TRIẾT HỌC BÌNH DÂN
Trong Tục Ngữ, Phong
Dao
Giáo Sư NGUYỄN ĐĂNG THỤC
Tư tưởng suy luận bình dân
Tư tưởng suy luận bình dân có thể
gọi là triết lý bình dân Việt Nam như giáo sĩ Léopold-Cadière đã viết dưới nhan
đề “Philosophie populaire Annamite”. Theo giáo sĩ thì:
“Người ta, bất cứ
ở trình độ văn minh nào, đều có những ý tưởng về thế giới và về sự vật trong
thế giới, những ý tưởng ấy có thể phát triển hơn hay kém minh bạch, hay lờ mờ,
ý thức nhiều hay ít. Nhưng chúng có thật và người ta phô diễn ra tiếng nói.
Tiếng nói là tấm gương phản chiếu tính tình của một dân tộc. Nó phản chiếu tất
cả những ý niệm của con người. Chính nhờ ngôn ngữ mà người ta tập trung suy
nghĩ và chính nhờ ngôn ngữ mà nó diễn tả những điều nó cảm thấy và quan niệm.
Ngôn ngữ vừa là cái khuôn vừa là môi giới của tinh thần. Vậy thì nếu chúng ta
muốn biết dân Việt họ suy nghĩ thế nào, thì chúng ta phải hỏi ngôn ngữ của họ…
Ngôn ngữ diễn tả một mớ ý tưởng triết học lưu hành một cách ý thức hay vô ý
thức trong dân gian mà những thế hệ nọ truyền lại cho thế hệ kia không hề biến
đổi đi mấy. Và những ý tưởng ấy biểu lộ cách thức người dân gian quan niệm về
thế giới và sự vật tạo nên thế giới, con người, bản tính của nó, đời sống luân
lý và trí thức của nó. Đấy là triết học bình dân.” (Triết học
bình dân Việt Nam, L.Cadière – Ecole Francaise d’Extrême-Orient, trong
Croyances et Pratiques religieuses des Vietnamiens, t.III)
Song ngoài ngôn ngữ, nhân dân Việt Nam còn cả một kho tàng vô tận về tục ngữ và phong dao phản chiếu hết sức trung thực tính tình con người bình dân Việt qua các thời đại. Muốn tìm một nền triết học bình dân Việt Nam để xem xét thái độ phổ thông của họ đối với vấn đề căn bản cho sự sống còn là quan hệ giữa người với trời đất, giữa người với người, sau cùng là sự quan hệ giữa mình với mình, mình thật là gì, mình giả là gì, ta là ai, tóm lại thái độ xử thế tiếp vật của bình dân Việt Nam, tưởng không gì bằng nghiên cứu ngay trong cái kho vô tận tục ngữ phong dao.
Trong bài diễn văn đọc ở Hội Trí Tri ngày 21 tháng 4 năm 1921 tại Hà Nội (tạp chí Nam Phong số 46) ông Phạm Quỳnh có định nghĩa khá minh bạch thế nào là tục ngữ ca dao như sau:
“Tục ngữ hay ngạn ngữ là những câu nói thường hoặc vì cái thể nó gọn ghẽ dễ nhớ mà người trong nước ai ai cũng nói đến, truyền ở cửa miệng người ta, nhất là ở những nơi lý hạng chốn nhân gian. Vì ở miệng người bình thường ít học mà ra, thật thà, sỗ sàng, không bóng bẩy chải chuốt nên gọi là tục, chớ không phải tất nhiên là thô bỉ tục tằn. Phương ngôn của những câu tục ngữ riêng của từng địa phương, phương này thông dụng mà địa phương kia ít dùng hoặc không biết. Lại cao hơn một tầng nữa là những câu cách ngôn. Câu tục ngữ phương ngôn nào có ý nghĩa cao xa thời có thể gọi là cách ngôn được. Song cách ngôn lại là một thể riêng đã triết lý, văn chương rồi, không phải là những câu tự nhiên truyền khẩu đi như phương ngôn cùng tục ngữ. Nói tóm lại thời tục ngữ là những câu truyền khẩu tự nhiên hoặc chỉ những sự lý công nhiên dẫu người dân nào nước nào cũng cho làm phải, hoặc chỉ những phong tục riêng của một dân, một nước. Như câu: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, là một câu tục ngữ có ý nghĩa chung, còn có câu “Cao nấm thì ấm mồ”, là một câu tục ngữ có ý nghĩa riêng cho dân An Nam.
Nói về nghĩa lý các tục ngữ thì đại loại là những lời ví von, những cách nói lối, những câu răn dạy, những giọng khen chê toàn là thuộc về thể nói lối cả. có thể nói phàm tục ngữ là những câu nói lối hết.
Tục ngữ thường có một câu hay là hai câu đối nhau, nhưng cũng có nhiều khi thành hai câu lục bát hay là song thất như lối thi ca thường. Khi nào như thế thì tục ngữ đã nhất biến hầu thành ra ca dao rồi.
Như câu:
Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời dì ghẻ có thương con chồng?
Mồ côi cha ăn cơm với cá
Mồ côi mẹ liếm lá đầu chợ.
Mấy câu đó thì đã xa lối tục ngữ và gần thể ca dao rồi.
Nay ca dao là những bài hát nhỏ, từ hai câu trở lên mà không bao giờ dài lắm, giọng điệu tự nhiên, cũng do khẩu truyền mà thành ra phổ thông trong dân gian thường hát. Ca dao tức như những bài “Quốc phong” trong Kinh thi, thường là lời ngâm vịnh về công việc nhà quê hay lời con trai con gái hát với nhau”.
Xem thế thì tục ngữ và phong dao hay ca dao xuất phát thẳng từ trong ý thức nhân dân mà ra, do chính họ sáng tác hay ít ra cũng đã được ý thức tập thể soát lại, công nhận và khẩu truyền đi từ đời nọ sang đời kia, từ nơi này đến nơi khác. Bởi thế mà chúng phản chiếu một cách trực tiếp và trung thành những cảm nghĩ của nhân dân sinh sống hàng ngày trong nhân quần xã hội và tiếp xúc với cảnh vật trong hoàn cảnh thiên nhiên. Như vậy thì tục ngữ phong dao chứa đựng những kinh nghiệm thực tế, những lẽ phải phổ thông của dân tộc. Chúng còn có ý nghĩa hơn là ngôn ngữ nói chung, vì chúng là những cảm nghĩ đã trải qua kinh nghiệm và suy luận của đại chúng. Nếu phân tích ngôn ngữ có thể tìm ra một triết lý bình dân Việt Nam, thì nghiên cứu tục ngữ phong dao càng làm cho ta thấy cái triết lý ở một trình độ cao hơn và phong phú hơn nhiều. Ở Tây Âu người ta chẳng nói: “Phương ngôn tục ngữ là túi khôn các dân tộc” (Les proverbes sont la sagesse des nations).
Quan niệm Trời-Đất-Người
Như trên đã có nói, định nghĩa triết học một cách đại cương phổ thông là tất cả cảm nghĩ của người ta có liên quan đến thái độ sống. Mà thái độ sống trước hết là định vị trí tương quan của mình đối với Trời, Đất, và Người. Trong tư tưởng cố hữu ở Á Đông vẫn có một quan niệm khái quát rất phổ thông cho tất cả tầng lớp xã hội, trí thức cũng như bình dân, ấy là quan niệm Trời-Đất-Người mà nhà nho gọi bằng danh từ Hán Việt là quan niệm Tam Tài, hay là nôm na hơn thì:
Trời thời, Đất lợi, tại Nhân hòa.
Như mở đâu bài thơ Tịch Cốc của nhà chí sĩ Phan Thanh Giản, cũng như ở phương ngôn tục ngữ hay nói:
Đội trời, đạp đất ở đời.
Đấy đều là nói về ba yếu tố cơ bản hợp thành cả một thế giới quan phổ thông của dân tộc Việt Nam.
Nay thử xét trong phương ngôn tục ngữ, người dân Việt bình dân đã có những cảm nghĩ thế nào về ba yếu tố riêng biệt ấy.
TRỜI. Trời vật lý: hiện tượng thiên nhiên.
Về Trời ta thấy những câu như:
Trời mưa, trời gió, trời nắng, trời râm, trời thấp, trời xanh, trời u ám v.v…
Coi trời bằng vung.
Chim trời cá nước
Chạy trời chẳng khỏi nắng
Gần đất xa trời
Trời gần, trời xa
Tạnh trời mây cuốn về non
Hẹn cùng cây cỏ chớ còn trông mưa.
Trời: tâm lý và siêu nhiên
-Mặt trời, mặt trăng
-Chân trời góc biển
-Bắc thang lên hỏi ông trời
-Của trời, người thế, nước non tiên
-Của trời, trời lại lấy đi
Giương hai mắt ếch làm chi được trời
-Khi nên trời cũng chiều người
-Ai bảo trời không có mắt
-Không có trời ai ở được với ai?
-Tiễn ông Táo lên chầu trời
-Biết sự trời mười đời chẳng khó
-Trời sinh, trời dưỡng
-Trời sinh voi, trời sinh cỏ.
-Cha mẹ sinh con, trời sinh tính.
-Đèn trời soi xét.
-Ăn ở xởi lởi thì trời gởi của cho.
Ăn ở quanh co thì trời gò của lại.
-Trời cho hơn lo làm.
-Trời đánh còn tránh miếng ăn.
-Tướng nhà trời.
-Trời chẳng đóng cửa ai.
-Trời nào có dung kẻ gian, có oán người ngay.
-Trời nào có phụ ai đâu
Hay làm thì giàu, có chí thì nên.
-Trời sao trời ở chẳng cân
Người ăn chẳng hết, người lần chẳng ra.
-Trời sao trời ở chẳng công
Người ba bốn vợ, người không vợ nào.
-Dù ai nói ngược nói xuôi
Ta đây vẫn giữ đạo Trời khăng khăng.
Trên đây về một chữ Trời, chúng ta thấy hiện rõ hai ý nghĩa khác nhau, một ý nghĩa vật lý gồm những hiện tượng tự nhiên cụ thể, hữu tình và một ý nghĩa tâm lý nhân cách hóa như một ngôi vị có ý chí thưởng phạt, tạo hóa không hẳn biệt lập với ý nghĩa vật lý như “Ông Xanh” chẳng hạn. Ở ý nghĩa nhân cách hóa “Ông Trời” này thường là một thế lực thiện, che chở bảo vệ chúng sinh, nuôi dưỡng vạn vật, để cho nhân loại nương tựa vào đấy mà sống còn, mà kính sợ, làm thiện được thưởng, làm ác bị phạt. Nhưng cũng có khi đám bình dân đau khổ quá quay lại oán trách nghi ngờ ý Trời thiên vị bất công. Rồi còn có một ý nghĩa thứ ba là ý nghĩa khách quan, như là một đạo lý đại đồng, bảo tồn điều lý trật tự của nhân sinh cũng như vũ trụ, đấy là Đạo Trời không hoàn toàn trừu tượng tiêu cực, mà trái lại có một bản tính là Tính Trời đồng nhất với bản tính thiên nhiên của chúng sinh và nhân loại, vượt qua giới hạn của tính chất sinh lý hay tâm lý di truyền của huyết thống, như nói “cha mẹ sinh con, trời sinh tính”. Cái tính trời là bản tính đại đồng, tự nhiên nhi nhiên tức cái tính tiên thiên không do kinh nghiệm lịch sử tạo nên vậy. đấy là quan niệm về trời vừa thiên nhiên vừa siêu nhiên, vừa hữu tình vật chất vừa siêu hình luân lý mà chúng ta thấy trong tục ngữ phương ngôn là tiếng nói của lẽ phải phổ thông trong ý thức của bình dân Việt Nam cố hữu, trước khi chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa hay Ấn Độ. Đấy cũng là kết quả của sự nghiên cứu ngôn ngữ của giáo sĩ L.Cadière:
“Hình như những ý nghĩa chính chúng ta thấy gán cho chữ Trời thuộc về cái vốn triết học riêng của dân tộc Việt Nam, vì ý niệm Trời đã ăn sâu trong tâm hồn nhân dân Việt Nam. Trời coi như nguyên lý các hiện tượng thời tiết và nhân cách hóa; trời coi như một đấng toàn năng có ảnh hưởng vào mệnh vận của loài người. Nếu có sự nghi ngờ, thì chỉ đối với mệnh đề thứ hai ấy, đối với ý nghĩa sau rốt ấy. Người ta có thể thừa nhận như tôi tưởng, là cái ý nghĩa một đấng toàn năng đã được trau dồi phát triển với ảnh hưởng các tư tưởng Trung Hoa; nhưng ngay từ khởi thuỷ trong ý thức Việt Nam đã sẵn có mầm mống của ý niệm ấy rồi. Bằng chứng như tôi đã nói, là cái ý niệm ấy đã thấm nhuần quá thâm sâu vào tâm hồn Việt Nam và đã biểu hiện quá phổ thông trong ngôn ngữ bình dân để cho người ta có thể nhìn thấy ở đấy chỉ là cống hiến ngoại lai. Những ý tưởng Phật giáo, những ý tưởng Nho giáo, theo quan điểm lịch sử chắc chắn từ Trung Hoa du nhập, đã không thấm nhuần vào đời sống tâm hồn, vào ngôn ngữ bình dân đến mực ấy được.” (Triết học bình dân Việt Nam, L.Cadière – Ecole Francaise d’Extrême-Orient, trong Croyances et Pratiques religieuses des Vietnamiens)
ĐẤT. Ý nghĩa thiên nhiên vật lý
Về đất chúng ta cũng thấy hay đi đôi với Trời và ngụ có hai ý nghĩa vừa thiên nhiên vừa siêu nhiên như ở những câu sau đây:
-Đất thấp, trời cao
-Tốt như đêm, dầy như đất
-Vụng múa chê đất lệch
-Chật đất ở lại
-Đất khách quê người
-Đất vua, chúa làng, phong cảnh bụt.
-Quê cha đất tổ
-Trời rộng đất dài.
Ý nghĩa luân lý:
-Đất lành chim đậu.
-Đất có lề, quê có thói.
-Đất có tuần, dân có vận.
-Để là hòn đất, cất lên ông Bụt.
-Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá.
Ý nghĩa siêu nhiên:
-Đất Bụt lại ném chim trời
-Chim trời bay mất đất rơi xuống đầu.
-Đất thiêng, thần đất, thổ thần, địa linh nhân kiệt
-Trời chu đất diệt.
-Trời không chịu đất, đất phải chịu trời.
Trên đây đại khái ba ý nghĩa của chữ Đất, ý nghĩa vật chất luân lý và ý nghĩa siêu nhiên. Ba ý nghĩa ấy rất phổ thông trong dân gian. Đối với nhân dân nông nghiệp, hai yếu tố chính yếu, sự sinh hoạt kinh tế của họ là thời tiết và đất đai đã quyết định sự sống còn và tiến triển của họ về đường văn minh vật chất. Hai yếu tố ấy bắt đầu có thực về phương diện vật chất, nhưng không phải chỉ giới hạn ý nghĩa vào vật chất. Chúng sớm ngụ ngay ý nghĩa thần linh rồi từ vật linh đi đến ý nghĩa siêu hình thần bí. Trời Đất bắt đầu là thời tiết và ruộng đất. Ruộng đất để cầy cấy ngũ cốc, nhưng phải trông vào thời tiết mưa nắng mới có kết quả. Và ở thời kỳ con người đứng trước những mãnh lực thiên nhiên, chỉ biết thích ứng một phần nào chứ chưa có thể làm chủ động hoàn toàn ngõ hầu biến trở lực thành trợ lực thì hiện tượng siêu nhiên sớm ngụ ý nghĩa thần bí đòi con người phải cầu cúng.
Lạy trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp…
Do đấy mà có tục sùng bái thần Đất, cũng như thần Trời và nói rộng ra là thần sông, thần núi, thần sét, thần đá, thần cây… Tất cả sự vật chung quanh đều bao phủ bằng một không khí thần linh hay sinh khí bí mật, có quyền năng ma thuật. Từ “hòn đá kết làm con tinh”, “thần cây đa, ma cây gạo”, cho đến thần sống, thần hoàng, địa linh, nhân kiệt, để rồi kết thúc vào nhân cách hóa trời đất với ý nghĩa siêu nhiên linh thiêng phân biệt không những với hình thức vật chất cụ thể mà còn phân biệt cả với nhân loại bằng da thịt phải sinh sống bằng cơm rượu:
Trời đất hương hoa
Người ta cơm rượu
Như thế là tự nhiên “để là hòn đất” mà “cất lên ông Bụt”. Và hàng ngày nhân dân sống trong thế giới sự vật vừa hữu hình vừa siêu hình, vừa thiên nhiên vừa siêu nhiên. Trời đất liên đới với nhau như hai nguyên lý trống mái, nam nữ, âm dương, vuông tròn, càn khôn, luôn luôn phối hợp không tách rời.
Trời kia Khôn cũng thừa Càn
Nước kia Tấn cũng họp Tần mới xong.
Tạo nên một khung cảnh linh động bao hàm người và vật bên trong, cùng nhau tương quan mật thiết bằng một nguồn sống chung ngấm ngầm và vĩnh cửu.
Người bình dân luôn ý thức:
Đội trời, đạp đất, ở đời, nghĩa là ý thức sống trong cái khung cảnh ấy như là “cá sống trong nước”, trong một bầu không khí thần vật, vật linh lúc nào cũng hiện tại, bao bọc chung “Người Việt tin tưởng hành động, đi lại trong bầu siêu nhiên. Siêu nhiên ám ảnh nó. Nó không thể nào thoát được ban ngày và giấc ngủ cũng không giải thoát được cho nó vì mộng triệu cũng là những biểu hiện của thần linh.” (L.Cadière)
Cái bầu Trời Đất thần linh ấy nối liền thế giới này với thế giới bên kia, thiên nhiên hữu hình với siêu nhiên vô hình thành một miên tục tâm linh, trong đó người sống gần với người chết, phàm trần với tiên cảnh, bầu trời với cảnh bụt.
Đất vua, chúa làng, phong cảnh bụt thông đồng với nhau từ thế giới nọ sang thế giới kia bằng một cái cửa ngăn hẹp của “hang động hồ thiên” như chúng ta đã thấy tả trong thần thoại thần tiên. Bởi thế mà giáo sĩ L.Cadière bảo rằng:
“Dân Việt sống không có Thượng Đế nhưng rất tín ngưỡng vì nó có cái đức tin thực tế rất cao vào một thế giới siêu nhiên ảnh hưởng thái độ sinh sống của nó”.
NGƯỜI: thái độ
Sinh sống của con người Việt trong cái thế giới thần vật, vật linh ấy như thế nào, qua những cảm nghĩ phổ thông của tục ngữ phong dao?
Trên kia trong tư tưởng thần thoại và tín ngưỡng chúng tôi đã phác họa thái độ sống của bình dân Việt Nam là thái độ sùng bái đối với tất cả, sùng bái Tổ tiên, sùng bái thần tiên, sùng bái cỏ cây, đất đai, sông núi, chứng tỏ dân tộc Việt Nam hết sức tín ngưỡng vào một thế giới siêu nhiên tiếp nối và bao hàm chung quanh thế giới hiện thực, họ không từng giới hạn đời sống của họ vào một thế giới hiện thực vật chất thiển cận mà còn sống cho cả thế giới vĩnh cửu tâm linh, thế giới linh hồn tổ tiên sau khi “chết là thể xác, còn là tinh anh”.
Sống về mổ, về mả
Chẳng ai sống về cả bát cơm.
Vì “sống chỉ là gởi, thác chỉ là về”, bởi vì sống với chết là hai phương diện của một thực tại biến hóa lúc ẩn lúc hiện, chứ cuộc đời trung bình trong vòng trăm năm đâu phải là tất cả sự sống “sinh hữu kỳ, tử vô hạn”. Cho nên:
Cuộc đời khác nữa là hoa
Sớm còn tối mất nở ra lại tàn.
Bởi thế mà không chỉ biết sống cho hiện tại trước mắt, tất phải có quá khứ và tương lai, quá khứ khi cha mẹ chưa sinh ra ta, còn ở trong cái Tính trời sinh tiên thiên và tương lai sau khi thể xác đã chết rồi, tinh anh trở về thế giới vô hình nhưng có thực như thần tiên bất tử.
Trách chàng Từ Thức vụng suy
Cõi tiên chẳng ở, về chi cõi trần.
Ngoài cõi trần, hay nói đúng hơn chung quanh cõi trần, hiện tại còn trà trộn thông đồng với cả một cõi thần tiên siêu nhiên của Tổ tiên, của Chư vị vãng lai lên xuống từ Đất đến Trời, từ Thiên đường xuống Địa ngục, như trên cầu thang Jacob của Thánh Thần.
Em về ngoài Huế!
Mướn ông thợ mộc
Đủ đục đủ chàng
Mầm một cái thang
Ba mươi sáu (36) nấc
Bắc tự trời đất
Lên tới trên Trời
Hỏi thăm duyên nợ đổi dời về đâu?
Trong một bài hát vấn đáp giữa hai bên nam nữ bình dân chúng ta thấy họ mô tả hoàn cảnh trong đó họ sinh hoạt hàng ngày, trà trộn thực tế với tưởng tượng, tiên với tục.
Nước sông Thương bên đục bên trong
Núi Đức thánh Tản thắt quả bồng mà có thánh sinh
Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh
Ở trên tỉnh Lạng có thành Tiên xây
Trên trời có chín tầng mây
Dưới sông có nước, núi nay có vàng
Chùa Hương Tích mà lại có Hang
Trên rừng lắm gỗ thời chàng biết không?
Ông Khổng Minh Không xin được túi đồng
Trên trời lại có con sông Ngân hà.
Và ở trên cái vũ trụ tiên tục, thánh phàm trà trộn ấy khi biến khi hiện, nửa thực nửa hư, của hiện tượng thiên nhiên siêu nhiên thiên hình vạn trạng ấy, nhân dân Việt Nam sớm ý thức cái thực thể duy nhất bảo hợp trật tự điều lý đại đồng, nhờ ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ với Nho giáo Trung Hoa mà họ biết phân biệt: “chín phương trời, mười phương Phật”. Số chín (9) là cùng cực số lượng của thế gian có thể tính đếm được, nó cũng chỉ là số ba (3) nhắc đi nhắc lại. Nhưng đến chín (9) là hết một vòng, tượng trưng cho một thế giới, một lượng tính để sẵn sàng biến lượng sang phẩm khác, ấy là mười (10), cũng tức là một (1) thêm số không (0), tượng trưng cho sự viên mãn của vũ trụ Phật giáo, khác về phẩm tính với vũ trụ thiên của Nho giáo. Và cái vũ trụ Phật viên mãn ấy không ở đâu xa, không tìm thấy trong điều kiện không gian thời gian nữa, vì là vũ trụ tâm linh: Phật tại tâm.
Với cái vũ trụ quan Trời Phật ấy, nông dân Việt thẩm định giá trị nhân sinh để tìm tiêu chuẩn lý tưởng làm ý hướng cho cử chỉ hành vi ở đời, quyết định thái độ xử thế tiếp vật:
Lâm râm khấn vái Phật Trời
Xin cho Cha Mẹ ở đời nuôi con.
Hay là rộng hơn:
Nghiêng vai ngửa vái Phật Trời
Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân.
Tiền chủ, hậu khách.
Bởi vì giá trị hiện luôn luôn tiến tới từ gần đến xa, từ thấp đến cao, không phải chỉ có một đường để con người tu tỉnh làm lành tránh dữ.
Lộc Phật hằng hà sa số, đường nào lợi thời tu
Cho nên nói chung trên phương diện thực tiễn thì:
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha, kính mẹ ấy là chân tu.
Hay là:
Thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.
Tu đời này để cho đời sau:
Người trồng cây đức hạnh người chơi.
Ta trồng cây đức để đời về sau.
Vì họ tin có lý trước sau nhân quả:
Có tiên thì hậu mới hay
Có trồng cây đức mới dầy nền nhân.
Nhưng tu cốt để tu tỉnh, “tu nhân tích đức”, “tu tính tu tâm”, cho nên dân Việt không nệ vào hình thức bề ngoài, “nam mô một bồ dao găm”, “khẩu Phật tâm xà”, mà chỉ cốt trau dồi đức tính, vun trồng cây đức, vì: Đức trọng quỷ thần kính
Như thế không những có óc thực tế mà còn biết suy nghĩ, vì suy nghĩ đối với nhân dân Việt Nam vẫn được coi là khả năng cao quý nhất của con người, khác với bản năng cầm thú:
Ong kiến còn có vua tôi
Huống chi loài người chẳng có nghĩa dư?
Cho nên làm người phải có suy nghĩ nên Người:
Làm người suy chín, xét xa
Cho tường gốc ngọn, cho ra vắn dài
Làm người phải đắn, phải đo
Phải cân nặng nhẹ, phải dò nông sâu
Làm người mà chẳng biết suy
Đến khi nghĩ lại còn gì là thân
Làm người ăn tối lo mai
Việc mình hồ dễ để ai lo lường.
Dân Việt tôn trọng sự suy nghĩ trong hành động cũng như trong ngôn ngữ:
Ăn có nhai, nói có nghĩ
Vì trong suy nghĩ như thế, cho nên về phương diện sinh hoạt tinh thần, người ta cảm thấy phụ nữ phần lớn đi lễ bái đền chùa, vì giàu tình cảm nên tín ngưỡng hướng ra ngoài hình thức lễ nghi, còn đàn ông phần nhiều tín ngưỡng hướng vào trong tâm giáo, vào sự phản tỉnh suy tư nội điển:
Anh đấng làm trai nam nhơn chí khi
Em đáng làm gái em chẳng biết suy:
Lấy Tây, lấy Chệt làm gì
So bề nhơn ngãi sao bì An Nam?
Vì trọng suy nghĩ cho nên cả nước từ trên xuống dưới, đàn ông cũng như đàn bà đều chuộng học hành thượng văn hơn võ, rồi “tập quán thành tự nhiên”, tinh thần hiếu học trở nên tinh thần truyền thống của dân tộc. Bởi vì: “ăn vóc, học hay”, ăn nuôi thân thể, học nuôi tinh thần, cả hai đàng đều thiết yếu cho đời sống nhân bản toàn diện.
Có lẽ vì thế mà nhân dân trọng con người có học, các cô thôn nữ mong có một người chồng lý tưởng là học trò, là thầy đồ:
Chẳng tham ruộng cả ao liền
Tham vì cái bát cái nghiên anh đồ
Sáng trăng trải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ
Dốc một lòng lấy chồng hay chữ
Để ra vào kinh sử mà nghe
Khuyên chàng đọc sách ngâm thơ
Dầu hao thiếp rót, đèn mờ thiếp khêu
Chẳng tham ruộng lúa anh đầy
Tham năm ba chữ cho tầy thế gian
Đêm nằm nghĩ lại mà coi
Lấy chồng hay chữ như soi gương vàng
Đi đâu chẳng lấy học trò
Thấy người ta đỗ thập thò mà nom?
Nhưng họ cũng biết nghĩ lại mà tự nhủ:
Khuyên ai chớ lấy học trò
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm.
Nhưng đại phàm thì họ vẫn miệt thị kẻ vô học, dốt nát hay đồ tể:
Khuyên chàng nhóm lửa thui trâu
Sôi kinh nấu sử, dao bầu thớt lim
Dốc một lòng lấy chồng dốt nát
Để ra vào rửa bát nấu cơm.
Và họ nghĩ rằng: “người làm ra của, của không làm ra người”, cho nên dù giàu dù nghèo cần phải biết chữ:
Nghèo mà hay chữ thì hơn
Giàu mà hay chữ như sơn thếp vàng.
Vì học trước hết là ích cho thân, mở mang trí tuệ, sau mới đến chức trọng quyền cao:
Học hành thì ích vào thân
Chức cao quyền trọng dần dần theo sau.
Cái đức tính hiếu học rất phổ thông của dân Việt đã đưa đến cái tinh thần thầy trò, sư đệ rất hiếm có ở các dân tộc khác:
Một chữ nên thầy
Một ngày nên nghĩa
Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.
Cho đến khi ảnh hưởng của Nho giáo du nhập vào, khoa cử phát triển, địa vị ông thầy nghiễm nhiên trở nên một gái trị thứ hai trong ba cương lĩnh giá trị cơ bản của tổ chức xã hội nông nghiệp quân chủ.
Quân-Sư-Phụ
Quốc gia đứng đầu là vua chúa – Xã hội đứng đầu là thầy học – Gia đình đứng đầu là cha mẹ.
Tuy rằng bình dân Việt đã không hoàn toàn tôn trọng cấp trật giá trị nhà Nho trên, mà coi cha cũng như thầy:
Gươm vàng rớt xuống hồ Tây
Công cha cũng trọng, nghĩa thầy cũng sâu.
Đấy là cả một ý thức hệ của dân tộc Việt Nam xưa, vừa thâu nhận vừa sáng hóa, đã kết tinh ra và phổ biến khắp trong nước, làm đường lối thực hiện con người nhân bản toàn diện, bắt đầu nhập thể trong đoàn thể gia đình, để rồi bước sang đoàn thể quốc gia mà kết thúc nối tiếp với xã hội nhân loại. Trong gia đình là đạo hiếu từ, ở quốc gia là đạo trung chính, ra xã hội thế giới là đạo nhân nghĩa. Cha từ, con hiếu, quân chính, thần trung, người thì nhân nghĩa. Tóm lại đây là hệ thống nhân nghĩa của Nho giáo mà dân tộc Việt đã thâu nhận của Trung Hoa.
Nay thử hỏi bình dân Việt Nam đã phản ứng lại như thế nào?
Qua tục ngữ phong dao chúng ta hãy tuần tự tìm hiểu cảm nghĩ của bình dân, từ đoàn thể gia đình đến quốc gia và xã hội.
GIA ĐÌNH
Về gia đình, chúng ta xét ba mối quan hệ chính là: Vợ chồng, cha mẹ, con cái và anh em.
VỢ CHỒNG: Vợ chồng trước hết là vấn đề tình cảm. Nông dân sống gần thiên nhiên, vẫn giàu tình cảm và mơ mộng lãng mạn, cho nên cứ đến dịp xuân sang là hội hè, gặp gỡ tự do, thi đua xướng họa đối đáp giao duyên:
Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm lấy áo, ta đề câu thơ
Câu thơ ba chữ rành rành:
Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Tình là ba.
Chữ Trung thì để phần Cha
Chữ Hiếu phần Mẹ , Đôi ta chữ Tình.
Tình ấy nồng nàn đằm thắm, bên gái cũng như bên trai. Bên gái thì:
Ước gì cho Bắc hợp Đông
Cho chim loan phượng, ngô đồng sánh đôi
Ước gì cho quế sánh hồi
Ước gì ta sánh được người văn nhân.
Hay là:
Chén tình là chén say sưa
Nón tình em đội nắng mưa trên đầu
Lược tình em giắt từ lâu
Gương tình soi mặt lầu lầu sáng trong
Bên trai cũng chẳng vừa:
Ước gì anh hóa ra hoa
Để em nâng lấy rồi mà cài khăn
Ước gì anh hóa ra chăn
Để cho em đắp, em lăn, em nằm
Ước gì anh hóa ra gương
Để cho em cứ ngày thường em soi
Ước gì anh hóa ra cơi
Để cho em đựng cau tươi, trầu vàng.
Xem đấy đủ biết là tình cảm nông dân nồng nàn đằm thắm, dễ đi đến tình yêu lãng mạn nếu không có công việc lao động đồng áng hàng ngày phải lo nghĩ. Bởi vậy mà tình yêu trai gái sớm đi vào đạo nghĩa vợ chồng, như phương ngôn thường nói:
Vợ chồng là nghĩa già đời
Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn.
Hay là họ nghĩ xa xôi hơn nữa đến lập gia đình, sinh con đẻ cái:
Vợ chồng là nghĩa tào khang
Chồng hòa, vợ thuận, nhà thường yên vui
Sinh con mới ra thân người
Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no.
Cái nghiệp nhà ấy là của một sự nghiệp lớn lao, lâu dài, vì có nhà rồi mới có nước, hai chữ Nhà Nước hay Quốc Gia thường đi đôi với nhau, không thể rời nhau được.
Có con phải khổ vì con,
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.
Gánh giang sơn đâu phải gánh tầm thường, hai chữ giang sơn cũng chẳng phải mỹ tự ngoa ngôn, vì một nhà mà thịnh thì nổi cơ đồ cho cả nước. Nho học chẳng đã nói:
“Một nhà nhân đức thì một nước thịnh về nhân đức, một nhà nhường nhịn thì cả nước hứng khởi theo.” (Nhất gia nhân, nhất quốc hưng nhân; nhất gia nhượng, nhất quốc hưng nhượng. Đại học)
Như thế nên vợ chồng là đầu mối gia đình, không thể cấu hợp, điều đó bình dân Việt rất ý thức:
Thuận vợ, thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn.
Đấy là một sự tự do kén chọn, tự do yêu đương, nhưng không phải tình yêu cá nhân nhục dục ăn sởi ở thì, mỗi chốc mà:
Anh đường anh, tôi đường tôi
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Đấy là cả một sự cộng đồng hợp tình hợp lý:
Vợ chồng như đũa có đôi
Chồng loan, vợ phụng
Chồng như cái đó, vợ như cái đơm.
Chồng khôn, vợ ngoan
Chồng hòa, vợ thuận.
Đấy chính ở miệng người thôn nữ thốt ra lời sở nguyện:
Em nay khăn khắn một lòng
Muốn cho phu xướng, phụ tòng cùng nhau
Lòng em như ý sở cầu.
Bởi thế mà phải kén chọn trong việc dựng vợ gả chồng:
Chim khôn đậu nóc nhà quan
Trai khôn tìm vợ, gái ngoan tìm chồng.
Tìm như thế nào, dựa vào cái gì để kén chọn? Căn cứ vào tông giống, vì vợ chồng lấy nhau vì tình đã đành, còn để gây nòi giống tốt cho dân tộc, cho nghiệp nhà. Nghiệm thấy “trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu”, cho nên lấy vợ lấy chồng cũng thế:
Lấy vợ xem tông
Lầy chồng xem giống.
Vì “con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh”. Cho nên cần phải “kén cá chọn canh”, nhưng kén chọn tự do chứ bình dân không mấy khi ép uổng, hoặc “môn đăng hộ đối” hay “đào mỏ” này mỏ khác.
Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên.
Bởi thế mới có sự phân chia trách nhiệm mà chia ngọt sẻ bùi, chia cay sẻ đắng và bình dân cũng không có cái tham vọng của giai cấp thượng lưu “năm thê bảy thiếp”, “chồng ba bảy vợ, vợ ba bảy chồng”. Bởi vì họ nghèo:
Đói no một vợ một chồng
Một niêu cơm tấm dầu lòng ăn chơi
Đói lòng ăn nắm lá xung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng.
Và ở họ, chúng ta cũng mới thấy được cái lòng trinh tiết thành thật, không hình thức bề ngoài.
Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ
Đôi ta trinh tiết đợi chờ lấy nhau.
CHA CON, MẸ CON
Chim có tổ, người có tông.
Con có cha mẹ đẻ
Không ai ở lỗ nẻ mà lên.
Con người có tổ, có tông,
Như cây có cội, như sông có nguồn.
Con ai là chẳng có cha,
Cháu ai là chẳng cháu bà cháu ông.
Trên đây bình dân Việt Nam với suy nghĩ thông thường đã nhận định mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ, con cháu với tổ tiên, và lòng nhớ ơn tự nhiên của con người đối với công sinh đẻ nuôi nấng của cha mẹ, cũng như uống nước nhớ đến nguồn:
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Nghĩa là công sinh có giới hạn, như núi Thái Sơn, dù cao mấy, trèo mãi cũng có thể tới, nhưg nghĩa mẽ nuôi dưỡng với cả lòng mẫu tử thì khác nào nguồn suối không bao giờ kiệt. Cho nên:
Cha sinh chẳng tầy mẹ dưỡng.
Bởi vì tình yêu Mẹ Con là tình yêu hầu như vô tư nhất của nhân loại, đem một tính mạng đổi lấy một tính mạng, “mang nặng đẻ đau”, “ruột đứt con xót”.
Đàn ông vượt biển có chúng có bạn,
Đàn bà vượt cạn chỉ có một mình.
Rồi còn nuôi nấng “con sài, con đẹn”, “bú mớm”.
Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ.
Nhưng sự thực thì công dưỡng dục rất lớn lao:
Cha sinh không tầy mẹ dưỡng.
Cho nên không ngoa mà phương ngôn nói:
Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể
Con nuôi mẹ con kể từng ngày.
Tuy nhiên cha mẹ đối với con cái bao giờ cũng lo lắng, có đẻ, có nuôi, có dạy để mong gây dựng:
Sinh con ai nỡ sinh lòng
Sinh con ai chẳng vun trồng cho con.
Và vun trồng ngay từ nhỏ:
Dạy con từ thưở còn thơ,
Dạy vợ từ thưở ban sơ mới về.
Cá không ăn muối cá ươn,
Con không ăn lời cha mẹ trăm đường con hư.
Và con cái đối với cha mẹ, nếu không báo đáp được đầy đủ, thì cũng không có lòng vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân như ở các xã hội kỹ nghệ Âu Tây ngày nay.
Đây là giọng nói ngây thơ, nhưng xiết bao ân tình:
Mẹ ơi đừng đánh con đau,
Để con hát bội, làm đào mẹ coi!
Bao giờ ca lý hóa long,
Đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa.
Hay là:
Đói lòng ăn đọt chà là,
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
Bởi vì nông dân gần gũi thiên nhiên, thường ngày trông thấy hình ảnh cảu tình yêu tràn ngập:
Ngó lên trên trời thấy cặp cu đương đá,
Ngó ra ngoài biển thấy cặp cá đương đua.
Đi về lập miễu thờ vua,
Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.
Bởi vì nông dân chất phác, có lòng nhớ ơn rất thâm sâu đối với tất cả ai đã nghĩ đến họ, có bụng tốt đối với họ:
Ơn ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng.
Huống hồ là con cái đối với tình cha mẹ!
ANH EM
Trong cái mối tình cha từ, con hiếu, chồng hòa, vợ thuận, gia đình thành lập và vững bền, còn cần một điều cũng rất trọng đại là anh em hòa mục, chị ngã em nâng, ấy là chữ Đễ.
Thờ cha mẹ, ở hết lòng,
Ấy là chữ hiếu, dạy trong luân thường.
Chữ đễ nghĩa là nhường;
Nhường anh, nhường chị, lại nhường người trên.
Ghi lòng tạc dạ chớ quên,
Con em phải giữ lấy nền con em.
Chúng ta có thể nói được rằng, bình dân Việt Nam rất có tình với anh em một nhà, sẵn sàng nhường nhịn, ít khi có sự “huynh đệ huých tường” như ở các gia đình trưởng giả, cha mẹ có cả một gia tài “của chìm của nổi” để phân chia cho các con sau khi mình qua đời.
Anh em như chân, như tay,
Vợ chồng như áo, cởi ngay tức thì.
Anh em hiền thậm là hiền,
Bởi một đồng tiền làm mất lòng nhau.
Nông dân vì không có gia tài, chỉ có sức “mồ hôi nước mắt”, “hai sương một nắng”, cho nên tình anh em trong họ ngoài làng chưa đến nỗi tàn nhẫn, “nồi da nấu thịt”. Cho nên còn biết:
Chị ngã em nâng.
Hay là:
Em thuận, anh hòa là nhà có phúc.
Em khôn cũng là em chị,
Chị dại cũng là chị em.
Bởi thế mới có câu:
Khôn ngoan đá đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Và tha thiết kêu gọi:
Bầu ơi, thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Trên đây đại khái là tư tưởng bình dân suy luận về cơ bản gia đình, về giềng mối vợ chồng, cha con hay mẹ con đến anh em trong nhà.
QUỐC GIA XÃ HỘI:
Nay đến tư tưởng quốc gia dân tộc, Tổ quốc giang sơn.
Bình dân Việt Nam vốn yêu quê cha đất tổ, tha thiết với tinh thần độc lập tự cường.
Ta về ta tắm ao ta,
Dù trong, dù đục ao nhà vẫn hơn.
Đấy là phản ứng của lòng tự ái quốc gia đối với sự đô hộ của văn hóa ngoại lai, nhất là đối với giới thượng lưu trí thức hay vong bản và xu phụ “Thượng Quốc”.
Bụt nhà không thiêng cầu Thích Ca ngoài đường!
Nông dân Việt rất tự đắc với giá trị của mình.
Trúc xinh trúc mọc đầu đình,
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
Trúc xinh trúc mọc bờ ao,
Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh.
Từ cái ý thức dân tộc ấy, nảy nở lòng yêu nước thương nòi, nghĩ đến non sông Tổ quốc:
Non kia, ai đắp nên cao?
Sông kia, ai bới ai đào mà sâu?
Từ chỗ nghĩ đến công trình khai sơn phá thạch bằng mồ hôi nước mắt, bằng xương bằng máu của bao nhiêu thế hệ, họ kêu gọi tinh thần tương ái, bao bọc, giúp đỡ lẫn nhau:
Núi kia ai đắp mà cao?
Sông kia ai đào nước chảy vòng quanh.
Trèo lên trái núi giải oan,
Tay nâng chén trắng múc làm nước trong.
Đường xa xin chớ ngại ngùng,
Trèo non, xuống biển ta cùng đỡ nhau.
Nhìn chung quanh đất nước mà tự nghĩ đến mình:
Nước còn quyến cát làm doi
Phương chi ta chẳng tài bồi lấy nhau.
Cho nên:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước ta thương nhau cùng.
Thương nhau thì phải hy sinh cho nhau, bỏ tình riêng lấy tình chung, bỏ tinh thần đoàn kết với nhau, trăm người làm một, triệu người như một, thì mới bảo vệ nổi giang sơn, bênh vực được Tổ quốc, đặng cho nòi giống trường tồn:
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Bởi thế mà chàng trai nông dân Việt quyết chí hy sinh tình riêng cho mối tình chung dân tộc:
Giặc Tây đánh ở Cần Giờ,
Biểu đừng thương xót đợi chờ uổng công!
Và biết bao chua xót khi thấy đất nước bị xâm chiếm, cắt đôi, cắt ba:
Đắng khổ qua, chua là chanh giấy,
Dầu ngọt cho thế mấy cũng tiếng cam sành;
Giặc Lang sa đánh tới Châu Thành,
Dầu ai ngăn qua, đón lại, dạ cũng không đành bỏ em!
Đấy là chí làm trai của nông dân đất Việt:
Làm trai đứng ở trên đời,
Sao cho xứng đáng giống nòi nhà ta!
Ghé vai gánh đỡ sơn hà,
Sao cho tỏ mặt mới là trượng phu.
Và trai ấy được gái này thông cảm đỡ đần:
Anh đi, em ở lại nhà,
Hai vai gánh vác mẹ già còn thơ.
Anh ơi! Phải lính thì đi,
Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi.
Và đôi trai gái ấy tuy hăng hái nhiệt thành trong tinh thần ái quốc, ái quân, quốc gia dân tộc, nhưng không bao giờ quên chính nghĩa Quốc gia Dân tộc, căn cứ vào một Đạo:
Giốc một lòng trông một Đạo,
Đạo ấy có thể bắt đầu là Đạo Lành:
Mặc ai chác bán lợi danh,
Miễn ta học đặng đạo lành thì thôi.
Đạo lành thì chỉ cốt làm điều lành, tránh điều ác, và như trên đã trình bày, dân tộc Việt Nam trong tinh thần truyền thống cố hữu tin có Trời và Đạo Trời:
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Ta đây cũng giữ đạo Trời khăng khăng.
Cái đạo trời ấy như chúng ta đã thấy trong tâm hồn bình dân chỉ là nguyên lý sinh thành nuôi dưỡng “trời sinh, trời dưỡng” rất công bằng, vô tư, “trời chẳng đóng cửa nhà ai” và sáng suốt đèo “đèn trời”. Rồi sau có ảnh hưởng của nho học phổ cập nhân dân mới tiếp nhận thêm vào mà hiểu Đạo và Đạo thánh hiền:
Anh làm trai học đạo thánh hiền,
Năm hằng chẳng trễ, ba giềng chớ sai.
Đạo thánh hiền đây gồm có “tam cương”,”ngũ thường” điển hình để bảo vệ trật tự xã hội: Vợ chồng, cha con, vua tôi, hay là quân thần, phụ tử, phu phụ, như đã nói trên kia, mà nông dân Việt đã giải thích nôm na như sau:
Làm trai giữ trọn ba Giềng.
Thảo cha, ngay chúa, vợ hiền chớ vong!
Đấy là ba giềng, có vợ chồng rồi mới có cha con, có cha con hay gia đình rồi mới có vua tôi hay là quốc gia. Nhưng ba giềng ấy mới chỉ là những giềng mối quan hệ cơ cấu của tổ chức, ba giềng ấy còn phải quy định theo nguyên tắc nào cho bền vững, đấy là căn cứ vào năm hằng hay năm nguyên lý không thay đổi, tức ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của đạo Nho.
Nhân là coi ngườinhư mình, điều gì mình không muốn người ta làm mình phải chịu, thì mình đừng làm cho người phải chịu đựng, đấy là cái tinh thần thông cảm giữa người với người trong nhân quần xã hội. Cho nên ca dao mới có câu:
Thương người như thể thương thân,
Ghét người như thể vun phân cho người.
Đấy là trồng cây đức cho con cháu “phúc đức khán tử tôn” mà bình dân diễn tả nôm hơn:
Có tiên thì hậu mới hay,
Đã vun cây đức, ắt dầy nên nhân.
Nhân là nói về phương diện chung, phổ quát, nhưng có chung thì phải có riêng biệt, nếu chỉ có chung mà không có riêng thì con người tự bản thân không có gì tồn tại, chỉ là con số không, làm thế nào cộng những con số không lại mà biến thành cái gì chung có giá trị được? Mặc dầu bình dân có ôm ấp cái lý tưởng anh hùng:
Ở đời muôn sự của chung,
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.
Cho nên bình dân kèm theo chữ Nhân có chữ Nghĩa. Nghĩa là Ngã, cá biệt, tự nó có một giá trị để tự do hy sinh cho đoàn thể.
Bạn bè là nghĩa tương tri
Sao cho sau trước một bề mới nên.
Có “chung” lại có “riêng” như thế là có trí sáng suốt và có thứ tự, tức là có Lễ và chữ Tín để cho tiên hậu như nhất, trước sau một bề:
Nói lời phải giữ lấy lời,
Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.
Vậy cái đạo thường năm hằng: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, chung quy chỉ thu gọn vào hai chữ Nhân Nghĩa là đủ:
Đường mòn, nhân nghĩa không mòn
Cái đường ấy là đạo làm người của Nho giáo trong nhân quần xã hội ở trên thế gian này. Nho giáo vốn miệt thị phụ nữ, cho nên đã dùng cái khuôn phép “tam tòng tứ đức” để uốn nắn họ thành một phụ thuộc cho nam nhi.
Tam tùng tích hãy còn ghi,
Bé nương cha mẹ, già thì theo con.
Đấy là phổ thông cái nghĩa “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Nghĩa là Ở nhà phục tòng cha mẹ, đi lấy chồng phục tòng chồng, chồng chết phục tòng con trưởng.
Ngoài :tam tòng lại còn “tứ đức” nữa, là công, dung, ngôn, hạnh:
Phận gái từ đức vẹn tuyền,
Dung, công, ngôn, hạnh giữ gìn chớ sai.
Trên đây là tư tưởng Nho giáo đã phổ cập xuống bình dân khá đầy đủ, nhưng đấy là tất cả hệ thống giá trị của xã hội phụ hệ. Xã hội Việt Nam có chịu ảnh hưởng sự đô hộ lâu của văn hóa Trung Hoa, nhưng căn bản xã hội của nó vốn thuộc về mẫu hệ, trọng nữ ngang với nam, nếu không hơn cả nam tỷ như sự kiện lịch sử quật cường đâu tiên của dân tộc do hai chị em Bà Trưng lãnh đạo. Bởi vậy mà trong tư tưởng binh dân vẫn thấy biểu lộ luận điệu bình quyền:
Chồng ăn chả, vợ ăn nem!
Chồng đánh bạc, vợ đánh bài,
Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng.
Hay là:
Lệnh ông chẳng bằng cồng bà.
Và bình dân cũng ý thức quyền hạn của các đoàn thể trên quá trình tiến hóa của con người:
Bé thời con mẹ con cha
Lớn thời con vua con chúa.
Và ở trên chúa, nghĩa là trên quốc gia xã hội, người ta còn là con trời con phật, cho nên mới có câu khấn này biểu lộ triển vọng tối cao của nhân tâm mở lòng từ bi bác ái, đến cái tâm đại đồng:
Nghiêng vai ngàn vái phật trời,
Đương cơn hoạn nạn, độ người trầm luân.
Cái bản tính đại đồng ấy xuất ở tính Trời ra, không thuộc về máu mủ, cho nên bảo:
Cha mẹ sinh con, trời sinh tính.
Và tính ấy là thiên tính bẩm thụ của trời đất, thuộc về bản thể tiên thiên, cũng chính là phật tính cho nên: Phật tại tâm.
Đến đấy là đạo Trời và đạo Phật gặp nhau ở bản thể đồng nhất, không phải ở phương diện suy luận hợp lý mà ở phương diện thể hiện sống động như một quá trình thể dụng, từ hiện thực đến siêu nhiên, từ thực tế đến lý tưởng trong tư tưởng thực nghiệm phổ thông của bình dân Việt Nam, đi từ:
Có thực mới vực được Đạo.
Cho đến:
Say là say nghĩa, say nhân,
Say thơ Lý Bạch, say đàn Bá Nha.
Cho nên tinh thần Phật giáo vô chấp “Lộc Phật hằng hà sa số, đường nào lợi thời tu” đã sớm truyền bá cho nhân dân Việt Nam cái triết lý Tam giáo “đồng quy thù đồ” (l’unité dans le diversité), nối liền tư tưởng bình dân với tư tưởng bác học:
Trong nơi danh giáo có Ba
NHO hay giúp nước, sửa nhà, trị dân.
ĐẠO thời dưỡng khí, an thân.
Thuốc trừ tà bệnh, chuyên cần luyện đan.
THÍCH độ nhân miễn tam đồ khổ
Thoát cứu huyền thất tổ chiêu phương.
NHO dùng tam cương ngũ thường,
ĐẠO gìn ngũ khí giữ giàng ba nguyên.
THÍCH giáo nhân tam quy ngũ giới,
Thể một đượng xe phải Dụng ba.
Luận chung Thánh tổ Nho gia,
Trong đời trị thế người là NHÂN sư.
Sao bằng Đâu xuất vị cư,
Lão quân Thiên chủ đại trù được phương.
Phật là Vạn pháp trưng vương,
Làm thầy ba giới đạo trang NHÂN THIÊN.
Những thánh hiền nguồn nhân bể quả,
Xưa tu hành trí đã rộng cao.
Trong nơi ba giới ra vào
Mười phương trí thức ai nào khả nghi.
(Việt Nam Phật Điển tùng san, Bắc kỳ Phật giáo tổng hội phát hành)
Xem như thế đủ thấy bình dân Việt Nam tuy tiếp nhận hệ thống giá trị nhân sinh Nho giáo, nhưng không hoàn toàn mãn nguyện với nó, cho nên đã sớm hương khát vọng siêu nhiên thần bí của chúng vào Phật Quan Thế Âm đại diện tình yêu nhập thế để nối tiếp với tín ngưỡng Thần tiên thánh Mẫu cố hữu của dân tộc.
Giáo Sư NGUYỄN ĐĂNG THỤC
http://e-cadao.com/tieuluan/vanhoa/triethocbinhdan.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét