Huyền Quang
thiền sư
Huyền Quang thiền sư 玄光禪師 (hay Huyền Quang tôn giả, 1254-1334) tên thật là
Lý Ðạo Tái 李道載 (có sách chép Trần Ðạo Tái, Lý Tái Ðạo). Ông
người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang, sinh năm Giáp Dần (1254),
mất ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334).
Theo "Tổ gia thực lục" trong "Tam tổ thực lục"
thì từ nhỏ ông đã có khiếu văn chương, năm hai mươi tuổi đỗ khoa thi hương và
năm sau lại đỗ đầu khoa thi hội. Được bổ dụng vào Viện nội hàn, từng tiếp sứ
Bắc, rất nổi tiếng về thơ văn. Nhưng không bao lâu ông một mực xin từ chức đi
tu. Được người đứng đầu dòng Thiền Trúc lâm lúc bấy giờ là Trần Nhân Tông rất
quý mến, giao cho Pháp Loa hướng dẫn. Về sau ông trở thành vị tổ thứ ba của
dòng thiền này.
Huyền Quang là một nhà sư đồng thời là một thi sĩ có tiếng đời
Trần. Thơ ông rất đậm chất trữ tình. Các nhà phê bình đời trước như Lê Quý Đôn,
Phan Huy Chú đều khen thơ ông "ý tinh tế, cao siêu", "lời bay
bướm, phóng khoáng". Có lẽ con người thi nhân trong ông rõ nét hơn con
người tôn giáo. Xung quanh thân thế ông có nhiều giai thoại khá hấp dẫn, đã trở
thành những câu chuyện dân gian được lưu truyền rộng rãi, và cũng đã từng được
nhà văn đương thời ghi lại dưới hình thức một truyện truyền kỳ, lý thú, đi vào
kho sách vở nhà Phật từ nhiều thế kỷ nay.
Tác phẩm hiện còn 24 bài thơ, trong số đó có bài "Xuân nhật
tức sự" gần đây được xác minh là thơ thiền đời Tống, một bài phú Nôm, sách
vở cũ cho biết ông còn có các tác phẩm "Chư phẩm kính", "Công
văn tập", thư từ tiếp sứ và tập thơ "Ngọc tiên tập" nhưng nay
đều đã thất lạc.
Một số sách còn chép ông chính là tác giả câu thơ nôm cảm khái về
nhân tình thái thế khá chua chát sau đây:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn,
Đến khi đỗ trạng, tám nghìn nhân duyên.
https://www.thivien.net/Huy%E1%BB%81n-Quang-thi%E1%BB%81n-s%C6%B0/author-ky6a-6Hq9AEiujrHK0DNTQ
哀俘虜
刳血書成欲寄音,
孤飛寒雁塞雲深。
幾家愁對今霄月,
兩處茫然一種心。
玄光禪師
Ai phù lỗ
Khoá huyết thư thành dục ký âm,
Cô phi hàn nhạn tái vân thâm.
Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt,
Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.
Thương Tù Binh
Trích máu thành lời thơ viết vội
Lẻ loi cánh nhạn tím mây sầu
Hỏi bao nhà ngắm vầng trăng buốt
Hai chốn đau cùng một nỗi đau
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
題潢水寺
潢水亭邊野草多,
空山雨霽夕陽斜。
因過輦路投禪室,
擁梵敲鐘揀落花。
玄光禪師
Đề Đạm Thuỷ tự
Đạm Thuỷ đình biên dã thảo đa,
Không sơn vũ tễ tịch dương tà.
Nhân qua liễn lộ đầu thiền thất,
Ủng phạm xao chung giản lạc hoa.
Đề chùa Đạm Thủy
Cỏ dại xanh hông chùa Đạm Thủy
Núi không, mưa lạnh ráng chiều buông
Tiện chân theo lối vua thăm Bụt
Hoa rụng quanh chùa, một tiếng chuông
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
題洞軒檀越假山
花木寅緣種作山,
籠煙罩月落花寒。
從茲念慮都無俗,
贏得清風一枕安。
玄光禪師
Đề Động Hiên đàn việt giả sơn
Hoa mộc di duyên chủng tác sơn,
Lung yên trạo nguyệt, lạc hoa hàn.
Tùng tư niệm lự đô vô tục,
Doanh đắc thanh phong nhất chẩm an
Đề Hòn Non Bộ
Trồng cây xếp đá làm non giả
Vui thú cùng hoa, khói đẫm trăng
Đầu óc sạch bon không dính bụi
Ngon lành gíấc giữa gió lăng quăng
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
地爐即事
煨餘榾柮色焚香,
口答山童問短章。
手把吹商和木鐸,
徒教人笑老僧忙。
玄光禪師
Ðịa lô tức sự
Ổi dư cốt đột tuyệt phần hương,
Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương.
Thủ bả xuy thương hoà mộc đạc,
Ðồ giao nhân tiếu lão tăng mang.
Cảm Xúc Trước Lò Sưởi
Khói vẫn loang hương tàn bếp củi
Giải chương kinh ngắn trẻ nhà quê
Một tay gõ mõ, tay nâng sáo
Cười cợt mặc người, mặc kệ ta
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
菊花其一
松聲蔣詡先生徑,
梅景西湖處士家。
義氣不同難苟合,
故圓隨處吐黃花。
玄光禪師
Cúc hoa kỳ 1
Tùng thanh Tưởng Hủ tiên sinh kính,
Mai cảnh Tây Hồ xử sĩ gia.
Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp,
Cố viên tuỳ xứ thổ hoàng hoa.
Reo suốt tiếng thông nhà Tưởng Hủ
Vàng mai rực rỡ lối Tây Hồ
Thanh khí không cùng nên chẳng hợp
Vườn xưa khắp khắp cúc vàng phô
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
菊花其二
大江無夢浣枯腸,
百詠梅花讓好粧。
老去愁秋吟未穩,
詩瓢實為菊花忙。
玄光禪師
Cúc hoa kỳ 2
Đại giang vô mộng hoán khô tràng,
Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang.
Lão khứ sầu thu ngâm vị ổn,
Thi biều thực vị cúc hoa mang.
Héo ruột ngàn sông không đủ thấm
Trăm thơ chưa đẹp một mai hoa
Bạc đầu ngâm mãi chưa nên vận
Cúc nở vàng cho rộn rã ta
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
菊花其三
忘身忘世已都忘,
坐久蕭然一榻涼。
歲晚山中無歷日,
菊花開處即重陽。
玄光禪師
Cúc hoa kỳ 3
Vong thân, vong thế, dĩ đô vong,
Toạ cửu tiêu nhiên nhất tháp lương.
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật,
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.
Đã không còn vướng vào thân thế
Ọp ẹp giường tre lặng lẽ ngồi
Đếm tháng đếm ngày chi giữa núi
Trùng dương đến lúc cúc vàng tươi
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
菊花其四
年年和露向秋開,
月淡風光愜寸懷。
堪笑不明花妙處,
滿頭隨到插歸來。
玄光禪師
Cúc hoa kỳ 4
Niên niên hoà lộ hướng thu khai,
Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài.
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ,
Mãn đầu tuỳ đáo sáp quy lai.
Mỗi năm mỗi nở mỗi thu sang
Gió mát trăng thanh mỗi rộn ràng
Cười nụ thương ai không biết ngắm
Đường về trên tóc giắt hoa vàng
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
菊花其五
花在中庭人在樓,
焚香獨坐似忘憂。
主人與物渾無競,
花向群方出一頭。
玄光禪師
Cúc hoa kỳ 5
Hoa tại trung đình nhân tại lâu,
Phần hương độc toạ tự vong ưu.
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh,
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.
Người ở lầu cao hoa rợp sân
Thắp hương riêng ngắm ý trong ngần
Lòng người chung với lòng hoa vậy
Một đóa hồn nhiên chợt nở bừng
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
菊花其六
春來黃白各芳菲,
愛艷憐香亦似時。
遍界繁華全墜地,
後彫顏色屬東籬。
玄光禪師
Cúc hoa kỳ 6
Xuân lai hoàng bạch các phương phi,
Ái diễm liên hương diệc tự thì.
Biến giới phồn hoa toàn truỵ địa,
Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly.
Vào xuân vàng trắng thảy đều thơm
Hoa thuận theo thời mãi tỏa hương
Rồi lúc muôn hoa rơi rụng hết
Tường Đông vàng cúc ánh còn vương
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
舟中
一葉扁舟湖海客,
撐出葦行風搣搣。
微茫四顧晚潮生,
江水連天一鷗白。
玄光禪師
Nhất diệp biển chu hồ hải khách,
Xanh xuất vi hành phong thích thích.
Vi mang tứ cố vãn triều sinh,
Giang thủy liên thiên nhất âu bạch.
Giữa thuyền
Xuồng con một chiếc bơi rong
Hai bờ lau lách bềnh bồng gió đưa
Nước rong bốn phía giăng mờ
Mênh mông trời nước con cò solo
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
延祐寺
上方秋夜一鐘闌,
月色如波楓樹丹。
鴟吻倒眠方鏡冷,
塔光雙峙玉尖寒。
萬緣不擾城遮俗,
半點無憂眼放寬。
參透是非平等相,
魔宮佛國好生觀。
玄光禪師
Diên Hựu tự
Thượng phương du dạ nhất chung lan,
Nguyệt sắc như ba phong thụ đan.
Si vẫn đảo miên phương kính lãng,
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn.
Vạn duyên bất nhiễu thành già tục,
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan.
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng,
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan.
Chùa Diên Hựu
Chùa vắng đêm thu chuông một tiếng
Đỏ lá phong rờn sóng nguyệt đưa
Cú mèo mớm mỏ trong gương nước
Ánh tháp đâu chân giữa mặt hồ
Bụi bặm ngăn che không dính lấy
Mắt nhìn rộng mở chẳng âu lo
Có không không có đều không có
Dù Bụt dù ma cũng lặng tờ
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
梅花
欲向蒼蒼問所從,
凜然孤峙雪山中。
折來不為遮青眼,
願借春思慰病翁。
玄光禪師
Mai hoa
Dục hướng thương thương vấn sở tòng,
Lẫm nhiên cô trĩ tuyết sơn trung.
Chiết lai bất vị già thanh nhãn,
Nguyện tá xuân tư uỷ bệnh ông.
Hoa mai
Trông lên hỏi ý cành mai
Rảnh rang đứng giữa núi đầy tuyết sương
Hái không vì sắc vì hương
Mượn mùa xuân để tự thương thân già
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
午睡
雨過溪山淨,
楓林一夢涼。
反光塵世介,
開眼醉茫茫。
玄光禪師
Ngọ thuỵ
Vũ quá khê sơn tịnh,
Phong lâm nhất mộng lương.
Phản quang trần thế giới,
Khai nhãn tuý mang mang.
Ngũ trưa
Núi khe yên ắng sau mưa
Rừng phong có giấc ngủ trưa ngon lành
Bụi đời trong nắng vờn quanh
Mở hai con mắt trời xanh mơ màng
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
因事題究蘭寺
德薄常慚繼祖燈,
空教寒拾起冤憎。
爭如逐伴歸山去,
疊嶂重山萬萬層。
玄光禪師
Nhân sự đề Cứu Lan tự
Đức bạc thường tàm kế tổ đăng,
Không giao Hàn, Thập khởi oan tăng.
Tranh như trục bạn quy sơn khứ,
Điệp chướng trùng san vạn vạn tằng.
Thẹn thùng đức bạc khêu đèn tổ
Hàn, Thập vời trông phải nhuốm buồn
Giá được quay lưng về núi cũ
Điệp trùng vách đá, một lều con
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
Nhân có việc đề ờ chùa Cứu Lan
Đức mỏng, thẹn thùng đèn tổ nối,
Luống cho Hàn, Thập nổi hờn căm.
Chi bằng theo bạn về non quách,
Núi dựng non che vạn vạn tầng.
(Người dịch: Hoàng Trung Thông)
泛舟
小艇乘風泛渺汒,
山青水綠又秋光。
數聲漁笛蘆花外,
月落波心江滿霜。
玄光禪師
Phiếm chu
Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang,
Sơn thanh thuỷ lục hựu thu quang.
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.
Chèo Thuyền
Thuyền nương cánh gió đong đưa
Non xanh nước biếc trời vừa sang thu
Sáo thôn chài lượn ngàn lau
Trăng chìm ngọn sóng nhuộm màu sương buông
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
過萬劫
諒州人物水流東,
百歲光陰撚指中。
回首故山凝望處,
數行歸雁帖晴空。
玄光禪師
Quá Vạn Kiếp
Lạng Châu nhân vật thuỷ lưu đông,
Bách tuế quang âm nhiển chỉ trung.
Hồi thủ cố sơn ngưng vọng xứ,
Sổ hàng qui nhạn thiếp tình không.
Qua Vạn Kiếp
Người xứ Lạng Sơn nước chảy xuôi
Trăm năm bấm đốt chợt qua rồi
Quay đầu ngóng ngó về quê cũ
Lớp lớp chim bay rợp góc trời
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
山宇
秋風午夜拂簷椏,
山宇蕭然枕綠蘿。
已矣成禪心一片,
蛩聲唧唧為誰家。
玄光禪師
Sơn vũ
Thu phong ngọ dạ phất thiềm nha,
Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la.
Dĩ hỹ thành thiền tâm nhất phiến,
Cung thanh tức tức vị thuỳ gia.
Nhà trong núi
Hiên ngoài gió lộng thềm thu
Mưa tuôn nhà nát lu bu cỏ bò
Lòng thiền sạch bụi âu lo
Nỉ non tiếng dế vọng về nhà ai
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
早秋
夜氣分涼入畫屏,
蕭蕭庭樹報秋聲。
竹堂忘適香初燼,
一一叢枝網月明。
玄光禪師
Tảo thu
Dạ khí phân lương nhập họa bình,
Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh.
Trúc đường vong thích hương sơ tẫn,
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh.
Buổi đầu thu
Hương đêm thơm ngát họa bình
Cành xao xác lá mang tin thu về
Hương trong lều trúc lượn lờ
Muôn cành đan võng đón chờ trăng xanh
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
贈仕途子弟
富貴浮雲遲未到,
光陰流水急相催。
何如小隱林泉下,
一榻松風茶一杯。
玄光禪師
Tặng sĩ đồ tử đệ
Phú quí phù vân trì vị đáo,
Quang âm lưu thuỷ cấp tương thôi.
Hà như tiểu ẩn lâm tuyền hạ,
Nhất tháp tùng phong, trà nhất bôi.
Tặng những thân ra làm quan
Giàu sang mây nổi chừng chưa đến
Giòng nước thời gian đã giục già
Xóm nhỏ quay về đi tắm suối
Gió trăng nằm khểnh một chung trà
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
石室
半間石室和雲住,
一領毳衣經歲寒。
僧在禪床經在案,
爐殘榾柮入三竿。
玄光禪師
Thạch thất
Bán gian thạch thất hoà vân trụ,
Nhất lĩnh xối y kinh tuế hàn.
Tăng tại thiền sàng kinh tại án,
Lô tàn cốt đột nhật tam can.
Nhà đá
Nhà đá nửa gian mây quấn quýt
Suốt năm lạnh tấm áo bông sờn
Giường thiền sư ngủ kinh trên án
Sáng bảnh lò trơ gốc củi tàn
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
次寶慶寺壁間題
荒草殘煙野思多,
南樓北館夕陽斜。
春無主惜詩無料,
愁絕東風幾樹花。
玄光禪師
Thứ Bảo Khánh tự bích gian đề
Hoang thảo tàn yên dã tứ đa,
Xuân vô chủ tích thi vô liệu,
Sầu tuyệt đông phong kỷ thụ hoa.
Họa thơ đề tường chùa Bảo Khánh
Cỏ dại, khói nhòe thơ cũng gọi
Lầu nam quán bắc ráng chiều pha
Xuân không có chủ thơ không tới
Nhớ chướng tươm sầu mấy cội hoa
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
晝眠
祖父田園任自鋤,
千青盤屈繞吾盧。
木犀窗外千鳩寂,
一枕清風晝夢餘。
玄光禪師
Trú miên
Tổ phụ điền viên nhậm tự sừ,
Thiên thanh bàn khuất nhiễu ngô lư.
Mộc tê song ngoại thiên cưu tịch,
Nhất chẩm thanh phong trú mộng dư.
Ngủ trưa
Vườn ruộng ông cha cứ cấy cày
Quanh nhà xanh biếc một vườn cây
Ngoài khung cửa sổ chim đi vắng
Cơn gió trong xanh giấc ngủ ngày
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
春日即事
二八佳人刺繡持,
紫荊花下轉黃鸝。
可憐無限傷春意,
盡在停針不語時。
玄光禪師
Xuân nhật tức sự
Nhị bát giai nhân thích tú trì,
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
Khả liên vô hạn thương xuân ý,
Tận tại đình châm bất ngữ thì.
Cảm Xúc Ngày Xuân
Gái xinh mười sáu ngồi thêu gấm
Ríu rít oanh vàng hót dưới hoa
Thương quá, hồn xuâm tươm ngó ý
Dừng thêu lặng lẻ ngó bâng quơ
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
安子山庵居
庵逼青霄冷,
門開雲上層。
已竿龍洞日,
猶尺虎溪冰。
抱拙無餘策,
扶衰有瘦藤。
竹林多宿鳥,
過半伴閒僧。
玄光禪師
Yên Tử sơn am cư
Am bức thanh tiêu lãnh,
Môn khai vân thượng tằng.
Dĩ can Long Động nhật,
Do xích Hổ Khê băng.
Bão chuyết vô dư sách,
Phù suy hữu sấu đằng.
Trúc lâm đa túc điểu,
Quá bán bán nhàn tăng
Am ở núi Yên Tử
Am lạnh chênh vênh chót núi
Khói mây theo cửa len vào
Suối Hổ tuyết dày gần thước
Động Rồng trời lên hơn sào
Tài vụng giúp đời không được
Thân già nương gậy thấp cao
Rừng tre bầy chim ríu rít
Ta với nửa bầy, bạn nhau
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét