Người theo dõi

Thứ Hai, 8 tháng 3, 2021

Huyền Quang thiền sư

 



Huyền Quang thiền sư

Huyền Quang thiền sư 玄光禪師 (hay Huyền Quang tôn giả, 1254-1334) tên thật là Lý Ðạo Tái 李道載 (có sách chép Trần Ðạo Tái, Lý Tái Ðạo). Ông người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang, sinh năm Giáp Dần (1254), mất ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334).

Theo "Tổ gia thực lục" trong "Tam tổ thực lục" thì từ nhỏ ông đã có khiếu văn chương, năm hai mươi tuổi đỗ khoa thi hương và năm sau lại đỗ đầu khoa thi hội. Được bổ dụng vào Viện nội hàn, từng tiếp sứ Bắc, rất nổi tiếng về thơ văn. Nhưng không bao lâu ông một mực xin từ chức đi tu. Được người đứng đầu dòng Thiền Trúc lâm lúc bấy giờ là Trần Nhân Tông rất quý mến, giao cho Pháp Loa hướng dẫn. Về sau ông trở thành vị tổ thứ ba của dòng thiền này.

Huyền Quang là một nhà sư đồng thời là một thi sĩ có tiếng đời Trần. Thơ ông rất đậm chất trữ tình. Các nhà phê bình đời trước như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú đều khen thơ ông "ý tinh tế, cao siêu", "lời bay bướm, phóng khoáng". Có lẽ con người thi nhân trong ông rõ nét hơn con người tôn giáo. Xung quanh thân thế ông có nhiều giai thoại khá hấp dẫn, đã trở thành những câu chuyện dân gian được lưu truyền rộng rãi, và cũng đã từng được nhà văn đương thời ghi lại dưới hình thức một truyện truyền kỳ, lý thú, đi vào kho sách vở nhà Phật từ nhiều thế kỷ nay.

Tác phẩm hiện còn 24 bài thơ, trong số đó có bài "Xuân nhật tức sự" gần đây được xác minh là thơ thiền đời Tống, một bài phú Nôm, sách vở cũ cho biết ông còn có các tác phẩm "Chư phẩm kính", "Công văn tập", thư từ tiếp sứ và tập thơ "Ngọc tiên tập" nhưng nay đều đã thất lạc.

Một số sách còn chép ông chính là tác giả câu thơ nôm cảm khái về nhân tình thái thế khá chua chát sau đây:

Khó khăn thì chẳng ai nhìn,

Đến khi đỗ trạng, tám nghìn nhân duyên.

https://www.thivien.net/Huy%E1%BB%81n-Quang-thi%E1%BB%81n-s%C6%B0/author-ky6a-6Hq9AEiujrHK0DNTQ

 

哀俘虜

刳血書成欲寄音,
孤飛寒雁塞雲深。
幾家愁對今霄月,
兩處茫然一種心。

玄光禪師

 

Ai phù lỗ

Khoá huyết thư thành dục ký âm,
Cô phi hàn nhạn tái vân thâm.
Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt,
Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.

 

Thương Tù Binh

Trích máu thành lời thơ viết vội

Lẻ loi cánh nhạn tím mây sầu

Hỏi bao nhà ngắm vầng trăng buốt

Hai chốn đau cùng một nỗi đau

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

 

題潢水寺

潢水亭邊野草多,
空山雨霽夕陽斜。
因過輦路投禪室,
擁梵敲鐘揀落花。

玄光禪師

 

Đề Đạm Thuỷ tự

Đạm Thuỷ đình biên dã thảo đa,
Không sơn vũ tễ tịch dương tà.
Nhân qua liễn lộ đầu thiền thất,
Ủng phạm xao chung giản lạc hoa.

 

 

Đề chùa Đạm Thủy

Cỏ dại xanh hông chùa Đạm Thủy

Núi không, mưa lạnh ráng chiều buông

Tiện chân theo lối vua thăm Bụt

Hoa rụng quanh chùa, một tiếng chuông

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

題洞軒檀越假山

花木寅緣種作山,
籠煙罩月落花寒。
從茲念慮都無俗,
贏得清風一枕安。

玄光禪師

 

Đề Động Hiên đàn việt giả sơn

Hoa mộc di duyên chủng tác sơn,
Lung yên trạo nguyệt, lạc hoa hàn.
Tùng tư niệm lự đô vô tục,
Doanh đắc thanh phong nhất chẩm an

 

 

Đề Hòn Non Bộ

Trồng cây xếp đá làm non giả

Vui thú cùng hoa, khói đẫm trăng

Đầu óc sạch bon không dính bụi

Ngon lành gíấc giữa gió lăng quăng

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

地爐即事

煨餘榾柮色焚香,
口答山童問短章。
手把吹商和
木鐸
徒教人笑老僧忙。

玄光禪師

 

Ðịa lô tức sự

Ổi dư cốt đột tuyệt phần hương,
Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương.
Thủ bả xuy thương hoà mộc đạc,
Ðồ giao nhân tiếu lão tăng mang.

 

Cảm Xúc Trước Lò Sưởi

Khói vẫn loang hương tàn bếp củi

Giải chương kinh ngắn trẻ nhà quê

Một tay gõ mõ, tay nâng sáo

Cười cợt mặc người, mặc kệ ta

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

菊花其一

松聲蔣詡先生徑,
梅景西湖處士家。
義氣不同難苟合,
故圓隨處吐黃花。

玄光禪師

 

Cúc hoa kỳ 1

Tùng thanh Tưởng Hủ tiên sinh kính,
Mai cảnh Tây Hồ xử sĩ gia.
Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp,
Cố viên tuỳ xứ thổ hoàng hoa.

 

 

Reo suốt tiếng thông nhà Tưởng Hủ

Vàng mai rực rỡ lối Tây Hồ

Thanh khí không cùng nên chẳng hợp

Vườn xưa khắp khắp cúc vàng phô

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

菊花其二

大江無夢浣枯腸,
百詠梅花讓好粧。
老去愁秋吟未穩,
詩瓢實為菊花忙。

玄光禪師

 

 

Cúc hoa kỳ 2

Đại giang vô mộng hoán khô tràng,
Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang.
Lão khứ sầu thu ngâm vị ổn,
Thi biều thực vị cúc hoa mang.

 

 

Héo ruột ngàn sông không đủ thấm

Trăm thơ chưa đẹp một mai hoa

Bạc đầu ngâm mãi chưa nên vận

Cúc nở vàng cho rộn rã ta

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

菊花其三

忘身忘世已都忘,
坐久蕭然一榻涼。
歲晚山中無歷日,
菊花開處即重陽。

玄光禪師

 

Cúc hoa kỳ 3

Vong thân, vong thế, dĩ đô vong,
Toạ cửu tiêu nhiên nhất tháp lương.
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật,
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.

 

Đã không còn vướng vào thân thế

Ọp ẹp giường tre lặng lẽ ngồi

Đếm tháng đếm ngày chi giữa núi

Trùng dương đến lúc cúc vàng tươi

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

菊花其四

年年和露向秋開,
月淡風光愜寸懷。
堪笑不明花妙處,
滿頭隨到插歸來。

玄光禪師

 

 

Cúc hoa kỳ 4

Niên niên hoà lộ hướng thu khai,
Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài.
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ,
Mãn đầu tuỳ đáo sáp quy lai.

 

Mỗi năm mỗi nở mỗi thu sang

Gió mát trăng thanh mỗi rộn ràng

Cười nụ thương ai không biết ngắm

Đường về trên tóc giắt hoa vàng

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

菊花其五

花在中庭人在樓,
焚香獨坐似忘憂。
主人與物渾無競,
花向群方出一頭。

玄光禪師

 

Cúc hoa kỳ 5

Hoa tại trung đình nhân tại lâu,
Phần hương độc toạ tự vong ưu.
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh,
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.

 

Người ở lầu cao hoa rợp sân

Thắp hương riêng ngắm ý trong ngần

Lòng người chung với lòng hoa vậy

Một đóa hồn nhiên chợt nở bừng

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

 

菊花其六

春來黃白各芳菲,
愛艷憐香亦似時。
遍界繁華全墜地,
後彫顏色屬東籬。

玄光禪師

 

Cúc hoa kỳ 6

Xuân lai hoàng bạch các phương phi,
Ái diễm liên hương diệc tự thì.
Biến giới phồn hoa toàn truỵ địa,
Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly.

 

Vào xuân vàng trắng thảy đều thơm

Hoa thuận theo thời mãi tỏa hương

Rồi lúc muôn hoa rơi rụng hết

Tường Đông vàng cúc ánh còn vương

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

 

舟中

一葉扁舟湖海客,
撐出葦行風搣搣。
微茫四顧晚潮生,
江水連天一鷗白。

玄光禪師

 

Chu trung

Nhất diệp biển chu hồ hải khách,
Xanh xuất vi hành phong thích thích.
Vi mang tứ cố vãn triều sinh,
Giang thủy liên thiên nhất âu bạch.

 

Giữa thuyền

Xuồng con một chiếc bơi rong

Hai bờ lau lách bềnh bồng gió đưa

Nước rong bốn phía giăng mờ

Mênh mông trời nước con cò solo

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

 

延祐寺

上方秋夜一鐘闌,
月色如波楓樹丹。
鴟吻倒眠方鏡冷,
塔光雙峙玉尖寒。
萬緣不擾城遮俗,
半點無憂眼放寬。
參透是非平等相,
魔宮佛國好生觀。

玄光禪師

 

Diên Hựu tự

Thượng phương du dạ nhất chung lan,
Nguyệt sắc như ba phong thụ đan.
Si vẫn đảo miên phương kính lãng,
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn.
Vạn duyên bất nhiễu thành già tục,
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan.
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng,
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan.

 

Chùa Diên Hựu

Chùa vắng đêm thu chuông một tiếng

Đỏ lá phong rờn sóng nguyệt đưa

Cú mèo mớm mỏ trong gương nước

Ánh tháp đâu chân giữa mặt hồ

Bụi bặm ngăn che không dính lấy

Mắt nhìn rộng mở chẳng âu lo

Có không không có đều không có

Dù Bụt dù ma cũng lặng tờ

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

梅花

欲向蒼蒼問所從,
凜然孤峙雪山中。
折來不為遮青眼,
願借春思慰病翁。

玄光禪師

 

Mai hoa

Dục hướng thương thương vấn sở tòng,
Lẫm nhiên cô trĩ tuyết sơn trung.
Chiết lai bất vị già thanh nhãn,
Nguyện tá xuân tư uỷ bệnh ông.

 

 

Hoa mai

Trông lên hỏi ý cành mai

Rảnh rang đứng giữa núi đầy tuyết sương

Hái không vì sắc vì hương

Mượn mùa xuân để tự thương thân già

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

 

午睡

雨過溪山淨,
楓林一夢涼。
反光塵世介,
開眼醉茫茫。

玄光禪師

 

Ngọ thuỵ

Vũ quá khê sơn tịnh,
Phong lâm nhất mộng lương.
Phản quang trần thế giới, 
Khai nhãn tuý mang mang.

 

Ngũ trưa

Núi khe yên ắng sau mưa

Rừng phong có giấc ngủ trưa ngon lành

Bụi đời trong nắng vờn quanh

Mở hai con mắt trời xanh mơ màng

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

 

因事題究蘭寺

德薄常慚繼祖燈,
空教寒拾起冤憎。
爭如逐伴歸山去,
疊嶂重山萬萬層。

玄光禪師

 

Nhân sự đề Cứu Lan tự

Đức bạc thường tàm kế tổ đăng,
Không giao Hàn, Thập khởi oan tăng.
Tranh như trục bạn quy sơn khứ,
Điệp chướng trùng san vạn vạn tằng.

 Nhân sự đề Cứu Lan tự

Thẹn thùng đức bạc khêu đèn tổ

Hàn, Thập vời trông phải nhuốm buồn

Giá được quay lưng về núi cũ

Điệp trùng vách đá, một lều con

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

Nhân có việc đề ờ chùa Cứu Lan

Đức mỏng, thẹn thùng đèn tổ nối,
Luống cho Hàn, Thập nổi hờn căm.
Chi bằng theo bạn về non quách,
Núi dựng non che vạn vạn tầng.

(Người dịch: Hoàng Trung Thông)

 

 

泛舟

小艇乘風泛渺汒,
山青水綠又秋光。
數聲漁笛蘆花外,
月落波心江滿霜。

玄光禪師

 

Phiếm chu

Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang,
Sơn thanh thuỷ lục hựu thu quang.
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.

 

Chèo Thuyền

Thuyền nương cánh gió đong đưa

Non xanh nước biếc trời vừa sang thu

Sáo thôn chài lượn ngàn lau

Trăng chìm ngọn sóng nhuộm màu sương buông

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

過萬劫

諒州人物水流東,
百歲光陰撚指中。
回首故山凝望處,
數行歸雁帖晴空。

玄光禪師

 

Quá Vạn Kiếp

Lạng Châu nhân vật thuỷ lưu đông,
Bách tuế quang âm nhiển chỉ trung.
Hồi thủ cố sơn ngưng vọng xứ,
Sổ hàng qui nhạn thiếp tình không.

 

Qua Vạn Kiếp

Người xứ Lạng Sơn nước chảy xuôi

Trăm năm bấm đốt chợt qua rồi

Quay đầu ngóng ngó về quê cũ

Lớp lớp chim bay rợp góc trời

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

山宇

秋風午夜拂簷椏,
山宇蕭然枕綠蘿。
已矣成禪心一片,
蛩聲唧唧為誰家。

玄光禪師

 

Sơn vũ

Thu phong ngọ dạ phất thiềm nha,
Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la.
Dĩ hỹ thành thiền tâm nhất phiến,
Cung thanh tức tức vị thuỳ gia.

  

Nhà trong núi

Hiên ngoài gió lộng thềm thu

Mưa tuôn nhà nát lu bu cỏ bò

Lòng thiền sạch bụi âu lo

Nỉ non tiếng dế vọng về nhà ai

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

早秋

夜氣分涼入畫屏,
蕭蕭庭樹報秋聲。
竹堂忘適香初燼,
一一叢枝網月明

玄光禪師

 

Tảo thu

Dạ khí phân lương nhập họa bình,
Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh.
Trúc đường vong thích hương sơ tẫn,
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh.

 

Buổi đầu thu

Hương đêm thơm ngát họa bình

Cành xao xác lá mang tin thu về

Hương trong lều trúc lượn lờ

Muôn cành đan võng đón chờ trăng xanh

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

贈仕途子弟

富貴浮雲遲未到,
光陰流水急相催。
何如小隱林泉下,
一榻松風茶一杯。

玄光禪師

 

Tặng sĩ đồ tử đệ

Phú quí phù vân trì vị đáo,
Quang âm lưu thuỷ cấp tương thôi.
Hà như tiểu ẩn lâm tuyền hạ,
Nhất tháp tùng phong, trà nhất bôi.

  

Tặng những thân ra làm quan

Giàu sang mây nổi chừng chưa đến

Giòng nước thời gian đã giục già

Xóm nhỏ quay về đi tắm suối

Gió trăng nằm khểnh một chung trà

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

石室

半間石室和雲住,
一領毳衣經歲寒。
僧在禪床經在案,
爐殘榾柮入三竿。

玄光禪師

 

Thạch thất

Bán gian thạch thất hoà vân trụ,
Nhất lĩnh xối y kinh tuế hàn.
Tăng tại thiền sàng kinh tại án,
Lô tàn cốt đột nhật tam can.

 

 

Nhà đá

Nhà đá nửa gian mây quấn quýt

Suốt năm lạnh tấm áo bông sờn

Giường thiền sư ngủ kinh trên án

Sáng bảnh lò trơ gốc củi tàn

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

次寶慶寺壁間題

荒草殘煙野思多,
南樓北館夕陽斜。
春無主惜詩無料,
愁絕東風幾樹花。

玄光禪師

 

Thứ Bảo Khánh tự bích gian đề

Hoang thảo tàn yên dã tứ đa,
Nam lâu Bắc quán tịch dương tà.
Xuân vô chủ tích thi vô liệu,
Sầu tuyệt đông phong kỷ thụ hoa.

 

Họa thơ đề tường chùa Bảo Khánh

Cỏ dại, khói nhòe thơ cũng gọi

Lầu nam quán bắc ráng chiều pha

Xuân không có chủ thơ không tới

Nhớ chướng tươm sầu mấy cội hoa

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

晝眠

祖父田園任自鋤,
千青盤屈繞吾盧。
木犀窗外千鳩寂,
一枕清風晝夢餘。

玄光禪師

 

Trú miên

Tổ phụ điền viên nhậm tự sừ,
Thiên thanh bàn khuất nhiễu ngô lư.
Mộc tê song ngoại thiên cưu tịch,
Nhất chẩm thanh phong trú mộng dư.

 

Ngủ trưa

Vườn ruộng ông cha cứ cấy cày

Quanh nhà xanh biếc một vườn cây

Ngoài khung cửa sổ chim đi vắng

Cơn gió trong xanh giấc ngủ ngày

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

春日即事

二八佳人刺繡持,
紫荊花下轉黃鸝。
可憐無限傷春意,
盡在停針不語時。

玄光禪師

 

Xuân nhật tức sự

Nhị bát giai nhân thích tú trì,
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
Khả liên vô hạn thương xuân ý,
Tận tại đình châm bất ngữ thì.

 

 

Cảm Xúc Ngày Xuân

Gái xinh mười sáu ngồi thêu gấm

Ríu rít oanh vàng hót dưới hoa

Thương quá, hồn xuâm tươm ngó ý

Dừng thêu lặng lẻ ngó bâng quơ

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

安子山庵居

庵逼青霄冷,
門開雲上層。
已竿龍洞日,
猶尺虎溪冰。
抱拙無餘策,
扶衰有瘦藤。
竹林多宿鳥,
過半伴閒僧。

玄光禪師

 

Yên Tử sơn am cư

Am bức thanh tiêu lãnh,
Môn khai vân thượng tằng.
Dĩ can Long Động nhật,
Do xích Hổ Khê băng.
Bão chuyết vô dư sách,
Phù suy hữu sấu đằng.
Trúc lâm đa túc điểu,
Quá bán bán nhàn tăng

Am ở núi Yên Tử

Am lạnh chênh vênh chót núi

Khói mây theo cửa len vào

Suối Hổ tuyết dày gần thước

Động Rồng trời lên hơn sào

Tài vụng giúp đời không được

Thân già nương gậy thấp cao

Rừng tre bầy chim ríu rít

Ta với nửa bầy, bạn nhau

Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét