biết bao nhiêu loại hình văn học nghệ thuật khác.

Nếu ngồi mà kể ra cho hết thì chẳng biết đến bao giờ. Nhưng cái cơ bản nhất thì luôn luôn chiếm đa số là Tình Yêu. Tình yêu trong ca dao không giới hạn trong phạm vi giới tính mà là một thứ tình yêu khoáng đạt hơn, rộng khắp hơn, mới có thể yêu được cái gì đáng yêu và yêu cả những thứ lôm côm, cà khịa bằng những cái cười phê phán nhẹ nhàng, những loại ngôn ngữ oái oăm nhất cũng được vận dụng một cách tài tình nhằm một mục đích tối thượng. Thổ lộ can tràng, nghĩa là thổ lộ một tình yêu. Đừng đòi hỏi ở ca dao một thiên anh hùng ca. Sự thẩm thấu và giao thoa của các nền văn hóa luôn luôn đi trên và đi ngoài những hình thái chính trị, dù rằng có đôi khi vì một mục đích nào đó, người ta vận dụng để đạt một yêu cầu, nhưng tính chất “mì ăn liền” ấy không phải là văn hóa. Bởi thế, ca dao không khi nào diễn đạt các hình thức chiến tranh hay thể hiện một quan điểm chính trị nào đó. Ở đâu thì không biết. Nhưng ở Việt Nam thì không. Đánh giặc, chống ngoại xâm thì không ai bằng. Khái niệm anh hùng trong chiến tranh thì lại không tồn tại trong ca dao. Và trong ca dao không có khái niệm tuyên truyền. Có một thời người ta cũng thường hay “sáng tác” ca dao để sử dụng vào mục đích này. Ý tưởng này thì hay đấy, nhưng không hiệu quả và những câu “ca dao” được sáng tác ấy… chết ngắc.
Có một vài câu ca dao được sáng tác vào thời chưa mở cửa, nhằm mục đích vận động dân làm thủy lợi mà tôi còn nhớ và hôm nay đọc lại nghe hơi… nhột nhột:
Ấm no không đợi trời cho,
Người làm ra nước sức to hơn trời (!?)
Nhưng sau đó thầy coi bộ không đủ đô nên…
Thằng trời đứng lại một bên,
Để ông thủy lợi đứng trên thằng trời.
Nó còn tệ hơn những câu ca dao nửa nạc, nửa mỡ. Và bây giờ thì không còn ai nhớ nữa.
Lại càng không thể tìm thấy một câu ca dao nào mang nội dung bôi bác, chửi rủa, vu khống. Nó đã từng xuất hiện đấy, nhưng từ tai này chui qua tai rồi... không đọng lại chút nào

Ngoài ra, cũng phải kể đến những trường hợp nối thêm ca dao có ý đồ. Thí dụ:
Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi
Đến đó thì hết. Nhưng người ta lại thêm.
Muốn đi mẹ dắt con đi
Con đi trường học mẹ đi trường đời.
Làm cho câu ca dao mang đầy tính “lên gân”, mà thuộc tính này thì ca dao rất kỵ. Ca dao có thể cường điệu, thậm chí nói dóc nghe chơi, nhưng không thể lên gân. Ngoài ra khi suy nghĩ kỹ sẽ tìm thấy cái khập khiểng về không gian, thời gian khi ghép bốn câu ấy lại với nhau. Khái niệm trường học, trường đời có một khoảng cách thời gian rất xa với hình tượng cầu tre lắt lẻo. Câu ca dao dưới đây thì lại quái hơn khi bị biên tập lại.
Mẹ già như chuối chín cây
Gió lay mẹ rụng con rày mồ côi
Mẹ già như chuối chín cây, thì mẹ già lắm rồi, như vậy thì con cũng không còn trẻ nữa. Mẹ mất, con mồ côi là lẽ đương nhiên. Mẹ mất thì buồn bã nhớ thương, hối hận ăn năn vì mình không nghe lời mẹ dạy khi còn trẻ, chăm sóc không chu đáo khi tuổi già thì quá phải rồi. Cảm giác đó gói gọn trong hai chữ mồ côi là đủ. Vậy mà…
Mồ côi khổ lắm ai ơi
Đồng tiền bát gạo con thời tự lo
Hay
Chén cơm manh áo biết nhờ cậy ai
Đúng là con trời… Thực ra người biên tập lại muốn kể công lao của mẹ, nhưng biên tập như thế thì quả là… non tay, vô tình làm cho ca dao trở nên khập khiểng. Con tới từng tuổi ấy mà còn phụ thuộc vào chén cơm manh áo của mẹ thì đúng là con... nghiện hay chí ít cũng là con bị sốt bại liệt. Thực ra là câu chót tôi được biết nó như thế này “ Chén cơm bát nước ngùi ngùi lòng con
Đồng ý là ca dao cũng do ai đó sáng tác rồi truyền sang người này người khác, rồi lần hồi người ta chẳng còn, mà cũng chẳng cần, biết tác giả là ai. Nên việc cải biên cho phù hợp với tình cảm đương đại là luôn luôn xảy ra. Nhưng không vì thế mà tùy tiện cách tân. Tất nhiên, không ai cấm, nhưng cuộc sống sẽ lưu giữ, truyền tải và thải loại.

Từ trong ca dao, sẽ nhận ra tính tự do tuyệt đối của nhân dân Âu Lạc trong suốt quá trình lịch sử để trở thành Việt Nam hôm nay. Văn hóa viết là con đẻ của văn hóa ca dao, nhưng văn hóa ca dao luôn luôn gìn giữ sức sống của riêng mình. Thiên nhiên và con người và muôn loài cùng hòa quyện cùng nhau trong cuộc sống chung. Những lễ hội từ ngàn xưa, xuất phát từ rất nhiều lý do; tế lễ thần linh, trúng mùa, trước một vụ mùa, sau một vụ mùa hay để tưởng nhớ một người nào đó có công lao to lớn với cuộc sống, xóm làng. Nhưng đàng sau các buổi lễ ấy là một điều kiện để hình thành những cuộc tình. Những câu ca dao hình thành từ đó làm nên tiền đề cho mọi loại hình văn hóa dân gian.
Điều tôi muốn nói hôm nay chẳng qua cũng chỉ là nói ra một chút cảm nhận của mình trong suốt quá trình đọc thơ và tập làm thơ.
Cuối cùng, nói vòng vo tam quốc cho đã đời, thì cái cốt yếu nhất làm cho ca dao xuất hiện, tồn tại và lan truyền và phát triển cho đến hôm nay chính là Lời Ru Của Mẹ. Ông anh Nguyễn Duy lo cũng phải. Nếu như lác đác đó đây xuất hiện những bà mẹ thời @ ru con bằng rock-rap hay hit-hop gì đó mà lại ru bằng đầu DVD. Và biết đâu, mai kia mốt nọ sẽ có một bà mẹ robot ru con. Nếu vậy thì buồn quá anh Duy há.
Chính những câu ca dao ấy, lời ru tiếng hát ấy là vần điệu của tấm lòng, vần điệu của sự sống. Trong chúng ta, ai cũng có ít nhất một lần để cho vần điệu ấy rung lên trong lòng mình, cuộc sống mình và phải trên một lần cảm thụ được những vần điệu ấy.
Và cuối cùng, tôi cảm thấy bất nhẫn làm sao khi mà các nhà sử học viết đủ thứ chuyện xảy ra trên đời. Không hiểu sao chẳng ai viết một giòng nào cho ca dao cả. Mà nếu có viết thì viết cho vui như… tôi vậy. Ngộ thiệt. Nhưng đừng ai kêu tôi viết nghe. Tôi không viết được đâu. Nhưng ăn theo thì được
Tóc Mai
    “ Tóc mai sợi ngắn, sợi dài
Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm.”
      Thời gian trôi. Cứ âm thầm…
bào mòn thương nhớ. Tháng năm lững lờ
      Chân qua trăm nẻo xô bồ
Tóc thêm trắng trắng, lòng khô khô dần
      Mịt mù bóng dáng cố nhân
Nụ cười, ánh mắt đã không còn gì
      Lưỡi tê mùi vị chua cay
Nụ hôn ngày cũ lạc loài về đâu
      Ba mươi năm ấy chìm sâu
Cái thời lưu luyến mịt mù gió mây
      Khi không người trở về đây
Dấu thời gian đã phủ đầy người xưa
      Và gieo chi cái ngẩn ngơ
Tóc mai vài sợi như chờ. Chờ ai.
      Xin đừng xát nữa muối ơi.
Quặn lòng xưa với trắng trời gió mây.
      Ngắn dài mấy sợi tóc mai
Lấy nhau chẳng được thương hoài ngàn năm.

Ruộng Ai

    “ Ruộng ai thì nấy đấp bờ,

Chẳng duyên chồng vợ đừng chờ uổng công.”
      Nhưng sao cứ giữ trong lòng,
Đi tìm thấy bóng mà không thấy hình.
      Còn mong chi thấy được tình,
Cái duyên chẳng có, nên thành khói sương.
      Vậy mà vẫn cứ còn thương,
Thương thì thương chớ vô phương vợ chồng.

Trồng Hường
       Trồng hường bẻ lá che hường,
Gió đưa, gió đẩy cho hường tốt tươi.
       Tốt tươi hường cứ tốt tươi,
Chớ nào tươi tốt cho người trồng đâu.
       Những khi mưa nắng dãi dầu,
Nắng mưa người hứng, dãi dầu người cam.
       Hường khoe hương sắc mùa xuân,
Người trồng phô dáng phong trần chờ xuân.

Trồng Trầu
      “Trồng trầu thì phải khai mương,
Làm trai hai vợ phải thương cho đồng.”
      Gẫm câu đồng vợ đồng chồng,
Oái  oăm  chi  thế  một  ông  hai  bà.
      Ở  bên  này  nhớ  bên  kia,
Ở  bên  kia  lại  lo  về  bên  đây.
      Tưởng xôm tụ, hóa bầy hầy,

Há mồm  ra  chạy  bên  này, bên  kia


Gió Đưa Gió Đẩy
“Gió đưa gió đẩy, về rẫy ăn còng,
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua.”

Cứ bon chen quên tuốt luốt quê mùa,

Cái dung dị ấy bây giờ hóa ngon.
Biết bao năm cứ mê mãi phố phường,
Mà quên vệt cỏ bên đường làng xưa
Quên giòng sông chuyên chở những câu hò,
Quên cô hàng xóm, quên đò sang sông.
Nhún trề chê cá chốt, cá lòng tong,
Chê canh rau ngót nát lòng riêu cua.
Quên làng quê có mưa nắng hai mùa,
Nửa đêm thức giấc hỏi bây giờ ở đâu?
Bổng thương làm sao, bổng nhớ làm sao?
Nụ cười cô hàng xóm ngọt ngào trong mơ.

Ghe Thương Hồ
“Bìm bịp kêu, nước lớn mênh mông,
Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê”
Gió sông mấy ngọn lạnh lùng ghê
Câu hò vang vọng, làm buồn tê sông chiều.
Nhịp nhặt khoan, đưa đẩy mái chèo,
Bến bờ nào đợi, tiếng reo nào chờ?
Cứ nổi trôi, một kiếp thương hồ.
Bến mua bán ghé. Bến chờ đợi không.
Để bóng chiều rơi xuống giòng sông.
Nghẹn câu vọng cổ cay lòng quạnh hiu.

D. Cuộc Khởi Nghĩa Của Bà Triệu Thi Trinh Và Khái Niệm Biển Đông
Khái niệm biển Đông xuất hiện ở VN từ lúc nào? Đặt ra một câu hỏi như thế là không thỏa đáng. từ biển Đông thực sụ đã có từ trước nữa, khi những cư dân Lạc Việt thành lập quốc gia Văn Lang trên địa bàn đồng bằng sông Hồng, sông Mã, là nhưng lịch sử và văn bản lưu lại thì có thể bắt đầu từ câu nói nổi tiếng của bà Triệu thị Trinh (225-248)
“ Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người! “Triệu thị Trinh  
“Bà Triệu sinh năm Bính Ngọ (226) tại miền núi Quân Yên (hay Quan Yên), quận Cửu Chân, nay thuộc làng Quan Yên (hay còn gọi là Yên Thôn), xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.Thuở nhỏ cha mẹ đều mất sớm, Bà Triệu đến ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng ở Quan Yên.

Lớn lên, bà là người có sức mạnh, giỏi võ nghệ, lại có chí lớn. Đến độ 20 tuổi gặp phải người chị dâu (vợ ông Đạt) ác nghiệt , bà giết chị dâu rồi vào ở trong núi Nưa (nay thuộc các xã Tân Ninh huyện Triệu SơnMậu Lâm huyện Như ThanhTrung Thành huyện  Nông Cống, Thanh Hoá), chiêu mộ được hơn ngàn tráng sĩ.Năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại nhà Đông Ngô (Trung Quốc) tàn ác, dân khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh việc khởi binh chống lại. Lúc đầu, anh bà không tán thành nhưng sau chịu nghe theo ý kiến của em.
Từ hai căn cứ núi vùng Nưa và Yên Định, hai anh em bà dẫn quân đánh chiếm quận lỵ Tư Phố nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là căn cứ quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân, đứng đầu là Tiết Kính Hàn. Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng đồng bằng con sông này.
Đang lúc ấy, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời.[7] Các nghĩa binh thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Khi ra trận, Bà Triệu mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi và được tôn là Nhụy Kiều tướng quân.

Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh, vua Ngô là Tôn Quyền  liền phái tướng Lục Dận (cháu của Lục Tốn), sang làm thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu uý, đem theo 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Đến nơi, tướng Lục Dận liền dùng của cải mua chuộc một số lãnh tụ địa phương để làm suy yếu và chia rẽ lực lượng nghĩa quân.
Những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền. Song do chênh lệch về lực lượng và không có sự hỗ trợ của các phong trào đấu tranh khác nên căn cứ Bồ Điền bị bao vây cô lập, và chỉ đứng vững được trong hơn hai tháng.
Theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, bà chống đỡ với quân Đông Ngô được năm sáu tháng thì thua. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào năm Mậu Thìn (248), lúc mới 23 tuổi. Có giai thoại nói rằng tướng giặc lợi dụng việc phận nữ nhi đã truất bỏ y phục trên người khiến Bà Triệu từ đó xấu hổ mà dẫn đến tự tử.
(https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A0_Tri%E1%BB%87u)

Và từ câu nói đó, khái niệm “biển Đông” đã khẳng định và ăn sâu vào tâm khảm của người dân Việt trong mọi lãnh vực của cuộc sống rằng vùng biển ấy nằm ở phía Đông của đất nước thân yêu, dù thỉnh thoảng ta cũng nhận thấy có vài lần xuất hiện, một cách lạc điệu của cái tên Nam Hải, bởi mấy ông đồ nho co ro cúm rúm trước cái nền văn hóa Nho giáo.

Chúng ta có thể khẳng định điều này khi lục tung cái kho tàng ca dao, tục ngữ khổng lồ của dân tộc để nhận ra hằng trăm, hằng ngàn câu nói vể “biển Đông” mà chẳng tìm ra được một câu nào nói tới hai từ “Nam Hải”:

Đêm khuya thức dậy xem trời
Thấy sao biển Bắc đổi dời qua biển Đông
Làm sao cho hiệp vợ chồng
Cho lê hiệp nhãn, cho rồng hiệp mây.

 - Đấy với đây chẳng duyên thì nợ
Đây với đấy chẳng vợ thì chồng
Dây tơ hồng chưa se đã mắc
Rượu Quỳnh Tương chưa nhắp đã say
Chẳng thương chẳng nhớ sao hay đi tìm
Tìm em như thể tìm chim
Chim bay bể Bắc đi tìm bể Ðông

Mịt mù sóng bủa biển Đông
Anh vâng lệnh Chúa, lạnh lùng thân em.
Ơi người mặc áo vá vai
Bác mẹ em vá hay tài vá nên!
Cách sông hay thẳng đường liền
Để anh bỏ việc ngày đêm đi tìm.
Tìm em như thể tìm chim
Chim ăn bể Bắc đi tìm bể Đông.
Mong sao gặp hội tương phùng
Hỏi người xa cũ còn không hỡi người

Ai đi muôn dặm non sông, 
Để ai sầu chứa biển Đông vơi đầy.

Ai về vườn nhãn Bạc Liêu,
Cho tôi nhắn gởi đôi điều vấn vương,
Biển Đông trời nước thân thương,
Nhớ người đi mở đất góp công xây đời.

Ai sang đò ấy bây giờ
Qua còn ở lại, qua chờ bạn qua,
Mưa nguồn chớp biển Đông xa
Ấy ai là bạn của qua, qua chờ

Nước biển Đông đang cơn gió thổi
Chiếc thuyền em trôi nổi, khác thể cánh bèo
Ý làm sao anh không ra chống đỡ chèo
Anh hùng sao lại nằm queo trong thuyền

Anh ơi! giữ lấy việc công
Mặc cho ngọn sóng biển Đông ầm ào.

Đêm qua ngỏ cửa chờ chồng
Ðêm nay ngỏ cửa gió biển Ðông lọt vào

Ngọn dừa hứng gió biển Đông 
Còn em hứng nỗi ngóng trông người về
Sóng nào cao bằng sóng biển Đông
Buồn nào bằng cảnh có chồng đi xa
 - Ăn cơm cũng thấy nghẹn,
Uống nước cũng thấy nghẹn,
Nghe lời em hẹn ra bãi đứng trông,
Biển Đông bát ngát nhìn không thấy người.

Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm (9)
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say.
Tình non nghĩa nước bao ngày,
Biển Đông thì cũng đã đầy nhớ thương 

 Anh đứng ở Nha Trang
Trông sang Xóm Bóng
Ánh trăng lờ mờ, lượn sóng lăn tăn.
Gần nhau chưa kịp nói năng,
Bây giờ sông cách, biển ngăn ngại ngùng?
Biển sâu con cá vẫy vùng
Sông sâu không dễ mượn dòng đưa thư
Anh nguyền cùng em:
Bao giờ Hòn Chữ bể tư
Biển Đông cạn nước
Anh mới từ duyên em


Bước ra rồi lại bước vào
Đất kia sinh lựu rồi lại sinh đào
Nước kia sinh cá ra vào biển Đông
Trời xanh sao vịt, sao công
Có sao bánh lái nằm trong da trời
Đêm năm canh, ngày sáu khắc
Nguyệt lặn dời về non
Anh hỏi em tỏ hết vuông tròn
Em đây hỏi lại chớ mấy hòn cù lao

 Bao giờ cạn lạch Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền .
Biển Đông sóng dợn cát đùa,
Sánh đôi không đặng lên chùa anh tu.

Biển Đông gió thổi bốn mùa,
Say mê lời nói thuốc bùa không hay.

 - Biển Đông sóng bủa, cát đùa
Dù sánh đôi không đặng, hãy lên chùa cùng tu.

Biển Đông sóng dực ba đào,
Ngãi nhân khác thể sóng nhào biển đông.

Bập bùng sóng bùa biển Đông, 
Thấy bậu chưa chồng qua để ý thương.

Buồn hư rồi lại buồn hao 
Liều mình tự ải ra vào biển Đông
Sống làm chi cho vợ khổng gặp chồng
Kẻ ăn lê lựu người mong đợi chờ
Ngồi buồn trách nỗi ông Tơ
Thác theo trăng gió một giờ cho nguôi

Cầm buồm chạy thẳng hướng Nam
Làm thơ gởi lại em khoan lấy chồng
Sóng trào trắng xóa biển Đông

Làm sao quên được má hồng như em
Mịt mùng sóng bủa biển Đông 
Bao giờ em mới chịu lấy chồng hả em?


Nhưng thú vị nhất là:
Đồng vợ đồng chồng
Tát biển Đông cũng cạn

Bắp với khoai tuy rằng khác giống
Nhưng cùng sống trên cục đất giồng
Anh với em đồng vợ đồng chồng
Tát biển Ðông cũng cạn, đập núi Hồng cũng tan

 
Với những câu ca dao như thế, chúng ta nhận thấy biển Đông và từ “biển Đông” nó gắn bó vào cuộc sống vào tự tình dân tộc đến nhường nào. Không cần lên gân, không cần khẳng định. Yếu tố “biển Đông” là yếu tố cần và đủ cho quốc gia cho dân tộc, không thể phân lìa, không thể khác đi, trong tiếng Việt có hơn phân nữa là từ Hán Việt, nhưng người dân Việt không hề nói đến từ Đông Hải và lại càng không bao giờ nói là Nam Hải để gọi biển Đông.

Có lẽ từ đây mà xuất hiện một khái niệm tự chủ và để củng cố khái niệm đó một cách kiên cương mà rất hòa bình nên đã hình thành những câu ca dao lại mang đầy tính “dư địa chí” như để vừa để giới thiệu, ca ngợi và khẳng định quê hương mình, đất nước mình mà không cần gươm đao kiếm kích. Vả tiếng nói này, loại hình văn học này được khai sinh trên những địa danh này. Nó khẳng định “Đây là quê hương, đất nước của cjhu1ng tôi”

- Mình về đường ấy thì xa
Để anh bắc cầu sông Cái về qua Ninh Bình
Đất Ninh Bình có chùa Non Nước
Núi Phí Diên, Hồ Hạc vây quanh
Em về em chớ quên anh
- Anh đi anh nhớ non Côi
Nhớ giòng sông Vị, nhớ người tình chung
Quản bao non nước ngại ngùng
Lấy ai san sẻ gánh gồng đường xa
- Ai qua núi Tản sông Đà
Ghé qua Tu Vũ mặn mà tình thương
-Thứ nhứt thì bầu Chi Lăng
Thứ nhì trái khế Đồng Đăng, Kỳ Lừa
... ...
- Bồng em mà bỏ vô nôi
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Bát Nhị, mua trầu Hội An
- Học trò xứ Quảng ra thi
Thấy cô gái Huế chân đi không đành
- Ai về cầu ngói Thanh Toàn
Đợi đây về với một đoàn cho vui
- Đò từ Đông Ba, đò qua đập đá
Đò từ Vĩ Dạ thẳng ngả Ba Sình
Lờ mờ bóng ngã trăng chênh
Tiếng hò xa vọng nặng tình nước non
- Tiếng đồn con gái Phú Yên
Con trai Bình Định đi cưới một thiên cá mòi
- Đi bộ thì khiếp Hải Vân
Đi thuyền thì khiếp sóng thần hang Dơi
Yêu nhau cho thịt cho xôi
Ghét nhau đưa đến Kim Bôi, Hạ Bì
- Chiều chiều trên bến Vân Lâu
Ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm
Ai thương ai cảm ai nhớ ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non
....
- Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng Xà No.
Có thương em, anh cho một chiếc đò.
Để em lên xuống thăm dò ý anh.
- Ăn bưởi thì hãy đến đây
Đến mùa bưởi chín vàng cây trĩu cành
Ngọt hơn quýt mật cam sành
Biên Hòa có bưởi trứ danh tiếng đồn
- Bến Tre giàu mía Mỏ Cày
Giàu nghêu Thạnh Phú, giàu xoài Cái Mơn
Bến Tre biển cá, sông tôm
Ba Tri muối mặn, Giồng Trôm lúa vàng
- Đèn Sài Gòn ngọn xanh, ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ
- Xứ Cần Thơ nam thanh nữ tú
Xứ Rạch Giá vượn hú chim kêu
-Bắp non mà nướng lửa lò
Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm
-Muốn ăn điên điển mắm kho
Thì vô Đồng Tháp ăn cho đã them
- Ba phen quạ nói với diều
Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm
- Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh
Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân
Anh thương em chẳng ngại xa gần
Quýt hồng vài chục, đôi cân trà tàu
- Bước lên ngọn núi Tô Châu
Thấy em gánh nước trên đầu giắt trâm
Anh từ Rạch Giá lên thăm
Sợ trâm em rớt gánh dùm cho em
...

E. Ca Dao Và Minh Triết Việt
Có một ai đó khá nổi tiếng, tiếc rằng tôi không nhớ tên, nói rằng “triết Đông, triết Tây v…v…và v…v… đều có nhưng không có triết ta”.

Mà triết thì tôi kỵ dữ lắm, dù cũng đọc, thậm chí đọc nhiều, khi thiếu sách, mà chả hiểu mô tê gì: Tứ thư, Ngũ Kinh, Tư bản luận, Bách gia chư tử, Jean Paul Sartre, Henry David Thoreau… Kinh Phật và cả Tân Ước, Cựu Ước… nhưng nói theo kiểu Nguyễn Thế Duyên Vấn đề không phải là ăn, vấn đề ở chỗ tiêu hóa. Phải tiêu hóa đươc thì nó mới là của mình còn ăn ngô lại ỉa ra ngô thì cơ thể vẫn suy dinh dưỡng. Có lẽ chính vì vậy mà tôi rất ghét trích dẫn”. 

Nhưng cái chuyện trong sinh hoạt văn hóa của người Việt cái gì cũng Tàu thì cái này hơi bị… đúng. tôi đã từng học chữ Tàu vì khoái thơ Đường và thơ của những nhà thơ VN thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn. Nhưng bây giờ thì không khoái nữa vì ghét Mao Trạch Đông và Cộng Sản Tàu.

Trở lại vấn đề triết ta thì theo tôi nghĩ là có đấy. Nó nằm trong cái kho khổng lồ của văn hóa dân tộc. Ca Dao. Ở đó không có hơi Tàu, thỉnh thoảng người ta gặp vài câu chữ Hán nhưng lại là cái kiểu “mượn giáo Tàu đâm Chệt”  Ví dụ như:

Tam Hoàng, Ngủ Đế chi thư
Thầy ngồi thầy để củ từ thầy ra

Có điều là chưa có ai hệ thống nó lại
Rồi khi lật tung các tự điển để xem các nhà tự điển giải nghĩa từ triết như thế nào, tôi mới biết tạm tàm như thế này; “Triết” là phong cách sống được đa số trong một cộng đồng chấp nhận. Khi đã biết sơ sơ như vậy, tôi mày mò trong cái nhà kho khổng lồ kia và khoái nhất hai câu này:

Ở đời có bốn thứ vui
Ăn, ngủ, đ…, ỉa lui cui làm hoài
Tôi chú ý đến từ “vui” ở câu trên và “lui cui” ở câu dưới rồi tìm hiểu ý nghĩa thật sự của hai từ này và… khoái. Khoái nhất là cách tu từ phải lui cui mới vui mới khoái.

Trong cuộc sống của nhân loại có bốn nhu cầu, nhưng lại có lắm yêu cầu, chính vì có lắm yêu cầu nên mới nãy sinh đủ thứ triết học nhằm mục đích sắp xếp lại cho trật tự những thứ yêu cầu lu bu lang bang ấy. Và rồi người ta lại quanh quẩn với yêu cầu quên bẳng những nhu cầu hoặc có nhớ thì cũng chỉ để làm biến tướng nó.

Triết Tàu thì có ông chệt Khổng Tử với cái chiêu “tu thân bằng cây kềm, tề gia bằng cây roi, trị quốc bằng cây cùm, bình thiên hạ bằng cây gươm” rồi ra rả tuyên truyền nó với Tứ thư, Ngũ kinh rồi theo thời gian nó cộng với cái gọi “duy vật biện chứng” gì gì đó để biến tướng thành “Cộng Sản chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc”, rồi “Mèo trắng Mèo đen”, bây giờ là  “Giấc mơ Trung Hoa”…

Triết Tây thì thôi rất ư lu bu nào duy vật, duy tâm, duy lý để cuối cùng thì nãy sinh ra ông  Karl Marx râu xồm (18181883) và Friedrich Engels (18201895) chơi một màn “Gom bi” lại để bắt đầu từ Marxist rồi Léninis, Stalinist, rồi Trốtkist, rồi Maoist, rồi Tùmlumist. Nhưng chung quy thì là“chủ nghĩa cộng sản” nghĩa là tất cả cái thứ gì gọi là vật chất đều là tài sản chung của nhân loại. Và cái Đảng ist.. ist.. đó giao cho nhân dân làm chủ, để cho nhà nước Quản lý (gồm tất cả cán bộ nhà nước vốn là đảng viên đảng ít… ít… giữ hầu hết mọi chức vụ quan trọng) hoạt động dưới sự lãnh đạo của BCH/TW Đảng ist.. ist.. trên mọi lĩnh vực hành pháp, tư pháp, lập pháp. Mục đích được rao giảng là những người Marxist cố gắng tích hợp các ý tưởng trong đó vào trong một phương án chuẩn xác chung phục vụ cho việc xây dựng một trật tự xã hội xã hội chủ nghĩa rồi cộng sản chủ nghĩa. Nói một cách nôm na là tất cả đều bình đẳng trong cuộc sống từ manh áo đến chén cơm, miếng thịt. Thành phần cốt cán của họ là một liên minh gọi là “liên minh Công Nông” với lời kêu gọi “Vô sản các nước hãy đoàn kết lại”

Tiếp theo là chủ nghĩa  Fascist, từ này có nghĩa là một bó, một nhóm với lý luận là một chiếc đủa thì dễ bị bẽ gãy hơn là một bó đủa nên họ kết hợp một nhóm quốc gia lại (hay một nhóm dân tộc lại) như trục Đức-Ý-Nhật-Tây Ban Nha. Biểu tượng của chính quyền hành chính nhân dân. Cũng lại nhân dân nhưng quyền lực thì nằm trong tay nhân vật đứng đầu Nhà nước. Và từ đó nó biến thiên thành chủ nghĩa dân tộc hẹp hòichủ nghĩa tư bảnchủ nghĩa độc tài quân sựchủ nghĩa quân phiệtchủ nghĩa chống cộngchủ nghĩa hợp tácchủ nghĩa toàn trịchủ nghĩa chuyên chế (những tên chủ nghĩa này là do Cộng Sản đặt) để chống lại chủ nghĩa tự do (!?) và chủ nghĩa cộng sản.

Ngoài ra còn thêm hàng lô hàng lốc những nào là tư tưởng, học thuyết, chủ nghĩa, triết lý do các nhà “thông thái” đặt ra để nhằm mưu cầu đặt ra một tiêu chuẩn để thiết lập một xã hội an toàn hơn cho nhân loại. Suy cho cùng thì các ông này không có tội tình gì? Chẳng qua là họ có một tí mơ mộng, một chút lãng mạng khi công bố những suy nghĩ của mình. Đa số họ không ai tự tay thực hiện những điều mình nghĩ ra, chỉ có một người muốn như vậy là ông Khổng Tử, bôn ba cho lắm rồi cũng chẳng tới đâu? Nhưng người sử dụng thành quả của mấy ông khi mang nó vào thực tế thì kinh khủng quá. Hơn 2000 năm tồn tại, hệ tư tưởng Nho giáo đã làm thui chột biết bao nhiêu tài năng, hủy hoại biết cơ man nào là hạnh phúc và làm chết biết bao nhiêu người mà không thể nào thống kê nổi. 10 năm thực hiện chủ nghĩa Phát xít ngốn 25 triệu người và hơn 100 triệu gia đình tan nát. Từ ngày chủ nghĩa CS xuất hiện năm 1917 đến lúc lụi tàn còn lại 4 ngoe cũng tiêu tốn hơn 150 triệu (chưa kể các đồng chí âm thầm thịt nhau không ai biết) Không biết từ đây đến ngày 4 ngoe này đứt bóng thì tiêu mất bao nhiêu nữa.

Trở lại cái gọi là CSCN thì cái mục tiêu cuối cùng là thủ tiêu giai cấp. Tất cả là đồng chí, là bình đẳng. Chẳng biết cái ông “Liên Xô bành ky” và cái ông “Trung Quốc thiệt bự” kia thì sao? nhưng ở Việt Nam thì nãy sinh ra hàng lô giai cấp mới. Ban đầu là chế độ ăn “Đại táo” (táo bự = đồng chí bự) – “Trung Táo” (táo vừa vừa=đồng chí vừa vừa)– “Tiểu Táo” (táo nhỏ xíu=đồng chí tép riu), kế tới là chế độ lý lịch “giai cấp công nhân” (làm thuê), “ giai cấp nông dân” (làm ruộng), “giai cấp tạch tạch sè” “ giai cấp nghèo thành thị”… Kể hoài không hết tùy theo từng giai đoạn.

Hên là dân tộc Việt Nam không có một nhà thông thái nào xuất hiện. Hầu hết cái gọi là triết học, tư tưởng, học thuyết, chủ nghĩa này nọ toàn là do người ta khinh xuất bê vào hoặc bị áp đặt. Nhưng lại thêm một cái hên nữa là hầu hết các dân tộc thì cái giai cấp gọi là dân thường ấy cũng không mặn mà gì lắm với những thứ trời thần đó, đôi khi họ cũng mó tay hay ghé mắt vào một chút rồi thôi (vì chán hay vì tức chết hoặc bị giết chết) những người còn lại hoảng quá bèn thôi.
Nhưng thôi. Bỏ qua một bên cái chủ nghĩa, học thuyết, tư tưởng, triết học Đông, Tây, Tàu… với hàng hàng lớp lớp ngôn từ đọc banh cả mắt, nghe điếc cả tai, (mà không hiểu mô tê gì)  qua một bên.
Tui cứ “lời quê góp nhặt dông dài (Kiều)” bằng hai câu ca dao trên.
Bên trên tui thấm hai từ “vui” và “lui cui” nghe sao mà quê trớt. Không biết cái ông lão nông nào mà buột miệng bung ra hai câu này xài hết mấy bánh thuốc rê và uống bao nhiêu bình trà đây, để ngẫm nghĩ cái lẽ đời Nhưng thôi, cứ gẫm xem ngày xưa các cụ vui như thế nào với cái…

Ăn-Uống: Ăn uống mà ngon nhất và vui nhất là khi đói và khát mà thấy cái gì ăn được là ứa nướng miếng ra hoặc miệng khô queo đắng nghét mà gặp phải lu nước mưa với cái gáo dừa tra cán. Hoặc khi gặp bạn bè chí cốt thì cứ “rượu cùng chí cốt trăm ly ít”. (Lê Tuấn Đạt) đã từng ngồi ăn ba chén cơm nguội với muối ớt một cách ngon lành, ăn xong nốc một gáo nước mưa và có cảm giác cuộc đời sao đáng yêu quá đỗi.

Ông cụ Tản Đà có đưa ra một tiêu chí ăn uống rất oách: Đồ ăn ngon, rượu ngon, Ly tách, chén đĩa không ngon. Không Ngon. Đồ ăn ngon, rượu ngon, Ly tách, chén đĩa ngon. Chỗ ngồi không ngon. Không Ngon. Đồ ăn ngon, rượu ngon, Ly tách, chén đĩa ngon. Chỗ ngồi ngon. Người cùng ăn không ngon. Không Ngon. Xem ra có lắm yêu cầu, nhưng thật tình mà nói. Ông cụ Tản Đà nói không sai. Cái ăn theo nhu cầu đói khát theo kiểu LTD ăn cơm nguội là cái ăn của sự cảm thọ. Cái ăn của cụ Tản Đà thì ngoài cái cảm thọ ra còn là cái ăn của sự cảm giao. 

Trong xuyên suốt lịch sử ăn uống của nhân loại có ba bữa ăn nổi tiếng trong lịch sử Phương Đông (Chủ yếu là Trung Hoa):

1. Hồng Môn Hội Yến 
“ Trong phong trào khởi nghĩa chống Tần, đạo quân khởi nghĩa ở huyện Bái do Lưu Bang lãnh đạo là một lực lượng không thể coi nhẹ. Lưu Bang tự Quý người xã Phong, huyện Bái, ông đã tụ tập hơn trăm người chiếm cứ trên núi Mang Đãng.
Ít lâu sau, Lưu Bang được tin Trần Thắng và Ngô Quảng khởi nghĩa, bèn cử người sang liên hệ với hai người bạn của mình đang làm huyện lại là Tiêu Hà và Tào Tham, họ giết chết quan huyện, chiếm lấy huyện lỵ, nhanh chóng tụ tập được hai ba nghìn quân, Trương Lương ở Lưu Thành cũng dẫn hơn 100 người đến xin theo, Lưu Bang nghe theo lời kiến nghị của Trương Lương, đã dẫn quân đi theo Hạng Lương.
Sau khi Hạng Vũ đánh bại quân Tần ở Cự Lộc, biên chế hàng binh của Chương Đan, từ đó trở nên rất kiêu ngạo, khi được tin Lưu Bang đã chiếm được Hàm Dương, Hạng Vũ vô cùng bực tức, bèn dẫn quân đánh thẳng sang cửa ải Hàm Cốc, quân của Lưu Bang quá ít, nên quân của Hạng Vũ đã nhanh chóng chiếm được cửa ải, ̣đánh thẳng một mạch đến Hồng Môn mới đóng quân lại, nơi này chỉ còn cách nơi đóng quân của Lưu Bang hơn 40 dặm. Khi Hạng Vũ bàn cách đối phó với Lưu Bang thì mưu sĩ Phạm Tăng trả lời rằng: "Lưu Bang là một tên vô lại, nay hắn chiếm được Hàm Dương, mà không hề tham của và mỹ nữ, quá đó đủ biết dã tâm của hắn không nhỏ, nếu không trừ bỏ hắn đi thì tất để vạ về sau ."
Hạng Vũ nghe vậy bèn hạ quyết tâm tiêu diệt Lưu Bang. Hạng Bá chú của Hạng Vũ và Trương Lương thuộc hạ của Lưu Bang vốn là đôi bạn tri giao. Lưu Bang bèn nhờ Trương Lương mời Hạng Bá đến, nó rõ mình không dám phản đối Hạng Vũ, mong Hạng Bá về nói hộ và khuyên Hạng vũ chớ nên xuất binh. Đồng thời còn bảo Trương Lương làm mối, đem con gái mình gả cho con trai của Hạng Bá. Hạng Bá vui mừng rồi tỏ ý sẽ tiến dẫn Lưu Bang đến xin lỗi Hạng Vũ.
Hôm sau, Lưu Bang dẫn theo Trương Lương, Phàn Khoái, gồm hơn 100 người đến Hồng Môn xin lỗi Hạng Vũ. Lưu Bang thành khẩn nói với Hạng Vũ rằng: "Tôi và tướng quân cùng khởi binh diệt Tần, tướng quân đánh Hà Bắc, tôi đánh Hà Nam, tôi may mắn tiến vào cửa ải trước, nhưng tôi vẫn ngày đêm mong tướng quân đến, chứ đâu có ý kháng cự với tướng quân? Ngay đến việc vua Tần đầu hàng, tôi cũng còn đợi tướng quân đến giải quyết, mong tướng quân chớ có nghe lời đồn nhảm". Hạng Vũ nghe vậy lửa giận cũng bớt đi một phần, rồi cười phá lên rằng: "Tôi vốn không nghi ngờ Bái Công, cũng chỉ vì thủ hạ của Bái Công tung tin, nên tôi mới nghĩ vậy thôi. " Hạng Vũ nói xong liền nắm tay Lưu Bang giảng hòa, rồi ra lệnh bày tiệc tiếp đãi Lưu Bang. Phạm Tăng biết Lưu Bang là người túc chí đa mưu, vốn muốn nhân cơ hội này để trừ đi cho đỡ hậu hoạn, nhưng nào ngờ Hạng Vũ lại không làm như đã bàn, mà còn nói năng rất vui vẻ.
Trong bữa tiệc, Phạm Tăng đã nhiều lần giơ miếng ngọc đeo bên mình ra hiệu cho Hạng Vũ, nhưng Hạng Vũ cứ làm như không nhìn thấy, Phạm Tăng sốt ruột bèn mượn cớ ra ngoài, tìm gặp Hạng Trang em họ của Hạng Vũ và nói rằng: "Đại vương mềm lòng không nỡ hạ thủ, nay anh vào múa kiếm trợ hứng, rồi nhân cơ hội giết quách Lưu Bang đi". Hạng Trang nghe theo liền vào phòng tiệc nói rằng: "Nay chẳng có trò gì vui cả, vậy tôi xin múa kiếm để trợ hứng". Nói xong liềm rút kiếm ra, vừa múa vừa áp sát Lưu Bang, mũi kiếm đã nhiều lần sắp chạm vào Lưu Bang, khiến Lưu Bang hoảng hốt phải ngả người về phía sau để tránh.

Hạng Bá nhận rõ ý đồ của Hạng Trang, lo lắng thân gia của mình bị hại bèn nói rằng: "Hai chúng ta cùng múa cho vui". Nói xong cũng rút kiếm ra vừa múa vừa che chở cho Lưu Bang. Trương Lương thấy tình hình nguy cấp, bèn lẻn ra ngoài nói lại với Phàn Khoái, Phàn Khoái vội vàng một tay cầm lá chắn, một tay cầm kiếm đi vào, đám vệ binh toan ngăn lại đều bị Phàn Khoái đẩy cho ngã chổng gọng.

Hạng Vũ đột nhiên thấy một đại hán vai hổ lưng gấu sấn sổ đi vào, quát hỏi là ai thì Trương Lương vội bước ra nói rằng: "Đây là người đánh xe của Bái Công, tên là Phàm Khoái". Hạng Vũ quay sang bảo vệ sĩ thưởng cho Phàn Khoái một vại rượu và một đùi lợn, Phàn Khoái dùng kiếm thái thịt ăn uống như hổ sói, chỉ một lúc là hết sạch. Hạng Vũ thấy vậy lại hỏi: "Tráng sĩ còn uống được rượu nữa không?", Phàn Khoái dửng dưng đáp: "Tôi chết cũng không sợ nữa là, còn sợ uống rượu? Ngày xưa, vua Tần giết người như rạ, khiến người thiên hạ phải làm phản.

Hoài Vương đã ra hẹn là ai vào Hàm Dương trước, thì người đó được phong làm Quan Trung Vương, nay Bái Công đã vào trước mà vẫn không làm Vương, cung điện và kho tàng đều niêm phong cẩn thận , rồi trú quân ở Bá Thượng để đợi tướng quân đến. Nay tướng quân nghe lời đồn nhảm toan hại Bái Công, làm như vậy có khác gì vua Tần tàn bạo". Hạng Vũ nghe xong chẳng biết đối đáp ra sao, Trương Lương nhân lúc đó ra hiệu cho Lưu Bang, Lưu Bang liền mượn cớ ra ngoài, rồi cùng Phàn Khoái theo đường tắt trở về Bá Thượng.

Trương Lương đoán chừng Lưu Bang đã an toàn trở về Bá Thượng, liền đem lễ vật của Lưu Bang để lại dâng cho Hạng Vũ và nói rằng: "Bái Công đã say rượu không thể đến cáo từ, có dặn tôi đem đôi chén ngọc này biếu tướng quân". Hạng Vũ nghe nói Lưu Bang đã ra về, đành phải nhận lấy chen ngọc đặt lên trên ghế. Phạm Tăng vô cùng bực tức, bèn rút kiếm chém vỡ chén ngọc rồi than rằng: "Hạng Vương thật là ấu trĩ, kẻ tranh giành thiện hạ với Hạng Vương sau này tất là Lưu Bang, chúng ta chỉ còn chờ làm tù binh mà thôi ".


2. Đại Yến đãi Bát Quốc của Từ Hi Thái Hậu
“ Trước sức mạnh quân sự hùng hậu của 8 nước phương Tây cùng liên minh đánh Trung Quốc, Từ Hy Tây Thái Hậu nhà Thanh (Trung Quốc) tự hiểu rằng con đường tốt nhất là dùng ngoại giao để giải quyết. Thái thú Lý Hồng Chương được giao sứ mạng gặp gỡ các sứ thần Tây phương.
Mở đầu cho mối giao hảo này, một yến tiệc linh đình nhất đời nhà Thanh được tổ chức vào Tết Nguyên Đán năm 1874 có mời sứ thần nước ngoài tham dự tại Duy An Cung. Thực khách gồm 400 người, thực đơn có 140 món, khai tiệc đúng 12 giờ đêm giao thừa năm 1874, kéo dài đến giờ Tý đêm mồng 7 Tết, chi phí 98 triệu hoa viên Trung Quốc, tương đương 374 ngàn lượng vàng, được chuẩn bị trước 11 tháng 6 ngày, cần đến 1750 người phục dịch. Ngay từ rằm tháng 2 năm Quý Dậu (1873), mỗi tỉnh Trung Quốc được lệnh cử 10 đầu bếp xuất sắc nhất về kinh đô hội ý thảo thực đơn. Sau gần hai tháng hội ý, các đầu bếp đã thống nhất một thực đơn gồm 140 món, trong đó có 7 món cực kỳ đặc biệt (sẽ nói đến ở phần 2). Trong 7 ngày đêm yến tiệc ấy, mỗi ngày chỉ dùng 1 món.

BỮA TIỆC LỊCH SỬ
Quan khách nhận được thiệp mời ngay từ 23 tháng Chạp năm 1873, gồm 212 vị trong phái đoàn bát quốc liên minh nước ngoài cùng 188 công thần được tuyển chọn của triều Thanh. Đêm 30 Tết, tất cả tề tựu tại Duy An Cung, cùng lúc ấy, Thái Hậu Từ Hay dự lễ Trừ tịch ở Tôn Long Miếu. Sau 3 hồi chiêng trống long phụng vang lên, là hồi khánh ngọc báo tin Thái Hậu xuất cung. Quan khách đồng loạt đứng dậy hướng về long kiệu – nơi Tây Thái Hậu ngự – do 8 vệ sĩ lực lưỡng khiêng. Lý Hồng Chương khom mình tới vén rèm long kiệu. Thái Hậu Từ Hy khẽ lách mình ra, gật chào quan khách. Thái Hậu rực rỡ trong chiếc áo bào đỏ, có thêu rồng vàng uốnc khúc, đầu đội mũ bình thiên, đến chỗ ngồi, phẩy nhẹ phất trần mời quan khách an toạ. 3 hồi chiêng trống vang lên, thay mặt triều đình nhà Thanh, thái thú Lý Hồng Chương phát biểu ý kiến về ý nghĩa buổi tiệc nhằm thắt chặt tình hữu nghị giữa nhà thành với các nước phương Tây. Thay mặt 8 nước, sứ thần nước Anh đáp từ. 3 tiếng ngọc khánh báo hiệu đại yến bắt đầu. Quan khách ngồi cách nhau khoảng thước tây. Sau lưng mỗi người có 2 nô tỳ nam và nữ phục dịch. Món ăn thứ nhất được dọn lên.
Cứ ăn hết một món, nhạc lại tấu lên một bản. Dùng đúng 5 món, thực khách được uống một chén rượu thuốc nước có tác dụng tiêu thực. Rượu đãi khách cũng là rượi đại bổ. Nhà bếp dọn lên mỗi ngày 20 món, trong đó có một món đặc biệt nhất như đã nói trên. Cứ mỗi lần dùng một món mới là Thái Hậu lại gõ ngọc khánh, một viên nội giám lại vòng tay xướng tên món ăn.

Cỏ Phương Chi
Cỏ Phương Chi mọc trên đá, mở ngọn núi Thái Hàng. Cỏ này chỉ vào những năm nhuận mới mọc, mọc một lần trong năm ấy, vào ngày Trung thu, sống rất ngắn ngày (khoảng từ 1 tháng đến tháng rưỡi), gặp phải ngọn gió bắc đầu mùa là khô héo liền. Muốn lấy cỏ, trước đó một ngày phải dắt lên núi một con ngựa đực trắng tuyền. Mặt trời vừa mọc, dẫn ngựa tới phiến đá có cỏ, đợi ngựa ăn xong, chém ngựa chết ngay, sau đó, mổ bụng lấy dạ dày đem về chế thuốc, phơi khô. Tương truyền, cỏ này mát, trừ bách bệnh. Trong bữa tiệc đãi khách, cỏ Phương Chi được nấu với Long Tu, người ăn vào sẽ sảng khoái tinh thần, suốt cả tháng không thấy mệt mỏi.

Chuột Bao Tử
Chuột đồng được bắt về nuôi cho ăn toàn gạo trộn trứng gà và các vị thuốc bổ, uống nước sâm và lê ép. Mỗi ngày chuột được tắm rửa 2 lần bằng nước trầm thơm và dầu hương liệu hảo hạng. Món chuột bao tử lấy từ lứa con, cháu của các con chuột trên. Đầu bếp rất khéo, bọc chuộc bên ngoài bằng lớp bột như bánh bao, khi người ăn đưa bánh lên miệng sẽ nghe được tiếng kêu của chuột còn sống bên trong. Món này bổ tì, vị, bổ mắt. Trong bữa ăn, sứ thần Bồ Đào Nha đành khiếm lễ từ chối món này khi thấy đuôi chuột ngọ nguậy trong miệng sứ thần các nước bạn.

Tinh Tượng
Nhà bếp lựa chọn những tai yến to, tốt tại bờ biển phía Nam, nấu với nước nhân sâm và đường Cao Ly. Sau đó nhồi bột phấn Kiết Châu với nước lê Vân Nam, nấu khô lại, nặn thành từng hình voi nhỏ, bỏ vào lò nung chín, cứng đặc lại. Người ta khoé trên lưng các con voi ấy một lỗ nhỏ cho vừa một bong bóng cá đã ngâm thuốc bắc phơi khô nhét vào được. Tượng tinh (khí voi) được bỏ vào bong bóng cá này, đem đi hấp. Trong bữa tiệc, quan khách lấy kim vàng chọc thủng rồi cho chất ấy chảy vào chén bạc mà uống. Món này bổ lục phủ ngũ tạng, trị dứt các chứng nhức mỏi.
Trứng Công
Công làm nem đã là món quý, món trứng chim công lại càng quý hơn vì khó lấy được trứng công (khó gần ổ trứng vì công sẽ chống cự dữ dội để bảo vệ trứng, nhiều khi công phá vỡ ổ trứng, không cho người lấy). Muốn đãi khách món này, cần 100 con khỉ được huấn luyện để trộm trứng công. Kết quả thu được 500 trứng đãi khách, nhưng khỉ chết mất một phần ba.

Óc Khỉ
Gần núi Thiên Hoa ở Sơn Đông có rừng lê được gọi là Lê Ngọc Căn, trị được các bệnh cam, thận, nhiệt uất, ho kinh niên. Rừng lê này bị một bầy khỉ ở đó chén sạch, vì vậy thịt khỉ ở đây thơm, ngon, đại bổ, ăn vào trị được bệnh bán thân bất toại. Tương truyền óc khỉ này lại bổ hơn cả. Số khỉ Thiên Hoa Sơn đem đãi khách là 80 con, toàn loại choai choai, chưa thay lông, cứ 5 người ăn một bộ óc khỉ. 80 con khỉ này được tẩm bổ hàng ngày. Trước giờ đãi khách, mỗi con khỉ trên được đặt vào một lồng nhỏ – trông giống như cái trống con – có thể mở, khép dễ dàng, một đầu khoét lỗ vừa đủ cho đầu khỉ ló lên được; lồng có gông đặc biệt để khỉ không nhúc nhích được. Khi ăn, người phục dịch cầm chiếc chày ngà giáng xuống đầu khỉ, cái đập này đã được luyện tập, đủ khiến con khỉ chết ngay, không kịp kêu lên một tiếng. Sau đó, rưới nước sâm nóng lên đầu khỉ để óc tái đi một chút. Quan khách sẽ dùng muỗng bạc múc óc khỉ ra ăn.

Heo Sữa Phúc Châu
Vùng Phúc Châu (Trung Quốc) có giống heo quý, thịt thơm, ngon, chuyên ăn một loại củ (giống như củ Hoành Tinh) mọc ở đồi Châu Tịch Xương. Bữa tiệc đãi khách gồm 100 con heo sữa, là giống heo 2 tháng của giống heo Phúc Châu này. Những con heo đó được đập chết (không chọc tiết, làm lông), thui qua một lượt cho chóng hết lớp lông. Xong, mổ bụng bỏ hết ruột gan rồi ướp các loại thuốc bổ quý trong 3 ngày, đem chưng cách thủy. Lúc ấy thịt heo vô cùng thơm ngon, xương rất mềm.

Sơn Dương Trùng
Được lệnh của Tây Thái Hậu, các thợ săn Hồ Bắc – sau gần một tháng lặn lội rừng sâu núi thẳm – bắt được 6 con dê núi đang có chửa tại một cánh rừng vùng Thiên Tân. Đàn dê này được chăm sóc cẩn thận, hàng ngày ăn toàn cỏ Vân Nam và Quảng Tây tải về. Đây là cỏ “Đông trùng hạ thảo”, loại cỏ quý, là vị thuốc bổ can thận (cỏ này mùa hạ mịn màng, đến mùa đông, từ ngọn cỏ xuất hiện một loại sâu như sâu dâu, ăn rất bổ). Ăn cỏ quý này, lại ăn thêm các lá cây thuốc bổ khác, 6 con dê núi ngày càng mập mạp, đẻ ra lứa con cũng mạnh khoẻ, to lớn hơn so với đồng loại. Dê con này vừa đúng 2 tháng tuổi, được chọn lấy 14 con giao cho nhà bếp làm lông, moi ruột. Sau đó, chúng được ngâm vào thùng gỗ to đựng nước gừng và rượu quý. Sau ngày thứ 2, dê được vớt ra bỏ vào bể bằng sứ chứa sữa dê tươi và nước sâm nhung. Tiếp 2 ngày ngâm nữa, người ta lấy hoa sen trắng (đã được tách nhánh hoa và ghim kim vàng xuyên từ hương sen đến cuống hoa) cắm đầy mình dê. Để vậy, ngâm đến ngày thứ 10 (đúng hôm mông 7 tiệc tàn), xuất hiện những con trùng trắng muốt đầy trong hoa sen. Nhà bếp nhặt lấy trùng sơn dương này chế biến thành món ăn, có tác dụng bổ, khoẻ, trị các bệnh lao phổi, tê bại, bán thân bất toại. “

3. Cỗ Đầu Người 
https://virtuelaw.wordpress.com/2015/09/13/ chuyen-ve-vi-tuong-nuoc-viet-an-co-dau-nguoi-minh/).
Bữa tiệc thứ ba thật ghê rợn nhưng sự ngược ngạo lại được thể hiện đến tột đỉnh khi người chủ tiệc (Trương Phụ) thật sự kinh hoàng trước phong thái ăn uống của khách (Nguyễn Biểu) và một bài thơ khen ngợi buổi tiệc.
Ngọc thiệt, trân tu đã đủ mùi
Gia hào thêm có cỗ đầu người
Nem công, chả phượng còn thua béo
Thịt gấu, gan lân cũng kém tươi
Cá lối lộc minh so cũng một
Vật bày thỏ thủ bội hơn mười
Kìa kìa ngon ngọt tày vai lợn
Tráng sĩ như Phàn* tiếng để đời.
Không dừng ở đó, Điện tiền Ngự sử Nguyễn Biểu còn nhắn bảo Trương Phụ: “Thật chẳng mấy khi người Nam được ăn đầu người Bắc”

Cả ba bữa tiệc này đều do người Trung Hoa làm chủ tiệc. Ngon và vui không thì chưa biết, nhưng quả tình với cái cách ăn uống theo trường phái “dĩ thực vi tiên” của Hán Tộc đã làm cho người ta rợn tóc gáy.
Bữa tiệc thứ nhất thì đầy những mưu mô, cả chủ lẫn khách đều hẹn trước một cuộc tắm máu. May mà nó không xãy ra.
Bữa tiệc thứ hai  thì cũng thế nhưng đỉnh điểm của sự xa hoa được đẩy lên đến tột đỉnh và làm cho nước Trung Hoa tan tành và tàn mạt
.
Thật ra không ai mong muốn mình là khách mời tham gia những bữa ăn như thế. Nhưng trong cuộc sống chúng ta vẫn phải tất tả tham dự những bữa tiệc không ngon lành, không vui vẻ chút nào mà vẫn cứ phải mang theo một bộ mặt thật vui vẻ, nhai nuốt thật ngon lành mà trong bụng cứ thầm mong tiệc mau tàn, bữa ăn mau chấm dứt.

Và cái ông lão nông ấy thì chắc không bao giờ được hay muốn tham dự những bữa ăn không vui vẻ ấy.
Túm lại ăn muốn ngon thì phải đói, phải thèm. Nghĩa là ăn khi cơ thể cần. Xin các bạn vào đường line này:
“Chúa Trịnh ngày nào cũng yến tiệc, ních đầy bụng những sơn hào, hải vị. Người ăn của ngon nhàm   mồm đâm ra khó tính. Một hôm chúa khó ở, lưỡi se đắng, bụng ậm ạch. Nhân ngồi với Quỳnh, chúa phàn nàn:
- Ta ngẫm không còn thiếu thứ gì quý hiếm trên đời chưa thưởng thức. Quái lạ, thế mà vẫn chưa món nào làm ta thực sự cảm thấy ngon miệng. Điều đó là tại làm sao, Trạng nói ta hay?
- Quỳnh nói luôn: Thế chúa đã xơi món mầm đá bao giờ chưa?
- Chúa lấy làm lạ: Món mầm đá thế nào, chắc ngon lắm phải không?
- Quỳnh đáp: Tuyệt trần đời. Nhưng muốn ăn mầm đá phải kỳ công.
- Chúa liền nằng nặc: Sợ gì công phu! Miễn là được ăn ngon. Nhất là lúc này, người đang mệt mỏi, ta đang rất cần ăn biết ngon. Trạng hãy mau chóng cho làm móm mầm đá kia đi!
- Ít lâu sau, vào tờ mờ sang. Quỳnh viết thiếp cho gia nhân mời chúa đến nhà thết tiệc mầm đá.
- Chúa đến nhà Trạng ngay từ mới rạng sáng. Đến khi mặt trời đứng bóng, vẫn thấy Quỳnh bận rộn lụi hụi dưới bếp, thỉnh thoảnh chạy ra, chạy vào, mồ hôi nhể nhại, khăn tay vắt vai, tay áo xắn đến khuỷu…Chúa nghĩ thầm “Đúng là món mầm đá kỳ công thật, nên Trạng mới phải ra tay đốc thúc nhà bếp tất tưởi như thế kia!”
- Quá ngọ, sang mùi, bụng chúa bắt đầu cồn cào. Quỳnh vừa ló mặt, chúa chép miệng, trách: Sao “mầm đá” lâu chin thế? Biết vậy thế này ta chẳng nhận lời đến nhà Trạng hôm nay.
- Quỳnh lấy khăn tay thấm mồ hôi trán khải rằng: Thần muốn chúa ngon miệng nên mới dụng công ninh “mầm đá” thật công phu. Xin gắng đợi chút nữa, sắp chín rồi…
- Một chốc chúa lại giục, Quỳnh lại khẩn khoản thưa: “Gắng đợi thêm một chút mầm đá không kỹ lửa, không ninh nhừ khó tiêu…”
- Mặt trời xế bóng vẫn chưa thấy món mầm đá được dọn ra. Mùi cá khô, lẫn mùi khói bếp bên mấy nhà vào bữa cơm chiều, làm chúa “Nhức lỗ mũi”, ứa nước dãi. Chúa đành gọi Quỳnh lên , chúa ngồi lù đù hóp bụng lại, thú thật: Ta đói lắm rồi, không đợi được nữa. Mẩm đá để dành ăn sau cũng được. Bây giờ có thức gì dùng tạm, Trạng cứ cho mang lên!
- Quỳnh dạ một tiếng, vẻ miễn cưỡng rồi hét vọng xuống bếp: Cứ chất thêm củi vào nồi “mầm đá”! Hãy bưng cơm lên dâng chúa dùng cho qua loa đã chúng bay!
- Gia nhân dạ ran, rồi bê cái mâm lên. Bữa xoàng, có một phạng cơm với rau muống luộc, và một chiếc hũ sành.Chúa thấy ngoài chiếc hũ dán mảnh giấy hồng điều đề hai chữ “đại phong”. Chúa ăn cơm rau chấm nước “đại phong” ngon lành, chỉ một loáng lại đưa bát cho Trạng xới tiếp. Chúa nghĩ bụng, chắc món này cũng quý hiếm đặc biệt, nên thấy Trạng giữ gìn chiếc hũ cẩn thận. Có lần rau đã hết nước chấm, mãi mới thấy Trạng cẩn thận đỡ miệng hũ, múc thêm mấy muôi nhỏ “đại phong” nữa… -- Chúa ngắm nghía chiếc hũ lại nhìn Trạng. Này khanh, “đại phong” là món gì mà ngon lạ như vậy?
- Khải chúa, đây chỉ là món thường nhật của con nhà trong làng.
- Chúa không tin: Hai chữ “đại phong” là nghĩa thế nào?
- Quỳnh tủm tỉm cười: Nhà chúa nhìn được mặt chữ, tự giải lấy, khắc rõ.
- Chúa lẩm bẩm: Đại phong tức là gió lớn, phải không?
- Quỳnh gật đầu, hỏi tiếp: Vậy gió lớn thì làm sao?
- Chúa bối rối như học trò không thuộc bài, nhìn Trạng.
- Quỳnh giảng giải: Gió lớn ắt đổ chùa!
- Trạng lại tiếp, hỏi dần: Đổ chùa thì làm sao?
- Chúa càng ấp úng. Quỳnh nói: Đổ chùa thì sư, vãi bỏ chạy, xôi oẵn mất hết… Của ngọc thực rơi vãi hết thì ông bụt nào cũng phải lo… Tượng lo thì làm sao?
- Trạng hỏi, đáp, dồn dập, liên hồi. Chúa chỉ còn biết ngồi trơ ra như phỗng. Hồi lâu, Quỳnh mới chịu khẽ khàng cắt nghĩa: Đến trẻ con cũng biết đọc ngược thì “tượng lo” là “lọ tương”. Khải chúa, thứ tương đỗ này không cao sang đâu, chẳng qua chúa quên mất những miếng ngon lành ở làng xóm rồi. Nay thần bày cách ninh “mầm đá”, chẳng thể đun được nhừ, đợi đến bao giờ cũng không có thể ăn được. Chúa cứ ngồi cho bụng thật đói, miệng thật thèm, bấy giờ chỉ cần lấy lưng cơm với món “đại phong” xoàng xĩnh này, chúa thấy ngon miệng.
- Chúa Trịnh bừng tĩnh trước một sự thật ngay bên mình… Chúa đứng dậy, cảm ơn Trạng, ra về.”
http://www.truyencuoihay.vn/truyen-trang-quynh/thiet-chua-dai-phong
Thực hư thế nào không rõ, nhưng câu chuyện được truyền tụng như là một lời cảnh báo cho cái thói ăn uống hàm hồ, ngu xuẩn

Nhưng không vì thế mà “dĩ thực vi tiên” như mấy ông Ba Tàu để đẩy cái ăn đến chỗ tồi tàn, và ông lão nông này vội vàng điều chỉnh

- Miếng ăn là miếng tồi tàn
Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu.
- Ăn tàn ăn mạt ăn nát cửa nhà
Con gà nuốt trộng, cá bống nuốt tươi

Hay một miếng ăn theo cái kiểu hão huyền không đáp ứng được nhu cầu thật sự.
 Một miếng giữa làng hơn một sàng xó bếp

Và cái minh triết xác định lại về nhu cầu ăn thật xác đáng nhưng rất ngộ nghỉnh và rất cận nhân tình
 Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp lắc đầu... khen ngon
 Trong quá trình lịch sử của dân tộc chúng ta thấy ca dao diễn tả không biết cơ man nào là thức ăn…
 Ăn cơm với cáy thì ngáy o o…
Ăn cơm thịt bò thì lo ngay ngáy
Cách ăn…
- Ăn cơm không rau như đau không thuốc
- Ăn tiêu nhớ đến mùi hành
Có ăn nem gà, chả vịt cũng nhớ rau canh thuở nào
- Cá giếc nấu với rau răm
Anh ăn một bát tối anh nằm khỏi ngủ quên.

Và thú vị thay
Ăn cơm mỗi bữa mỗi lưng
Uống nước cầm chừng để dạ thương em 

Và cũng không quên nhắc nhở một chút đạo lý khi ăn:

Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Nào ai vun xới cho mầy ngồi ăn
Ta đừng phụ nghĩa vong ân
Uống nơi nước lã nhớ chừng nguồn kia
Một đôi khi cũng mượn cái việc ăn uống để nói lên một điều gì khác…

Ăn chanh ngồi gốc cây chanh
Thầy mẹ gả bán cho anh thật thà.
Bây giờ chê xấu chê xa,
Chê cửa chê nhà, chê khó chê khăn.
Ở đâu yểu điệu thanh tân,
Sao anh chẳng chịu cầm cân đi lừả
Vàng mười đắt mấy sao anh chẳng muả,
Cầm cân đi lừa lại phải thau năm!
Thau năm đánh lẫn vàng mười
Rồng vàng cuộn khúc đứt đuôi thằn lằn.

Và cũng không quên mượn cái ăn để trăn trỏ về vận nước

Ăn sung sung chát ăn đào chua
Bao giờ cho nước có vua
Cho dân có gạo cho chùa có sư

Có một câu như thế này, mà người viết không biết nguồn gốc của nó “ Nhất ẩm, nhất trác, giai do tiền định / Một miếng ăn, một miếng uống đều đã được định trước”. Câu nói này khẳng định việc ăn uống như là một mặc định trong cuộc sống, nên người ăn cứ vui vẻ ăn và lui cui tìm kiếm miếng ăn. Nhưng hiện nay việc ăn uống của con người lại khác “Nhất ẩm, nhất trác, giai do tiền định” Những cái ăn, miếng uống đều do tiền định đoạt nó ngon hay không ngon, vui hay không vùi. Con người không còn lui cui nữa mà chạy tóe khói để kiếm tiền thật nhiệt nhiều để ăn sang, ăn ngon, ăn nhiều và vì vậy… mất vui.

Chỉ là việc ăn uống thôi. Chúng ta thấy dân tộc Việt đã để lại cho con cháu mình những câu nói có vần có điệu dễ nhớ dễ thuộc, dễ nghe và vô cùng thấm thía lẽ đời, lan tỏa khắp cùng như hương lúa mới khi chướng về, như tiếng thì thầm của gió xua với lá trên những mảnh vườn. Không hoành tráng, không lên gân. Nhưng tiếc thay, cuộc sống hôm nay người ta quên nhiều quá (vì ba cái triết lý ngoại lai) nên có lắm kẻ trở thành… Ăn hại đái nát.

Ngủ nghĩ: Trong cuộc đời chúng ta thường rất nhiều lần trèo lên võng năm để nghỉ ngơi sau một công việc mệt mỏi nào đó, nhưng cơn mệt chưa kịp vơi đi thì bật ngồi dậy. Và cũng có rất nhiều người làm bán chết, bán sống để sữa soạn cho mình một phòng ngủ năm sao với đầy đủ những tiện nghi hiện đại nhưng vẫn cứ nằm thao thức mà chẳng khi nào có một giấc ngủ sâu, ngủ ngon, để rồi phải lồm cồm ngồi dậy mở cửa bước ra thì đụng ngay một anh vong gia thất thổ nào đó nằm ngáy kho kho một cách ngon lành trên hàng hiên nhà mình, xem chuyện muỗi mòng, mưa tạt, gió lùa như không có. Đuổi thì không nỡ, nhưng đóng cửa lại để vào nhà thì mang thêm một nỗi lo vốn đã quá nhiều. Ai sướng hơn ai đây ta.
Riêng cái ông lão nông thì chắc là ngủ khác hơn cái anh nhà giàu và anh chàng vong gia thất thổ. Trưa hè thì ông nằm ngoài võng mắc dưới bóng cây hay nằm trên ván ngựa, đêm hè thì nằm trên chiếu lát, đêm đông thì đắp thêm cái mền hoặc chui vào cái nóp. Nhưng gì thì gì những giấc ngủ của ông thì bao giờ cũng thẳng cẳng, chẳng nỗi lo nào len vào đầu, không toan tính nào chen vào óc.

Và đêm về thí ông cứ kho kho. Thậm chí có đôi lúc quá khoái ngủ mà quên đóng cửa nhà.

Cuộc sống càng lúc càng đổi thay, sinh hoạt nghề nghiệp của con người cũng thay đổi, nhưng nói chung là cái dân lao lực thì mồ hôi tuôn như suối nhưng ăn thì đơn giản mà ngon, mệt thì đụng nơi đâu cũng nằm ngủ được. Còn dân lao tâm thì cái gì cũng sang trọng từ nhà cửa, xe cộ áo quần và hàng trăm thứ bà rằn, bà rến chung quanh đều lấp lánh, nhưng ăn cái gì cũng nhàn nhạt dù chả phương khô lân, ngủ nằm đâu cũng đầy trăn trở; từ cái cửa nhà cửa tủ quên khóa, đến cả những cái caméra quên mở cho đến những thứ hằm bà rằn, bà rí mang về từ bàn giấy công ty hay cơ quan hoặc những lời nói ra nói vào vào cái ghế đang ngồi hay đang mơ được nhón đít vào.

- Ăn được ngủ được là tiên
Ăn ngủ không được là tiền vứt đi 
Ăn no ngủ kỹ chẳng nghĩ điều gì
Dù biết thế, nhưng ông bà xưa không nói nhiều về cái chuyện ngủ nghê, nghỉ ngơi như là một nhu cầu cần thiết. Có lẽ, vì cuộc sống cần phải làm việc, coi việc ngủ nghỉ như là một thứ gì đó làm cho ngưới ta trở nên lề mề, biếng nhác.
Với lại đất nước còn luôn luôn đối diện với cái họa xâm lăng từ phương Bắc nên cái việc luôn luôn tỉnh táo là một điều cần thiết, nên không cho phép mình ngủ thẳng cẳng hay cứ mơ mơ màng màng  trong cơn ngủ gà ngủ gật, nên nói về cái việc nghỉ ngơi ngủ nghỉ khá dè chừng.

- Ăn không biết no vô lo vô nghĩ
Ăn no ngủ kỹ chổng tỷ lên trời
Cây cao bóng cả chẳng ngồi
Ra đứng chỗ nắng trách trời không râm
Ăn lắm thì nghèo, ngủ nhiều thì khó 

- Ăn thì chớ no
Ngủ thì đừng có ngủ cho rạng ngày
Phơi lúa thì phải năng quây
Gạo đâm liền chày, đừng có nghỉ chân.

Việc ăn ngủ có chừng mực vừa để hồi phục, nạp thêm sức lực để làm việc, để đãm bảo cho một cuộc sống yên bình là một nhu cầu cần thiết và cũng là một niềm vui trong cuộc sống.

Nhưng sự quan hệ khá chặt chẻ giữa ngủ nghĩ và làm tinh, nên chúng ta thấy trong ca dao xuất hiện khá nhiều những câu mang nội hàm của sự quan hệ này. Hóa ra, sau một ngày làm việc vất vả, sự nghỉ ngơi lại dẫn con người ta vào tình yêu.

Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người nhi nữ nước triều dâng cao
Vắt vai chạy dài xuống Thủ
Vợ anh đâu còn, anh ngủ với ai?
- Chiếu chăn ai trải giường này
Đêm qua chàng ngủ, Đêm nay chàng nằm?
- Chim bay về núi, túi rồi,
Anh không đi ngủ, còn ngồi chi đây?
Đêm nay ra đứng giữa trời,
Em cầm tờ giấy bạch, nghe lời anh phân.
- Muốn phân, ngồi lại mà phân,
Ai xa cho biết, ai gần cho hay!
- Đêm qua nằm ngủ sập vàng 
Trông xuống sập bạc thấy chàng nằm không
Vội vàng cởi áo đắp chung
Tỉnh ra em vẫn nằm không một mình.

Hầu hết những giấc ngủ trong ca dao dành cho trẻ con, và nó là tiền đề cho ca dao phát triển, những tiếng ru đưa con vào giấc ngủ yên lành chuyên chỡ không thiếu bất cứ nội dung nào trong cuộc sống xuyên qua lời ru thẩm thấu vào tâm hồn trẻ thơ trong giấc ngủ để làm chất liệu định hình nhân cách cho con trẻ trên bước trưởng thành. Tiếng ru con, nội dung lời ru, vòng tay ấm của mẹ, bầu sữa ngọt làm cho hồn xác con trẻ trở nên vóc dáng con người

Con ơi con ngủ đi con
Để mẹ phơi lại mấy ang lúa này
Phơi khô quạt sạch đem xay
Trưa nay mẹ giã tối nay mẹ gùi
Hóa ra giấc ngủ của những người cha người mẹ Việt Nam chính là giấc ngủ của con, nhìn thấy nụ cười mụ bà dạy con trong giấc ngủ bao giờ cũng xóa đi những cái ngáp dài mệt mõi trên khuôn mặt người mẹ người cha.

Làm Tình: Chu choa, cái nhu cầu này thì rắc rối thật đâyĐây là một thứ vui mà con người đầu tư nhiều nhất từ văn học, kính tế thậm chí cả chính trị và quân sự nữa để mà vui. Nhưng ngộ một điều là kết quả chẳng khả quan gì mấy. (Điều này lịch sử có ghi đâu đó đàng hoàng nghen.) Nhưng cái ông lão nông ấy thì rất đơn giản, cứ lui cui làm hoài và vui hoài cho đến khi không còn vui nổi thì phì phèo thuốc rê để ngẫm nghĩ cho vui. 
Vì là một thứ vui nhất mà lại cần có hai người (hơi khác nhau) cho nên người ta ham, ham đến độ bỏ ăn, bỏ ngủ và thậm chí còn quên cả đái ỉa. Và chính vì vậy mà… hết vui thậm chí mất vui và mất mạng.
Hơn 4000 năm những mối tình Việt đều được những con người chân chất lui cui hình thành trên những cánh đồng lúa, nương dâu hay trên những bến sông hoặc bờ đê, bờ dậu, rặng trâm bầu (chợt nhớ đến Lê Xuyên) một cách chân tình và hoàn toàn tự do, đôi khi có chút trục trặc nào đó nhưng nhanh chóng được điều chỉnh một cách hài hòa. Đến khi một văn hóa ngoại lai Hán Đường xuất hiện mới có hiện tượng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” của cái gọi là giới quý tộc.

Nhưng gì thì gì trên con đường kết hơp lại để có cái vui cuối cùng, cho nên trong cái kho tàng ca dao ngồn ngộn của chúng ta có rất, rất nhiều những câu ca dao diễn tả về cái vui này mà chỉ mang hai tính chất; Cảnh báo sự quá đà và ngợi ca một niềm vui chừng mực, nhưng không thiếu mãnh liệt và lạc quan.
- Chẳng thà lăn xuống giếng cái chũm
Chết ngủm rồi đời
Sống chi đây chịu chữ mồ côi
Loan xa phụng cách, biết đứng ngồi với ai?
- Đang khi lửa tắt, cơm sôi
Heo la con khóc, chồng đòi tòm tem

Chà. Ông chồng này quái đây. Nhưng có sao đâu? Đang sung mà và bà vợ cũng đáp ứng một cách nhiệt tình.
- Đượm than hồng chín nồi cơm
Heo no, con nín. Ư. Nào tem tòm thì tem
Mọi thứ đã tinh tươm yên tỉnh, không lo bị quấy rầy. Thế là tòm tem
Chúng ta cũng nhìn thấy không ít những cảnh báo đáng yêu trong việc quá đà của niềm vui này.
Một vợ nằm giường lèo
Hai vợ nằm chèo queo
Ba vợ ngủ chuồng heo.
Một sự cảnh báo rất dễ thương nhưng rất thực tế, nó đẩy cho người ta đến chỗ mất niềm vui và hổng chừng còn mất luôn nhiều thứ khác.

Trong lịch sử thế giới có không biết nhiêu cuộc chiến tranh mà nguyên nhân của nó bắt đầu vì cái như cầu thứ ba này và cũng không ít ông vì cái nhu cầu này rụng đầu, bỏ mạng. Nhưng ở Việt Nam thì…không có. (tiếc thay những ngày gần đây… lại có. Mất vui)

Bài tiết;  Việc bài tiết hay nói nôm na là ỉa đái là một nhu cầu, đây là nhu cầu ở phía sau nhu cầu ăn uống. Đã từ lâu khi thực hiện nhu cầu này và cho là một niềm vui thì quả là hết ý. Đây là một nhu cầu mang tính sinh lý rõ nét nhất, không ai mà chẳng có rất nhiều lần cảm nhận được sự thoải mái truyệt vời khi “trút xong bầu tâm sự”. Cuộc sống của ông bà ta ngày xưa, đất rộng người thưa thì cứ tha hồ:
Thứ nhất là đỗ thủ khoa
Thứ hai lấy vợ thứ ba ỉa đồng (và cả đái đường nữa)
Việc bài tiết hoàn toàn giản đơn và thoải mái, cái lẽ cộng sinh được thực hiện một cách tự nhiên. Nhưng không phải vì thế mà đụng đâu thải đó
Lâu ni chẳng ỉa ngoài đàng,
Bựa ni ỉa bậy cả làng xôn xao
Trong cuộc sống hiện đại, đất chật người đông, nên cái chuyện ỉa bậy, đái đường không còn là một niềm vui mà là một sự bầy hầy. Và người ta lại cuốn vào cái toilet với biết bao nhiêu trò đỏm dáng. Nhìn cái cảnh Hòa Thân ngồi ỉa trong phim Tể Tướng Lưng Gù mà thối bưng cả mũi.
Hiện nay chúng ta đang sống trong một thời đại có quá nhiều yêu cầu, nên có quá nhiều luật lệ, tất nhiên vì vậy mà phải nãy sinh ra chẳng biết cơ man nào là tư tưởng này, chủ nghĩa nọ, học thuyết kia với một hy vọng mong manh là làm cuộc sống chung thêm trật tự, nhưng không ngờ chính nó tạo ra biết cơ man nào là con người đầy ích kỷ, tham lam “ỉa cứt dấu đầu nằm”, những còn người dối trá hàng ngày cứ mặc sức mà “ỉa vào mồm nhau”.
Cái giản đơn thuần phác đầy niềm vui của bốn nhu cầu cơ bản dần dần biến mất.
Khi tìm tại những di sản của cha ông cũng ít ai nhận ra đó là một triết lý (tạm gọi vậy, NV không thích tí nào) sống rất hồn hậu và đầy niềm vui, nó chảy xuyên suốt hơn mấy ngàn năm lịch sử của đất nước, của dân tộc.
Chưa có một nền triết học nào mà người đọc có thể hiểu một cách nhanh chóng và thực hiện nó thì có ngay một hiệu quả tức thì mà không cần có một chút kiến thức nào. Và…
Ở đời có bốn thứ vui
Ăn, ngủ, đ…, ỉa lui cui làm hoài
Đây là một tổng kết, một đại tập thành. Vui thì hẵn nhiên là vui rồi. Nhưng phải “lui cui” nó mới thiệt vui. Trong tiếng Việt có những tiếng gần như đồng nghĩa như lúi húi, lủi thủi, căm cụi đều mang những ý nghĩa như sau “lặng lẻ làm một mình, làm một cách chăm chú, kiên trì” Nhưng lui cui thì còn mang thêm một hình tượng lum khum của một người cúi xuống, nó đặc tả sự nhẫn nại kiên trì với việc thực hiện bốn thứ vui một cách chừng mực, vừa phải. Cái triết lý sống của người Việt được ca dao chuyển tải một cách hồn hậu, không lên gân, không khó hiểu, cũng chẳng có gì cao siêu, luôn luôn tôn trọng vị trí và nhu cầu của mọi sinh vật sống và vì thế nó trở thành minh triết (tức là một thứ triết học sáng sủa rõ ràng, thấy được, sờ được, hiểu được và vui được). Nghĩa là cái minh triết ấy lui cui, lúi làm hoài cho nó… sướng. Đã thế mà mấy ông “trà dư tửu hậu” hay mấy lão hay “ăn tục nói phét” còn  rút ra một kinh nghiệm rất trời ơi và cũng vô cùng hợp lý: những con người chân chất ấy đẩy bốn thứ vui ấy lên tới một đỉnh điểm khác, theo kinh nghiệm của mình: Ăn ngon nhất là ... ăn vụng, Ngủ phê nhất là... ngủ gục. Đ... khoái nhất là... đ... lén. Ỉa đã nhất là... ỉa bậy. Một thứ đúc kết mang đầy tính sinh lý, nhu cầu bị thúc bách đến độ không dừng lại được, thành ra thực hiện nó một cách sảng khoái đúng nhu cầu và nó là ngọn nguồn cho một niềm vui và là chân lý. Tất nhiên trong cuộc sống không ai đồng tình với cái lối sinh hoạt trời thần như thế này. Nhưng nếu như chúng ta cứ tiết chế hoặc buông thả những nhu cầu của thân thể thì cả hai thái độ đều không mang đến hạnh phúc, mà còn gây ra nhiều hệ lụy đáng tiếc. Và may mắn thay suốt hơn 4.000 năm dân tộc này vẫn cứ nhẩn nha, từ tốn, (cho có vẻ văn học một tí) vẫn cứ lui cui (thực tế hiển nhiên) đáp ứng bốn thứ nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Tất cả hòa quyện lấy nhau làm đẹp đến muôn đời của cuộc sống
Và người hiện đại hình như không nắm được điều này dù họ đã biết quá nhiều, quá rõ về bốn nhu cầu tất yếu ấy, nhưng khi tìm kiếm niềm vui thì lại đi chệch hướng và làm cho mọi thừ rối tung lên với những bệnh tật và rồi kéo theo không biết bao nhiêu hệ lụy, nhưng giòng ca dao minh triết này vẫn thình thoảng bật lên như nhắc nhỡ.
Con cái nuôi mẹ nuôi cha
Làm sao bằng được ông bà nuôi nhau.
Rất có thể con cháu rất hiếu thuận sẵng sàng bỏ công sức, tiền bạc để chăm sóc cha mẹ ông bà trong lúc tuổi già, nhưng những rào cản vô hình về giới tính, về luật cân bằng âm dương hay về mặt tình cảm thì sự chăm sóc đó bổng trở nên khập khiểng.
Khi bước vào tuổi 60 thì các ông hay gặp cảnh:
Ngày xưa như sắt như đồng
Như mây như gió như rồng phun mưa
Bây giờ như cải làm dưa
Mười viên Rocket đạn chưa lên nòng
Thê thàm
Các bà thì khô âm đạo, lãnh cảm… dù muốn chiều chồng cũng phải đành thua, hay cố chiều thì gặp cảnh xì xà xì xụp.
Thê thảm
Nhưng vẫn có những cặp vợ chồng họ sống với nhau hơn nửa thế kỷ (hay chắp nối nhau khi đã xế chiều) vẫn hạnh phúc, vẫn tình tứ và vẫn “cãi nhau” một cách mặn nồng
Tại sao vậy. Vì họ có một quá trình dài ý thức được điều đó thấu hiểu điều đó, thực hiện điều đó và họ thoải mái

Lui Cui Làm Hoài
Và đó là minh triết Việt.

Kết Luận.
Chúng ta thấy trong kho tàng đồ sộ của ca dao, mọi ngóc ngách của đời sống đều được nói tới nhằm trao truyền, chuyển tải và thẩm thấu đến tất cả tâm hồn của mọi người đang sống trên một đất nước có tên gọi Việt Nam. Nó như là một giòng nước duy nhất dù trên mảnh đất này có trăm con sông và hàng hà sa số những con kinh, con rạch, con  mương chằng chịt khắp nơi, êm đềm và lặng lờ không ghềnh thác. Và người nghệ nhân vĩ đại nhất lại chính là người mẹ. Lời ru ấy ngọt ngào như máu, như sữa, như mồ hôi, như vòng tay ấm chuyển đến cho con trong giấc ngủ đầu đời cái minh triết tuyệt vời của cuộc sống, dịu dàng, âu yếm từng phút từng giờ định hình nhân cách con người. Không cần phải lên gân ngôn ngữ hay kiến thức gì ráo, chỉ cần nghe, thẩm thấu và sống theo, làm theo, trong lao động, trong tình yêu, trong ứng xử.
Không tìm ra trong ca dao những ngữ điệu sắt máu của chiến tranh, của chính trị hay của chủ nghĩa anh hùng thấm mệt gì đó. Cái minh triết của ca dao chính là ở đây. Cứ nghe và trao truyền một tình yêu và chỉ như vậy để sống yên bình trong một đất nước thật sự bình yên.

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét