Người theo dõi

Thứ Bảy, 29 tháng 7, 2017

VUA LÊ LONG ĐỈNH VÀ SỰ THẬT CỦA LỊCH SỬ CẦN PHẢI XÁC ĐỊNH

Hơn 10 thế kỷ, những người viết sử, đọc sử, người dạy sử và học sử, đều bị đóng đinh về một vài nhân vật lịch sử, mà cũng là tổ tiên mình, như: Lê Long Đỉnh, Trần Thủ Độ, Lê Thánh Tông, Nguyễn Ánh… Trong đó vua Lê Long Đỉnh là nặng nề nhất. Ông bị gán cho những tội lỗi năng nề, bị bôi bác nhân cách một cách thảm thương.
Tại sao lại thế?
Từ nhừng trang sử cũ, từ những thông tin ít ỏi và những lời phê, nhưng hầu hết đều không căn cứ vào những sự kiện, mà cứ sái cỗ tin vào những lời phê của các nhà viết sử. Nhưng quên rằng khi phê như thế thì các sử thần như Lê văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Ngô thì Sĩ, Nguyễn Nghiễm, Phan Phu Tiên… vẫn để lại cho hậu thế những thông tin thú vị cho hậu thế có cái mà nhận định được sự thật. Chúng ta có thể nhận ra là vua Lê Long Đỉnh đẽ có những việc làm mà chúng ta phải thán phục, có thể liệt kê ra một số:
- Là người đầu tiên mang về VN Đại Tạng kinh, một bộ kinh nền tảng của Phật giáo
- Là người đặt trụ cây số xuống đường đầu tiên của thế giới.
- Là người đầu tiên xác định khái niệm ngoại thương trên tầm cỡ quốc gia.
Gần đấy có những ý kiến phản biện lại, mình sưu tập những ý kiến đó để chúng ta có thể có một cái nhìn đúng đắn hơn về tiền nhân
Những bài viết dưới đây là của những cá nhân, họ không có khả năng hay tham vọng hoặc không đủ điều kiện viết lại lịch sử. Nhưng theo ý của tôi là. Họ chỉ muốn đưa lên một cách nhìn nhận khác về lịch sử. Rất mong nhận được sự phản hồi
Lê Thường Dân

VUA LÊ LONG ĐỈNH VÀ SỰ THẬT CỦA LỊCH SỬ CẦN PHẢI XÁC ĐỊNH

Trước khi bước vào thời kỳ toàn thịnh nhất của lịch sử: Thời Đại Lý Trần, có lẽ cần phải ghé mắt một chút về một nhân vật lịch sử “không giống ai” Lê Long Đỉnh. Theo Đại Việt sử ký tiền biên và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì:
Vua Lê Đại Hành mất tháng 2 năm 1005. Các con tranh nhau đến 8 tháng sau, Thái Tử Lê Long Việt mới lên ngôi, được ba ngày thì bị em cùng mẹ là Khai Minh Vương Lê Long Đỉnh giết, bầy tôi đều chạy trốn, duy có điện tiền quân là Lý Công Uẩn ôm xác mà khóc. Long Đỉnh lên ngôi truy đặt thụy là Trung Tông hoàng đế, cho Lý Công Uẩn làm Tứ Sương quân phó chỉ huy sứ.
Mùa đông, vua cướp ngôi, tôn hiệu là Khai Thiên Ứng Vận Thánh Văn Thần Vũ Tắc Thiên Sùng Đạo Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng Đế. Truy tôn mẹ là Hưng Quốc Quảng Thánh Hoàng Thái Hậu.
Lập bốn Hoàng Hậu.
Ngự Bắc Vương cùng với Trung Quốc Vương chiếm trại Phù Lan làm phản. Vua thân đi đánh. Đến Đằng Châu, quản giáp là Đỗ Thị đem việc người anh họ ngoại là Lê Hấp Ni làm phản tâu lên. Vua bắt tra hỏi. Hấp Ni và những kẻ dự mưu 12 người đều bị giết. Đến trại Phù Lan, người trại đóng cửa cố thủ. Đánh không hạ được, bèn vây chặt vài tháng, người trong trại hết lương ăn. Ngự Bắc Vương tự biết kế cùng thế khuất, bèn bắt Trung Quốc Vương đem nộp. Chém Trung Quốc Vương, tha cho Ngự Bắc Vương, rồi mang quân đánh Ngự Man Vương ở Phong Châu. Ngự Man Vương phải chịu hàng. Quân về đến Đằng Châu, đổi tên châu ấy làm phủ Thái Bình. Từ đấy về sau các vương và giặc cướp đều hàng phục cả. Chuyến đi này, khi đánh nhau với trại Phù Lan, chợt thấy trạm báo tin giặc Cử Long vào cướp đã đến của Thần Đầu. Vua về đến sông Tham đi sang Ái Châu để đánh giặc Cử Long.
Năm 1006. mùa Xuân tháng 2, phong con trưởng là Sạ làm Khai Phong vương, con nuôi là Thiệu Lý làm Sở Vương cho ở bên tả; Thiệu Huân là Phong Vương cho ở bên hữu. Sửa đổi quan chế và triều phục của các quan văn võ và tăng đạo, theo đúng như nhà Tống.
"Đinh Mùi/Ứng Thiên/năm thứ 14 [1007], (Vua vẫn dùng niên hiệu Ứng Thiên; Tống Cảnh Đức năm thứ 4). Mùa xuân, (vua Lê Long Đĩnh) sai em là Minh Xưởng và Chưởng thư ký là Hoàng Thành Nhã dâng tê ngưu trắng cho nhà Tống, xin kinh Đại Tạng".
"Kỷ Dậu, /Cảnh Thụy/ năm thứ 2 (1009) ...Vua (Lê Long Đĩnh) lại xin được đặt người coi việc tại chợ trao đổi hàng hóa ở Ung Châu, nhưng vua Tống chỉ cho mua bán ở chợ trao đổi hàng hóa tại Liêm Châu và trấn Như Hồng thôi".
"(1009)... Vua đi Ái Châu, đến sông Vũ Lung. Tục truyền người lội qua sông này phần nhiều bị hại, nhân thế vua sai người bơi lội qua lại đến ba lần, không hề gì. Xuống chiếu đóng thuyền để ở các bến sông Vũ Lung, Bạt Cừ, Động Lung bốn chỗ để chở người qua lại". Cũng trong năm 1009: "Bọn Ngô đô đốc, Kiểu hành hiến dâng biểu xin đào kênh, đắp đường và dựng cột bia ở Ái Châu. Vua xuống chiếu cho lấy quân và dân ở châu ấy đào đắp từ cửa quan Chi Long qua Đỉnh Sơn đến sông Vũ Lung" (sách đã dẫn). "... Đến Hoàn Giang, sai Phòng át sứ là Hồ Thủ Ích đem hơn 5 nghìn quân của châu Hoan Đường, sửa chữa đường từ sông Châu Giáp đến cửa biển Nam Giới để quân đi cho tiện"

Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình với 4 năm trên ngai vàng, Lê Long Đỉnh đã ”được” hậu thế tôn xưng là bạo chúa với cài mỹ hiệu Lê Ngọa Triều. Với một số tư liêu ít ỏi ghi trong Đại Việt Sử Ký  cùng với những sự kiện và cung cách làm vua của ông, các sử gia kết luận, ông là hôn quân, là bạo chúa. Nhưng cũng chính những sử gia ấy đã để lộ những thông tin, mà những thông tìn ấy đủ sức thuyết phục người ta đảo ngược lại 180 độ những kết luận mà hơn 1000 năm nay tin sái cỗ . Và không biết từ đâu mà Ngô thì Sĩ, người sống sau ông gần 5 thế kỷ cho là Lý Công Uẩn và Đào Cam Mộc là thủ phạm giết chết Lê Long Đỉnh (Đại Việt Sử Ký Tiền Biên. Nxb KHXH, trg 185, năm 1997)
Và người viết cũng chỉ có ngần ấy thông tin (không có gì nhiều hơn) và với những nhận xét và lập luận của mình, chí ít cũng có thể khẳng định ông không phải là một bạo chúa hay hôn quân, thậm chí còn là một Minh Quân (viết hoa) nữa là khác. Chúng ta thử điểm lại những sự kiện :
1.- Vua Lê Đại Hành mất, việc truyền ngôi đã làm cho triều đình hổn loạn, mãi đến 8 tháng sau Lê Long Việt mới lên ngôi. Ba ngày sau ông bị giết chết mà sử cho Lê Long Đỉnh là thủ phạm mà không có một chứng cớ nào rõ ràng. Rồi khi Lê Long Đỉnh lên ngôi thì cuộc tranh giành vẫn tiếp diễn, tiếp theo là hàng loạt những cuộc bạo loạn xãy ra trong khắp cả nước. Lê Long Đỉnh phải ngồi suốt trên lưng ngựa ba năm để thiết lập sự ổn định cho đất nước, để rồi mấy tháng sau chết vì bạo bệnh. chúng ta xem lại  trong 4 năm làm vua Lễ Long Đỉnh đã làm gì và phạm phải tội ác nào mà đến độ phải mang tiếng hôn quân bạn chúa. Không ai nhìn thấy cái thế chông chênh mà Lê Long Đỉnh phải đối phó; anh em tàn sát nhau. Nhưng Lê Long Đỉnh vẫn không đá động gì với Lê Minh Đề, Lê Minh Xưởng, Ngự Bắc Vương và Ngự Man Vương. Những bá quan văn võ mà sau này này trở thành vây cánh của vua Lý Thái Tổ cũng không thấy ai bị hại như Đào Cam Mộc, Trần Cảo, Ngô Đinh, Đào Thạc Phụ, Đặng văn Hiếu,  Bùi Xa Lỗi, Đỗ Giản, Đàm Thản, kể cả việc Lý Công Uẩn ôm xác Lê Long Việt mà khác, Lê Long Đĩnh cũng chẳng quan tâm. Thế mà đem Lê Long Đỉnh so sánh với việc giết Tỷ Cang và các trung thần khác thì e là khiên cưỡng.
2.Lên án việc róc mía lên đầu nhà sư Quách Ngang mà cho là tàn hại Phật giáo thì cũng không kém phần vu khống. Nếu như thế thì các thiền sư, Khuông Việt, Vạn Hạnh, Đỗ Pháp Thuận, Lý Khánh Vân có còn tồn tại nổi không. Trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam không thấy có ai tên Quách Ngang hay bất cứ một pháp nạn nào xãy ra trong thời gian Lê Long Đỉnh làm vua. Nhà sư Quách Ngang ấy nếu có thì chẳng qua là một thầy cúng sử dụng Phật pháp gạt người vào vòng mê tín dị đoan để thủ lợi, mà Lê Long Đỉnh thì không ưa việc này. Ông trừng trị Quách Ngang là đúng rồi. Chẳng qua là cách trừng trị của ông hơi tếu tếu đấy thôi.
3. Việc cho tên hề Liêu Thủ Tâm nhại tiếng các quan khi tâu trình trong các buổi thiết triều chắc có lẽ là cũng không xác đáng lắm, có thể có việc này, nhưng có nghe ai nói là Liêu Thủ Tâm nhại tiếng những ai. Có thể là nhại tiếng những ông quan nịnh hót nâng bi hoàng đế chăng? Bất cứ thời đại nào cũng không vắng mặt những tên nịnh hót, nhất là khi người bị nịnh lại là người có quyền sinh sát trong tay.

4. Khi nhìn nghe hiện tượng người lội qua sông Vũ Lung thường bị hại, ông sai người đóng thuyền, lập bến đò đưa người qua lại sang sông cho an toàn
5. Ông cũng cho người đào kênh, đắp đường và đặt ụ bia (như trụ cây số) từ cửa Vạn Long đến sông Vũ Lũng (khu vực Thanh Hóa hiện nay)
6. Về mặt bang giao với nhà Tống, Lê Long Đỉnh giữ chính sách bang giao tương đối hiếu hòa, cử Hoàng Thành Nhã cùng em trai sang xin kinh Đại Tạng, Cửu kinh và thiết lập các trạm trao đổi hàng hóa cho dân chúng ở châu Liêm và trấn Như Hồng. Vua Tống Chân Tông đã hai lần bác bỏ kế hoạch xâm chiếm Đại Việt do các cận thần tâu trình,  một phần vì rối ren nội bộ. Nhưng phần lớn  vì lo ngại sức mạnh của Đại Việt,
7. Việc vua Lê Long Đỉnh thiết triều phải nằm (theo sử nói là vì ông dâm dục quá độ nên bị bệnh trĩ là sai, ông bị bệnh trỉ có lẽ là do luôn luôn phải ngồi trên mình ngựa) là một việc cần phải suy nghĩ. Bị bệnh đến phải nằm để thiết triều chứng tỏ ông là người biết chăm lo chính sự. Chúng ta thấy trong lịch sử có ông vua nào như thế đâu? Nhưng thấy rất nhiều ông vua bỏ bê việc triều chính vì đem sức khỏe và thời gian của mình mà phung phí với bọn phi tần.

Trong thời gian gần đây có một vài cá nhân đặt lại vấn đề vị trí của vua Lê Ngoạ Triều trong lịch sử, mà theo tôi biết ông Lê văn Siêu là người đầu tiên đặt ra vấn đề này
Do vậy, nên chăng chúng ta xem xét lại những thông tìn mà chúng ta có do Đại Việt Sử ký Tiền Biên và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cung cấp để xem do đâu mà có những bất nhất như thế khi mà những thông tin ấy xác quyết những việc làm, tạm gọi là ích nước lợi dân đi, hoàn đúng đắn như đã nêu rồi đi đến những phê phán đầy tình báng bổ, cuối cùng kết luận ông là một bạo chúa, một hôn quân. Có lẽ cũng nên nhờ các nhà tâm lý học phân tích dùm vế tính cách của một người trẻ tuổi, khí huyết phương cương với một trọng trách và quyền lực quá lớn trong tay khi phải đối mặt với những thử thách vượt tầm hiểu biết, vượt quá khả năng giải quyết của mình.
Một mình người viết không thể nào có một câu trả lời đúng đắn một vấn đề lịch sử liên quan đến danh dự của một ông vua. Và đó cũng là cách mà chúng ta cần phải biết và thấu hiểu rõ ràng, cảm nhận đúng đắn về một điều cốt lõi của lịch sử: SỰ THẬT.
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

Đăng ngày Thứ bảy, 07 Tháng 2 2015 09:20
Trong tâm trí nhiều người Việt Nam, Lê Long Đĩnh là ông vua xấu xa đồi bại nhất trong lịch sử dân tộc. Sự thật có phải như vậy không?
 
Ông vua bị “đóng đinh” trong lịch sử
Học giả Trần Trọng Kim đã đúc kết toàn bộ sự nghiệp của ông vua cuối cùng nhà tiền Lê - Lê Long Đĩnh bằng một đoạn sau đây trong Việt Nam sử lược: "Long Đĩnh là người bạo - ngược, tính hay chém giết, ác bằng Kiệt, Trụ ngày xưa.
Khi đã giết anh rồi, lên làm vua thường cứ lấy sự giết người làm trò chơi: có khi những tù phạm phải hình, thì bắt lấy rơm tẩm dầu quấn vào người rồi đốt sống; có khi bắt tù trèo lên cây rồi ở dưới sai người chặt gốc cho cây đổ; có khi bỏ người vào sọt rồi đem thả xuống sông.
Làm những điều ác như thế thì lấy làm thích chí. Một hôm lấy mía để lên đầu nhà sư mà róc vỏ, rồi thỉnh - thoảng giả tảng nhỡ tay bổ dao vào đầu sư chảy máu ra, trông thấy thế làm vui cười. Còn khi ra buổi chầu, có ai tấu sớ điều gì thì cho những thằng hề nói khôi - hài hay là nhại tiếng làm trò.
Long Đĩnh làm vua được 2 năm đổi niên -hiệu là Cảnh - thụy (1008-1009). Sang năm sau là năm Kỷ - Dậu (1009) thì mất, làm vua được 4 năm, thọ 24 tuổi.
Vì lúc sống dâm-dục quá độ, mắc bệnh không ngồi được, đến buổi chầu thì cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Ngọa-triều".
Việt Nam sử lược là cuốn sách lịch sử Việt Nam đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ, được biên soạn rất công phu, giá trị lớn nhất của nó là hệ thống lại toàn bộ lịch sử nước nhà (cho đến thời Pháp thuộc) một cách súc tích, dễ hiểu, bởi vậy đây là cuốn sách lịch sử được phổ cập rộng lớn nhất trong thế kỷ 20. Nhiều thế hệ người Việt Nam tiếp cận một cách hệ thống lịch sử nước nhà chủ yếu thông qua cuốn sách này. Với đoạn sử phổ cập đó, Lê Long Đĩnh được "đóng đinh" trong tâm trí người Việt Nam là ông vua gian ác đồi bại nhất trong lịch sử. Tất cả các sách giáo khoa lịch sử từ đó đến nay cũng đều mô tả Lê Long Đĩnh đúng như vậy.
Nhưng đoạn viết về Lê Long Đĩnh trong Việt Nam sử lược và trong các sách giáo khoa lịch sử sau này, là lược chép lại từ Đại Việt sử ký toàn thư và một số cuốn sử cũ khác viết bằng chữ Hán. Mà Đại Việt sử ký toàn thư chép về Lê Long Đĩnh không chỉ có như vậy.
Người đầu tiên thỉnh kinh Phật về nước
Trong một lần trao đổi về lịch sử Phật giáo, một vị thiền sư nhắc chúng tôi, rằng Lê Long Đĩnh là ông vua đầu tiên cử người đi lấy kinh Đại Tạng cho Phật giáo, rằng sư Vạn Hạnh, thiền sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu cũng như các cao tăng khác thời đó đều được Lê Long Đĩnh rất trọng vọng... Nghe quá lạ so với những gì mà mình được học, tôi lần giở những trang sử có liên quan đến Lê Long Đĩnh.
Trong Việt Nam Phật giáo sử lược (in lần đầu năm 1943), thiền sư Thích Mật Thể viết: "Niên hiệu Ứng Thiên thứ 14 (1008), sau khi nước ta đã hòa với Tống rồi, vua Đại Hành sắc ông Minh Xưởng và ông Hoàng Thành Nhã sang sứ nước Trung Hoa, cống hiến đồ thô sản và xin vua Tống ban cho bộ "Cửu kinh" và "Đại Tạng kinh". Vua Tống trao cho những bộ ấy và cho sứ giả đưa về. Đó là lần đầu tiên nước ta cho người sang cầu kinh bên Trung Hoa vậy".
Do nhầm lẫn hoặc cũng có thể do ghét Lê Long Đĩnh, thiền sư Thích Mật Thể đã viết đoạn này không đúng, vì Lê Đại Hành mất năm 1005. Lê Long Đĩnh làm vua từ năm 1006 và đến năm 1008 vẫn giữ niên hiệu Ứng Thiên của vua cha. Đại Việt sử ký toàn thư chép như sau: "Đinh Mùi/Ứng Thiên/năm thứ 14 [1007], (Vua vẫn dùng niên hiệu Ứng Thiên; Tống Cảnh Đức năm thứ 4). Mùa xuân, (vua Lê Long Đĩnh) sai em là Minh Xưởng và Chưởng thư ký là Hoàng Thành Nhã dâng tê ngưu trắng cho nhà Tống, xin kinh Đại Tạng".
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng chép: "Đinh Mùi, năm thứ 14 (1007)... Nhà vua (Lê Long Đĩnh) sai Minh Xưởng và chưởng thư ký là Hoàng Thành Nhã đem con tê trắng sang biếu nhà Tống, dâng biểu xin cửu kinh và kinh sách Đại Tạng. Nhà Tống ưng thuận cho cả". Như vậy "lần đầu tiên nước ta cho người sang cầu kinh bên Trung Hoa" chính là do vua Lê Long Đĩnh.
"Cửu kinh" gồm Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu, Hiếu Kinh, Luận Ngữ, Mạnh Tử và Chu Lễ là 9 bộ sách vĩ đại nền tảng của văn minh Trung Hoa lần đầu tiên "nhập" vào nước ta là do Lê Long Đĩnh lấy về. Còn kinh Đại Tạng là gì ? Đó là Đại Tạng Kinh chữ Hán - bảo vật vô giá của Phật giáo và của văn hóa thế giới. Bộ sách đó, theo lịch sử Phật giáo, là một bộ sách vĩ đại được rất nhiều thế hệ các cao tăng Trung Hoa vượt qua biết bao gian truân khổ ải dày công thu thập, sưu tầm và dịch thuật suốt 1.000 năm, từ thế kỷ thứ nhất đến cuối thế kỷ thứ 10 (đời Tống Thái Tổ) mới in thành sách lần đầu tiên gồm 5.000 quyển (riêng việc khắc bản phải mất 12 năm).
Bộ sách đó không chỉ là tổng vựng các kinh sách Phật giáo mà còn hàm chứa rất nhiều lĩnh vực triết học, lịch sử, văn học, nghệ thuật, thiên văn, toán học, y dược... Một ông vua lần đầu tiên biết đem những di sản vĩ đại như vậy về nước để xây dựng, phát triển nền văn hóa dân tộc, liệu có thể gọi là hôn quân? Và một ông vua đã trực tiếp sai em mình đi xin kinh sách về cho Phật giáo, ông vua đó có thể nào "lấy mía để trên đầu nhà sư mà róc" ?
“Tư duy kinh tế”
Lê Long Đĩnh là ông vua biết chỉnh đốn triều chính. Một năm sau khi lên ngôi ông đã "Sửa đổi quan chế và triều phục của các quan văn võ và tăng đạo, theo đúng như nhà Tống" (theo Đại Việt sử ký toàn thư). Nhưng không chỉ có vậy. Đại Việt sử ký toàn thư còn chép: "Kỷ Dậu, /Cảnh Thụy/ năm thứ 2 (1009) ...Vua (Lê Long Đĩnh) lại xin được đặt người coi việc tại chợ trao đổi hàng hóa ở Ung Châu, nhưng vua Tống chỉ cho mua bán ở chợ trao đổi hàng hóa tại Liêm Châu và trấn Như Hồng thôi".
Thế kỷ thứ 11, không chỉ nước ta mà hầu khắp thế giới, kinh tế đều tự cấp tự túc. Phải có một "tư duy kinh tế" vượt xa thời đại mới biết "xin đặt người coi việc tại chợ trao đổi hàng hóa ở Ung Châu", tức là sâu trong nội địa Trung Quốc, việc đó giống như việc đặt Văn phòng đại diện thương mại ở nước ngoài bây giờ. "Tư duy kinh tế" đó mãi mấy trăm năm sau mới được biết đến ở phương Tây. Một hôn quân có nghĩ ra được điều này không ?
Đại Việt sử ký toàn thư chép tiếp: "(1009)... Vua đi Ái Châu, đến sông Vũ Lung. Tục truyền người lội qua sông này phần nhiều bị hại, nhân thế vua sai người bơi lội qua lại đến ba lần, không hề gì. Xuống chiếu đóng thuyền để ở các bến sông Vũ Lung, Bạt Cừ, Động Lung bốn chỗ để chở người qua lại". Cũng trong năm 1009: "Bọn Ngô đô đốc, Kiểu hành hiến dâng biểu xin đào kênh, đắp đường và dựng cột bia ở Ái Châu. Vua xuống chiếu cho lấy quân và dân ở châu ấy đào đắp từ cửa quan Chi Long qua Đỉnh Sơn đến sông Vũ Lung" (sách đã dẫn). "... Đến Hoàn Giang, sai Phòng át sứ là Hồ Thủ Ích đem hơn 5 nghìn quân của châu Hoan Đường, sửa chữa đường từ sông Châu Giáp đến cửa biển Nam Giới để quân đi cho tiện" (sách đã dẫn).
Rõ ràng chỉ mấy tháng trước khi chết (Lê Long Đĩnh chết vào tháng 10 năm đó), Lê Long Đĩnh còn chăm lo việc đào kênh, mở mang đường sá và đến tận nơi xem xét rồi xuống chiếu đóng thuyền bè đi lại cho dân. Một ông vua suốt ngày ham mê tửu sắc không đi lại được đến mức phải "ngọa triều", ông vua đó có thể làm được những chuyện có ý nghĩa như vậy không ?
Không ngồi được sao 6 lần cầm quân đánh giặc?
Ngoài những chuyện lớn nói trên, Lê Long Đĩnh còn nhiều lần cầm quân dẹp giặc. Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư, ngay trong năm đầu tiên làm vua: "Ngự Bắc Vương cùng Trung Quốc Vương chiếm trại Phù Lan làm phản. Vua thân đi đánh".
Tiếp đó: "... đem quân đánh Ngự Man Vương ở Phong Châu. Ngự Man Vương phải chịu hàng... Từ đấy về sau các vương và giặc cướp đều hàng phục cả" (sách đã dẫn). Và giữa lúc đánh trại Phù Lan "chợt thấy trạm báo tin là giặc Cử Long vào cướp đã đến cửa biển Thần Đầu (nay là cửa biển Thần Phù). Vua về đến sông Tham đi sang Ái Châu để đánh giặc Cử Long" (sách đã dẫn). Năm đó Lê Long Đĩnh 3 lần thân chinh dẹp loạn. Năm 1008 "Vua thân đi đánh hai châu Đô Lương, Vị Long" (sách đã dẫn).
Tiếp đó "lại tự làm tướng đi đánh Hoan Châu và châu Thiên Liễu" (sách đã dẫn). Và tháng 7 cùng năm "vua thân đi đánh các châu Hoan Đường, Thạch Hà" (sách đã dẫn). Như vậy là chỉ trong 4 năm làm vua, Lê Long Đĩnh đã 6 lần trực tiếp làm tướng cầm quân ra trận, lần cuối cùng chỉ cách 2 tháng trước khi ông mất.
Cầm quân đánh giặc liên miên như vậy phải là một người cường tráng, người "dâm dục quá độ, mắc bệnh không ngồi được" sao có thể làm nổi ?
Sự thật hay lời đồn?
Về chuyện Lê Long Đĩnh giết anh để lên làm vua cũng cần xem xét. "Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Sách Dã sử chép rằng: Đại Hành băng, Trung Tông vâng di chiếu nối ngôi. Long Đĩnh làm loạn, Trung Tông vì anh em cùng mẹ không nỡ giết, tha cho. Sau Long Đĩnh sai bọn trộm cướp đêm trèo tường vào cung giết Trung Tông." (sách đã dẫn).
Chúng ta thấy gì trong đoạn này? Thứ nhất, chuyện này Đại Việt sử ký toàn thư chép lại từ "Dã sử". Dã sử có thể tin được nếu có căn cứ để đối chiếu hoặc nó hợp logic, nếu không nó chỉ có giá trị như một lời đồn. Thứ hai, đã là dã sử mà còn nói "Long Đĩnh sai bọn trộm cướp đêm trèo tường vào cung giết Trung Tông". Quy cho người khác tội chủ mưu giết người thì phải có chứng cứ.
Ai làm chứng và tài liệu nào chứng minh việc Lê Long Đĩnh "sai bọn trộm cướp"? Chắc chắn là không có ai cả và không có bất cứ tài liệu nào. Một lời đồn đã là không có cơ sở, một lời đồn nói về một việc không thể có chứng cứ càng không có cơ sở. Vả lại, theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục: “Khi vua Long Việt bị giết, bầy tôi đều chạy trốn cả, chỉ có Điện tiền quân Lý Công Uẩn ôm thây vua mà khóc. Long Đĩnh cho là trung nghĩa cất lên làm chức Tứ sương quân phó chỉ huy sứ”.
Giết vua, giết anh là bất trung bất nghĩa. Kẻ bất trung bất nghĩa khó mà trọng dụng được người trung nghĩa. Vì vậy việc Lê Long Đĩnh giết anh chỉ nên coi cùng lắm là một "nghi án" mà thôi, không nên đem ra làm một sự thật dạy cho học trò. Cũng như cái chết của Lê Long Đĩnh, Ngô Thì Sĩ chép trong Đại Việt sử ký tiền biên như sau: "Lý Thái Tổ rất căm phẫn trước tội ác giết anh cướp ngôi của Khai Minh Vương (tức Lý Long Đĩnh), nhân lúc Khai Minh Vương bệnh tật, sai người vào đầu độc giết đi rồi giấu kín việc đó, nên sử không được chép". Lời đó của Ngô Thì Sĩ chúng ta chưa bao giờ coi là sự thật cả, sao lại coi việc Lê Long Đĩnh giết anh là sự thật ?
HOÀNG HẢI VÂN (THANH NIÊN ONLINE)

VUA LÊ LONG ĐĨNH VÀ NHỮNG “ẨN SỐ” TRONG CUỘC ĐỜI
This entry was posted on Tháng Mười Một 6, 2015, in Lịch sử Việt Nam and tagged lê hoàn, Lê Long Đĩnh, lý công uẩn. Bookmark the permalink8 phản hồi
Bộ phim Về đất Thăng Long tái hiện hình ảnh vua Lý Long Đĩnh độc áo, tàn bạo, bênh hoạn, thích giết người, nhìn thấy máu chảy
Bộ phim Về đất Thăng Long tái hiện hình ảnh vua Lê Long Đĩnh độc ác, tàn bạo, bênh hoạn, thích giết người, nhìn thấy máu chảy
Hoa Anh Đào
Cách đây lâu lắm rồi, tôi rất ấn tượng với một tiết dạy giờ lịch sử. Trong đó, cô giáo của tôi kể về những tội ác của Lê Long Đĩnh, ông vua cuối cùng của nhà Tiền Lê. Những mẫu chuyện về những việc làm “tàn bạo” của Ông “đóng đinh” trong lòng tôi.
Theo như những gì thầy cô kể và những sách sử bấy lâu nay tôi đọc Lê  Long Đĩnh là vị vua tàn bạo nhất trong lịch sử Việt Nam. Một con người bất nhân, bất nghĩa, bạo ngược và hoang dâm vô độ. Như học giả Trần Trọng Kim trong cuốn Việt Nam sử lược nhận xét về vị vua này như sau: “Long Đĩnh là người bạo – ngược, tính hay chém giết, ác bằng Kiệt, Trụ ngày xưa.
Khi đã giết anh rồi, lên làm vua thường cứ lấy sự giết người làm trò chơi: có khi những tù phạm phải hình, thì bắt lấy rơm tẩm dầu quấn vào người rồi đốt sống; có khi bắt tù trèo lên cây rồi ở dưới sai người chặt gốc cho cây đổ; có khi bỏ người vào sọt rồi đem thả xuống sông.
Làm những điều ác như thế thì lấy làm thích chí. Một hôm lấy mía để lên đầu nhà sư mà róc vỏ, rồi thỉnh – thoảng giả tảng nhỡ tay bổ dao vào đầu sư chảy máu ra, trông thấy thế làm vui cười. Còn khi ra buổi chầu, có ai tấu sớ điều gì thì cho những thằng hề nói khôi – hài hay là nhại tiếng làm trò. Long Đĩnh làm vua được 2 năm đổi niên -hiệu là Cảnh – thụy (1008-1009). Sang năm sau là năm Kỷ – Dậu (1009) thì mất, làm vua được 4 năm, thọ 24 tuổi.
Vì lúc sống dâm dục quá độ, mắc bệnh không ngồi được, đến buổi chầu thì cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Ngọa-triều”.
Những sử liệu của học giả Trần Trọng Kim đưa ra chủ yếu dựa vào các sách sử do các nhà sử học đời sau viết. Và sau này, các nhà sử học Việt Nam hiện đại khi biên soạn sách giáo khoa lịch sử chủ yếu dựa vào đánh giá này của Trần Trọng Kim để dạy cho hàng chục thế hệ học sinh. Vậy nên cái tên Lê Long Đĩnh đã in dấu không chỉ riêng tôi mà là những con người dù ghét hay thích bộ môn lịch sử là ông vua tàn bạo nhất Việt Nam từ xưa đến nay.
Vậy sự thật lịch sử ra sao, nếu nhìn theo một chiều hướng khác bằng những sử liệu khách quan, công bằng hơn, đặt vua Lê Long Đĩnh vào bối cảnh lịch sử luc bấy giờ, chúng tôi xin mạn phép viết vài điều về vị vua này thông qua những câu hỏi nghi vấn:
*Thứ nhất: Liệu vua Lê Long Đĩnh có phải là người giết anh trai ruột của mình để cướp ngôi?
Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi, lấy hiệu là Lê Đại Hành, lập ra nhà tiền Lê, Ông đánh bại nhà Tống xâm lược năm 981. Lê Đại Hành có tổng thể 11 người con trai trong đó có 1 người con nuôi, tuy nhiên Ông lại không lập thái tử cho một người con trai nào mà phong vương cho các con trai mình cai quản các vùng đất khác nhau và Ông lập đến 5 bà hoàng hậu. Năm 1005, Lê Đại Hành băng hà, nhường ngôi cho con thứ 3 là Lê Long Việt. Tuy nhiên, xảy ra cuộc chiến tranh giành ngôi báu giữa các con trai của Lê Đại Hành. Lê Long Việt trấn áp các hoàng tử khác, lên ngôi hoàng đế. Tuy nhiên, chỉ trong vòng 3 ngày Ông bị giết hại. Lê Long Đĩnh lên thay anh, và lịch sử ập ờ ghi lại, chính Lê Long Đĩnh là người đã giết anh trai của mình để cướp ngôi. Đại Việt sử ký toàn thư viết như sau: “Đại Hành băng, Trung Tông vâng di chiếu nối ngôi. Long Đĩnh làm loạn, Trung Tông vì anh em cùng mẹ không nỡ giết, tha cho. Sau Long Đĩnh sai bọn trộm cướp đêm trèo tường vào cung giết Trung Tông.”
Trong chuyện này có hai nghi vấn như sau:
– Thứ nhất, sự việc Đại Việt sử ký toàn thư chép lại từ “dã sử”. Dã sử có thể tin được nếu có căn cứ để đối chiếu hoặc nó hợp logic, nếu không nó chỉ có giá trị như một lời đồn.
– Thứ hai, đã là dã sử mà còn nói “Long Đĩnh sai bọn trộm cướp đêm trèo tường vào cung giết Trung Tông”. Quy cho người khác tội chủ mưu giết người thì phải có chứng cứ. Ai làm chứng và tài liệu nào chứng minh việc Lê Long Đĩnh “sai bọn trộm cướp”? Chắc chắn là không có ai cả và không có bất cứ tài liệu nào. Một lời đồn đã là không có cơ sở, một lời đồn nói về một việc không thể có chứng cứ càng không có cơ sở.
Vả lại, nếu Lê Long Đĩnh giết anh trai của mình nhưng khi thấy Lý Công Uẩn đang ôm xác vua mà rên khóc đau đớn, vua cho đây là con người trung nghĩa, thăng chức cho Lý Công Uẩn. Giết vua giết anh là bất trung bất nghĩa, một con người như vậy, khó mà trọng dụng một con người trung nghĩa?
Như vậy sự việc Lê Long Đĩnh có thực sự giết anh cướp ngôi hay không còn là một “ẩn số” lịch sử, chưa có tài liệu nào thỏa đáng để giải thích vì vậy quy kết cho vị vua này cái tội tày đình đó có phải là quá vội vàng hay không?
* Thứ hai, Ông thực sự là một người tàn bạo?
Sử sách kể lại những việc làm tàn ác của Lê Long Đĩnh, như Đại Việt sử ký toàn thư chép:“Vua tính thích giết người, phàm người bị hành hình hoặc sai lấy cỏ gianh quấn vào người mà đốt để cho lửa cháy chết, hoặc sai tên kép hát người Tống là Liêu Thủ Tâm lấy dao ngắn, dao cùn xẻo từng mảnh để cho không được chết chóng… Đi đánh dẹp bắt được thù thì giải đến bờ sông, khi nước triều rút, sai người làm lao dưới nước, dồn cả vào trong ấy, đến khi nước triều lên thì ngập nước mà chết; hoặc bắt trèo lên ngọn cây cao rồi chặt gốc cho cây đổ, người rơi xuống chết…Phàm bò lợn muốn làm thịt thì tự tay vua cầm dao chọc tiết trước rồi mới đưa vào nhà bếp sau. Từng róc mía ở trên đầu sư Quách Ngang, giả lỡ tay lưỡi dao trượt xuống đầu nhà sư cho chảy máu, rồi cả cười. Hoặc nhân yến tiệc giết mèo cho các vương ăn, ăn xong lấy đầu mèo giơ lên cho xem, các vương đều sợ, vua lấy làm thích. Mỗi khi ra chầu, tất sai bọn khôi hài hầu hai bên, vua có nói câu gì thì người nọ người kia nhao nhao pha trò để cười, để cho loạn lời tâu việc của quan chấp chính. Lại lấy con thạch sùng làm gỏi, bắt bọn khôi hài tranh nhau ăn”.
Trên đây, là lời kể của sử sách về những việc làm tàn bạo, thú tính của vua Lê Long Đĩnh. Bên cạnh đó sử sách đã ghi lại 2 công lao lớn của vị vua này như sau:
– Thứ nhất, Ông là người đầu tiên cho rước bộ kinh Phật Đại Tạng bằng chữ Hán về Việt Nam. Đây là một bộ sách vĩ đại được rất nhiều thế hệ các cao tăng Trung Hoa vượt qua biết bao gian truân khổ ải dày công thu thập, sưu tầm và dịch thuật suốt 1.000 năm, từ thế kỷ thứ nhất đến cuối thế kỷ thứ 10 (đời Tống Thái Tổ) mới in thành sách lần đầu tiên gồm 5.000 quyển (riêng việc khắc bản phải mất 12 năm). Bộ sách đó không chỉ là tổng vựng các kinh sách Phật giáo mà còn hàm chứa rất nhiều lĩnh vực triết học, lịch sử, văn học, nghệ thuật, thiên văn, toán học, y dược…
– Thứ 2, Lê Long Đĩnh là ông vua biết chỉnh đốn triều chính. Một năm sau khi lên ngôi ông đã“Sửa đổi quan chế và triều phục của các quan văn võ và tăng đạo, theo đúng như nhà Tống”,ngoài ra Ông lại xin được đặt người coi việc tại chợ trao đổi hàng hóa ở Ung Châu, nhưng vua Tống chỉ cho mua bán ở chợ trao đổi hàng hóa tại Liêm Châu và trấn Như Hồng thôi”. Thế kỷ thứ 11, không chỉ nước ta mà hầu khắp thế giới, kinh tế đều tự cấp tự túc. Phải có một “tư duy kinh tế” vượt xa thời đại mới biết “xin đặt người coi việc tại chợ trao đổi hàng hóa ở Ung Châu”, tức là sâu trong nội địa Trung Quốc, việc đó giống như việc đặt Văn phòng đại diện thương mại ở nước ngoài bây giờ.
Qua những việc làm trên chúng ta tự đặt ra những câu hỏi sau:
Liệu một ông vua bạo ngược, róc mía trên đầu nhà sư như vậy lại có tư duy sai chính em ruột mình sang xin bộ kinh Đại Tạng về để phát triển phật giáo trong nước hay không? Liệu Ông là người bạo ngược hay là người đóng góp công lớn về sự phát triển rực rỡ của phật giáo trong giai đoạn về sau? Liệu một người sùng mộ đạo phật như vậy có tàn bạo, vô nhân tính như sử sách đã miêu tả về vị vua này?
Liệu một ông vua suốt ngày ham chơi, không lo việc triều chính, lại có những chính sách nhằm ổn định thể chế chính trị, lại có tư duy kinh tế để phát triển đất nước. Ông vua đó thật sự bất tài, bất nhân, bất nghĩa như sử sách đã ghi lại và dạy cho con cháu ngày nay?
*Thứ 3, Lê Long Đĩnh không thể ngồi do hoang dâm quá độ?
Ngoài việc, miêu tả những tội ác của Lê Long Đĩnh, các sử thần đời sau còn cho rằng Ông là một người hoang dâm quá độ, dẫn tới không thể ngồi được (bệnh trĩ), và khi thiết triều phải nằm trên ghế nên sử gọi ông là Lê Ngọa Triều.
Y học ngày nay chưa có một chứng cứ nào cho thấy việc hoang dâm có thể gây ra bệnh trĩ. Vả lại sử sách ghi lại Ông đã 6 lần cưỡi ngựa đánh giặc mà lần cuối cùng cách 2 tháng trước khi Ông mất. Vậy một ông vua không thể ngồi có thể cỡi ngựa đánh giặc được sao?
Một ông vua hùng dũng, chinh phạt bắc nam, cơ thể cường tráng lại có thể là một con người trụy lạc, ham dâm?
Điều này, cần có một lời giải thích thật thỏa đáng!
*Thứ 4, vua Lê Long Đĩnh chết như thế nào?
Cái chết của Ông hầu như không có một cuốn sử sách nào viết lại, Ông ở ngôi được 4 năm, năm 24 tuổi thì băng hà. Các sử gia nhà Lý cho Ông mắc bệnh quá nặng, hoang dâm quá độ dẫn đến suy nhược mà băng. Như phía trên, chúng tôi đã chỉ rõ, Ông không thể mất bằng những lí do này được. Vậy vì sao Ông mất? Đây lại là một bí ẩn lịch sử nữa chưa có lời giải thích thỏa đáng. Duy nhất cuốn Đại Việt sử ký tục biên có những dòng rất đáng chú ý như sau: “Lý Thái Tổ rất căm phẫn trước tội ác giết anh cướp ngôi của Khai Minh Vương, nhân lúc Khai Minh Vương bệnh tật, sai người vào đầu độc giết đi rồi dấu kín việc đó nên sử không được chép”.
Vậy có phải đúng như cuốn Đại Việt sử ký tục biên ghi chép về cái chết của Ông?
Đây là một vấn đề cần tìm hiểu kỹ lưỡng trước khi phán xét.
Nhưng chúng ta có cơ sở để tin rằng như vậy.
Đặt lại bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, Khi vua Lê Long Đĩnh mất, các triều thần thấy con vua còn quá nhỏ chưa thể để quản lí đất nước nên tôn phò Lý Công Uẩn – người nắm trong tay binh quyền – lên ngôi hoàng đế dưới sự giúp sức rất lớn từ các nhà sư trong triều đình, đặc biệt là sư Vạn Hạnh.
Điều này, làm cho chúng tôi hiện lên một nghi vấn rằng, cứ cho rằng con vua còn quá nhỏ nhưng bấy giờ các anh em của Lý Long Đĩnh vẫn còn khá nhiều, là những người có đủ tư cách để kế nghiệp ngai vàng họ Lê vậy tại sao lại phải chọn một người họ Lý, nắm trong tay binh quyền để nối ngôi?
Và cái chết của những anh em nhà họ Lê khi họ Lý thành lập cũng không được nhắc đến. Đây có lẽ là một ẩn số lịch sử không có lời giải đáp.
Vả lại, ngay sau khi lên ngôi, Lý Thái Tổ đã nhanh chóng dời đô khỏi Hoa Lư nơi họ Lê có thế lực mạnh mà chuyển về Đại La (Thăng Long) gần quê hương của Lý Thái Tổ (Bắc Ninh). Phải chăng ngoài vị trí thiên thời – địa lợi – nhân hòa của Đại La ra còn có những nguyên nhân khác?
Vậy, Lê Long Đĩnh chết như thế nào? Đây vẫn còn là một bí ẩn!
Thay lời kết luận:
Như vậy, bị đóng đinh trong tâm trí người Việt là vị vua tàn bạo nhất chẳng khác gì Kiệt, Trụ thời xưa, cuộc đời của Ông – Lê Long Đĩnh là những bí ẩn chưa có lời giải thích. Phải chăng Ông là nạn nhân của những tính toán chính trị?. Một triều đại muốn có tính chính danh trước nhân dân phải không ngừng hạ bệ, xỉ nhục nhân cách của ông vua cuối cùng của triều đại trước, vì vậy, phải chăng các sử thần thời Lý đã ra sức “dựng lên” những câu chuyện về Ông?
Qua việc tìm hiểu về Ông, làm cho chúng tôi sáng tỏ được rất nhiều điều. Trước khi đánh giá về một nhân vật lịch sử nào đó, ta cần tìm hiểu thông tin nhiều chiều từ những nguồn tư liệu khác nhau, từ đó chúng ta mới đưa ra nhận định của mình. Chứ không phải cứ tiếp thu nguồn sử liệu một chiều một cách mù quáng. Ông có lẽ đã chứa đựng nỗi oan này trong suốt hơn 1000 năm qua. Cần có những hội thảo lịch sử, nghiên cứu về Ông nhiều hơn, tỉ mỉ hơn để trả lại cho Ông danh tiếng, nhân phẩm và đặc biệt là sự tôn trọng. Điều này, cần đến những nhà sử học uyên bác, có đủ trình độ để lý giải phân tích, đưa ra những nhận định đúng đắn. Không chỉ riêng Ông – Lê Long Đĩnh mà còn nhiều nhân vật lịch sử khác nữa.
Lời cuối, một chút an ủi dành cho Ông có lẽ là vì chính nhân dân là người đánh giá lịch sử một cách công bằng nhất, Ông vẫn được nhân dân thờ tự trong nhà thờ họ Lê, hưởng hương khói đời đời. Dân tộc ta thờ tự để đền đáp những việc làm của vị vua này đã làm.
https://nghiencuulichsu.com/2015/11/06/vua-le-long-dinh-va-nhung-an-so-trong-cuoc-doi/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét