Gởi bạn
Khang Nguyễn. Rất vui khi bạn đã gắn thẻ vào trang của PH bài thơ Độc Tiểu
Thanh Ký của Nguyễn Du và bản dịch của bạn. Đây là một bài thơ nổi tiếng của cụ
Tiên Điền, mà bất cứ một người mê thơ nào cũng thuộc. Nhưng có điều là ít ai
quan tâm đến việc sai luật và thất niêm của bài thơ. Cách đây vài năm đã có một
cuộc trao đổi khá thú vị về bài thơ này và đã tìm ra một “dị bản” khác. Hôm nay
gởi đến bạn và các bạn yêu thơ để cùng tham khào và thảo luận
“DỊ BẢN”
BÀI THƠ “ĐỘC TIỂU THANH KÝ” CỦA NGUYỄN DU - Linh Đàn
07.04.2011
15:24 - Số lần xem: 762
Cụ
Nguyễn Du là Danh nhân Văn hóa Thế Giới, sáng tác nhiều tác phẩm văn học, trong
đó có hai tuyệt tác:
- Thơ
Lục bát với tác phẩm KIM VÂN KIỀU (còn gọi là Truyện Kiều).
- Thơ
Đường Luật với tác phẩm ĐỘC TIỂU THANH KÝ.
Tác giả Linh Đàn - Nguyễn Hữu Kiểm đã có nhã ý gởi tặng bài Khảo Luận về bài thơ “Độc Tiểu Thanh Ký”, một tuyệt tác mà nhiều người yêu thơ Đường Luật thường tiếc rẽ do sự thất niêm ở hai câu kết.
Tác giả Linh Đàn - Nguyễn Hữu Kiểm đã có nhã ý gởi tặng bài Khảo Luận về bài thơ “Độc Tiểu Thanh Ký”, một tuyệt tác mà nhiều người yêu thơ Đường Luật thường tiếc rẽ do sự thất niêm ở hai câu kết.
Đây là tài liệu có giá trị học thuật văn học, liên quan đến tuyệt tác Độc Tiểu Thanh Ký của cụ Nguyễn Du, Đất Đứng trân trọng giới thiệu để bạn đọc cùng tham khảo.
Phiêu Vân
“DỊ
BẢN” BÀI THƠ
“ĐỘC
TIỂU THANH KÝ” CỦA NGUYỄN DU
Linh Đàn
Nhân chuyến đi sứ Trung Hoa năm Quý Dậu 1813 Triều Gia Long
thứ 12,Tiên Điền Nguyễn Du(1765 – 1820) sáng tác rất nhiều áng
thơ hay làm bằng chữ Hán (Đa phần là thơ Đường luật thất ngôn bát cú), trong đó
có bài thơ:
讀小青記
ĐỘC
TIỂU THANH KÝ
Tây
Hồ mai uyển(1)tẫn thành khư
Độc
điếu song tiền nhất chỉ thư
Chỉ
phấn hữu thần liên tử hậu
Văn
chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ
kim hận sự thiên nan vấn
Phong
vận kỳ oan ngã tự cư
Bất
tri tam bách dư niên hậu
Thiên
hạ hà nhân(2)khấp Tố Như
Nguyễn
Du
Bài thơ
nầy đã đi vào nền văn học của nước nhà, nhưng vẫn từ lâu không ít người thơ, kể
cả những nhà nghiên cứu văn học không khỏi thương thầm tiếc rẻ, là một bài thơ
bị thất niêm ở hai câu kết. Cái lỗi thất niêm nầy chúng ta phải nghĩ lại, bài
thơ trên có phải nguyên tác đã thành văn hay chưa, hay là bản thảo (bản nháp)
mà người sưu tầm bắt gặp (trong Bắc Hành thi tập) rồi để nguyên như thế, thành
ra những ấn phẩm sau nầy bị sai lạc chăng? Chúng tôi sẽ đề cập sau. Đến đây xin
đại khái nói về nàng Tiểu Thanh:
Vào đầu
Đời Minh ở tỉnh Chiết Giang bên Trung Hoa có một người con gái sống trước
Nguyễn Du 300 năm, nàng có mấy cái tuyệt: Giai nhân tuyệt sắc, Văn chương tuyệt
tác, Nét chữ tuyệt bút. Nàng là người họ Phùng lấy lẽ một người chồng có tên là
Phùng, vì trùng tên chồng nên đổi là Tiểu Thanh. Người vợ cả quá ghen tuông ác
độc, ép nàng về sống dưới chân núi Cô Sơn hiu quạnh, những tác phẩm của nàng bị
đốt cháy một cách oan uổng phũ phàng, bởi thế nàng tuyệt mệnh vào năm mười tám
xuân xanh.
Nhân
chuyến Bắc Hành nầy Nguyễn Du đọc đến bài ký của nàng còn sót lại mấy tờ mà không
khỏi ngậm ngùi thốt lên:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ
hà nhân khấp Tố Như
Có nghĩa
là“không biết ba trăm năm sau, trong thiên hạ có ai người khóc Tố Như ?”
cũng như Nguyễn Du đã khóc người sống trước mình 300 tuổi, tự thấy như người cùng hội cùng thuyền, đó là tấm lòng riêng của tác giả.
Để trở
lại bài thơ trên có bị thất niêm không? Trên phương vị tìm hiểu chúng ta
hãy cùng nhận thức:
Đại thi
hào Nguyễn Du làm thơ mà bị thất luật thất niêm là điều không thể xảy ra được,
và không thể so sánh với bất cứ một ai, ở bất cứ thời đại nào, nên không thể ví
với bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, Thục Trung Cửu Nhật của Vương Bột, hay Kim
Lũ Y của Đỗ Thu Nương được v.v...Ở Đời Đường, luật thơ chưa chặt chẽ cho lắm,
còn về thời Lý, Trần, Lê của nước ta luật Thơ Đường đã nghiêm chỉnh lắm rồi, mà
còn khắt khe nữa là đằng khác, huống chi thời Nhà Nguyễn, mà người xưa gọi là
“Thơ Luật”, hơn nữa Nguyễn Du là giám khảo các kỳ thi Hương dưới Triều Gia
Long. Ngày xưa các môn thi của các khoa thi Hương đều có” THI, THƯ, LỄ, NHẠC,
ĐỘC”. Vậy THƠ LUẬT là bộ môn chính của trường thi:
Khoa Đinh Mão - Gia Long thứ 6 (1807) tại trường thi Hải Dương
- Đề
điệu là Tham Tri Bộ Công Nguyễn Ngọc Ngoạn
- Giám
thí là Đốc học Quốc Tử Giám Nguyễn Viết Ưng
- Giám
khảo là Đông Các Học Sĩ Nguyễn Du
Cả
trường thi có biết bao nhiêu sĩ tử dự thí, nhưng chỉ lấy đậu 5 người.
(Theo
sách Quốc Triều Hương Khoa Lục của Cao Xuân Dục –trang 95)
Như thế
Nguyễn Du đã đánh hỏng biết bao nhiêu thí sinh về bộ môn ”thơ luật” nầy? Thế mà
Nguyễn Du lại làm thơ thất niêm thì biết ăn nói làm sao với thí sinh của cụ,
biết trả lời sao với khách văn chương và hậu thế? Hơn nữa, thời bấy giờ có các
nhà uyên bác như Phạm Đăng Hưng là bạn quan trường, Phạm Quý Thích (viết tổng
luận Truyện Kiều) và rất nhiều người bạn thơ nữa, nên cụ không thể vô tình làm
thơ để cho thất niêm được.
Nói về
một DỊ BẢN của bài thơ nầy, mà tôi xin giới thiệu dưới đây, tôi đã thuộc lòng
vào đầu thập niên 1950 thì không hề bị thất niêm qua thiên hồi ức sau:
Trong
những năm kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), ở vùng Lan Đình, Gio Linh chúng
tôi, việc học hành vô cùng khó khăn, trở ngại trăm bề, không thể đến trường học
chữ Quốc ngữ được, nên phải ở nhà học chữ Hán. Thầy dạy chúng tôi là cụ cử nhân
Trần Doãn Trai, tham tri Hộ Bộ hồi hưu; các nho sĩ thời bấy giờ rất khó đi lại
với nhau, hơn nữa hai người con trai lớn của Thầy đi theo kháng chiến làm lớn
cho Việt Minh, nên Pháp cô lập nhà Thầy, chẳng có cách nào tốt hơn là bày lớp
dạy trẻ cho quên ngày tháng. Lớp học của chúng tôi thời bấy giờ Thầy gọi là lớp
VÔ THƯ, vì trước đó nửa năm nhà Thầy bị Tây đốt cháy sạch, không còn một quyển
sách nào, thầy nhớ đâu dạy đó và chúng tôi học cũng không có tập vở, bút mực gì
hết, chỉ viết trên khay cát, thế mà tiếp thu thật tốt, cách giảng bài của thầy
rất dễ cảm và gần gũi, nên chúng tôi đứa nào đứa nấy thích học hơn chơi. Hai
năm sau mới tập viết trên giấy dó, bút lông mực tàu và son đều tự chế vì quanh
vùng rất hiếm bán dụng cụ học sinh. Đến cuối năm 1949 Tây đi lùng suốt ngày,
việc học lại khó khăn gấp bội, lớp chúng tôi mấy anh lớn có anh bị Tây bắn
chết, có anh vào du kích và nhiều anh lấy vợ ở nhà làm ruộng, chỉ còn lại sáu
đứa kiên trì học với Thầy, đến thời gian đó chúng tôi viết đọc cũng được lắm
rồi. Thầy bắt đầu dạy thơ chữ Hán, vào đầu năm 1950 đường sá đi lại có dễ hơn
một chút, Thầy viết thư bảo tôi vào làng Hà Trung (phiá Nam huyện lỵ Gio Linh)
đến nhà cụ Khôi (thuộc dòng thượng thư họ Trần Đình) mượn bộ sách"Thượng
Thi Tập Ngâm"đem về sao chép. Vì nể tình nên cụ Khôi cho mượn cả bộ.
Nói về bộ"Thượng Thi Tập Ngâm"nầy gồm có ba quyển (Thượng,
Trung, Hạ) viết tay bằng giấy dó mực Tàu, bìa phết nước sim giấy bồi trông thật
cổ kính thiêng liêng. Nội dung là ghi chép các bài thơ hay: Thơ Đường Trung
Hoa, Thơ Đời Lý, Trần, Lê, Nguyễn của nước ta, thơ của các cụ trong dòng tộc
sáng tác và những bài văn ai, bài phú nổi tiếng của thời xưa, kể cả thơ Chữ Hán
và Thơ Nôm, viết qua nhiều thời kỳ, nên có nhiều cách viết khác nhau, có bài
viết chữ triện pha lệ, có bài viết chữ chân và rất nhiều bài viết chữ thảo, nét
son điểm hàng, khuyên đơn, khuyên chuỗi trông thật công phu khả kính.
Bộ sách ấy rất có giá trị về văn học, nhưng rất tiếc là của dòng tộc nên không
được in thành sách lưu hành trong dân
gian.
Tôi còn
nhớ rất kỹ, chính tay tôi sao chép cả năm trường mới được hai quyển, vì hồi đó
chiến tranh, phần thì phải trốn giặc Tây, phần thì ca-nông, moóc-chê nổ bất
thình lình, nên khi viết được khi không, chưa chép đến quyển Hạ thì cụ Khôi đến
đòi lại, vừa trả sách được mấy hôm, Tây về đốt nhà Thầy lần thứ hai, cháy luôn
hai quyển vừa mới chép, may mà trả lại được bộ gốc. Thế rồi Thầy cũng thôi dạy,
chúng tôi cùng theo học trường chiến khu vùng Việt Minh.
Trong
thời gian chép tay tôi thuộc được nhiều bài thơ, trong đó có bài ĐỘC TIỂU THANH
KÝ, Thầy tôi say sưa với bài thơ này, rồi chúng tôi cũng ngâm theo Thầy, thành
ra thuộc lòng như thế nầy:
讀小青記
ĐỘC TIỂU THANH KÝ
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Tây Hồ mai uyển tẫn thành khư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Chỉ phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
Nguyễn Du
Bài nầy
thì không bị thất niêm, nhưng chưa thấy có trong văn chương nước nhà, nên chúng
tôi tạm gọi là “Dị Bản”. Vậy chúng ta cùng tìm hiểu.
Cần
Chánh điện Học sĩ Nguyễn Du làm quan tại triều dưới thời Gia Long, đồng thời
với các cụ thượng thư người quê Hà Trung (làm quan thượng thư liên tục nhiều
đời) là bạn thơ văn của cụ, nên tôi thấy bài chép nầy rất chính xác, nhưng rất
tiếc trong những năm chống Mỹ vùng quê Gio Linh gọi là vùng Bạch Hóa (san
bằng), dân chúng chạy loạn nên rồi thất tán, không biết bộ Thượng Thi Tập
Ngâm ấy người trong dòng tộc có còn giữ được hay không? Mãi tới nay tôi cố
tìm nhưng chưa được gặp.
Thử lạm
bình tạm gọi bài trước là “nguyên bản” bài sau là “dị bản”, với hai câu mở đề
của nguyên bản:
Tây Hồ
mai uyển tẫn thành khư(phá đề)
Độc điếu
song tiền nhất chỉ thư(thừa đề)
Có nghĩa
là cảnh"vườn mai xứ Tây Hồ đã biến thành gò hoang"cả rồi tác
giả mới"đến viếng ngồi trước cửa sổ đọc mấy tờ sách"của nàng
Tiểu Thanh còn sót lại, nhìn thấy cảnh vật đổi dời trong tưởng tượng làm cho
tác giả nhuốm một nỗi sầu, rồi liên tưởng việc muốn nói điều đó cũng có lý.
Nhưng cảnh vật ấy so với đời tư của cụ thì có thấm vào đâu đối với cuộc "Giang
sơn đổi chủ" giữa triều Lê, triều Tây Sơn và Triều Nguyễn mà Cụ là chứng
nhân lịch sử? Nỗi hoài Lê là nỗi lòng thầm kín gấp cả trăm ngàn lần cảnh
"vườn mai Tây Hồ" xa lạ ấy, cho dù có thay đổi mấy cũng không thể làm
xao động được cõi lòng của Nguyễn Du, do đó cách nhập đề lung khởi như trên là
không ổn mà câu thơ trở nên lạc lõng làm sao.
Với hai
câu mở đề của dị bản:
Độc điếu
song tiền nhất chỉ thư(phá đề)
Tây Hồ
mai uyển tẫn thành khư(thừa đề)
Có nghĩa
là"viếng thăm ngồi trước song cửa sổ vừa đọc mấy tờ sách"của
nàng Tiểu Thanh còn sót lại rồi nhìn ra cảnh vật bên ngoài nào "vườn
mai xứ Tây Hồ (ngày trước) nay đã biến thành gò hoang" làm
cho cõi lòng của tác giả thêm một chút bâng khuâng thương nhớ vẩn vơ. Chúng ta
thấy cách nhập đề trực khởi như trên rất hợp lý, làm cho câu thơ mạnh thêm lên,
mạch thơ vô cùng thông suốt. Cũng như trong Truyện Kiều nhập đề hết sức trực
khởi:
Trăm năm
trong cõi người ta
Chữ tài
chữ mệnh khéo là ghét nhau
"Tài
mệnh" là mục đích chính của cốt truyện, còn Nàng Kiều chỉ là nhân vật
chính mà thôi, do đó Truyện Kiều bất hủ là thế, thì ở đây cũng không thể khác
được.
Bây giờ
ta thử nhìn cặp thực và cặp luận, có nghĩa là hoán vị lẫn nhau:
Chỉ phấn
hữu thần liên tử hậu
Văn
chương vô mệnh lụy phần dư
Có nghĩa
là son phấn có cái thần của nó, chính bởi cái thần đó mới mang một nỗi đau
sau khi giã biệt, văn chương không có số mệnh làm sao khỏi ưu phiền khi tác
phẩm bị đốt cháy oan uổng đến thế.
Hai câu
thơ trên tự nó suy diễn một cách sâu rộng cho toàn ý bài thơ. Vậy điểm nhãn cho
bài thơ là chính hai câu thơ đó, thì làm sao đứng vào vị trí cặp thực cho được,
mà đứng vào cặp luận là vô cùng hợp lý.
Cổ kim
hận sự thiên nan vấn
Phong
vận kỳ oan ngã tự cư
Có nghĩa
là:"những việc oán hận xưa nay làm sao thấu đến trời, rồi nỗi oan kỳ lạ
của một kiếp người mà ta tự thấy có mình trong đó".
Vậy có
phải diễn tả sự thật phũ phàng của lẽ đời xưa nay là như thế, thì làm sao đứng
vào cặp luận cho được?
Còn hai
câu kết như chúng tôi đã nói ở trên, nên ở đây không bàn tới, duy còn chữ hà
nhân hay thùy nhân mà xưa nay còn trong vấn đề tranh
cãi.
Vậy ta
hãy xem chữ thùy mà người xưa dùng trong thơ chữ Hán như thế
nào.
- Lâu
Dĩnh trong bài Tây Thi Thạch:
Nhất khứ
Cô Tô bất phục phản
Ngạn
bàng đào lý vị thùy xuân?
Cô Tô
một chuyến đi đi biệt
Đào lý bên
bờ xuân với ai?
Khương
Hữu Dụng dịch
- Văn
Thiên Tường (Nguyễn Công Trứ trong bài Chí làm trai):
Nhân
sinh tự cổ thùy vô tử?
Lưu thủ
đan tâm chiếu hãn thanh
Người
đời từ trước ai không chết
Cốt để
lòng son rọi sử xanh
Á
Nam Trần Tuấn Khải dịch (?)
- Đặng
Trần Côn: Chinh Phụ Ngâm (chữ Hán):
Mạch
thượng tang! Mạch thượng tang
Thiếp ý
quân tâm thùy đoản trường?
Ngàn dâu
xanh ngắt một màu
Lòng
chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Đoàn
Thị Điểm dịch
Chinh
phu mạo thùy đan thanh?
Tử sĩ
hồn thùy ai điếu?
Chinh
phu tử sĩ mấy người
Nào ai
mạc mặt nào ai gọi hồn
Đoàn
Thị Điểm dịch
Vậy ta
thấy chữ thùy đứng riêng mà không cần có chữ nhân vẫn
đủ nghĩa cho một câu thơ mang thể nghi vấn. Nhưng trong thơ chữ Hán vẫn không
thiếu chữ thùy nhân, thùy gia, thùy tâm, thùy vị,v.v…
Và ta
thử xem cách dùng chữ Hà:
Chữ hà
đứng sau chữ như:
- Lý
Thường Kiệt:
Như
hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng
hành khan thủ bại hư
Chữ hà
đứng trước chữ nhân:
- Cách
ngôn xưa:
Thiên
sinh nhân hà nhân vô tộc?
Địa sinh
thảo hà thảo vô căn?
Trời
sinh người người nào không họ?
Đất sinh
cỏ cỏ nào không rễ?
- Đỗ
Phủ trong bài Càn Nguyên Trung Ngụ Cư Đồng Cốc Huyện, bài số 3:
Hữu đệ,
hữu đệ tại viễn phương
Tam nhân
các sấu hà nhân cường?
Em trai, em trai ở phương xa
Ba người yếu đuối ai người khỏe?
- Bạch Cư Dị trong bài Ức Dương Liễu:
Dao ức
thanh thanh giang ngạn thương
Bất tri
phan chiết thị hà nhân?
Xao nhớ
xanh xanh trên bến ấy
Vin cành
bẻ liễu biết là ai?
Khương
Hữu dụng dịch
- Trương
Nhược Hư: Bài Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ
Giang
bạn hà nhân sơ kiến nguyệt?
Giang
nguyệt hà niên sơ chiếu nhân
…………………………………………
Giang
nguyệt niên niên vọng tương tự
Bất tri
giang nguyệt chiếu hà nhân?
Ai người
trước đã trông trăng ấy
Trăng ấy
soi người tự thuở nao?
…………………………………..
Trăng
vẫn năm năm sông nước giãi
Soi ai
nào biết được lòng trăng?
Khương
Hữu Dụng dịch.
Chữhàdùng
rất đa dạng trong thơ chữ Hán như: hà danh, hà tánh, hà sự, hà xứ, hà
phương,v.v…
- Thôi
Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu:
Nhật mộ
hương quan hà xứ
thị?
Yên ba
giang thượng sử nhân sầu
Quê
hương khuất bóng hoàng hôn
Trên
sông khói sóng cho buồn lòng ai
Tản
Đà dịch
Trên đây
chúng tôi dẫn dụ một vài khái niệm về chữ hàvà chữ thùy
trong các câu thơ xưa, nhưng cũng không thể quyết đoán chắc chắn được.
Dù sao với câu kết "Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như",
hơi thơ vẫn nghe thấy mạnh mà từ xưa nhiều nhà uyên bác tán đồng.
Ngày nay
chữ Hán đã lùi sâu vào quá khứ, đa phần những bài thơ chữ Hán đã bị quên lãng,
nếu không có Đoàn Thị Điểm dịch Chinh phụ ngâm khúc, thì bản chữ Hán của Đặng
Trần Côn hay đến thế cũng mai một với thời gian. Nếu không có Phan Huy Vịnh
dịch Tỳ Bà Hành, Tản Đà dịch Trường hận ca và các nhà thơ khác dịch thơ Đường
thì thơ Đường ngày nay cũng vắng bóng. Đặc biệt là thơ Lý, Trần, Lê, Nguyễn của
nước ta làm bằng chữ Hán một lượng thơ vô cùng lớn lao và giá trị, được các cụ
ngày xưa như Ngô Tất Tố, Bích Khê, Lê Thước, Đinh Gia Khánh, Đinh Văn Chấp,
Phan Kế Bính, Bùi Huy Bích, Á nam Trần Tuấn Khải,v.v…đã dày công sưu tầm và
dịch ra thơ Nôm để hôm nay chúng ta thừa hưởng kho tàng văn học nước nhà thật
là phong phú. Còn nói về những bài thơ rất dễ thuộc mà không cần diễn Nôm như
bài Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt thì rất hiếm mà có lẽ duy nhất, còn bài
Cáo Tật Thị Chúng của Mãn Giác Thiền Sư thì đa phần người nghiên cứu về Đạo
Phật mới thuộc lòng. Riêng bài ĐỘC TIỂU THANH KÝ rất nhiều người thuộc, nhưng
chỉ thuộc lòng hai câu kết.
Còn Dị
bản Độc Tiểu Thanh Ký mà chúng tôi giới thiệu ở đây rất có cơ sở văn
học, nhưng chưa thấy phổ cập trong văn chương Việt Nam . Vậy ước mong những nhà nghiên
cứu văn học bổ khuyết thêm. Chúng tôi kính gởi đến quý độc giả lời chào trân
trọng.
Mùa
đông năm At Dậu 2005
Linh
Đàn
Địa chỉ
liên hệ:
Linh
Đàn Nguyễn Hữu Kiểm
Đ130/6
Tổ 20 KP3 P. Tân Thới Hiệp
Q.12.
TPHCM.
ĐT.
08.7159171, Email linhdanhk@gmail.com
Read
more:http://datdung.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=3782#ixzz2oN7AVpnM
Under Creative Commons License:Attribution
Under Creative Commons License:Attribution
Read more:http://datdung.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=3782#ixzz2nKNveTNq
Under Creative Commons License:Attribution
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét