Người theo dõi

Thứ Hai, 7 tháng 12, 2020

Hồ Thùy Dương Doãn Quốc Sỹ

 

Doãn Quốc Sỹ

Hồ Thùy Dương

 

tập truyện cổ tích

ĐOÀN QUÂN XUNG PHONG


Mùa xuân năm 2002, sau khi Khối Nhân loại Giác ngộ đã diệt xong bốn triệu quân xung phong Bắc Á, các sử gia thế giới bèn họp nhau lại để ghi chép và phê phán thế kỷ trước.

Tất cả sử gia đều đồng ý mệnh danh thế kỷ 20 là “Thế kỷ của những kẻ sợ sự thật.”

Người có tiền thì dùng tiền mua chuộc để khỏi phải nghe sự thật; người có cường quyền thì dùng cường quyền khủng bố để khỏi phải nghe sự thật; người không có tiền và không có cả uy quyền thì đi vay tiền, vay uy quyền mà mua chuộc, mà đàn áp để khỏi phải nghe sự thật. Cho nên nhân loại tính đến gần cuối thế kỷ 20 sau Thiên Chúa, đã có trên ba ngàn năm kinh nghiệm thực sự để suy ngẫm mà kết quả lịch sử vẫn sao vào những lầm lẫn cũ, y như chiếc xe được dẫn dắt bởi một lũ lão nô lẩm cẩm đã đui lại điếc.

Xét bề ngoài – chỉ bề ngoài thôi – lời phê phán trên không oan chút nào. Phần tiền bán thế kỷ 20 các đế quốc Tây phương tràn sang Đông phương ngự trị bằng sức mạnh, sử dụng kẻ bị trị như súc vật, nhưng phàm những người mà coi người như súc vật thì chính những người đó biến thành súc vật nhanh hơn. Thấy rõ nguy cơ đó, một thi sĩ Đông phương đương thời có nói: “Thế giới ngày nay là trong tay Tây phương. Tây phương sẽ tàn phá nó nếu Tây phương không dùng nó cho một công cuộc sáng tạo tốt đẹp của nhân loại.”

Thuyết giai cấp đấu tranh, nhân danh cuộc sáng tạo đó, hoạt động trên khắp hang cùng ngõ hẻm của thế giới và đạt được thắng lợi lớn vào mấy năm đầu hậu bán thế kỷ 20. Thế giới phân đôi làm “Thế giới được giải phóng” của phe giai cấp đấu tranh và “Thế giới tự do” của phe đế quốc cũ.

Để kịp thời đối phó với địch thủ, các đế quốc vội nới bàn tay sắt cố lấy lòng các nước bị trị mà giữ họ về phe mình, nhưng họ chỉ nới tới mức vừa đủ để các nước đó biến thành vệ binh cho họ về quân sự cũng như về kinh tế. Hội nghị đủ loại mở liên tiếp. Các lãnh tụ của hai phe vượt hàng ngàn vạn dặm đến để nghe nhau… nói dối. Họ dối người, họ dối mình nhưng rất thành thực ở điểm chia nhau thế giới sao cho công bình.

Trong buổi giao động này, Thế giới tự do sống trong một bi hài kịch có một không hai trong lịch sử nhân loại tính đến ngày đó. Không một nước nhược tiểu nào được hoàn toàn độc lập liền trong hai tháng. Dưới áp lực vị kỷ của hai phe lớn, các nước nhược tiểu buộc lòng phải ngả - hoặc làm như ngả - sang một phe. Các đế quốc bên phe Thế giới tự do có kỹ thuật cao, có tinh thần trách nhiệm, có tinh thần kỷ luật… nghĩa là có đủ những vật liệu của công cuộc sáng tạo, tiếc thay vì tinh thần họ nặng nề vị kỷ nên tài năng sáng tạo ở họ không có.

Trước đây, Tây phương tự kiêu vì mình có tài tung roi da một cách hào hoa, rồi khi quất mạnh xuống da thịt Đông phương thì đường roi vừa nhanh, vừa mạnh lại vừa trúng đích. Cả một nghệ thuật tuyệt luân! Đông phương thì tự tìm thấy vẻ đẹp của cơ hàn chịu đựng, vẻ đẹp của một mầm sen bị dìm xuống đáy bùn, bị đầy đọa giữa cát sỏi nhưng vẫn ý thức được rằng mình ôm trong lòng một mầm hương sắc cao quý mà bất chấp thời gian, bất chấp sức nặng của bùn hôi, của cát sỏi, chẳng cái gì trên đời này có thể hủy diệt nổi.

Gìn giữ và phát triển được trọn vẹn tinh hoa cao đẹp của Đông phương chỉ còn một số người văn nghệ. Mà phía Tây phương chân thành đi tìm tinh hoa Đông phương cũng chỉ còn một số người văn nghệ.

Bên Thế giới được giải phóng thì sự bẩn thỉu bộc lộ đến mức lõa lồ. Đảng bảo gì dân chúng phải nghe vậy. Hôm nay Đảng hùng hồn biện luận điều này là chân lý, dân chúng đồng ý một cách vui vẻ; ngày mai vẫn điều đó được Đảng chứng minh ngược lại, dân chúng vội vàng đồng ý một cách vui vẻ hơn. Hôm nay tên lãnh tụ này được coi là mặt trời của mặt trời, là ánh sáng của Đảng, là vị cứu tinh của nhân loại, dân chúng bèn ăn uống, thở hít, thức ngủ trong bầu không khi kính cẩn thường xuyên vị lãnh tụ chói lọi đó; ngày mai bị hạ bệ hay bị thủ tiêu, vẫn hắn bị Đảng tố cáo trước dân chúng là trên khát máu, tên điên khùng, tên phá hoại, tên tay sai của đế quốc, dân chúng vội vàng họp mít-tinh, biểu tình tuần hành, hô khẩu hiệu, làm kiến nghị đả đảo tên khát máu, điên khùng, phá hoại, tay sai.

Chẳng còn gì là tình cảm!!! Chẳng còn gì là nhân cách!!!

Tại sao một chính thể nhơ nhớp lõa lồ như vậy vẫn đứng vững được trên một phần thế giới và tiếp tục quyến rũ nhân tâm ở các phần thế giới tự do khác?

Đáng lẽ Thế giới tự do với trí sáng suốt tầm thường nhất chỉ cần vừa mỉm cười vừa chiến đấu cũng thừa thắng nổi cái ngu tầy trời đó mà cứu nhân loại ra khỏi cơn ác mộng cực kỳ khủng khiếp nhưng cũng cự kỳ khôi hài, trái lại vì đâu Thế giới tự do đã không thắng mà còn bị lấn đất?

Tại vì trước cái ngu khủng khiếp này, người ta lợi dụng nhiều cái ngu nhỏ khác để đối phó lại, đúng như câu mỉa mai của danh sĩ nọ: Thế giới được giải phóng tung hết sức cầm thú của mình ra uy hiếp đối phương. Thế giới tự do đem những hình thù nửa người nủa thú, chân tay kềnh càng ra dọa lại.”

Sự phản bội của cường quyền ghê gớm đến nỗi những người tự trọng đều thấy rùng mình sởn gáy trước bất cứ danh từ cao đẹp nào dù những danh từ đó gợi những tư tưởng nhân đạo, bác ái, công lý.

Một câu nói chán chường, không biết của ai, rất được phổ biến: “Thế kỷ này là thế kỷ cường quyền 'sủa' ra văn hoa, vì vậy các cha đẻ ra văn hoa là các văn nghệ sĩ tự thấy bị xúc phạm bèn rút lui về thôn dã để nghe tiếng chó sủa chim kêu là những tiếng kêu thật còn sót lại trong tạo vật và để được sống với những người dân quê bị dập vùi hắt hủi nhưng còn giữ nguyên được vẻ trong trắng của tâm hồn.”

Một sự giả dối mênh mông trùm lấy toàn thể thế giới ngột ngạt. Con người đóng cửa trước nhau nên càng ở những đám đông ồn ào, càng hô chung một khẩu hiệu bắt buộc, cá nhân càng cảm thấy niềm cô độc chua chát riêng mình.

Đó là bề ngoài của nhân loại. Còn bề trong?

– Bề trong nhân loại, con người có ham tiến hóa, có thiết tha quyết khắc phục mọi khó khăn mà tìm hướng vươn lên hay cũng nhầy nhụa như bề ngoài? – Chúng ta hãy quay về với nước Việt Nam vì câu trả lời phát xuất ở đây.

Khách quan: nước Việt Nam ở vào vị trí gặp gỡ của mọi nền văn minh Đông Tây.

Chủ quan: nước Việt Nam vẫn đặc biệt có khả năng dung hòa được mọi mâu thuẫn, đồng hóa được mọi văn minh nên thoát được mọi câu thúc mà vượt lên cao nhìn thấy hướng tiến tới.

Vào mấy năm đầu hậu bán thế kỷ 20, khi các đế quốc vừa nới bàn tay sắt, người Việt Nam cũng sa vào những lầm lẫn thường tình. Họ cũng kết hợp thành bè đảng; họ cũng chủ trương nhồi sọ ngu dân để dễ xách động quần chúng trong các cuộc tranh chấp.

Người dân Việt Nam đã trải qua những ngày điêu linh ê chề dưới ách lũ người cố thực hiện tham vọng bằng mọi phương tiện.

Rất nhiều thanh niên nam nữ Việt Nam – cả thiếu nhi nữa – đã qua một thời bị chết uổng vì tai bay và gió hoặc vì bị lợi dụng trong những vụ tranh chấp vô đạo.

Khoảng mươi năm đầu hậu bán thế ký 20 toàn dân Việt Nam đã có một thời thấy những bom, những súng, những dao găm được phủ bằng hoa, bằng gấm để che dấu thâm ý giết người tập đoàn hay ám sát cá nhân của lũ người cố tình đui điếc trước tương lai dân tộc, trước tiếng gọi thiết tha của tổ quốc.

Nhưng, chỉ trong một thời gian ngắn tâm hồn giầu thương yêu đầy cao cả của dân tộc đã là động cơ chính thúc đẩy họ vùng thoát khỏi vực thẳm tội lỗi. Ý thức sáng suốt của dân tộc giúp họ nhận định rõ: bám lấy danh vọng, vơ vét cho đầy túi tham để mặc dân lầm than, khổ cực, hèn hạ thì sự giàu sang đó không những chỉ làm ung thối tâm hồn mình còn làm ruỗng nát cả lũ con cháu thuộc dòng giống mình nữa. Ý thức sáng suốt của dân tộc giúp họ nhận định rõ: chỉ có cánh tay của Đạo Đúc mới ôm rộng được toàn dân, mới tô điểm được cho giang sơn của tiên tổ, mới gìn giữ lâu bền được hạnh phúc cho dân tộc.

Nghĩ đến công lao của ông cha đã gây dựng lịch sử, họ thấy tủi hổ cho thái độ hèn hạ, hẹp hòi, thiển cận vừa qua của họ đã vô tình tiếp tay cho đế quốc giữ chân dân tộc quằn quại trong vũng bùn nô lệ.

Sự biết kịp thời hồi tâm do trí sáng suốt, lòng cương trực thừa hưởng của ông cha đó đã giúp họ hòa vào dân tộc mà đạt được thế quân bình giữa cá nhân với đoàn thể. Rồi từ thế quân bình này họ tiến rất nhẹ nhàng sang thế quân bình giữa quốc gia với quốc tế.

Sau hai mươi năm trường vừa chiến đấu với bản thân vừa chiến đấu với những lực lượng phá hoại bên ngoài, người dân Việt đã hoàn thoàn “vượt vực” ngoi lên bờ vinh quang.

Tia hạnh phú đại đồng đầu tiên lóe lên từ đấy. Là một dân tộc trưởng thành trong phong ba trong khổ cực, là một dân tộc phải thường xuyên chiến đấu với cuộc sống để thể hiện cuộc sống của chính mình nên các tư tưởng của họ đề ra không trừu tượng khô khan, trái lại rất linh động, rất giàu nhân tính, rất sát với thực tế mà không kém trữ tình. Họ luôn luôn giữ được nụ cười bất diệt nên mặc dầu cuộc chiến đấu có khắc khổ gian lao, mỗi khi vui với đời họ vẫn giữ được phong thái rộng lượng của ông già vui với đàn con trẻ.

Trong lúc thế giới đương rối ren, họ nắm được bí quyết tự lực về kinh tế để thoát ly mọi áp lực bên ngoài.

Đúng vào lúc thế giới rối ren nhất, một họa sĩ nước họ tung ra hình ảnh đầu tiên của tin tưởng: đó là bốn bức bích họa lấy sự thành hình của trái đất làm hình ảnh tượng trưng cho sự tiến triển của nhân loại.

Bức thứ nhất: Trái đất mới chỉ là khối lửa hình thù hung hãn văng ra từ mặt trời. Hấp dẫn lực bên trong vẫn vo tròn khối lửa và đồng thời dìu cho khối lửa chuyển vận nhịp nhàng trong vũ trụ.

Bức thứ hai: Trái đất vừa nguội hoang sơ với cảnh núi lửa phun, bề mặt ngổn ngang nham nhở. Hấp dẫn lực vẫn chăm chỉ giữ cho trái đất tự xoay, vẫn chăm chỉ dẫn trái đất đi theo nhịp nhạc của trăng sao khiến vừng trán nóng hổi của trái đất dịu dần trong hơi mát thăm thẳm của vũ trụ.

Bức thứ ba: Hấp dẫn lực đã thành công ở đợt thứ nhất với khối lửa bất kham, trái đất biến thành một hạt châu vô giá, xanh mởn với núi rừng, lấp mặt đất tự xếp thành mấy câu phỏng theo bài cổ thi của một thi hào Đông phương:

Cây cối là những nỗ lực không ngớt của trái đất

Để nói với vòm trời lắng tai nghe

Màu lơ của da trời

Ao ước màu xanh non của mặt đất 1

Gió giữa cả hai

Thở dài.

Bức thứ tư: Giữa vòm tinh tú, điểm xanh của trái đất nhũn nhặn dự vào dịp xuân tuyệt vời của vũ trụ trong đó hấp dẫn lực là một sự thực hằng cửu.

Sau bốn bức bích họa, một thi sĩ Việt Nam viết một tập thơ ca ngợi ý thức trường cửu đã hoạt động không ngừng để vo tròn hạnh phúc của nhân loại. Nội dung tập thơ đại ý như sau: “Bề ngoài của nhân loại đầy rẫy những bạo tàn phản bội; bề trong ý thức trường cửu luôn luôn hướng con người về lý tưởng quân bình, nhân đạo. Bề ngoài nhân loại nặng mặc cảm chia rẽ Đông Tây; bề trong ý thức trường cửu luôn luôn hướng con người tìm đến nhau, kết hợp với nhau, bổ khuyết cho nhau giúp nhau nới rộng phạm vi tinh thần mà trùm lấy cả nhân loại cùng vũ trụ.”

Cùng thời với Họa sĩ và Thi sĩ, một chính khách Việt Nam lên cầm quyền với bản tuyên ngôn ngắn nhất và dị kỳ nhất:

“Hãy câm miệng và hành động!

"Hoạt động của người đời phân chia làm muôn nghìn ngả mà chẳng bao giờ thoát khỏi căn bản vun sới tâm hồn. Danh từ ngôn ngữ chỉ là những chai rỗng; rượu linh thiêng sở dĩ có thực là do tư tưởng chí thành của ta rót vào.

"Hãy câm miệng và hành động!”

Với lãnh tụ, cuộc cách mạng tinh thần của Việt Nam hoàn thành! Lãnh tụ quả đã hành động gương mẫu! Trong quân đội cũng như trong guồng máy hành chính lúc bấy giờ ai nấy hoàn toàn biết ghê tởm óc kết bè lập đảng làm hèn hạ cá nhân, làm lụn bại tổ quốc. Mọi người tùy theo tuổi tác hay nghề nghiệp kết hợp lại sống với nhau trong tình đoàn thể trong sạch, quảng đại, thân ái.

Sau một năm chấp chính, Lãnh tụ có tới gặp Thi sĩ. Dưới đây là câu chuyện thân mật của hai người:

LÃNH TỤ – Tôi đến xin anh một khẩu hiệu. THI SĨ – Anh khuyên người ta “Hãy câm miệng và hành động!” thì tôi đã câm miệng rồi, anh còn hỏi khẩu hiệu làm gì?

LÃNH TỤ – Khẩu hiệu đó chỉ là một phản ứng thô tục nhất thời để đối phó với một giai đoạn lịch sử bẩn thỉu. Tôi muốn anh tìm giúp một khẩu hiệu khác thanh nhã hơn khả dĩ dùng mãi mãi sau này.

THI SĨ – Sao anh không lấy ngay câu tục ngữ của dân ta: “Thật thà là cha quỷ quái”?

LÃNH TỤ – Phải đấy! Thật thà là cha quỷ quái! Được lắm, từ nay tôi sẽ lấy khẩu hiệu “Thật thà là cha quỷ quái!”

° ° °

Bốn bức bích họa Việt Nam có được quốc tế chụp để phổ biến; tập thơ của Thi sĩ có được phiên dịch ra đủ các thứ tiếng; chính sách “Thật thà là cha quỷ quái” của lãnh tụ có được chính giới quốc tế nhắc nhở, nhưng trên thực tế ảnh hưởng của ba người còn quá hời hợt. Tuy hai phe không dám gây một cuộc đại chiến thự sự bằng bom nguyên tử nhưng những cuộc chiến tranh bộ phận bằng khi giới cổ truyền vẫn tiếp tục không ngừng hết nơi này qua nơi khác. Đã có một nhà bác học thở dài mà rằng:

“Các bệnh tật hiểm nghèo khoa học đã đẩy lui, duy có bệnh nghiện chiến tranh của loài người, khoa học đành chịu!”

Sau mấy năm miệt mài tận tụy, Thi sĩ xây dựng một hệ thống lý luận đơn giản và phổ biến mà khi viết ra thành sách ông lấy nhan đề: “Chân lý đưa nhân loại đến tình bằng hữu.”

Cơ quan “Bằng hữu quốc tế” lập tức cho in tập lý luận đó ra hàng ngàn triệu bản bằng đủ các thứ tiếng.

Dư luận thế giới xao xuyến một độ, những kẻ cầm súng tự thấy ngượng. Người ta đã ngỡ súng đạn rồi đây chỉ còn dùng trong các cuộc săn bắn tiêu khiển. Nhưng chỉ sau đó một năm chiến tranh bộ phận lại nổi lên như cũ theo kiểu dây chuyền, tắt chỗ này bùng lên chỗ khác và tại nơi nào cũng vậy cả hai bên tham chiến đều tuyên bố là họ chiến đấu cho… “Chân lý đưa nhân loại đến tình bằng hữu!”

Các triết nhân thế giới cam nhận một sự hiển nhiên và tìm cách lý luận như sau: “Chiến tranh là một cuộc thử lửa, chiến tranh kích thích lòng yêu nước, chiến tranh khiến con người bớt ngu độn thêm phần sắc sảo trong mưu cơ v.v… Tóm lại chiến tranh là cần – nếu không phải là rất cần – cho sự tồn tại có ý nghĩa của nhân loại.”

Một cụ già Việt Nam làm nghề chài lưới ở ven biển thốt ra câu than phiền cho thế giới bên ngoài:

“Hừ! đến con chó cũng không nỡ ăn thịt chó nữa là…”

Một nghệ sĩ Trung Đông hấp hối trên giường bệnh bỗng vùng dậy la lớn:

“Ta sẽ giữ mộng đẹp của ta cho đến ngày phán xét cuối cùng để trình với Thượng Đế. Ngày đó Thượng Đế chỉ còn căn cứ vào mộng đẹp mà định Thiên Đường.”

Rồi chết!

Chàng họa sĩ Việt, tác giả bốn bức bích họa, cũng qua đời vào năm này. Rất bình thản!

Ngày tháng kế tiếp nhau qua… Mỗi lần sang xuân mới, thế giới lại hối hả treo đèn kết hoa, các chính khách lại được dịp trao đổi lời chúc tụng đúng nghi thức, nhưng sự thực không khí tinh khiết mùa xuân mới không đủ rửa sạch những cặn bã nhơ bẩn của cường quyền, niềm hy vọng hồi hộp trong tạo vật đương trổ thành hoa búp không đủ thoa dịu đau thương của những người dân bị phản bội liên tiếp.

Chính Thi sĩ cũng tự cảm thấy thất bại trước Lịch sử. Trước khi từ giã thủ đô để về quê, Thi sĩ có gặp Lãnh tụ và nói:

- Tôi tạm ngừng viết sách và làm thơ. Tôi xin phép anh lui về quê để đợi thời.

Lãnh tụ cúi chào bạn:

- Vâng, xin anh bình tĩnh nghỉ ngơi một dạo, còn mười năm nữa thì chúng ta sang thế kỷ 21; mong rằng nhân loại sẽ đổi mới vào dịp này.

Thi sĩ về đến đầu làng gặp một người con gái nhan sắc như hoa:

Thi sĩ hỏi:

- Em đi đâu? Người con gái đáp:

- Em đi dự thi hoa khôi. Thi sĩ nói:

- Sao trên trời, hoa dưới đất có bao giờ tìm cách khoe rằng mình đẹp? Em hãy quay về!

Người con gái vâng lời.

Vừa khi đó có tin cả hai phe cùng tìm ra được phương pháp dùng kính pa-ra-bô-lic thu vũ trụ tuyến. Họ lại điều chỉnh được trường độ làn sóng vừa vặn để làm nổ bất cứ phi cơ nào mang bom nguyên tử từ mười ngàn cây số xa. Đồng thời cả hai bên đã cho phóng lên không trung một số hành tinh nhân tạo cỡ lớn mang đủ máy móc tinh vi để có thể quan sát ngoài tầm súng những căn cứ chiến lược của nhau. Một cuộc đại chiến chỉ còn có nghĩa là một cuộc tự sát cho cả đôi bên! Bởi vậy cả đôi bên đều đồng ý hủy hết võ khí nguyên tử. Các hành tinh nhân tạo có nhiệm vụ kiểm soát bằng cách phóng vũ trụ tuyến đã được điều chỉnh xuống mọi lãnh thổ. Đến nước ấy thì người ta buộc lòng phải thành thật và không một nước nào của hai phe dám vi phạm hiệp ước mà làm bom nguyên tử lậu nữa. Các loại phi cơ chiến đấu cũng đều bị hủy. Các nước chỉ được quyền xúc tiến ngành sản xuất phi cơ dân sự. Nhanh như chiếc lò xo bị ép lâu ngày, nhân loại sang trang sử mới vùng lên tìm ánh sáng của tình bằng hữu chân thật.

Thi sĩ vội vã rời quê hương trở lại thủ đô.

Tới lúc đó mọi người mới có dịp suy nghĩ về bốn bức bích họa Việt Nam, về những bài thơ và tập lý luận “Chân lý đưa nhân loại đến tình bằng hữu” của Thi sĩ, về khẩu hiệu cách ngôn “Thật thà là cha quỷ quái!” mà Lãnh tụ cho nêu lên.

Đến lúc đó mọi người mới bình tâm mà nhận thấy bao dằn vặt của lương tâm, bao khổ ải về vật chất, bao tàn bạo núi xương sông máu chẳng qua họ là nạn nhân của chính họ.

Khoa học vô tội! Con người đã không dùng khoa học để đạt tới nguồn sáng tạo thanh cao mà tìm hiểu cao sâu về tâm linh, mà phát triển những giá trị thiêng liêng tiềm ẩn; họ đã nhầm dùng khoa học để thỏa mãn thị dục đê hèn biến sức mạnh khoa học thành sức mạnh phá hoại; khiến qua bao năm trường họ đã phải đối phó ê chề thê thảm với những phát minh cũ và giật mình mỗi khi được tin một phát minh mới ra đời.

Nay tỉnh ngộ lại, Người mới khám phá ra Người và – đúng như lời thi sĩ tiên đoán – Đông Tây hớn hở tìm đến nhau không mặc cảm, không chia rẽ. Đông phương giúp Tây phương phá vỡ thành quách tối tăm của vật chất; Tây phương giúp Đông phương nắm vững trạng thể biến hóa bên ngoài của vũ trụ. Họ nắm tay thân ái, nhủ với nhau là họ đã thắng một trận giặc cuối cùng mà bãi chiến trường là nội tâm, mà kẻ địch là lòng tư dục. Nếu sống trong bẩn thỉu mà con người còn chịu đựng được thì cách sống thanh cao cởi mở kia càng dễ trở thành thói quen. Chẳng bao lâu sự giao hòa giữa các nền văn mình trở nên thường xuyên và sự thông cảm những màu sắc địa phương chỉ cần chút cố gắng là thành tựu. Lẽ cố nhiên trong đời sống riêng tư, nhân loại không thoát khỏi những mâu thuẫn nhỏ làm giao động thất tình; hỉ, nộ, ai, lạc… chính những điều đó gây thi vị cho cuộc đời gìn giữ sắc thái đặc biệt quyến rũ của kiếp người và nhân loại càng không ngừng tiến gấp trên con đường tư tưởng thênh thang theo tiếng gọi dị kỳ của ý thức trường cửu.

Đó là vào mấy năm cuối thế kỷ 20!

Trong khi đó duy Liên bang Bắc Á – ngay sát biên giới Bắc Việt Nam – là còn đứng ngoài lề cuộc thức tỉnh tưng bừng. Lãnh tụ nơi này còn quá trìu mến ngôi Bá chủ Liên bang mà hắn mới đạt tới chưa được bao lâu.

Trọng theo nếp sống cởi mở, vả tin có phương pháp kiểm soát nguyên tử năng nên Khối Nhân loại Giác ngộ rất yên lòng chờ ngày Liên bang Bắc Á tự hủy chế độ đảng trị cùng bức màn sắt.

Căn cứ vào những tin tức lọt qua bức màn sắt thì Bắc Á ngày nay cũng tuyệt nhiên không còn biểu tình, không còn cả tiếng hô “Muôn năm!” nữa. Các thanh niên nam nữ, sau một thời gian phục vụ ở trại của Đảng chừng vài năm, lại được trở về gia đình sống cuộc đời cá nhân hết sức tự do. Hình như nhân cách nơi đây cũng được trọng vọng không kém gì bên Khối Nhân Loại Giác Ngộ.

Vào năm cuối cùng thế kỷ 20, Liên bang Bắc Á cho sơn lại tất cả các cầu biên giới. Hàng ngàn chiếc cầu được sơn cùng một kiểu: một nửa đỏ về phía Liên bang và một nửa xanh về phía các nước Khối Nhân Loại Giác Ngộ. Mặc dầu những người dân Liên bang không bao giờ lên cầu chơi, nhưng những người dân bên Khối Nhân loại Giác ngộ vẫn có thể ra đến giữa cầu mà ngắm dòng sông, miễn là đừng bước quá vạch sơn xanh.

Đầu thu năm đó Thi sĩ về miền biên giới thăm quê. Đời sống khoa học ngày nay đã vượt xa – quá xa – đời sống cũ, nhưng màu quan tái tiết tháng Bẩy vẫn giữ vẻ “rừng thu từng biếc chen hồng” của cổ thi Việt Nam. Gió lạnh ngập ngừng tiến vào thành sương bạc như cò muốn lắng nghe xem phía sau hoa lá đương thì thào gì về những niềm bí ẩn của mình.

Về tới quê, Thi sĩ gặp lại người con gái tuyệt sắc dạo nào đã nghe mình ở lại không đi dự cuộc thi tuyển lựa hoa khôi. Nàng chưa lấy chồng. Nàng đợi Thi sĩ. Hai người làm lễ hứa hôn và loan báo cùng thân bằng cố hữu rằng đúng đến Ba mươi Tết năm đó hôn lễ sẽ chính thức cử hành. Tin vui này lập tức được truyền đi khắp nước.

 

II

Chiều Ba mươi Tết năm Kỷ Mão…

Mới hơn một tháng trước đây Đông phương cùng Tây phương đón mừng thế kỷ mới theo Tây lịch thì chiều nay Tây phương lại cùng Đông phương làm lễ tiễn đưa chiều cuối cùng thế kỷ cũ theo âm lịch. Cả hai cuộc lễ cùng tưng bừng và thành khẩn như nhau.

Tại các nước Tây phương, nam nữ thanh niên cùng đổ ra đường khiêu vũ theo điệu nhạc tưng bừng ở các máy phóng thanh. Họ khiêu vũ trên các đường rộng, trên các công trường, ở các vườn hoa ven sông… Mỗi lần nhạc dứt, các chàng trai khẽ nghiêng mình, các cô gái khẽ nhún người, đồng thời máy phóng thanh báo cho mọi người biết “vị trí thời gian” của năm cũ.

- A lô! A lô! Chúng ta còn một giờ ba mươi tư phút nữa thì sang thế kỷ 21!

- A lô! A lô! Chúng còn đúng một giờ nữa thì sang thế kỷ 21.

Bên các nước Đông phương, trai gái không khiêu vũ ngoài trời, nhưng khắp nơi đều treo đèn kết hoa và dân chúng đủ cả nam, phụ, lão, ấu cùng đổ ra ngoài đường, đi trên các đại lộ, gặp nhau trên các vườn hoa hay dưới hành lang các đền đài miếu mạo và máy phóng thanh, đặt khắp nơi, sau mỗi bài hát cũng báo cho dân chúng hay “vị trí thời gian”:

- A lô! A lô! Chúng ta còn nửa giờ nữa thì sang thế kỷ 21.

Riêng với người dân Việt Nam, đêm Giao thừa này còn ghi thêm một ý nghĩa tưng bừng, họ ăn mừng ngày thành hôn của Thi sĩ với người con gái đồng hương.

- A lô! A lô! Chúng ta còn đúng năm phút nữa thì sang thế kỷ 21.

Có hai bóng người một trai, một gái âu yếm dìu nhau lên cầu biên giới tiến ra giữa rồi cúi xuống nhìn dòng sông: đó là Thi sĩ và người vợ mới cưới.

Để kỷ niệm ngày cưới Thi sĩ tổng kết tư tưởng cố hữu của Đông phương trong một bài thơ đề tặng người yêu chung thủy. Bài thơ đó sau này được các nhà văn học thế giới diễn nôm na ra như sau:

Chúng ta hãy ca ngợi mùa thu viên mãn

Chúng ta đừng coi rẻ mùa đông hiu quạnh

Mà đem so với mùa xuân tưng bừng thành hai vẻ đối chọi.

Trong thực thể vũ trụ

Hai vẻ dị đồng đó quấn quít bổ trợ cho nhau

Vì có sự chết mà tiết điệu của sự sống Giữ được vẻ trường cửu trong vũ trụ Thế giới càng cũ

Càng phong phú trong sinh thành:

Và sự im lìm tiều tụy của mùa đông kia Chính là để sửa soạn Cho cuộc tái sinh óng chuốt của mùa xuân năm sau.

Thi sĩ cúi nhìn dòng sông lấp lánh, lắng nghe tiếng nước xoáy dưới cầu giây lâu rồi kéo người yêu sát vào mình hơn nữa.

Chàng nói:

- Chỉ ba phút nữa anh sẽ ôm em sang mùa xuân mới của một thế kỷ mới.

Nàng nép vào vai chàng nói khẽ:

- Đáp lại tình yêu của chàng, lời em bất lực! Cả hai cùng chợt ngửng lên nhìn hai vì sao lạc để lại hai vệt sáng dài trên vòm trời thăm thẳm.

Thi sĩ mỉm cười ghé xuống nói thầm bên tai người yêu:

- Hai vì sao mải nhìn hạnh phúc của đôi ta mà trượt chân ngã xuống vực.

Tiếng chuông tiếng trống từ các đình chùa miếu mạo vang lên rồi đổ dồn… Bồi hồi xao xuyến.

Thi sĩ vòng tay ôm lấy người yêu mà cúi xuống hôn nàng trong khi tiếng đồng ca vang lên khắp kinh thành ven sông quê hương. Nhớ lại ý của người xưa ,Thi sĩ nói thầm bên tai người yêu:

- Anh đã hôn em giữa hai thiên niên kỷ!

Chợt một loạt nổ vang rền. Tiếng súng, không phải tiếng pháo! Thi sĩ cùng người yêu ngã khuỵu. Tiếng súng liên thanh từ phía cầu Liên bang tiếp tục nổ sang. Tiếng súng dứt, một đoàn người – quân lính thì phải – rầm rộ tiến ùa lên cầu cùng với tiếng hô “Xung phong”. Thi sĩ còn đủ tỉnh trí thu chút lực tàn, ôm xác người yêu lách qua thành cầu và gieo mình xuống dòng sông để tránh sự giầy xéo của những gót sắt. Ôm người yêu chìm trong nước lạnh nhưng Thi sĩ vẫn cho là mình đã rơi vào hơi thở mát dịu của mùa xuân.

Vì có sự chết mà tiết điệu của sự sống

Giữ được vẻ trường cửu trong vũ trụ.

Nhịp cầu biên giới rung chuyển hãi hùng dưới gót giầy của một đoàn quan đông vô kể. Tiếng súng nổ rên không ngớt. Tiếng thét thất thanh, cùng tiếng rên la nghẹn ngào của những nạn nhân luôn luôn bị chìm trong những đợt hô “Xung phong” rùng rợn. Sau đợt hô xung phong, thường tiếp đến những tiếng nổ kinh thiên động địa rồi tiếng hô lớn: “Yang Chủ tịch muôn năm!” – Yang là tên viên Chủ tịch Liên bang Bắc Á.

Yang Chủ tịch muôn năm! Yang Chủ tịch muôn năm!

Tiếng hô “Muôn năm” dõng dạc và thành kính đó vang lên liên tiếp. Riêng điều đó đã là một sự lạ cho không riêng gì Việt Nam mà cả khối nhân loại đã quen sống trong tinh thần tự trọng. Thường thường họ chỉ dùng tiếng hô đó trong vài trường hợp cực kỳ hạn hữu để bầy tỏ nỗi lòng cực kỳ quý mến trước một nhân vật cực kỳ đạo đức nào.

Rồi ánh đèn tắt ngấm. Có tiếng hô bắt những người dân ở đâu phải đứng nguyên đấy.

Ngày hôm sau cả kinh thành biên giới đã phấp phới bóng cờ ngự trị của Liêng bang Bắc Á. Cùng đêm Giao thứa đó, quân Liên bang đã tiến sang biên giới khắp miền Đông Nam Á.

Một tuần sau người dân Việt được biết thêm họ đương phải chống đối với mũi dùi mạnh nhất của lực lượng Liên bang. Rõ ràng Chủ tịch Yang nhằm chiếm Việt Nam trước nhất. Trên khắp mặt trận khác quan Liên bang có tiến nhưng rất chậm.

Hai tháng sau lực lượng Liên bang lấy xong Bắc Việt và khởi sự tiến chiếm Trung Việt.

Chiến thuật của lực lượng Liên bang tại Việt Nam cũng như tại khắp Đông Nam Á giống hệt nhau. Khi muốn chiếm một kinh thành nào, bộ tham mưu của họ chia kinh thành đó ra từng khu rồi thoạt dùng Đoàn quân Xung phong với hỏa lực cực mạnh chiếm lấy một khu làm đầu cầu. Sau đó vẫn nhờ đoàn quân cảm tử khu vực chiếm đóng sẽ lan dần cho đến khi họ hoàn toàn làm chủ thành phố.

Nếu đôi bên dàn thành trận tuyến, lực lượng Liên bang sẽ dùng Đoàn quân Xung phong phá vỡ mặt trận chủ lực trước rồi đánh tỏa ra thanh toán nốt các mặt trận phụ. Tiếng hô “Xung phong!” thoạt vang lên từ hậu tuyến, rồi đoàn quân xuất hiện, ào ạt tiến lên rất nhanh, hết đợt này đến đợt khác, súng liên thanh ở tay xả đạn không ngớt cho tới khi họ phá được hết hàng rào dây thép gai, xông được vào tận trong đồn, đâm bổ vào bất cứ thứ chướng ngại vật gì, ngã gục xuống, tức thì bộc lôi nổ tung xé màng tai, rung chuyển cả vòm trời. Cùng với tiếng nổ là tiếng hô bao giờ cũng rất rõ: “Yang Chủ tịch muôn năm!”

Những lớp đi mở đường đó không bao giờ còn lại một người sống sót!

Chính quân đội Việt Nam đã từng có truyền thống anh dũng về cách sử dụng bộc lôi cảm tử mà cũng phải lắc đầu lè lưỡi chịu thua Đoàn quân Xung phong Liên bang. Cứ như vậy chỉ mới bốn tháng qua mà lực lượng Liên bang Bắc A đã chiếm xong cả miền Trung Việt. Chiếm xong nơi nào, dân chúng bị tước hết vũ khí và chỉ được hoàn toàn tự do tại nơi cư trú. Mọi giao thông giữa vùng bị chiếm với vùng còn kháng chiến đều bị ngăn cấm triệt để. Kẻ nào vi phạm bị xử bắn tức khắc. Trong khi đó các đoàn xe sơn đỏ chở Đoàn quân Xung phong vẫn ngày đêm liên tiếp vượt biên giới, theo các đường lớn nhất tiến ra các mặt trận.

Sau một thời gian chiến đấu, đoàn quân Việt nhận thêm thấy có ba điều đặc biệt:

Điều thứ nhất: Đoàn quân Xung phong tiến nhanh và hăng đến nỗi có kẻ rõ ràng bị nhắm bắn vỡ đầu, toang ngực mà vẫn xông tới được hàng chướng ngại vật để gục ngã cho bộc lôi nổ.

Điều thứ hai: Kể cả những kẻ bị trúng đạn nhiều nhất khi ngã xuống vẫn hô đều và rất rõ: “Yang Chủ tịch muôn năm!” cùng với tiếng bộc lôi nổ. Toàn thể dân Việt phải tự hỏi không hiểu chủ tịch họ Yang đã áp dụng thứ ba tuyên truyền gì mà huấn luyện được đoàn người phục vụ cho tham vọng lỗi thời của hắn trung thành tới mức xuẩn động như thế?

Điều thứ ba: Địch quân đã rắc lên các xác rách nát của Đoàn quân Xung phong một thứ bột hóa học khiến qua một đêm xương thịt đó biến thành bùn. Chỉ những người tử trận trong đội quan chiếm lĩnh trận địa mới được chôn cất thật sự.

° ° °

Khi Đoàn quân Xung phong chiếm xong mấy đồn tiền tuyến của Nam Việt thì ai nấy thấy rõ chiến lược của đối phương: Thanh toán Việt Nam xong, gọng kìm Đông Nam này sẽ tiến lên để gặp gọng kìm Tây Nam. Tới lúc đó trọn khối Đông Nam Á nằm gọn dưới uy quyền Chủ tịch Yang.

Đã qua bao ngày đêm quên ăn quên ngủ mà Lãnh tụ Việt Nam chưa tìm được mưu kế gì khả dĩ chặn đứng được bước tiến mãnh liệt của Đoàn quân Xung phong. Tuy cơn nguy biến ngày càng trầm trọng, mảnh đất còn lại ngày bị thu hẹp dần nhưng không một phút nào vị lãnh tụ đạo đức đó nản lòng thoát trí buông xuôi niềm tin. Linh tính như truyền nhủ Lãnh tụ phải luôn luôn thức tỉnh mà nắm lấy cơ hội thuận tiện. Lãnh tụ bao giờ cũng đi sát với đoàn quân nghênh chiến, không bỏ sót một chi tiết trong trận giao tranh cho tới khi thế yếu, mặt trận bị phá vỡ, ông mới cùng tàn quân rút về đồn lũy sau để chuẩn bị một cuộc nghênh chiến mới.

Tới một trận chiến đấu kia, sau những tiếng bộc lôi long trời lở đất kèm theo những tiếng “Yang Chủ tịch muôn năm”, Đoàn quân Xung phong tiến lên liên tiếp đã mở xong lối cho đoàn quân chiếm lĩnh trận địa, nhưng đoàn quân thứ hai này đã bị tổn thất nặng nề vì một số quân Việt còn nán lại tận dụng hỏa lực trước khi rút lui hẳn.

Theo như thường lệ, Lãnh tụ cùng với mấy người hầu cận dừng lại ở một khoảng rừng khuất để quan sát địch quân rắc bột hóa học lên xác Đoàn quân Xung phong và chôn cất những xác tử trận khác. Lần này, tại một góc khuất cuối chiến trường, Lãnh tụ thấy có một sĩ quan địch ôm xác một nạn nhân bé nhỏ – một nữ quân nhân thì phải – giáng điệu tần ngần. Sau khi đã tự tay đào huyệt chôn cất xác đó xong, viên sĩ quan còn đứng quyên chỗ cũ thờ thẫn như mất hồn không biết rằng trời đã chập choạng tối và các cơ ngũ chiếm đóng đã lập trại xong xuôi. Ba người hầu cận Lãnh tụ không bỏ lỡ dịp may, tiến lẩn theo đường khuất, bất chợt nhô lên giơ súng vây chặn lấy ba phía để bắt cóc.

Viên sĩ quan lẳng lặng tiến theo chẳng hề tỏ vẻ kháng cự. Cho đến khi gặp Lãnh tụ, cho đến khi cùng Lãnh tụ đi về hậu tuyến, cho đến khi ngồi cùng mâm vừa dùng cơm vừa nói chuyện với Lãnh tụ, viên sĩ quan đó vẫn giữ nguyên vẻ chán chường. Đó chính là một ủy viên quan trọng của Đảng có chân trong Bộ Tham mưu Khoa học, và biết tường tận mọi việc thực hiện mọi âm mư của Chủ tịch Yang.

Khi nghe Lãnh tụ hỏi ý kiến về nếp sống hiện thời của người Việt cùng Khối Nhân loại Giác ngộ thì viên sĩ quan đáp:

- Chúng tôi rất khâm phục nếp sống của các ông… Lãnh tụ ngạc nhiên hỏi lại:

- Thế sao các ông lại khởi hấn?

- Không phải chúng tôi mà là chủ tịch họ Yang! Viên sĩ quan bật lên tiếng cười mai mỉa:

- Yang Chủ tịch muôn năm!

Càng ngạc nhiên, Lãnh tụ hỏi:

- Nếu chỉ một Chủ tịc Yang chủ chiến, sao hắn huấn luyện nổi một Đoàn quân Xung phong cảm tử, trung thành đến mực ấy?

Lại một tiếng cười mai mỉa, tiếp theo một lời căm phẫn:

- Gọi đó là đoàn quân súc nô thì đúng hơn!

Rồi không đợi Lãnh tụ hỏi thêm, viên sĩ quan kể hết sự thực về Đoàn quân Xung phong và câu chuyện tình lỡ dở của riêng ông. Lời kể của viên sĩ quan về Đoàn quân Xung phong đại ý như sau:

"Sau khi đã hạ hết đối thủ và nắm được quyền lãnh đạo Liên bang Bắc Á, Chủ tịch Yang vẫn tự cho mình có đủ những đức tính nhẫn nại thâm trầm, sâu sắc của người Đông phương để làm bá chủ toàn thể Á châu. Sau một năm nắm chính quyền, ngày đó – cách đây hai mươi năm – Chủ tịch Yang có cử một số thanh niên đảng viên cuồng tín nhất đi du học với lời dặn ân cần: 'Liên bang Bắc Á trong

15 năm nữa sẽ không chịu kém một nước nào về kỹ nghệ nguyên tử. Đảng trông cậy ở các đồng chí.'

"Năm năm sau Chủ tịch Yang cử thêm một toán du học sinh nữa ra ngoại quốc trong số đó có viên sĩ quan này.

"Năm 1990, vừa lúc Liên bang Bắc Á xây dựng xong một cách cực kỳ hoàn mỹ kỹ nghệ chiến tranh nguyên tử thì thế giới tìm ra vũ trụ tuyến và năm 1991 cho phóng lên không trung một số hành tỉnh nhân tạo cỡ lớn mang đủ máy móc tinh vi để vừa kiểm soát những căn cứ chiến lược, vừa ngăn ngùa mọi âm mưu chiến tranh bằng cách bí mật chế tạo bom nguyên tử. Nhân loại tìm đến nhau với tình huynh đệ tưng bừng như trống rong cờ mở.

"Mộng bá chủ Á châu tan vỡ, Yang đành tìm cách giữ cho vững những gì còn trong tay. Đó là lý do vì sao bức màn sắt quanh Liên bang Bắc Á vẫn được duy trì.

"Lòng tự phụ về đức tính thâm trầm của Đông phương xui Yang tìm quỷ kế nắm quyền cai trị cả Á lẫn Âu. Khoa học không được phép làm bom nguyên tử thì khoa học sẽ giúp Yang thực hiện mộng bá chủ kia bằng một mưu cơ thật tinh vi.

"Nhân loại tự trọng sống trong tự do, dân chủ hoàn toàn, Yang cũng hoàn toàn để cho nhân dân Bắc Á được hưởng tự do, dân chủ trong lãnh vực Liên bang. Cũng không biểu tình, không biểu ngữ, không hô khẩu hiệu một cách xuẩn động, nghĩa là không một chút dấu vết cưỡng hiếp tinh thần, khai thác quần chúng. Người ngoại quốc nào được phép đến thăm các kinh thành lớn nhỏ của Liên bang đều công nhận điều đó.

"Nhưng, tại một miền núi non trùng điệp khoảng trung tâm Bắc Á, Yang cho lập một kinh thành bí mật lấy tên là kinh thành Khoái Lạc. Bộ tham mưu khoa học của Yang (trong đó có viên sĩ quan) tập trung ở đó. Những căn nhà cao đầy đủ tiện nghi, những đường phố lớn, những bể tắm, những vườn hoa… được xây dựng, bố trí đều một lúc trong từng khu phố. Đồng thời Chủ tịch Yang ra sắc lệnh: 'Tất cả nam nữ thanh niên trong Liên bang từ 18 đến 30 tuổi phải qua ba năm phục vụ Đảng; sau đó sẽ được cấp giấy chứng nhận để trở về nguyên quán sống hoàn toàn tự do cho đến trọn đời.'

"Toán người ra đi phục vụ đầu tiên là những nam nữ đảng viên trung tín nhất. Lần này công cuộc phục vụ có khác những lần trước. Các nam nữ đảng viên được đưa đến kinh thành Khoái Lạc. Họ vẫn người nào làm nghề nấy khiến các vật dụng cùng thực phẩm có thể sản xuất đều, đủ cung phụng cho cả kinh thành gồm hai triệu nam nữ có mặt. Họ chỉ làm việc nửa ngày, còn nửa ngày về chiều thì trai nào gái ấy, từng cặp rủ nhau ra bể bơi, ra công viên, đến các nhà giải trí… Khắp nơi từ cách kiến trúc bên ngoài đến nội dung tiêu khiển bên trong đều chủ mục đích gợi tình dục.

"Trai gái tới đây chỉ có nhiệm vụ chính: sản xuất con cho Đảng.

"Trong ba năm phục vụ, người con gái cố thụ thai ba lần. Người nào thụ thai rồi được đưa sang một trại riêng để các bác sĩ chăm nom cho đến ngày sinh nở. Chàng trai ở lại sẽ được Đảng chỉ định cho gặp người đàn bà khác của lớp mới đến. Đủ thời hạn ba năm phục vụ Đảng, trai gái muốn trở về hay ở lại thêm tùy ý. Nhưng kẻ trở về có quyền thành lập gia đình với người mình muốn, con cái từ đấy sinh ra mới là con của mình.

"Đảng sẽ làm gì những hài nhi sinh ở kinh thành Khoái Lạc? – Đảng áp dụng tất cả những tiến bộ của khoa học để nuôi những hài nhi đó theo phương pháp “đốt giai đoạn” tại một trại khác tuyệt đối bí mật với dân chúng và với cả những đảng viên thường. Năm lên hai tuổi, chúng đã có thể lớn bằng những trẻ lên tám và được đưa lên bàn mổ để bác sĩ giải phẫu lấy tim thật ra thay vào một trái tim giả làm bằng thứ cao su nhân tạo. Trái tim này được đặt hắc-lờ ở bụng khoảng giữa hai xương cụt là nơi ít bị nhắm bắn. Năm lên sáu, những đứa trẻ đó cao lớn lực lưỡng bằng những thanh niên mười chín, hai mươi tuổi, nhưng sự thật đó chỉ là những xác sống vừa đủ trí nhớ và trí khôn để sử dụng khẩu liên thanh xông vào nơi chỉ định. Chúng không hề có ý niệm gì về sự sống hay sự chết! Trong hai năm liền – từ năm lên sáu đến năm lên tám – chúng được chuyên huấn luyện về động tác vừa chạy thực nhanh vừa xả súng về phía trước mỗi khi nghe khẩu lệnh 'xung phong' hô lớn qua máy phóng thanh.

"Năm lên bảy, nghĩa là một năm trước khi có thể ra chiến trường, các bác sĩ dùng thuốc tê rạch mông chúng, khâu dấu dưới thịt một cuộn dây phóng thanh tự động nhỏ xíu đã thu sẵn lời hô 'Yang Chủ tịch muôn năm.' Khi chúng ngã xuống, bộc lôi nổ, chỗ khâu cũ bị rách, cuộn dây phóng thanh tự động sẽ tung ra với lời hô trên để uy hiếp tinh thần đối phương. Đoàn quân Xung phong sẽ từng đợt… từng đợt như vậy tiến lên cho kỳ đến khi lực lượng kháng chiến của đối phương bị phá vỡ tơi bời, đoàn quân người thật mới tiến lên chiếm lĩnh trận địa, thu dọn chiến trường.

"Đều đều mỗi năm kinh thành Khoái Lạc có thể sản xuất cho Đảng hai triệu hài nhi, đêm Giao thừa năm vừa qua, đạo quân vượt biên giới Đông Nam Á chính là đạo quân xung phong trong lứa tám tuổi đầu tiên viên. Theo Yang, thế giới ngày nay đã hoàn toàn bị cấm sản xuất bom nguyên tử, vậy không một nước nào thắng nổi chiến thuật tấn công bằng Đoàn quân Xung phong.

"Còn về chiến lược, Yang sẽ theo chiến lược vết dầu loang. Thoạt chiếm Việt Nam rồi toàn thể Đông Nam Á. Biên giới ngăn cách hai thế giới vẫn là bức màn sắt nhưng dân chúng các nước bị chiếm vẫn hoàn toàn được hưởng tự do. Chính sách này cốt tránh sự nổi loạn bên trong và sự can thiệp bên ngoài. Chỉ cần dùng mánh lới tuyên truyền quyến rũ thanh niên các nước bị trị tới phục vụ Đảng tại kinh thành Khoái Lạc là đủ. Khi nào dư luận thế giới đã yên, Đoàn quân Xung phong sẽ bất ngờ xuất hiện chiếm nốt miền Tây Á, cứ như vậy rồi Đông Âu, rồi Bắc Âu, rồi Tây Âu, nghĩa là cả khối đất liền Âu Á sẽ nằm trọn dưới uy quyền của Chủ tịch Yang. Chiến công vĩ đại đó, cổ kim danh nhân chưa ai thực hiện nổi, Yang quyết thực hiện trong mười năm, kể từ ngày khởi hấn. Yang cầm bằng là kẻ kế vị sẽ bất lự, đế quốc sẽ tan rã, nhưng ít nhất Yang cũng đặt được một mốc cao cả về võ công khả dĩ tên Yang được tô đậm nét vàng son trong cuốn sử nhân loại muôn đời sau này."

Tố cáo xong chiến lược chiến thuật của Chủ tịch Yang, viên sĩ quan kể tiếp đến câu chuyện tình của ông, giọng buồn rầu ngao ngán:

“Chúng tôi gặp nhau, yêu nhau ngay đợt phục vụ đầu tiên tại kinh thành Khoái Lạc. Đức con đầu lòng của chúng tôi trong thời gian được nuôi bằng sữa mẹ lớn lên mũm mĩm, kháu khỉnh. 'Đứa con của Ái tình!' – chúng tôi vẫn thì thầm với nhau như vậy. Tiếc thay chúng tôi không được giữ nó lâu hơn một tháng. Nó thuộc về Đảng, vĩnh viễn thuộc về Đảng. Biết làm thế nào? Tôi cùng người yêu chia tay, quyết tránh sự bị ghép thành đôi trong kinh thành Khoái Lạc. Rồi người yêu của tôi đẻ thêm hai lứa nữa với hai người tình bất đắc dĩ khác. Vì một tai nạn sảy ra lúc lâm bồn lần thứ ba, nàng mất năng lực thụ thai. Sau thời gian phục vụ Đảng, chúng tôi tìm gặp nhau, chính thức nối lại duyên xưa, chúng tôi muốn cùng nhau có một đứa con của tình yêu, nhưng không được, chúng tôi chỉ còn biết ôn lại hình ảnh đứa con đầu lòng đẹp như tiểu thiên thần ngày nay đã bị giải phẫu thay tim giả đặt ở dưới bụng và được nuôi theo phương pháp đốt giai đoạn, lớn bồng lên như một quái thai và ngu độn hơn cầm thú. Nhưng điều làm chúng tôi đau đớn chính là sự sa đọa của cả dân tộc kể từ ngày kinh thành Khoái Lạc được thiết lập. Thú tính được thả lỏng, được khuyến khích nếp sống dâm ô vô đạo ngày nay còn muôn phần đồi bại so với phong trào khuyến khích 'hộ lý' khoảng giữa thế kỷ 20. Nhiều thanh niên tình nguyện ghi tên xin gia hạn phục vụ Đảng.

"Tất cả vẻ đẹp tế vi của tình trai gái mơn mởn thanh xuân, tất cả vẻ đẹp huyền bí của đêm tân hôn hồi hộp quyến rũ không còn, vì ai nấy tự biết: Trước khi thành vợ chồng, họ đã qua thời kỳ phục vụ Đảng tại kinh thành Khoái Lạc. Thi ca mất nguồn cảm hứng cao khiết nhất: Ái tình. Rồi đây lòng kính mến của con cái đối với cha mẹ còn gì, khi chúng được biết cha mẹ chúng ngày xưa cũng đã từng phục vụ Đảng như vậy? Yang sẽ làm bá chủ giải đất liền Âu Á, nhưng dân tộc tôi mất hết đạo lý và biến thành một loại người súc vật còn ghê tởm hơn loại người súc vật cuồng tín 'Đảng trên hết' khoảng giữa thế kỷ 20 mà lịch sử đã kết tội là lũ quẻ quặt lý trí, đui mù tình cảm.”

Tới đây viên sĩ quan bỗng ôm mặt khóc như một đứa trẻ:

- Tôi tố cáo tất cả những bí mật đó không phải chỉ để cứu các ông mà chính là để cứu chúng tôi trước hết.

Lãnh tụ ôn tồn hỏi thêm:

- Thế còn người đàn bà tử nạn ông chôn cất chiều qua, phải chăng đấy là người bạn trăm năm của ông?

Viên sĩ quan gật đầu, giọng nức nở:

- Niềm an ủi thân yêu cuối cùng của tôi bị mất! Lãnh tụ đứng dậy, nắm lấy tay viên sĩ quan, giọng ân cần hơn:

- Sau này ông có thể làm lại cuộc đời tình ái với một người đàn bà trong sạch bên thế giới chúng tôi, hoặc trung thành với kỷ niệm cũ, nhưng giờ đây ông hãy chứng kiến chúng tôi tiêu diệt Đoàn quân Xung phong!

Trời vừa hửng sáng… Một mặt Lãnh tụ cho đánh điện mời toàn thể lãnh tụ Khối Nhân loại Giác ngộ đến họp tại thủ đô miền Nam nước Việt, một mặt ông lập tức cho triệu tập các tướng tá Việt và đề ra chiến thuật ngăn triệt Đoàn quân Xung phong. Ngay buổi chiều đó tất cả các đồn tiền tuyến được lệnh chôn ba bãi mìn án ngữ phía trước. Ba bãi mìn được ngăn cách nhau bởi ba đợt cọc sắt thấp đủ để Đoàn quân Xung phong vấp ngã. Chiến thuật đơn giản này của Lãnh tụ đã thành công rực rỡ. Đoàn quân Xung phong khi tiến lên thoạt chết gục khá nhiều từ xa vì bãi mìn thứ nhất, rồi vấp ngã trên cọc sắt. Các lớp cọc chôn rất sâu, bộc lôi tuy nổ mạnh mà không làm tung đi mất chiếc nào. Trong khi đó các súng máy lia sát mặt đất để đường đạn hoặc xuyên qua bụng phá vỡ tim giả (trong trường hợp này bộ máy tuần hoàn bị phá tận gốc, người lính xung phong chỉ loạng choạng tiến thêm vài bước nữa là ngã) hoặc xuyên phá vỡ xương đùi, xương chân (trong trường hợp này người lính xung phong ngã gục ngay tại chỗ). Trong năm ngày đầu, không Đoàn quân xung quanh nào tiến được tới bãi mìn thứ hai, và cũng theo chiến thuật chớp nhoáng, đoàn quân Việt đã chiếm lại phần đất Nam bộ bị mất. Trong những trận giao chiến. quả nhiên họ nhận thấy cứ mỗi tên lính xung phong gục ngã cho bộc lôi nổ thì lại có tiếng hô “Yang Chủ tịch muôn năm” thoát ra từ khoảng hậu môn. Nhiều khi chiếc đùi bị văng lên cao thì tiếng “Yang Chủ tịch muôn năm” cũng từ cao vẳng xuống như một tiếng vang. Trên khoảng mông các bắp đùi nguyên vẹn tìm thấy, quả có viết khâu bị rách, đôi khi họ nhặt được cả sợi dây phóng thanh tự động đã sổ tung.

Các lãnh tụ thế giới tới họp. Lãnh tụ Việt Nam trình bày hết những bí mật vừa khám phá được. Lãnh tụ Việt Nam mời họ đến tiền tuyến chứng kiến chiến thuật phá vỡ Đoàn quân Xung phong. Hội nghị giải tán, các lãnh tụ Đông Nam Á trở về nước để kíp phổ biến chiến thuật Việt Nam, các lãnh tụ khác trở về nước để kịp chuyển một phần kỹ nghệ thời bình sang kỹ nghệ chiến tranh chuyên sản xuất mìn, súng liên thanh và đạn dược vì khối Đông Nam Á, theo lời dự đoán của Lãnh tụ Việt Nam, cần phải được trang bị gấp các thứ đó đủ để đối phó với một đạo quân xung phong khổng lồ chừng bốn triệu “người súc vật”.

Lời dự đoán đó không sai. Chủ tịch Yang đã dùng cả hai triệu quân xung phong lứa thứ hai và các đoàn xe chở quân xung phong màu đỏ tới tấp… tới tấp vượt các biên giới, tiến ra tiền tuyến.

Sau mỗi lần buộc lòng phải rút lui vì quân tiếp viện đến không kịp Bộ Tham mưu Liên bang lại cho đoàn phi cơ trực thăng mang dấu Hồng thập tự tới vãi bột hóa học xuống khắp nơi nào có hình hài Đoàn quân Xung phong.

Càng những trận về sau sự chống giữ càng khốc liệt. Những đợt quân xung phong – không biết đợt thứ mấy trăm – giầy xéo lên những xác chết trước mà tiến; rất nhiều khi chúng đã tiến tới bãi mìn và đợt cọc sắt thứ ba nghĩa là đợt chướng ngại vật cuối cùng, nhưng không bao giờ chúng tiến được tới đồn vì đường đạn đan nhau rất dầy, rất hiểm ác, luôn luôn quét sát mặt đất. Rút cục lại đoàn phi cơ trực thăng địch đến vãi bột hóa học xuống bãi chiến trường trước khi lực lượng Liên bang rút lui về phòng tuyến mới, đợi đoàn quân tiếp viện mới. Đoàn quân Việt khi chiếm lại đất đã phải dẫm lên một bãi lầy thịt xương chưa phân hóa kịp. Cũng may họ được biết đó là đạo quân nửa người nửa ngợm nên bước giày của họ tiến lên chẳng căm giận mà cũng không xót thương; họ chỉ thấy hơi khôi hài khi ôn lại cảnh cứ một tên quân gục xuống, bộc lôi nổ, lại có tiếng hô “Yang Chủ tịch muôn năm” thoát lên từ hậu môn. Thêm một điều nữa: cũng chính vì giải pháp vãi bột hóa học để phân hóa xác chết của địch mà giải đất Trung Viện, vốn xưa cằn cỗi, về sau cày cấy được, số hoa mầu thu hoặc tại nơi này không kém gì tại các trung châu phì nhiêu sông Nhị Hà miền Bắc và sông Cửu Long miền Nam.

Khi đoàn quân Việt phản công tới cố đô Thăng Long thì số lượng Đoàn quân Xung phong không còn là bao. Chẳng bao lâu lực lượng chiếm đóng của Liên bang rút lui khỏi biên giới toàn thể các nước Đông Nam Á. Đó là vào giữa mùa xuân năm 2002: chinh chiến kéo dài hơn mười ba tháng.

° ° °

Suốt dọc đường biên giới bao vây quanh Liên bang Bắc Á, quân đội các nước thuộc Khối Nhân loại Giác ngộ đều cho chôn mìn, cắm cọc sắt chuẩn bị đối phó nếu Đoàn quân Xung phong xuất hiện. Họ không hề xâm nhập vào nội địa Bắc Á, họ chỉ dùng vô tuyến truyền thanh và vô tuyến truyền hình tố cáo với nhân dân Bắc Á tham vọng lỗi thời của Chủ tịch Yang và bày tỏ mối nguy cơ của một cuộc sống trong đó đạo lý bị phá hoại tận gốc, khiến rồi đây chỉ một thế hệ nữa qua, tình vợ chồng không có, lòng hiếu kính của con đối với cha mẹ không còn, nhân dân Bắc Á sẽ thấy rằng thế giới họ sống hoàn toàn là thế giới của một loại súc vật mặt người.

Thế giới Giác ngộ tin rằng với cách chuẩn bị đề phòng như vậy, với cách tuyên truyền thành khẩn như vậy dân chúng Bắc Á sẽ tự động nổi dậy lật đổ Yang mà bầu người đạo đức khác biết sáng suốt thuận theo bước tiến của lịch sự.

Trong khi chờ đợi, các sử gia thế giới họp nhau lại để ghi chép và phê phán thế kỷ 20. Nhưng, trước khi bắt tay vào việc các vị học giả đó có tới Việt Nam dự lễ đặt viên đá đầu tiên cho công trình tạc tược Thi sĩ tại một công viên lớn nhứt giữa thủ đô.

Từng đoàn… từng đoàn… con gái Việt tươi như hoa xuân, thùy mị như mây nổi, tiến tới đặt những vòng hoa quanh nơi dựng tượng. Đám hương sắc mỗi người một vẻ đó đã từ lâu chẳng hề đi dự hội tuyển hoa khôi! Lần này, họ tự chia thành từng đội nhỏ bảo nhau đến vun trồng trăm hoa, tô điểm cho khu vườn rộng. Rồi đây mùa nào hoa nấy, hương thơm thanh bình và tinh khiết sẽ tỏa ra tượng trưng cho tư tưởng nhân hòa bác ái muôn đời của Thi sĩ, của con người đã suy tư trong bao đêm trường để tìm ra “Chân lý đưa nhân loại đến tình bằng hữu” của con người với một trực giác siêu phàm đã nhận thấy – ngay từ buổi loạn ly đen tối nhất – hướng tiến của nhân loại theo tiếng gọi của Ý thức Trường Cửu.

Hai điêu khắc gia chính làm đầu não cho công trình tạc tượng: một Việt, một Âu. Giúp việc hai người này là năm trăm điêu khắc gia khác của đủ các nước.

Pho tượng thành hình lần lần. Từng nét mặt… từng đường gân tay… từng nếp áo… xuất hiện như đường đi uyển chuyển của tương lai. Quanh pho tượng vĩ đại có những đường lẩn để mắc đèn, ban đêm bật lên thành một vùng hào quang bao lấy từ đầu đến chân pho tượng. Bên dưới là bệ. Phần trang trí của bệ được vẽ bằng sơn màu có lân tinh khiến ngay cả trong những đêm mưa bão các màu sắc vẫn không kém phần rực rỡ so với ánh hào quang bên trên của pho tượng. Phần trang trí đó vẽ cảnh một dải bờ bể hình chữ S có cát vàng ối với những luồng sóng lấp lánh đương chuyển mạnh lại, cồn lên thành từng khối lớn tựa như có gặp vách đá ngầm dưới đáy biển. Trên khoảng cát vàng sóng biếc đó là dòng chữ xanh thẫm ghi câu cách ngôn Việt Nam mà Thi sĩ đã có lần nêu lên cùng Lãnh tụ để làm phương châm hành vi: “Thật thà là cha quỷ quái.”

 

https://www.vietmessenger.com/books/?title=ho%20thuy%20duong&page=6

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét