Người theo dõi

Chủ Nhật, 21 tháng 3, 2021

TÔI ĐANG NGỒI ĐÂY TRÊN MẢNH ĐẤT CỦA ÔNG CHA

 


TÔI ĐANG NGỒI ĐÂY TRÊN

MẢNH ĐẤT CỦA ÔNG CHA





Bây giờ tôi ngồi đây, bên giòng sông Cái Lớn, giòng sông không ghềnh thác, cặm cụi chảy về Tây. Trong mênh mông và khoáng đạt của nước trời để cảm nhận lòng mình, để cảm thụ thơ và để… thơ. Tôi viết

 

ÁNH MẮT

 

Còn thơm mãi bàn tay người vỡ đất

Hành phương nam từ ấy bốn trăm năm

Chào người đến con muỗi nâng sáo thổi

Con vắt đo ruộng đỏ máu chân trần

 

Nhưng cánh gió đồng bằng thơm nắng ấm

Vạt năng xanh hóa lúa bởi mồ hôi

Cò trắng muốt, con trích cồ xanh biếc

Những giòng sông tím ngát lục bình trôi

 

Lá dừa nước che cuộc đời nên xám

Cho khói lam quấn quýt lấy khung trời

Mang theo những tấm lòng về  phương Bắc

Những tấm lòng chia sớt những buồn vui

 

Theo năm tháng, mồ hôi thơm ngát gió

Xóm theo làng lớp lớp vệt tre xanh

Tay cày cuốc khơi nâu non của đất

Gió chướng về cho sóng lúa vờn quanh

 

Sông phương nam bình yên không ghềnh thác

Lượn lờ trôi ăm ắp một tình người

Những chiếc ghe, chiếc xuồng luôn  chở nặng

Một vầng trăng khúc khích tiếng ai cười

 

Câu ca dao của một thời lãnh lót

Đồng mênh mông bổng chốc hoá mượt mà

Tỉn rượu đế và cơn say hào sảng

Từng phút từng giờ quyện chặt lấy tình quê

 

Từ nơi ấy dãy Hoành Sơn chất ngất

Hơn bốn trăm năm có đôi mắt dõi nhìn

Trong trùng điệp những cánh đồng thơm ngát

Ánh mắt Người vạn đại vẫn luôn xanh

 

Thứ Sáu, 19 tháng 3, 2021

 Con Xin Cám Ơn

Xin mang ơn những bài thơ ngày ấy

Của ông cha để lại tự bao giờ

Lời cô đọng ý tứ thì nhân ái

Mang hương cho đời thơm ngát ước mơ

 

Từ đông sang tây, cánh cò bay chấp chới

Tử bắc vào nam sông suối nối câu hò

Và tấm lòng con sạch đi bức bối

Con đường làng trãi thảm bởi câu thơ

 

Thứ Hai, 15 tháng 3, 2021

Sau 50 Năm Ðọc Lại Quốc Văn Giáo Khoa Thư

 Sau 50 Năm Ðọc Lại Quốc Văn Giáo Khoa Thư

http://e-cadao.com/tieuluan/linhtinh/Sau50namdocQVGKT.htm



Bài 1: Thân phận lạc loài

Những ai, trong chúng ta, ở độ tuổi 60 trở về trước, hẳn còn nhớ bộ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư ( QVGKT); Có thể đã từng đọc qua hoặc đã nghe đâu đó kể, hoặc đọc qua một vài đoạn, vài bài trong đó. Ðã nửa thế kỷ qua đủ để chúng ta quên nó. Và đủ để chúng ta nhớ nó; nhưng dù thế nào nay đọc lại cũng gây cho chúng ta ít nhiều hoài niệm về thời thơ ấu. Thời mà ngày hai buổi cấp sách đến trường, thời ăn chưa no, lo chưa tới của tuổi học trò.

Trong buổi sơ khai của chữ quốc ngữ (không phải chữ Hán, chữ Tây), bộ QVGKT là bộ sách giáo khoa, do nhà nước Pháp, mà trực tiếp là Nha Học Chánh Ðông Pháp, giao cho quí ông Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Ðặng Ðình Phúc và Ðỗ Thận cùng biên soạn. Bộ QVGKT gồm có 3 quyển:
- Quyển dành cho lớp Ðồâng Ấu ( Cours Enfantin) là quyển dạy về luân lý (Morale) qua các bài tập đọc và tập viết.
- Quyển dành cho lớp Dự Bị (Cours Préparatoire)
- Và quyển dành cho lớp Sơ Ðẳng (Cours Elementaire).
Hai quyển Dự Bị và Sơ Ðẳng gồm các bài tập đọc (lecture), chứa đựng nội dung bao gồm: Sử ký, Ðịa Dư, Cách trí, Vạn vật, Vệ Sinh, Ðạo Ðức, Gia Ðình...

Chưa có dịp tìm một cách chính xác xem coi bộ QVGKT xuất bản đầu tiên năm nào, nhưng theo bản mà chúng tôi đọc, xuất bản năm 1939 thì đã in lần thứ mười ba. Như vậy án chừng sách xuất bản đầu tiên vào những năm đầu thế kỷ 20.
QVGKT là bộ sách giáo khoa đầu tiên của Việt Nam, dành cho học trò cấp Sơ Ðẳng (Cấp I, Tiểu học ngày nay) từ Bắc vào Nam. Tuy là sách do thực dân Pháp chủ trương nhưng thực tình mà nói nó có giá trị giáo dục, Sư Phạm rất cao, mà tới nay chưa có bộ giáo khoa Việt Nam nào bì kịp; dù trong đó có dấu ấn chính trị thực dân! Mỗi bài trong sách đều có hình vẽ, theo lối tranh khắc trên gỗ, nét vẽ chân phương phản ảnh nội dung chứa đựng trong bài gây ấn tượng mạnh đối với đọc giả tí hon và người lớn nữa.

Chủ Nhật, 14 tháng 3, 2021

TRIẾT HỌC BÌNH DÂN Trong Tục Ngữ, Phong Dao

 TRIẾT HỌC BÌNH DÂN

 Trong Tục Ngữ, Phong Dao                                           

Giáo Sư NGUYỄN ĐĂNG THỤC

  Tư tưởng suy luận bình dân

Tư tưởng suy luận bình dân có thể gọi là triết lý bình dân Việt Nam như giáo sĩ Léopold-Cadière đã viết dưới nhan đề “Philosophie populaire Annamite”. Theo giáo sĩ thì:

“Người ta, bất cứ ở trình độ văn minh nào, đều có những ý tưởng về thế giới và về sự vật trong thế giới, những ý tưởng ấy có thể phát triển hơn hay kém minh bạch, hay lờ mờ, ý thức nhiều hay ít. Nhưng chúng có thật và người ta phô diễn ra tiếng nói. Tiếng nói là tấm gương phản chiếu tính tình của một dân tộc. Nó phản chiếu tất cả những ý niệm của con người. Chính nhờ ngôn ngữ mà người ta tập trung suy nghĩ và chính nhờ ngôn ngữ mà nó diễn tả những điều nó cảm thấy và quan niệm. Ngôn ngữ vừa là cái khuôn vừa là môi giới của tinh thần. Vậy thì nếu chúng ta muốn biết dân Việt họ suy nghĩ thế nào, thì chúng ta phải hỏi ngôn ngữ của họ… Ngôn ngữ diễn tả một mớ ý tưởng triết học lưu hành một cách ý thức hay vô ý thức trong dân gian mà những thế hệ nọ truyền lại cho thế hệ kia không hề biến đổi đi mấy. Và những ý tưởng ấy biểu lộ cách thức người dân gian quan niệm về thế giới và sự vật tạo nên thế giới, con người, bản tính của nó, đời sống luân lý và trí thức của nó. Đấy là triết học bình dân.” (Triết học bình dân Việt Nam, L.Cadière – Ecole Francaise d’Extrême-Orient, trong Croyances et Pratiques religieuses des Vietnamiens, t.III)

Thứ Bảy, 13 tháng 3, 2021

Kinh Nghiệm Sống Của Dân Gian Qua Văn Chương Bình Dân

 Kinh Nghiệm Sống Của Dân Gian Qua Văn Chương Bình Dân



Đã nhiều tháng qua, tôi bị hấp dẫn bởi những tiếng nổ của các kho đạn, những chuyện kỳ cục, những điều "trồi", "nổi" quanh mình nen trong một chừng mực nào đó, tôi đã quên bẵng đi những vần ca dao mà bà nhà Bắc Kỳ của tôi đã chép ra từ trong trí nhớ của bả, để trên bàn viết mỗi ngày như một sự nhắc nhở tôi đừng quên chuyện ngày xưa. Càng hít thở không khí trên cõi đời phiền muộn, đầy dẫy oái ăm này càng lâu chừng nào, người ta càng nhớ và sống với quá khứ nhiều chừng nấy. Vui hay buồn gì, ai trong chúng ta cũng đều có quá khứ và sống với nó ít hay nhiều thì tùy thuộc tâm trạng mỗi người. Thế nhưng, cái "chuyện xưa" mà tôi đề cập dưới đây là chuyện chung, không thuộc về ai cả. Và tôi cũng xin tầm phào tào lao một chút về những kinh nghiệm sống trong dân gian qua những vần ca dao, xem người xưa đã suy nghĩ, và sinh hoạt ra sao, âu cũng là một điều "vệ sinh và bổ". Bây giờ, xin mời bạn đọc những vần ca dao sau:

Rau răm ngắt ngọn lại trồng
Em thương anh lắm sợ lòng chị ghen.
Anh về bảo chị đừng ghen,
Để em thấp thoáng ánh đèn cho vui.


Bạn cũng như tôi, có lẽ đều thuộc "nòi tình"? Bạn nghĩ gì và có thấy vừa thương vừa tội nghiệp cho người con gái xưng "em" ấy không? Thương và tội nghiệp cho nàng vì nàng biết phận mình, không có cái chuyện "đến sau" mà cứ ghen ngược, đòi chiếm cứ làm của riêng như chúng ta thường thấy xảy ra trong đời sống hàng ngày. Nàng có đòi hỏi điều gì quá đáng đâu, chỉ xin "thấp thoáng ánh đèn" cho vui thôi mà. Dễ thương biết chừng nào! Đó là nói về nàng, còn người viết ra mấy câu trên thì tôi tin chắc cũng thuộc thành phần "Ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu" (Chu Mạnh Trinh). Đó là một người ham thích của lạ, muốn đèo bòng chạy một lúc vài ba "máy" cho đời thêm vui, và thêm...rắc rối. Thật ra, trong 10 anh "đần ông" (không phải đàn ông) thì hết 11 anh có máu loạng quạng, léng phéng không ít thì nhiều. Quý vị nam nhi chi chí nào tự xưng mình là người mẫu mực, đạo đức, không hề phiêu lưu, mơ tưởng đến những "vùng đất xa lạ" thì người ấy có thể được sánh ngang với hàng "thánh sống" rồi. Đa phần còn lại, trong đó có tôi, thuộc loại phàm phu tục tử, một thứ "đần ông" chính hiệu ngất ngư con tàu đi. Cho nên, xin có lời bái phục! Phải bái phục các vị thánh sống đó là bởi vì, chính các cụ đạo đức cùng mình ngày xưa, đã không ngần ngại mà thốt lên rằng:

Thế gian ba sự không chừa,
Rượu nồng, dê béo, gái vừa đương tơ.

Một nàng thì rất dịu dàng, e ấp, chịu phần lép vế chỉ xin "thấp thoáng ánh đèn" thôi, nàng kia thì can đảm hơn, chận anh giữa đường, níu áo anh lại để than thở với anh vài lời:

Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại em than vài lời.
Đi đâu vội thế anh ơi,
Công việc đã có chị tôi ở nhà.

Và một nàng khác, tuy cũng thương anh nhưng rất thực tế, nàng cảnh giác tối đa chỉ sợ bà cả vác dao chém cho vài nhát thì còn chi là đời nữa:

Gặp anh em cũng muốn chào
Sợ rằng chị cả dắt dao trong người.

Tục ngữ có câu "cái nết đánh chết cái đẹp", nghĩa là coi chuyện nhan sắc của người phụ nữ không quan trọng bằng tính nết. Tục ngữ nói vậy thì ta cứ biết như vậy, nhưng cái hấp dẫn đầu tiên của người phụ nữ đối với các đấng nam nhi là cái gì? Có phải nhan sắc của người phụ nữ ấy không? Tôi không biết người yêu của Chí Phèo trong tiểu thuyết của Nam Cao xấu xí ra sao nhưng các cụ ngày xưa vẫn một mực cương quyết:

Chẳng thà chịu lạnh nằm không,
Còn hơn có vợ lẹm cằm, răng hô.

Cằm lẹm, răng hô thì các cụ chê đã đành rồi mà ngay cả đến cô nàng có cái mặt mo phinh phinh, chân lại đi vòng kiền chữ bát thì có cho không, các cụ cũng chẳng thèm:

Người mà phinh phính mặt mo,
Chân đi chữ bát, có cho chẳng thèm

Ngược lại, người con gái có đôi mắt lá răm, chân mày lá liễu thì đúng là của quý, đáng trăm quan tiền:

Người mà con mắt lá răm,
Chân mày lá liễu đáng trăm quan tiền.

Đến đây các bạn có thể thắc mắc: thế cái loại nhan sắc nào của các nàng khiến cá cụ nhìn rồi muốn chửi(?):

Mặt má miếng bầu, nhìn lâu muốn chửi
Mặt chữ điền, tiền rưỡi cũng mua.

Các cụ có được những hiểu biết về cách ăn ở, đối xử của người chung quanh là do quan sát, tích lũy kinh nghiệm rồi đói chiếu, so sánh để có một nhận định chung. Theo đó, người phụ nữ nào mà đáy thắt lưng ong thì khéo chiều chồng và khéo nuôi con. Còn "mệ" nào béo trục béo tròn thì ăn vụng như mèo lại hay rầy rà con cái. Đúng được bao nhiêu phần trăm thì khó mà khẳng định, có điều những hình ảnh đó đã truyền lại cho con cháu suốt bao thế hệ và đã ở lại mãi mãi trong văn chương bình dân:

Người mà đáy thắt lưng ong,
Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con.
Những người béo trục béo tròn,
Ăn vụng như chớp, cấu con cả ngày.

Cũng qua kinh nghiệm trên một số người mà các cụ có nhận xét:

Trai Nhâm Đinh Quý thì tài,
Gái Nhâm Đinh Quý phải hai lần đò.

Hai lần đò là trong cuộc đời của người phụ nữ có cái tuổi Nhâm Đinh Quý này sẽ có tới hai đời chồng. Ngày xưa, ít có vụ ly dị mà chỉ khi chồng chết rồi người đàn bà mới tái giá, đi thêm một bước nữa. Còn thời nay, nhất là ở trên xứ Mỹ tự do một cách kỳ cục này thì không hẳn là do chồng chết mà là do không còn "hợp" nhau nữa nên "anh đường anh, tôi đường tôi" đấy thôi. Không nói tới chuyện tiền bạc, dốp diếc làm chi, chỉ cần chàng ngủ ngáy hơi lớn tiếng là nàng vác đơn ra tòa ca bài "hai giòng sông ly biệt" rồi. (Nhân nói về một người đàn bà đi thêm bước nữa gọi là tái giá, tôi thấy Tiếng Việt ta thật hay và phong phú. Đàn ông vợ chết, lấy vợ khác gọi là tục huyền, còn đàn bà lấy chồng khác gọi là tái giá. Tôi đã lẩn thẩn nghĩ rằng trong trường hợp các bà, sao ta không gọi là "tục tỉu", có phải vui hơn không? Nghĩa là: đàn ông, vợ chết lấy vợ khác; gọi là tục huyền. Đàn bà, chồng chết, lấy chồng khác: gọi là tục tỉu. Cũng đều bắt đầu bằng chữ "tục" cả. Tái nạm, tái gầu vào đây làm chi cho thêm phiền toái!)

Trong khi đó, về cánh đàn ông, các cụ không e ngại gì mà tuyên bố thẳng thừng rằng:

Sông bao nhiêu nước cũng vừa,
Trai bao nhiêu vợ cũng chưa vừa lòng

Hoặc:

Trong nhà có sẵn yến ngâm,
Lại còn muốn những nhung sâm nước ngoài.

Và đây là một chàng tuy đã có vợ nhưng không lúc nào quên bồ nhí của mình:

Con quạ bay xa, bay qua vườn hoa kêu chua chát,
Con nhạn đậu lầu vàng nghỉ mát kêu sương
Nhạn kêu tiếng nhạn đau thương,
Đêm nằm nhớ vợ, ngày thường nhớ em.

Chàng có vợ bé hoặc bồ nhí hay cho rằng vợ người khác đẹp hơn vợ mình thì cũng là chuyện thường tình nhưng chàng sẽ là một tên "đại cà chớn" nếu có tà ý đem lòng thương yêu vợ bạn. Chàng cũng hiểu như thế là bất nhơn, là không đạo đức:

Ai xui ai khiến bất nhơn
Tui thấy vợ bạn tui thương hơn vợ nhà.

Còn chàng có thương vợ người khác mà không được thì thôi chứ chẳng lẽ ăn vạ hay tự tử(?):

Buồn tình chẳng muốn nói cười,
Bởi thương vợ người không được thì thôi.

Thương không được thì thôi chứ không như mấy anh chàng có máu "dê" đầy mình và gan góc, chết thì chịu chứ quyết theo đuổi nàng tới cùng:

Dao phay kề cổ, máu đổ không màng
Chết tôi, tôi chịu, buông nàng không buông.

Nếu chàng gan dạ và can đảm cùng mình như thế thì hẳn chàng có nhiều lá gan và không chỉ chàng dành cho vợ mà còn cho người khác nữa.:

Đàn ông năm bảy lá gan,
Lá ở cùng vợ, lá toan cùng người.

Đó chỉ mới là "toan tính" thôi chứ chưa chắc đã dám hành động rõ ràng dứt khoát như trường hợp của phe tóc dài dưới đây:

Hai tay cầm hai quả hồng,
Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai.
Đêm nằm vuốt bụng thở dài,
Thương chồng thì ít thương trai thì nhiều.

Như thế, cuộc sống lứa đôi của cặp vợ chồng trên đây không có gì bảo đảm sẽ tồn tại với thời gian, không thể nào ăn đời ở kiếp đến răng long đầu bạc được. Người chồng ở đây là một người chồng đau khổ. anh đau khổ là vì lỗi là do chính anh chứ không phải nguyên do nào khác. Vợ anh không thương anh mà đem lòng thương trai là do anh đần độn quá sức:

Một là em lấy chồng quan,
Hai là chồng lính, ba là chồng dân
Nhưng em không chịu lấy chồng đần,
Về nhà cha mẹ mắng, ra đường chị em khinh.

Cái quan niệm chọn chồng của người đàn bà ở trên thật minh bạch. Lấy ai cũng được, sang hèn gì cũng xong nhưng không thể đi nâng khăn sửa túi cho một anh ngu đần, ăn nói vụng về luôn luôn gây phật lòng người khác. Có một câu chuyện kể rất tiếu lâm về một anh chồng đần độn kiểu này như sau:

"Một anh chồng trong một gia đình nọ, vừa ngu vừa vụng về. Hễ mở miệng ra là đem bực mình đến cho người khác. Vì thế, trong mọi giao tiếp, bà vợ phải cấm chỉ anh ta, không nói gì hết. Một hôm, hai vợ chồng được mời dự bữa tiệc đầy tháng con của một người bạn. Bà vợ dặn chồng là suốt bữa tiệc phải im lặng hoàn toàn. Anh chồng nghe lời. Đến dự, mặc cho thiên hạ nói gì thì nói, suốt buổi anh thủ khẩu như bình. Đến khi tiệc tan, mọi người chia tay nhau ra về, mỗi người đều nói một lời chúc tụng nào đó cho cháu bé. Anh chồng buộc lời phải phát ngôn. Anh bèn nói với chủ nhà, là mẹ của đứa trẻ sơ sinh: Chị thấy đó, từ đầu tiệc đến giờ tôi hoàn toàn không có nói điều chi cả. Lỡ ngày mai cháu bé có chết, chị đừng có đổ thừa là tại tôi đấy nhá!"

Cánh đàn ông chúng ta thường tự nhận mình là "đần ông" để vuốt ve, thỏa mãn tự ái của các bà chứ nếu các bà thật sự chê chúng ta là ngốc, là đần thì ta đành phải xách xe không chạy mút chỉ cả tha thôi:

Một đêm quân tử nằm kề,
Còn hơn thằng ngốc vỗ về quanh năm.

Hay:

Một ngày dựa mạn thuyền rồng
Còn hơn chín tháng nằm trong thuyền chài

Từ Đông sang Tây, một ngàn năm trước hay hay một triệu năm sau, bất cứ ở đâu, thời nào cũng có những người đàn bà không đoan chính, tự do xả láng sáng về sớm. Có chồng thì càng dễ..."lăng ba vị bộ", vì đã có người đứng mũi chịu sào rồi mà.

Có chồng càng dễ chơi ngang,
Đẻ ra con thiếp, con chàng, con ai?

Và còn ra cái điều "thách thức" nữa các cụ ạ:

Con tôi đi kiếm về đây,
Có cho nó gọi bằng thầy thì cho.

Không những thách thức mà còn trân tráo, đanh đá, trơ mặt ngồi xổm trên luân thường đạo lý mới là kinh hãi. Trong đời, bạn đã từng gặp loại người đàn bà này chưa:

Lẳng lơ cũng chẳng có mòn ,
Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ.

Trường hợp nàng gặp phải một anh chàng ba phải, phổi bò, không quan tâm thắc mắc gì đời sống của nàng, ra cái điều rộng lượng thì nàng cũng có quyền rong chơi với tháng ngày chứ:

Em đây là gái năm con,
Chồng em rộng lượng, em còn chơi Xuân.

Thà là như thế còn hơn cái cảnh đêm nay để cửa chờ chồng, đêm mai thì chờ ông láng giềng:

Đêm qua để cửa chờ chồng
Đêm nay để cửa chờ ông láng giềng.

Ngày xưa, khi người chồng qua đời, người vợ để tang 3 năm, sau đó có quyền lấy chồng khác. Tuy thế, cũng không ít trường hợp chưa mãn tang, người đàn bà đã vội có người đàn ông khác:

Mả chồng còn đó trơ trơ,
Đã cùng người khác đợi chờ năm canh.

Bên cạnh đó cũng có những người vợ rất đàng hoàng, đoan chính, nhỏ nhẹ, thưa với người đi theo tán tỉnh rằng "cám ơn những tình cảm anh dành cho tui nhưng xin anh đừng đến nhà tui nữa kẻo chồng tui ghen":

Có lòng thì tạ ơn lòng
Anh đừng đến nữa mà chồng em ghen.

Trong đời sống hàng ngay, vợ chồng chia bùi xẻ ngọt với nhau. Không ai có thể săn sóc lo lắng cho nhau tận tình như vợ với chồng. Thử hình dung ra cảnh người chồng đau nằm liệt giường, người vợ lo thuốc thang, chân thấp chân cao bưng thuốc đến cho chồng uống, vừa đi vừa vái trời cho chồng mạnh khỏe để cùng ăn đời ở kiếp...Làm sao ta không thương hết mình những người vợ như thế được:

Cầm con dao sắc cắt đôi củ gừng,
Bỏ vô nồi đất, sắc lại vài phân.
Cái tay em bưng, cái chân em bước
Mái tóc em xước, cái lược em rơi
Vừa đi vừa vái ông trời
Cho chồng em mạnh, ở đời với em.

Nếu người đàn bà thương chồng nhiều đến thế thì hẳn nhiên là cũng thương con ngập lòng. Nàng bương chải đi làm nuôi con, mặc cho áo rách sờn vai:

Em đi làm mướn nuôi ai,
Cho áo em rách, cho vai em mòn.
Em đi làm mướn nuôi con,
Áo rách mặc áo, vai sờn mặc vai.

Một vài hình ảnh khác cho thấy sự buôn tần bán tảo và bương chải ngược xuôi, đầu tắt mặt tối để lo sinh kế gia đình của người đàn bà đến nỗi vú xẹp, lưng nàng teo:

Một ngày ba bận trèo đèo,
Vì ai vú xẹp, lưng teo hỡi chàng?

Nhìn chung, qua những vần ca dao, chúng ta có thể hình dung và hiểu được những suy nghĩ cùng tâm tình và cách sống của dân gian. Cũng qua ca dao, người xưa đã để lại cho chúng ta một kho tàng về kinh nghiệm sống trên mọi lãnh vực, trong đó đáng kể nhất là kinh nghiệm nói về bản chất không thể thay đổi ở một số người, hay nói nôm na là khi đã thành "tật" rồi thì khó mà chữa được:

Trời nắng rồi trời lại mưa,
Tính nào tật nấy có chừa được đâu.

HUỲNH VĂN PHÚ

http://e-cadao.com/tieuluan/phongtuctapquan/kinhnghiemsongcuadangian.htm

Thứ Hai, 8 tháng 3, 2021

Huyền Quang thiền sư

 



Huyền Quang thiền sư

Huyền Quang thiền sư 玄光禪師 (hay Huyền Quang tôn giả, 1254-1334) tên thật là Lý Ðạo Tái 李道載 (có sách chép Trần Ðạo Tái, Lý Tái Ðạo). Ông người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang, sinh năm Giáp Dần (1254), mất ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334).

Theo "Tổ gia thực lục" trong "Tam tổ thực lục" thì từ nhỏ ông đã có khiếu văn chương, năm hai mươi tuổi đỗ khoa thi hương và năm sau lại đỗ đầu khoa thi hội. Được bổ dụng vào Viện nội hàn, từng tiếp sứ Bắc, rất nổi tiếng về thơ văn. Nhưng không bao lâu ông một mực xin từ chức đi tu. Được người đứng đầu dòng Thiền Trúc lâm lúc bấy giờ là Trần Nhân Tông rất quý mến, giao cho Pháp Loa hướng dẫn. Về sau ông trở thành vị tổ thứ ba của dòng thiền này.

Huyền Quang là một nhà sư đồng thời là một thi sĩ có tiếng đời Trần. Thơ ông rất đậm chất trữ tình. Các nhà phê bình đời trước như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú đều khen thơ ông "ý tinh tế, cao siêu", "lời bay bướm, phóng khoáng". Có lẽ con người thi nhân trong ông rõ nét hơn con người tôn giáo. Xung quanh thân thế ông có nhiều giai thoại khá hấp dẫn, đã trở thành những câu chuyện dân gian được lưu truyền rộng rãi, và cũng đã từng được nhà văn đương thời ghi lại dưới hình thức một truyện truyền kỳ, lý thú, đi vào kho sách vở nhà Phật từ nhiều thế kỷ nay.

Tác phẩm hiện còn 24 bài thơ, trong số đó có bài "Xuân nhật tức sự" gần đây được xác minh là thơ thiền đời Tống, một bài phú Nôm, sách vở cũ cho biết ông còn có các tác phẩm "Chư phẩm kính", "Công văn tập", thư từ tiếp sứ và tập thơ "Ngọc tiên tập" nhưng nay đều đã thất lạc.

Một số sách còn chép ông chính là tác giả câu thơ nôm cảm khái về nhân tình thái thế khá chua chát sau đây:

Khó khăn thì chẳng ai nhìn,

Đến khi đỗ trạng, tám nghìn nhân duyên.

https://www.thivien.net/Huy%E1%BB%81n-Quang-thi%E1%BB%81n-s%C6%B0/author-ky6a-6Hq9AEiujrHK0DNTQ

 

Thứ Năm, 4 tháng 3, 2021

Những vị nữ vương công chúa Việt

 

Những vị nữ vương công chúa Việt 
Trần Thị Hồng Sương

“… Không phải tình cờ mà phụ nữ đã đạt được đến đỉnh cao tri thức để có thể bày tỏ thân phận con người trong lốc xoáy chiến tranh độc tài xâm chiếm lãnh thổ …”



Lịch sử là quá khứ đã chết hẳn song vẫn ghi dấu lên nhân cách và hành động của con người qua dòng sinh mệnh của truyền thống, làm nên bản sắc dân tộc. Nhìn từ góc khác thì có người cho rằng văn hoá là những gì còn lại sau khi đã quên hết. Trải nghiệm của cuộc sống hay qua học hỏi được tiêu hoá chọn lọc đào thải mất dấu trong ý thức nhưng và ghi dấu trong tiềm thức, hình thành niềm tin và quan điểm rất sâu sắc mạnh mẻ nhiều hơn chúng ta từng nghĩ. Đã có thống kê kết luận rõ về những đứa trẻ bất hạnh lớn lên với đòn roi nhục mạ, nếu không tự tử chết như năm bé gái cột tay nhau nhảy xuống sông thì nhân thân cũng dễ phạm tội hơn nhiều lần những trẻ có tuổi thơ ít đau khổ hơn.

 
Đắm mình trong nền văn minh lúa nước “Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”, trong chiến tranh chống xâm lược phương Bắc là Trung Hoa (“Muốn coi lên núi mà coi, Coi bà quản tượng cưỡi voi bành vàng!”), rồi đến sự đa dạng văn hoá quốc gia khi Đại Việt có thêm cư dân người Chăm Pa và Khmer.


Gây chiến chính là một trong những “sự đồi trụy của quyền lực đàn ông”, chủ đề xuyên suốt của các tác phẩm của hai nhà văn nữ: Herta Müller (Đức gốc Roumania) đoạt giải Nobel 2009 “đã miêu tả phong cảnh của mảnh đất bị tước quyền sở hữu” gây ra nhiều phận người mang nỗi lòng tha hương ít nhiều lạc lõng, và giải Man Booker năm 2009 được trao tặng cho nhà văn Anh Hilary Mantel, với tác phẩm Wolf Hall (Đại sảnh sói)... Không phải tình cờ mà phụ nữ đã đạt được đến đỉnh cao tri thức để có thể bày tỏ thân phận con người trong lốc xoáy chiến tranh độc tài xâm chiếm lãnh thổ


Từ điểm nhìn này, bài viết muốn xem lại một bức tranh sơ thảo khi tìm hiểu những phụ nữ Việt Nam từng mang sứ mệnh và ghi dấu ấn vào lịch sử, và đặt lại một vài câu hỏi cho những nhà sử học.

 

*


Hai Bà Trưng: Trang sử Việt Nam được mở đầu năm 40-43 bằng chiến thắng quân xăm lược phương Bắc của Hai Bà Trưng: Trưng Trắc và Trưng Nhị (40-43) và mẹ là Bà Man Thiện theo cổ sử thời này người Việt chưa có họ chứ không phải họ Trưng hay họ Man. Nam Man là tiếng Trung Quốc hay gọi người Việt cổ dần dà chuyển theo đơn âm nên gọi người Việt cổ là “Mán” kiểu Trung Quốc gọi người Việt cổ lạc hậu man rợ. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương. Quân Hán sang đánh và Bà Trưng đã kháng cự. Cuộc kháng chiến chống quân nhà Hán và hai bà đều tử trận song hai bà vẫn kịp trở thành biểu tượng, sừng sững một tượng đài kháng chiến chống ngoại xăm phương Bắc làm nên niềm hảnh diện sâu thẫm trong lòng từng người dân Việt, trường tồn trong dòng sinh mệnh dân tộc thành ngọn lửa truyền thống chống ngoại xâm. 

Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ôi! Có thể gọi là tự vứt bỏ mình vậy.” (Lê Văn Hưu)


Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, vung tay hô một tiếng mà quốc thống nước ta cơ hồ được khôi phục, khí khái anh hùng há chỉ lúc sống dựng nước xưng vương, mà sau khi chết còn có thể chống ngăn tai hoạ. Phàm gặp những việc tai ương hạn lụt, đến cầu đảo không việc gì là không linh ứng. Cả bà Trưng em cũng thế. Vì là đàn bà mà có đức hạnh kẻ sĩ, cái khí hùng dũng trong khoảng trời đất không vì thân chết mà kém đi. Bọn đại trượng phu há chẳng nên nuôi lấy cái khí phách cương trực chính đại ấy ư?”( Ngô sĩ Liên )


Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác, chẳng những mặt dày thẹn chết lắm ru!” ( Vua Tự Đức)


Việc những người đàn ông thuộc hàng danh tài sử gia vua chúa đều khen và học tấm gương của Bà Trưng cũng đã đủ để thấy những trang sử Việt này đáng trân trọng dường nào và đáng để lấy làm biểu tượng cho nền văn hoá Việt và xuất hiện chốn công đường. Trong đại sảnh, phòng khách chốn công đường như trước 1975 thường không thiếu bức tranh sơn mài truyền thống cội nguồn dân tộc vẻ cảnh dân quân cùng hai bà Trưng cưỡi voi đi đánh giặc. 


Vậy nên phải đòi lại công bằng và trung thực. Hoàng cung Huế, Văn Miếu, Dinh Độc Lập lẽ ra phải sinh tồn và tiếp nối lịch sử như điện Buckingham ở Anh, chứ sao lại là di tích, hàm ý xoá bỏ một thời kỳ như thể có đối kháng không có thể nào tìm ra khớp nối với lịch sử?



Tử cấm thành Trung Quốc ghi dấu 300 năm người Hán phải cạo nửa đầu cúi mặt khấu lạy ngoại bang Mãn Châu thống trị bằng bạo lực kinh hoàng nên người Hán có lý do biến nơi đó thành di tích. Nhưng cần tách chủ nghĩa đô hộ, phát xít, Cộng Sản chiến tranh ra khỏi những di chỉ văn hoá không mang nội hàm đó. Văn hoá nghệ thuật văn chương có thể dùng phục vụ chính trị và cũng có thể không có nội hàm chính trị nào. Những thứ không liên quan đến chính trị như một kiến trúc dinh thự lâu đài, một bài nhạc, một bài văn thì không thể phá huỷ vất bỏ. Hiện nay, trong Dinh Độc Lập không còn bóng dáng những bức tranh hoành tráng một thời. Tôi là một trong đoàn sinh viên Dược Khoa dự buổi chiêu đãi của đệ nhất phu nhân VNCH Nguyễn Văn Thiệu và phu nhân Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ tại phòng Đại Yến Dinh Độc Lập, và bức tranh lớn trong phòng Đại Yến (nếu tôi nhớ không lầm, và nếu không do VNCH có thể sử dụng nhiều bức tranh thay đổi) là bức tranh Hai Bà Trưng đánh đuổi nhà Hán. Bức tranh này ở Dinh Độc Lập nay không thấy đâu! Hiện nay thay bằng tranh phong cảnh không có chút ý nghĩa nào. Như vậy mà nói xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc là dân tộc nào? Một điều chắc chắn nhất là không chốn công đường nào ngày nay treo tranh cảnh dân quân cùng hai bà Trưng đánh giặc như công sở VNCH thường treo trước 1975. Với truyền thống và hiểu rõ mưu đồ Trung Quốc với miền Bắc, ông Dương Văn Minh dứt khoát từ chối lời đề nghị của đại sứ Pháp Merillon trong biến cố 30.4.1975 là nhờ Trung Quốc áp lực để Pháp thương lượng buộc CS miền Bắc tuân thủ hiệp định Paris. 

Thứ hai là lá cờ VNCH cờ vàng ba sọc đỏ bằng gỗ trên tường ở phòng Trình uỷ nhiệm thư trong Dinh Độc Lập . Vì sao phải bôi bỏ? Di tích lịch sử mà thay đổi thì còn ý nghĩa gì về lịch sử? Ta có thể nào viết lại lịch sử VN mà bỏ đi thời VNCH không? Buồn thay, một lần nữa lá cờ đỏ sao vàng lại xuất hiện trong phim Nữ điệp báo nói về phong trào Cộng Sản trước Mao Trạch Đông (dù thoáng qua hơn phim Vạn lý trường chinh vài năm trước đây) đang chiếu trên đài Truyền hình VN. Đề nghị, nếu từng vì bất cứ lý do gì nghiệt ngã đến độ phải copy lá cờ dấy binh CS của Trung Quốc thì ngành quân sử, sử học, hoạ sĩ VN lẽ nào tiếp tục yếu kém đến độ không vẽ nổi một lá cờ riêng? CSVN không sợ bị mang tiếng nô lệ văn hoá Tàu đến mất thể diện quốc gia vậy sao?


Thời VNCH có một cuộc thi rất hào hứng cho giới trẻ, đó là thi viết diễn từ đọc trong Lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng hàng năm. Tôi đã tham dự và bị giải nhì do lời bình luận gây tranh luận trong giới chấm thi được cho là mới mẻ nhưng táo bạo, khó chấp nhận đưa ra công luận đọc trước công chúng! Hồi đó tôi viết: “Nếu nước Pháp tôn vinh Jeanne d’Arc là bậc thánh và cho rằng: “Lòng yêu nước xuất phát từ trái tim phụ nữ!” thì với công nghiệp Hai Bà Trưng vừa thắng quân nhà Hán vừa đưa Việt Nam ra khỏi thời huyền sử mông muội, bước vào thời đại có lịch sử, người Việt có thể kết luận là “Lòng yêu nước và nền văn minh Việt Nam xuất phát từ trái tim và khối óc của những những người phụ nữ!”. Đó là câu đánh giá đến nay ngẫm lại cũng không sai tuy có vẻ nên thêm vào câu “với sự góp công sức và trí tuệ toàn dân” cho tròn ý. 


Với Jeanne D’Arc của thế kỷ 15 (1412-1431) khi Pháp nỗ lực tìm bản sắc của mình sau các cuộc biến động chiến tranh chính trị làm đất nước tan hoang lòng người suy sụp, tìm kiếm một anh hùng chân chính, không có tai tiếng thì Jeanne d’Arc xuất thân từ một làng quê hẻo lánh, một cô thôn nữ thất học nhưng đánh thắng quân Anh xâm chiếm mà thành xuất chúng khi còn chưa quá tuổi thiếu niên đã đáp ứng được các tố chất đó và được phong thánh. Việt Nam đã có anh hùng tài đức vẹn toàn là Hai Bà Trưng từ thế kỷ thứ nhất là rất đáng tự hào! 


Lịch sử Viêt Nam bắt đầu từ Hai Bà Trưng chứ không phải Vua Hùng. Mười tám Vua Hùng là huyền sử nhuốm màu huyền thoại thần thánh kém tính khoa học. Ông Nguyễn Tất Thành có lẽ không muốn biết sử lập quốc Việt Nam do Hai bà Trưng viết những trang sử đầu và công bảo vệ đất nước chống Trung Quốc vào thế kỷ thứ I, hay vì sợ mà ngày nay chỉ nói đến vua Hùng? Nhưng dân VN vốn thông minh và chống xâm lược pghương Bắc ăn sâu tiềm thức nên nói đến các vua Hùng cũng chỉ nói nhiều đến Trọng Thuỷ-Mỵ Châu!


Nữ vương Lý Chiêu Hoàng cho thấy Đại Việt xưa không phân biệt Nam nữ so với hoàng gia Nhật Bổn đến nay 2009 còn không đồng thuận việc có nữ vương. Lý Chiêu Hoàng sinh năm 1218 lên ngôi lúc 7 tuổi 1224. Năm 1225 nhường ngôi cho Trần Cảnh và làm hoàng hậu. Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng lấy nhau 12 năm không con nên Trần Cảnh bị ép lập hoàng hậu khác là cũng là chị gái đang có mang với Trần Liễu. Trần Cảnh không đồng ý nhưng cũng bị ép lập Thuận Thiên làm hoàng hậu


Công chúa Mai Hoa là con của vua Lê Anh Tông (1556-1573) và là chị gái của vua Lê Thế Tông (1573-1599). Vua cha bị Trịnh Tùng đuổi bắt và giết chết, lúc 42 tuổi (1573), vua Lê Thế Tông (1573-1599) là con lên ngôi. Vì vua em này lên ngôi lúc 7 tuổi, nên chị là Mai Hoa được cử làm nhiếp chính. Là người có nhiều thế lực nhưng công chúa Mai Hoa cũng nổi tiếng đức độ, thuỳ mị và có lòng bác ái. Công Chúa Mai Hoa là Mẹ bề trên của Tu viện Đức Mẹ Vô Nhiễm đầu tiên tại Việt Nam. Công Chúa Mai Hoa còn được gọi là công chúa Chiêm vì là con bà phi người Chăm Pa, cũng gọi là “Công Chúa Chè” vì có công phát triển nghề trồng chè


Ngược dòng cổ sử thời nhà Lý tại vùng thượng du Bắc Việt nhiều nhóm thị tộc Mán Mường và thiểu số khác chiếm cứ và sinh sống trên những vùng miền có tính yết hầu chiến lược. Triều Lý có chính sách chiêu dụ và tạo thêm vây cánh, thắt chặt tình thân thiện với các thị tộc này bằng cách đem gả các công chúa cho các thủ lãnh Châu mục. Vào Năm 1029 vua Lý Thái Tông gả công chúa Bình Dương cho châu mục Lạng Châu (Lạng Sơn) là Thân Thiên Thái, 1036 Vua Lý Thái Tông lại gả công chúa Kim Thành cho châu mục Phong Châu (Phú Thọ, Sơn Tây) là Lê Tông Thuận và gả công chúa Trường Ninh cho châu mục Thượng Oai là Hà Thiện Lãm. Năm 1082, Lý Nhân Tông gả công chúa Khâm Thánh cho Châu mục Vị Long (Tuyên Quang) là Hà Di Khánh, năm 1127 gả công chúa Diên Bình cho thủ lãnh phủ Phú Lương (Thái Nguyên) là Dương Tự Minh, vào năm 1144 chính Dương Tự Minh lại cưới thêm một công chúa Thiều Dung. Như vậy trong suốt triều đại nhà Lý đã có sáu công chúa được gả cho các châu mục có họ Thân, Hà, Dương, Lê. Những họ này là của người Mường, Mán -tức người Việt Nam trên miền cao, vì lý do gì đó sống tách biệt trên rừng hùng cứ một phương và có khả năng quân sự triều đình phải chiêu dụ. Châu mục là Tù trưởng một huyện miền núi. Chính các Châu mục này đã ngăn chặn trấn thủ biên giới phía Bắc. Giáo sư Phan Khoang ghi chú thêm như sau: “Việc này, sử ta đều không chép, có lẽ các sử thần nhà Nguyễn cho là việc không đẹp, nên giấu đi chăng? Nhưng nếu họ quan điểm như vậy thì không đúng. Hôn nhân chính trị, nhiều nước đã dùng, còn ở nước ta thì chính sách đã đem lại ích lợi quan trọng. Đời nhà Lý thường đem công chúa gả cho các tù trưởng các bộ lạc thượng du Bắc Việt, các bộ lạc ấy là những giống dân rất khó kiếm chế. Nhờ đó mà các vùng ấy được yên ổn, dân thượng không xuống cướp phá dân ta, triều đình thu được thuế má, cống phẩm; đất đai ấy, nhân dân ấy lại là một rào dậu kiên cố ở biên giới Hoa Việt để bảo vệ cho miền Trung Châu và kinh đô Thăng Long...”.

Những dòng trên có thể xem là phản biện cho một số quan điểm sử gia thời trước, vì sử thần Ngô Sĩ Liên từng bàn về cuộc hôn nhân của Công chúa Huyền Trân như sau: “Ngày xưa Hán Cao hoàng vì nước Hung-nô thường quấy phá biên giới, mới lấy con gái của dân làm công chúa gả cho thiền vu, kết hôn với người không phải giống nòi, các tiên nho đã từng chê (...).Còn như Nhân Tôn đem con gái gả cho vua nước Chiêm-thành là nghĩa gì ? Nói rằng nhân khi đi chơi mà chót hứa gả, sợ thất tín, thì sao không làm việc đổi mệnh có được không ? Vua giữ ngôi trời mà thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi mệnh thì có khó gì, mà lại đem gả cho người xa không phải giống nòi cho đúng lời hẹn ước, rồi lại dùng mưu gian trá cướp lại về sau, thế thì tin ở đâu ?”.


Đầu năm Ất Dậu (1265), lúc đầu quân Nguyên Mông đánh tới Gia Lâm vây hãm Thành Thăng Long, để giảm nhẹ cơn quốc nạn công chúa An Tư được cống nạp cho Trấn Nam Vương Thoát Hoan con Hốt Tất Liệt.


Sau đó Đại Việt phản công và thắng trận. Bên cạnh chiến thắng của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn còn có sự hy sinh thầm lặng của Công Chúa An Tư nhà Trần, em gái út của Trần Thánh Tông. Số phận vị công chúa này ra sao không rõ. Có tài liệu nói công chúa theo Thoát Hoan về Tàu và có hai người con


Công chúa Huyền Trân: Năm 1306, vua Chiêm là Chế Mân lấy công chúa Huyền Trân và đổi lấy hai châu Ô Lý làm quà sính lễ. Tuy là dải đất lớn nhưng là vùng nắng bỏng cháy da, đất cày lên sỏi đá, gió Lào rát mặt khô cằn và mùa mưa thì hứng bão nên đến nay cũng vẫn là vùng nghèo nhất. Đây không phải là vùng đất làm giàu sinh lợi, cần nhận ra sự thật đó


Công chúa Ngọc Vạn: Vị vua mới lên ngôi của Chân Lạp là Chey Thettha II cho xây một cung điện tại Oudong, ở đây ông làm lễ thành hôn với một công chúa con vua An Nam. Triều đại Chey-Chetta II công nữ Ngọc Vạn, năm 1920 kết hôn với vua Chân Lạp Chey-Chetta II lên ngôi năm 1623-1657. Sau hai lần giúp vua Chân Lạp đánh quân Xiêm, Đại Việt được tặng vùng đất nay là Biên Hoà Sài Gòn. Bà hoàng hậu rất xinh đẹp và có nhiều đức tính được vua Cao Miên cưng quý vô cùng. Bà đã góp nhiều ý kiến hữu ích vào công việc trị nước của vua Chey Chettha II. Tước hiệu đầy đủ là Somdach Prea Preaccac Vodey Prea Voreac Khsattey. Nhờ ảnh hưởng của hoàng hậu mà vua Cao Miên không phản đối khi bà xin cho nhiều người Việt Nam vào giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình Cao Miên cũng như cho nhiều người Việt Nam lập hãng xưởng và buôn bán gần kinh đô


Từ năm 1628 đến 1642, quyền lực tại triều đình Oudong nằm trong tay Hoàng thân Outey, người Việt Nam đến lập nghiệp ở các vùng Gia Định, Bà Rịa, Biên Hoà ngày càng đông. Đất rộng người thưa và người Miên không muốn sống chung với người khác văn hoá nên hễ người Việt đến Người Miên vì không muốn sống chung với người khác văn hoá và mạnh hơn nên hễ người Việt đến sống gần họ thì họ bán đất lánh đi nơi khác. Khi Chey Chatta mất, vùng đất từ Prey Kôr trở ra bắc đến biên giới Chiêm Thành tức là Sài Gòn, Bà Rịa, Biên Hoà ngày nay, đã có nhiều người Việt đến ở và khai thác đất đai


Vào năm 1631 Công chúa Ngọc Khoa lấy vua Chăm Pa Po Romé, một trong những vị vua được người Chăm hoá thần. 


Trong bài ca Chiêm Thành Ni Danak Po Romé có câu: “Vua Po Romé có ba vợ: hai người giống da sậm và một người Việt Nam, cả ba người đều ghen nhau, cãi vã ồn ào trong cung điện nhà vua”. Theo truyền thuyết Chiêm Thành, bà Ngọc Khoa hay Bia Ut đã dùng sắc đẹp mê hoặc Pô Ro mê, khiến ông chặt bỏ cây “kraik”, biểu tượng thiêng liêng của vương quốc Chiêm Thành, vì vậy sau đó vương quốc nầy sụp đổ. 


Theo gia phả chúa Nguyễn thì năm 1651 triều đình Chăm Pa nội loạn giết chết Vua và một Hoàng Hậu. Chúa Nguyễn phải đưa quân trấn áp. Riêng Công Chúa Ngọc Khoa, đối chiếu nhiều sử liệu thì có thể bà bị nhóm phản loạn hành hình vu khống có âm mưu gây hại cho Chăm Pa. 


Theo tài liệu Chăm Pa, “năm 1653, vua Champa là Po Nraop chuẩn bị lực lượng quân sự của mình để tuyên chiến với chúa Nguyễn, thu phục lại khu vực Phú Yên bị rơi vào tay của Nguyễn vào năm 1611. Trước tình thế này, chúa Nguyễn đã gởi một đoàn quân hùng mạnh sang tấn công Champa, tiến đến sông Phan Rang, bắt được vua Po Nraop và cưỡng bách vua này ngồi trong rọ bằng sắt để đưa về Huế. Không chịu để cho nhà Nguyễn đối xử khinh bạc, Po Nraop tự huỷ mình để nêu cao tinh thần bất khuất”.


Cách đối xử với vua Chăm Pa như thế là khinh bạc như thời đất trời con người còn mông muội. Thật ra sự khinh bạc với Vua tù binh này có lý do đặc biệt, nếu thật sự Công chúa Ngọc Khoa bị nhục hình bức tử của kẻ cướp ngôi phản loạn Po Nraop đã giết chết Vua và một bà hoàng hậu người Êđê sau đó giết công chúa Ngọc Khoa. Nếu thật sự có âm mưu, Công chúa Ngọc Khoa đã lấy vua Po Romé từ năm 1631. Vua Po Romé chết năm 1651, không có việc phải chờ đến 20 năm sau, rồi sau khi chồng bà chết 2 năm Chúa Nguyễn mới tiến đánh Chăm Pa khi Chăm Pa đã lọt vào tay vua phản loạn Po Nraop. Thời công chúa Ngọc Khoa hai nước không có chiến tranh không dính dáng gì về việc Chăm Pa tự ý hay bị buộc nhượng đất đai chuộc mạng 20 năm trước 1611.

Lịch sử cho thấy hai năm sau vua cướp ngôi, lấy cớ đòi lại đất đai có thể Po Nraop đã giết và triều đình Chăm Pa Po Nraop vu khống cho Công chúa Ngọc Khoa để che giấu tội phản loạn. Po Nraop chủ động chuẩn bị tấn công Phú Yên Đại Việt năm 1653 nên chúa Nguyễn mới đem quân tấn công, bắt bỏ rọ là hành động không thích hợp với tù binh là một vị vua nhưng có thể hiểu lòng người cha xót con, lòng các quân tướng người Việt xót thương vị công nương nước Việt bị bức tử nhục hình! Đối chiếu với trường hợp trước kia, công chúa Chiêm là Mai Hoa có mẹ người Chăm Pa được giáo dục theo người Việt và đã làm đến chức vị Nhiếp chính vương. Điều này cho thấy trình độ văn hoá và tính nhân văn của Đại Việt quả là có khoảng cách hình thành lối tư duy khác xa nhau hành xử khác nhau.


Nhà truyền giáo Jésuite Joseph Tissanier, theo như Nguyễn Đố dẫn lời, có thể viết sai vì ông không phải sử gia cũng có thể không biết rõ, nhưng Nguyễn Đố nhất thiết phải biết và đính chính nếu có lòng trong thực. Nếu biết mà còn dựa trên sai lầm tán rộng thành hiềm khích là bôi lọ người khác


Tôi hoàn toàn thông cảm nỗi niềm thương tiếc của người Chăm Pa nhìn lại giai đoạn lịch sử đất nước luôn bị chiến tranh dồn ép bởi vì Đại Việt cũng là một nạn nhân của Trung Hoa bị xâm chiếm nhưng cũng thật bàng hoàng khó chấp nhận việc bóp méo lịch sử chỉ để thoá mạ gây ra hiểu lầm nguy hại. Cần hiểu về các vị công nương Việt Nam từng góp sức kiến tạo hoà bình và vào thời đất rộng người thưa nhiều hoang địa, đã mang về cho Việt Nam những vùng đất hoang để khai khẩn lập nghiệp sinh sống trong hoà bình để tôn vinh những người phụ nữ có công với đất nước và kiến tạo hoà bình khu vực


Không nên trách Vua nước Việt vì các cuộc hôn nhân chính trị đều mang nhiều nguy cơ trở thành nạn nhân của các tranh chấp luôn luôn xảy ra trong chế độ quân chủ. Đại Việt xưa có thể viện dẫn nhiều lý do không thật để bảo đảm an toàn cho các công nương bị rơi vào thế không còn ai bảo vệ. Theo lịch sử thì công chúa Huyền Trân sau đó vào chùa tu hành làm sư nữ chứ không có cuộc sống nào khác đang chê trách! Có thể do việc Công chúa Huyền Trân về Đại Việt gây bất bình nên đến khi vua Po Romé chết Chúa Nguyễn không đưa Công Chúa Ngọc Khoa về nước và số phận bi thảm đã đổ lên đời nàng Công chúa Việt Nam


Cần hiểu ra sao, vì sao một người ít nhiều mang tính chuyên gia lại có cách viết quá sai, gán cho vua Chăm phản loạn tự tử Po Nraop thành Po Romé là chồng Công Chúa Ngọc Khoa để từ đó ám chỉ xa gần đến gán tội giết chồng và đặt cả dấu hỏi lên công chúa Huyền Trân về cái chết của Chế Mân dù sính lễ chỉ là vùng đất cày lên sỏi đá miền Trung đến nay vẫn nghèo và khó sống. Dominique Nguyen, tức là Nguyễn Ðố, dân tộc Chăm gốc làng Minh Mỳ, Bình Thuận, cựu sinh viên Sorbonne (Paris), cộng tác viên thuộc Trung Tâm Lịch Sử và Nền Văn Minh Bán Ðảo Ðông Dương. Dominique Nguyen, viết đăng trên tạp chí Champaka như sau: “Sau ngày kết hôn với vua Po Romé, bà ta đã tiếp tay với vua cha ở Phú Xuân hầu cung cấp tin tức liên quan đến chiến lược quân sự của chồng mình. Nhờ tin này, Chúa Nguyễn xua quân chinh phạt Champa bắt được vua Po Romé và nhốt trong rọ sắt. Vì quá hổ thẹn, Po Romé quyết định chấm dứt cuộc đời của mình bằng cách tự tử mà một người truyền giáo tây phương Jésuite Joseph Tissanier đã kể lại. 

Sau ngày chết của Po Romé, hoàng cung Champa đưa Bia Ut (Ngọc Khoa) ra pháp lý và kết tội tử hình vì tội phản bội tổ quốc bằng cách đạp đầu bà ta vào bùn lầy cho đến khi tắt thở. Sau đó, cung đình Champa ra lệnh tạc tượng bà ta với tư thế đầu chúi xuống đất để hậu thế không quên vụ án này. Theo Nghiêm Thẩm, tượng Bia Ut vẫn còn vào năm 1960 toạ lạc ở cánh đồng Hamu Biuh (Phan Rang) cách đền Po Romé vào khoảng 8 cây số. Bia Ut, tức là Ngọc Khoa, con của Chúa Sãi Vương bị hoàng cung Champa lên án tử hình vì tội làm gián điệp


Có chăng Huyền Trân cũng mang thân phận như công chúa Ngọc Khoa, tức là bị Champa lên án vì đã nhận sứ mệnh của triều đình Ðại Việt nhằm ám hại Chế Mân để rồi vua Trân Anh Tôn phải tìm mưu kế đưa Huyền Trân về Thăng Long. Ðây chỉ là giả thuyết của chúng tôi mà thôi...
” (Dominique Nguyen, “700 năm cuộc tình Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa : 1306-2006”, Champaka, 06/06/2007)

Người Chăm Pa giải thích là chỉ có các vị hoàng hậu người Chăm Pa mới được phép lên dàn thiêu với chồng và là sự tự nguyện nên trách việc Vua nước Đại Việt đem công chúa Huyền Trân về lại Việt Nam với lý do là sợ phải lên dàn thiêu sau khi Chế Mân chết. Cho nên thời vua Po Romé bà hoàng hậu người Chăm lại không lên dàn hoả, không được thờ với vua Po Romé mà Vua Poromé được thờ cùng người vợ sắc tộc Êđê thì chắc hẳn bà hoàng Êđê này bị vua phản loạn cướp ngôi Po Nraop giết chứ không có thể là tự nguyện lên dàn thiêu vì trái với luật hoàng gia Chăm Pa, đúng như tư liệu còn lại ở Việt Nam. Ông vua cướp ngôi giết vua và hai hoàng hậu xứng đáng vào rọ sát vì là tử tội của hoàng gia, chứ không phải tư cách vua thất trận. 


Các nhà sử học ăn lương nhà nước Việt Nam của chế độ hiện nay nghĩ thế nào về những nghi án lịch sử như thế?


 

*


Việt Nam chia cắt Bắc Nam cả một thế hệ (20-25 năm có thể xem là một thế hệ VN), và miền Bắc trong nền lịch sử chính trị chủ trương chiến tranh bức tử truyền thống chứ không phải là một qua trình xem xét chọn lựa



Nhiều phụ nữ miền Bắc lớn tuổi còn lưu giữ phần nào truyền thống gia đình trước 1945. Phụ nữ mang danh cách mạng giai cấp có sự đột biến thành dị thường, hảnh tiến, tự tin mù quáng, tự hào lầm lạc qua hình ảnh các nữ quan toà không biết chữ, thản nhiên chứng kiến giết người để chờ được chia “quả thực“ là giường tủ bàn ghế chén nồi trong CCRĐ. Những phụ nữ này rất khác với tính cách người phụ nữ thường dân Nam bộ và cũng khác phụ nữ miền Nam có danh phận mà điển hình là Nam Phương hoàng hậu khuê danh Nguyễn Hữu Thị Lan và bà Nguyễn Thị Mai Anh phu nhân Tổng thống Thiệu, hai vị một là hoàng hậu và một là đệ nhất phu nhân đều trí tuệ khiêm cung nhân hậu. Riêng bà Ngô Đình Nhu là người phụ nữ thông minh Tây học dám phá lệ, mang tính cách tự tin của phụ nữ Châu Âu hiện đại, át quyền nam giới không e dè, thành thiếu cẩn trọng giữa xã hội còn nặng nam quyền và trong chính trường miền Nam phức tạp luôn bị bóp méo. Bà Nhu bị ghét nhưng khó thể bị chê nếu quy chiếu với tiêu chí của những người phụ nữ hiện đại, dù chưa sánh bằng nhưng giống tính cách tự tin dấn thân vào chính trường của một Hillary Clinton! Thời gian chứng minh những gì mà chính trị gia báo chí miền Nam và phong trào phản chiến trong ngoài nước trước 1975 nói về bà mới là thiển cận và nhiều việc là vu khống.


Ngày nay khi người dân miền Bắc có khuynh hướng tìm về truyền thống xưa nhưng gắn kết vào khớp nối lịch sử văn hoá xa xưa còn thấm đẫm sắc màu dị đoan hủ tục chứ không phải là tính hiện đại của thế kỷ công dân trong khoa học và luật pháp nên cũng không có tác dụng tích cực qua các lễ hội màu mè loè loẹt đồng bóng. Tuy nhiên việc hiện nay có quan tâm bảo tồn khôi phục trùng tu đền các danh nhân là việc làm đáng hoan nghênh, ví như đền Hai Bà Trưng ở tương truyền có từ thế kỷ XII [1].


Việt Nam mơ ước tiếp cận văn minh qua phong trào Đông Du và Tây học. May mắn thay sau 1955-1975 đã từ quân chủ chuyển sang dân chủ là chế độ VNCH. Mỹ giúp nhẹ nhàng gỡ tay đô hộ Pháp không tốn một chút máu xương. Ông hoàng Bảo Đại với tầm cao tri thức và cùng hoàng gia giàu lòng yêu nước đã giúp Việt Nam một bước chuyển biến rõ nét


Nhiều người nhận ra vai trò khá lớn của phụ nữ trong gia đình Việt Nam hiện tại đã nói đùa: “Ở Việt Nam còn chế độ mẫu hệ ngoại trừ việc con không theo họ mẹ!”. [2] Thật ra phụ nữ miền Nam đã từng ít bị phong kiến hủ tục bủa vây so với miền Bắc miền Trung là thủ đô của chế độ phong kiến và so với Trung Quốc mà thôi. Ở VN đến nay tuy không bạc đãi con gái song không muốn gia đình thiếu con trai. Con trai vẫn được hưởng gia tài nhiều hơn và có trách nhiệm thờ tự trong gia đình.


Chính bạo lực chiến tranh hình thành chế độ phong kiến mà tâm lý phụ nữ không tương thích nên bị đẩy xuống hàng thứ yếu mở ra lối sống trọng nam khinh nữ. Nhưng không có nước nào mà phụ nữ luôn có vai trò trong chiến tranh như suốt dọc dài lịch sử đất nước Việt Nam.

Trần Thị Hồng Sương

© Thông Luận 2009 [1] Nhân vớt được tượng Hai Bà, vua Lý Anh Tông cho lập đền thờ Hai Bà ở bãi Đồng Nhân, trên bờ sông Hồng, khi đó thuộc phường Bố Cái.

 
[2] So sánh với một câu nhận định tinh tế hơn câu nói đùa nhuốm mùi cay đắng về thang ưu tiên trong xã hội Mỹ: “Thứ nhất trẻ con, thứ hai người già thứ ba phụ nữ thứ tư chó mèo, thứ năm đàn ông!”

 

http://e-cadao.com/Nhanvatnu/nhungvinuvuongcongchuaviet.htm