Phạm Văn
Đồng đã bị áp tải vào hỏa ngục
(Chuyện
Thâm Cung Dưới Triều Đại Hồ Chí Minh)
(Tác
giả: Việt Thường)
Phạm Văn
Đồng, một trùm mafia Việt Nam ,
một cánh tay đắc lực thực hiện những tội ác của Hồ Chí Minh đối với nhân dân và
đất nước Việt Nam ,
vừa chết như một con chó già. Trong các trọng tội của Đồng thì, tội thay mặt Hồ
và tập đoàn mafia cộng sản tiếm quyền, ký giấy dâng đất cho Trung-cộng, gồm các
đảo Trường-sa và Hoàng-sa vào ngày 14-9-1958, là ghê tởm nhất. Bởi trong lịch
sử Việt Nam ,
chưa một tập đoàn cầm quyền nào lại dám làm cái việc dâng đất cho nước ngoài để
đổi lấy sự ủng hộ và vũ khí nhằm giết dân, phá hoại môi sinh nước mình vì lợi
ích của một ngoại bang khác. Đó là bán đất cho Trung-cộng để thực hiện chiến
lược bá quyền của Nga-sô !
[Việt
gian bán nước-PVĐ]
|
Phạm Văn Đồng quê ở Quảng Ngãi, sinh năm 1905, xuất thân gia đình quan lại. Thuở trẻ, Đồng theo học tại trường Albert Sarraut ở Hà-nội và đậu tú tài phần thứ nhất thì bỏ học. Đồng học ở A. Sarraut cùng thời với mấy ông hoàng người Lào thuở đó là Su-va-na Phu-ma va Su-va-na Phu-vông, và có biệt hiệu là "Đồng cháy", vì da đen.
Thoạt kỳ thủy Đồng chịu ảnh hưởng của các phong trào yêu nước của Cần Vương, Văn Thân, Đông Du v.v... cùng lúc do học ở A. Sarraut nên Đồng cũng nhiễm tư tưởng cấp tiến trong các tác phẩm của Voltaire, J.J. Rousseau; chủ nghĩa nhân đạo của Owen v.v... Chỉ đáng tiếc cho nhiệt tình yêu nước đó, khi đã nhiễm HIV cộng sản dương tính, thì Đồng trở thành mất sức đề kháng của người thanh niên yêu nước.
Tổ tiên ta đã dạy :"Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng". Quả rằng từ lúc Đồng qua bên Hoa-lục và gặp Hồ Chí Minh thì cái phần yêu nước chân chính trong người Đồng đã bị tiêu diệt bởi ma khí và tà thuyết của Hồ. Cái bản lãnh của chàng thanh niên Tây-học Phạm Văn Đồng đã bị Hồ Chí Minh và cái gọi là chủ-nghĩa Marx-Lénine hủy diệt, để thay thế vào đó sự ngu xuẩn, tàn bạo, vô liêm sỉ, của tên mafia cuồng tín.
Hồ rất tin Đồng. Ngược lại, Đồng luôn kính cẩn và tuyệt đối trung thành với Hồ như con chó berger trước chủ vậy.
Khi bằng lừa dối, tiếm được quyền cai trị thì Hồ giữ ghế chủ-tịch nước kiêm thủ-tướng và trao cho Đồng cái ghế phó thủ-tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao. Đến 1956 thì Đồng được Hồ ban cho cái ghế thủ tướng chính phủ.
Về phương diện chính quyền, Đồng là người phát ngôn của họ Hồ. Về mặt đảng mafia, Đồng luôn luôn là nhân vật thứ ba (không kể Hồ) trong bộ chính trị mafia; là quả cân phụ mà Hồ dùng khi cần điều chỉnh sự thăng bằng giữa bên tả và hữu của bộ chính trị. Nói một cách khác, Đồng là lá phiếu, là người phát ngôn của Hồ trong những trường hợp Hồ không muốn lộ ý kiến công khai trong các cuộc họp chính phủ hoặc họp đảng mafia (nhất là họp bộ chính trị).
Cái chết của Đồng chắc chắn được bọn trùm mafia đỏ Việt Nam hư cấu cho một tiểu sử lê thê đủ thứ thành tích này nọ, hệt như mỗi lần có một trùm trong bọn chúng chết. Và, lũ bồi bút, lũ sử nô của chúng sẽ dựa vào đó mà ra công sơn mạ theo kiểu vàng Mỹ Ký ! Nhưng vải thưa chẳng thể che mắt thánh, nên dưới đây là những sự thật mà bồi bút và sử nô mafia đỏ né tránh.
Trường hợp của Phạm Văn Đồng thì đó là :
Năm 1945 về đến Hà-nội, Đồng chọn vợ là con gái chủ tiệm kem Long Vân ở Bờ Hồ, Hà-nội, một gia đình giàu có ở Hà-nội lúc ấy, cùng lúc Hồ ăn nằm tại nhà đại phú Trịnh Văn Bô ở phố Hàng Ngang để soạn... tuyên ngôn độc lập, trong đó có phần trích dẫn từ tuyên ngôn của nước Mỹ. Viết và làm như vậy nên tên bài Tây Hồ Chí Minh và đệ tử đã lừa được... gần cả nước Việt Nam khi ấy, lẫn chàng sĩ quan tình báo của Mỹ : Patti.
Khi chính phủ Liên Hiệp kháng chiến chống Pháp rời Hà-nội lên Việt Bắc, Phạm Văn Đồng đã phạm một tội nặng : hắn đã cưỡng bức một cô học sinh trong đoàn học sinh miền Nam ra thăm miền Bắc năm 1946, rồi vì chiến tranh nên cả đoàn cũng sơ tán lên Việt Bắc. Vợ Đồng bắt được quả tang, làm ầm lên. Bảo vệ của Đồng đã bắt bà ta nhốt lại nên bà ta bị điên. Mọi người chỉ biết vợ Đồng bị điên, nhưng ít người biết nguyên nhân khiến bà ta bị điên.
Sợ tai tiếng cho đệ tử ruột nên trùm mafia đỏ Hồ Chí Minh trực tiếp can thiệp. Hắn cho cô bé học sinh tội nghiệp đó qua Nga-xô học. Nhưng vừa tới đất "Hưá" của mafia đỏ quốc tế thì cô bé học sinh đó bị tai nạn xe hơi chết không kịp trối trăng điều gì. Từ đó, một Phạm Văn Đồng tươi tỉnh của thuở ở hội nghị Fontainebleau (1946) nhường chỗ cho một Phạm Văn Đồng lúc nào cũng cáu kỉnh, lầm lì như "chó thiến bị nhét mảnh chai vỡ". Người thì nói Đồng vì buồn chuyện vợ bị điên, kẻ thì thầm thì rằng Đồng vẫn còn đau khổ vì cái chết của cô bé học sinh miền Nam, được ban "quốc tính" họ Hồ, có đôi mắt nai tơ, làn da trắng mịn, cặp mày lá liễu và vành môi không thoa son mà lúc nào cũng đậm màu hoa đào Nhật-tân.
Ngày 1-1-1955, tại cuộc mít-tinh đầu tiên do mafia đỏ tổ chức trước Nhà Hát Lớn của Hà-nội, Phạm Văn Đồng hoàn toàn đánh mất vẻ sắc xảo khi còn ở trường A. Sarraut, hào hứng tranh luận rất thông minh về Bossuet, về bài thơ "A une jeune morte" của Ronsard v.v... để ngây ngô đến đần độn của một nhân vật võ công tà phái bị cấy "sinh tử phù" trong chuyện chưởng, dám phát biểu, đại ý :"Sau khi họp hội nghị ở Genève, đoàn chúng tôi về qua Liên-sô, được đồng chí Malenkov giao nhiệm vụ là miền Bắc Việt Nam chỉ cần trồng chuối và săn hổ đổi cho Liên-xô là cả miền Bắc Việt Nam no đủ." Rồi Đồng hỉ hả cười trước và tự vỗ tay mừng rỡ một cách chân thật. Giờ đây, đố ai tìm thấy bài nói chuyện đó của Đồng, cũng như bài nói của họ Hồ liền năm đó, khi hắn đến thăm trường nữ học Trưng Vương, rằng :"Bỏ cái áo dài đi. Trong nó vừa ẻo lả, vừa yếu đuối. Vải may một áo dài này có thể may được hai áo cánh."
Trông mặt mũi có vẻ "ngầu" nhưng Đồng thực sự là loại tầm gửi, không dám quyết định cái gì lớn mà chỉ thừa hành ý kiến của Hồ. Khi Hồ chết thì Đồng làm vừa lòng cả Lê Duẩn, Trường Chinh lẫn Lê Đức Thọ.
Có những chuyện tưởng như đùa mà là thực trăm phần trăm. Như chuyện vợ của bí thư tỉnh ủy Hà-tây, Bạch Thành Phong, là hiệu trưởng trường trung học thị xã Hà-đông, ỷ thế chồng, đã chửi và tạt tai một giáo viên dưới quyền. Các giáo viên dưới quyền phẫn nộ làm đơn tập thể gửi lên Phạm Văn Đồng. Thế là Đồng về họp với Ty giáo-dục Hà-tây, ra lệnh cách chức mụ hiệu trưởng. Chưa đầy 3 tháng sau, nhân hội nghị tỉnh đảng bộ mafia đỏ của Hà-tây, Bạch Thành Phong cho tay sai đề cử vợ hắn vào chấp hành tỉnh đảng bộ và hắn chỉ đạo để vợ hắn không những trúng cử mà còn được phân công là trưởng ban tuyên huấn tỉnh đảng bộ. Nghĩa là mất chức hiệu trưởng của một trường trong thị xã Hà-đông thì chưa đầy 3 tháng sau mụ ta phụ trách chỉ đạo cả 3 ty : giáo dục, y tế và văn-hóa thông-tin của toàn tỉnh Hà-tây ! Phạm Văn Đồng được cho biết chuyện đó, nhưng lờ đi, vì... Bạch Thành Phong là đệ tử ruột của Trường Chinh !
Lại một chuyện khác, xảy ra ở phân xã nhiếp ảnh, Việt Nam thông tấn xã ở Hà-nội. Được tin Phạm Văn Đồng đến thăm và nói chuyện với phân xã nhiếp ảnh, Hoàng Tuấn, Tổng giám đốc Việt Nam thông tấn xã và Hoàng Tư Trai, giám đốc phân xã nhiếp ảnh họp toàn cơ quan trước, ra lệnh rằng sau khi Đồng nói, không ai được phát biểu gì mà để "lãnh đạo phát biểu thay"(?). Khi Đồng đến, thao thao bất tuyệt nào là "kiên cương"với "tiên lên" (vì Đồng nói như Tây nói tiếng Việt, không có dấu, và các bài nói của Đồng ở chỗ nào cũng hay động viên 'kiên cương' với 'tiên lên'). Rồi Đồng hỏi :"Co đông chi nao co y kiên không?" Mọi người im lặng một lát. Bỗng phóng viên ảnh Xuân Bảo đứng dậy báo cáo rằng :"Lãnh đạo dặn không ai được nói với thủ tướng." Đồng đang cười mỉm, sầm mặt lại. Một mụ nhân viên mới từ vùng mỏ Hồng-quảng chuyển về, nhanh nhẩu đứng dậy :"Báo cáo thủ tướng, Xuân Bảo là phần tử lạc hậu của cơ quan đấy ạ!" Đồng trừng mắt :"Chị là người xấu, đồng chí Xuân Bảo là người tốt vì đã dám báo cáo sự thật cho thủ tướng biết!" Cả hội trường im phăng phắc. Bỗng Đồng ngửa mặt cười "chua chát" rồi hằm hằm ra về. Ngay hôm sau, phóng viên ảnh Xuân Bảo bị cơ quan Thông Tấn Xã cho nghỉ việc với lý do : Vô Kỷ Luật. Phóng viên Xuân Bảo chạy lên phủ thủ tướng cầu cứu Phạm Văn Đồng nhưng... Đồng không tiếp và cũng không... giải quyết. Xuân Bảo đành chạy về Văn phòng Quốc hội, đón xe ô-tô của Trường Chinh để khiếu nại. Trường Chinh đề vào đơn của Xuân Bảo "Chuyển anh Tô giải quyết" (Tô là bí danh của Đồng). Sau đó, án kỷ luật của Xuân Bảo được đổi thành "Mất sức cho hưu non" và cho một số tiền bằng 12 tháng lương chính. Thế là người hùng năm 1945, đã cắm cờ ở tòa đốc lý Hà-nội, là thương binh trong chiến tranh chống thực dân Pháp, là đảng viên mafia đỏ (đảng viên trơn), là phóng viên ảnh bậc 5, là người đã bám trụ ở cầu Long Biên ngày máy bay Mỹ ném bom phá xập cầu, là người được Đồng "tuyên dương" là "người tốt" trước hội nghị toàn cơ quan Thông Tấn Xã bị đá một cái để thành một xã viên hợp tác xã !!! Một phần vì cả Hoàng Tuấn lẫn Hoàng Tư Trai là đệ tử của Trường Chinh, nhưng cái chính yếu là tập đoàn lãnh đạo mafia đỏ không muốn khuyến khích cấp dưới tố giác cấp trên. Theo Hồ và bọn tay chân : Đó là mầm loạn. Cấp dưới chỉ được khuyến khích phục tùng tuyệt đối dù là mù quáng.
Lại một chuyện khác xảy ra ở cảng Hải-phòng. Đó là tình trạng mất cắp một cách trắng trợn, vì kẻ lấy cắp chính là lũ quản lý và bảo vệ cảng. Các cá nhân và đơn vị có hàng bị mất khiếu nại khắp nơi và Phạm Văn Đồng, nhân danh thủ tướng chính phủ trực tiếp xuống cảng Hải-phòng kiểm tra. Hết làm việc với đảng ủy rồi lại đến ban giám đốc, sau cùng Đồng họp với cán bộ công nhân viên, kêu gọi tinh thần bảo vệ hàng hóa ở cảng. Thế là người tốt lại bị quả lừa. Một bác công nhân già, từng làm ở cảng Hải-phòng từ thời thực dân Pháp, buồn bã phát biểu, đại ý :"Thưa thủ tướng, tôi là công nhân cảng từ khi tròn 18 tuổi, đến nay đã hơn 50 tuổi. Chưa bao giờ tôi thấy làm ăn tắc trách như bây giờ. Vừa ăn cắp, vừa phá hoại công khai, bởi vì họ hầu hết là người có quyền lớn cả về đảng lẫn chính quyền. Ai mà nói ra là bị trù ém. Thời thực dân Tây cũng không bao giờ có tình trạng như vậy, thế mà nay nhờ 'Bác' và đảng, ta làm chủ mà hóa ra thành ăn cắp của nhân dân. Ai không ăn cắp bị gọi là ngu lâu, bị cách ly và bị đặt đủ thứ tên để chê bai. Thế là thế nào? Kính xin báo cáo lên thủ tướng để giải quyết." Nghe nói vậy, Đồng đứng trân trân như trời trồng, "ứa nước mắt" lắc đầu ra về. Trước khi ra khỏi hội trường, Đồng gọi bác công nhân già bảo ra xe cùng Đồng về Hà-nội, đồng thời cho lệnh đưa cả gia đình bác công nhân đó về Hà-nội. Vì, như Đồng nói :"Đồng chí ấy và gia đình mà còn ở cảng chắc sẽ gặp nạn"(?).
Câu chuyện trên được một số bút nô mafia đỏ tô vẽ rằng "Đồng rất tâm lý, rất tình người". Thực ra không phải vậy. Mà vì Đồng từng cặp kè với Hồ những ngày Hồ còn phải lang thang bên Tàu, hiểu rõ mọi ngón nghề của tên bài tây chính trị, tên mafia đỏ quạch Hồ Chí Minh và cái đảng mafia do hắn lèo lái thực chất là một tập đoàn ăn cắp, ăn cướp, lưu manh lừa đảo tụ họp nhau, núp dưới tên đảng chính trị, thoa son yêu nước để ăn cắp và ăn cướp của toàn dân, phá hoại toàn bộ tài nguyên của đất nước. Cho nên chuyện ăn cắp ở cảng Hải-phòng là cái tất yếu của việc "trồng cây nào hái quả đó" mà thôi. Vì thế mà Đồng phải lờ đi, cũng như việc đưa gia đình bác công nhân đó về Hà-nội là tránh việc cấp dưới tố giác cấp trên, y như chuyện của Xuân Bảo ở trên vậy !
Vài thí dụ nêu trên để thấy tuy là thủ tướng, là nhân vật số 3 trong tập đoàn đầu lãnh mafia đỏ nhưng việc chính đáng của dân thì Đồng toàn giải quyết theo kiểu "đánh trống bỏ dùi", còn việc riêng thì Đồng rất tích cực. Thí dụ thứ nhất : Giữa những năm 1960, tại Hà-nội có cái gọi là "Vụ án nhạc vàng" (phóng viên AFP của Pháp, thường trú tại Hà-nội, có đưa tin). Ông Toán "xồm" bị kêu án tù 12 năm vì tội "hát nhạc vàng của miền Nam và có tư tưởng thích chế độ Đồi Truỵ của miền Nam". Một vài người khác hay tụ họp hát nhạc miền Nam Việt Nam , nhờ nghe lén đài miền Nam mà học được, trong vụ ông Toán đều bị kêu án, ít nhất cũng 6 năm. Án như vậy, nhưng như ông Toán, bị tù quá án mà vẫn không được tha. Có người vô tình đến chơi với ông Toán đúng hôm công an mafia đỏ tới lục nhà cũng bị bắt và kết án... 6 năm tù. Thế nhưng, cô cháu dâu của Phạm Văn Đồng là Trà Giang - vợ của Phạm Bích Ngọc - là diễn viên điện ảnh nổi tiếng, kiêm ủy viên ban chấp hành hội liên hiệp văn-học nghệ-thuật (tổ chức các loại bút nô của mafia đỏ) lại bình chân như vại, mặc dù Trà Giang là người Đều Đặn có mặt tại nhà ông Toán để biểu diễn say sưa nhạc vàng (tức nhạc của miền Nam Việt Nam). Trà Giang còn công khai nhận xét là nhạc miền Nam rất tình người, không gân guốc, sắt máu như nhạc miền Bắc. Bởi vì, Phạm Văn Đồng trực tiếp can thiệp !
Thí dụ thứ hai : Một thằng cháu ruột khác của Phạm Văn Đồng, được đưa qua Nga-xô học từ nhỏ và được cử làm "bí thư thứ nhất sứ quán mafia đỏ Việt Nam tại Nga-xô". Hắn muốn lấy vợ mà phải là vợ đẹp, nhưng bận ở Nga-xô không có thì giờ về Việt Nam "tìm hiểu". Thế là Phạm Văn Đồng ra tay tiếp cháu. Đồng giao trách nhiệm cho "đoàn thanh niên lao động Hồ Chí Minh" (cánh tay phải của mafia đỏ) tìm vợ cho cháu hắn. Lại một diễn viên điện ảnh nổi tiếng được chọn làm cháu dâu Phạm Văn Đồng. Cuộc tình không do yêu, cũng không do cha mẹ sắp đặt, mà do tổ chức mafia đỏ thực thi theo ý của trùm Đồng. Đám cưới xong, theo đúng luật của mafia đỏ Việt Nam, cháu Phạm Văn Đồng lại qua Nga-xô làm việc, còn cô cháu dâu lại "cô đơn phòng lạnh đợi chờ" tại Hà-nội. Không chịu nổi sự phi lý đó, cô diễn viên rất đẹp đó đưa đơn xin ly hôn. Nghe tin, thằng cháu Phạm Văn Đồng vội cưỡi máy bay về khóc lóc xin vợ rút đơn ly hôn nhưng cô ta không chịu. Như cô ta nói thì cô ấy cảm thấy đây là một sự cuỡng ép của tổ chức (mafia đỏ) mà thôi. Thế là Đồng lại can thiệp bằng cách hứa làm hộ chiếu cho cô ta qua Nga-xô sống với chồng, muốn đi học hoặc muốn làm gì thì làm. Nhưng cô diễn viên quả cảm khước từ mọi ân huệ của Đồng. Cháu Đồng khóc lóc trở về lại Nga-xô. Còn cô diễn viên vì cái tội không muốn làm cháu dâu họ Phạm nữa nên bị coi là không đủ tiêu chuẩn là diễn viên !
Chuyện đại loại như vậy về Đồng và đồng bọn của hắn trong tập đoàn mafia đỏ có thể kể dài hơn ngàn lần các chuyện chưởng của Kim Dung gộp lại với những Đông Chu Liệt Quốc, Tây Du Ký, Một Ngàn Lẻ Một Đêm v.v... cũng chưa hết.
Về cuối đời, khi được nâng lên là "cố vấn" của tập đoàn mafia đỏ, Đồng vẫn còn thèm được nướng tiền của nhân dân Việt Nam vào các canh bạc chính trị. Trong một chuyến thăm Ấn-độ (thời bà I. Gandhi), Đồng đã tự ý ký mua một nhà máy sản xuất bao đay đã cũ của Ấn-độ với giá 10 triệu USD, mang về lắp đặt tại Thủ-đức (Sài-gòn) để làm... cảnh, vì càng sản xuất thì càng lỗ, giá thành cao gấp nhiều lần giá nhập ngoại. Thời kỳ đó Pháp cũng chào bán một nhà máy như vậy, tối tân, mới nguyên mà có 1 triệu USD thôi. Theo Đồng thì "kinh tế cũng là chính trị; tẩy chay hàng đế quốc mà ủng hộ hàng của... thế giới thứ ba dù có thua lỗ !" Đúng vậy, vì Đồng cũng như tập đoàn đầu lãnh mafia đỏ chẳng hề hấn gì. Chỉ có nhân dân Việt Nam là đã lỗ nặng, đang lỗ nặng và còn lỗ nặng dài dài, chừng nào chưa nhận rõ diện mạo của họ Hồ và tập đoàn đầu lãnh mafia đỏ để tống tiễn bọn chúng đi theo Hồ.
Nhiều người, là trí thức kia đấy, chỉ biết mỗi điều Phạm Văn Đồng là thủ tướng Việt Cộng, cũng như nhiều người là nạn nhân trực tiếp của mafia đỏ vậy mà bị lối tuyên truyền rỉ tai, đã ca ngợi rằng trong đám đầu lãnh mafia đỏ thì Đồng là người Qúy Trí Thức Nhất ! Khi xin cho dẫn chứng cụ thể thì... tất cả đều... tắc tị !
Đường lối của tập đoàn mafia đỏ là tận diệt bốn tầng lớp rường cột của xã hội Việt Nam để dọn đường cho đế quốc Nga-xô thống trị được dễ dàng và lâu dài. Đó là Trí, Phú, Địa, Hào, nghĩa là Trí đứng hàng đầu. Xã hội mà thiếu 4 tầng lớp đó thì còn gì là xã hội, khác nào tòa nhà bị gỡ bỏ bốn cột trụ, chỉ còn 4 bức vách, gió nhẹ cũng sập! Về Đảng thì Đồng là nhân vật đầu lãnh thứ ba, về chính phủ thì Đồng là đầu lãnh số 1, có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện đường lối tận diệt 4 tầng lớp nói trên. Trắng đen rõ ràng đến như vậy mà vẫn u mê rằng Đồng quý trí thức thì quả thực thánh cũng hiểu không nổi mấy Ông Thầy Bàn Tào Lao !!!
Có một chuyện là Phạm Văn Đồng lần nào cũng có mặt dự họp những lần đại hội bút nô, được gọi là "đại hội các nhà văn", để nghe và phát biểu. Nếu để ý thì thấy lần nào cũng giống nhau vì nội dung chủ yếu vẫn là khuyên bảo, khuyến khích lũ văn nô còn chút nhân phẩm nào thì cố mà gột bỏ để toàn tâm toàn ý tự nguyện làm tôi mọi cho tập đoàn mafia đỏ trên địa bàn văn học, nghệ thuật.
Và, một chuyện nữa là Đồng quan tâm đến "tiếng Việt" cũng như ra đời tổng tập Nguyễn Trãi. Là thủ tướng, chuyện chính là lo cho dân no ấm, hạnh phúc như ở các thế giới Tây Phương, thì Đồng làm lơ ma lơ mơ. Đúng là mafia đỏ thứ thiệt. Đồng đích thân chủ trì việc xuất bản tổng tập Nguyễn Trãi vì Đồng tự ví như Nguyễn Trãi và hồ Chí Minh là... Đức Lê Lợi ! Lũ bút nô, nhiễm ít nhiều HIV cộng sản dương tính, là mất nhân cách của người cầm bút, lăng xăng xu nịnh Đồng (mà cũng là Hồ) ra công viết tham luận về Nguyễn Trãi mà cũng ngầm nịnh Đồng.
Làm sao mà Hồ có thể là Đức Lê Lợi và Đồng là cụ Nguyễn Trãi được.
Đức Lê Lợi đánh quân Minh xâm lược, đem lại độc lập cho Việt Nam , nhân dân no ấm, xã hội ổn định trong một thời gian dài hàng thế kỷ. Còn Hồ Chí Minh thì dùng súng đạn Nga-Tàu để làm cái việc người Việt giết người Việt. Hồ ra lệnh tiêu diệt 4 tầng lớp rường cột của Việt Nam, mà chỉ riêng cái gọi là cải cách ruộng đất từ vĩ tuyến thứ 17 trở ra Bắc, nông dân bị giết 5% theo chỉ tiêu Hồ quy định.
Còn cụ Nguyễn Trãi, bằng trái tim và văn tài, dùng bút viết những bức thư cho quân Minh đầy hào khí dân tộc, cũng như bài "Bình Ngô Đại Cáo" thấm nhuần lòng tự hào dân tộc lẫn chủ nghĩa nhân văn của Việt Nam. Có đâu như Phạm Văn Đồng, viết thư dâng cho Trung-cộng hai quần đảo Trường-sa và Hoàng-sa để ủng hộ việc Trung-cộng cướp đất của Việt Nam, trong lúc chính quyền của tổng thống Ngô Đình Diệm tuyên bố chống hành động xâm lược của Trung-cộng.
Có thể Đồng tưởng câu chuyện tình của cụ Nguyễn Trãi (với Thị Lộ) và của Đồng giống nhau chăng ? Nếu có vậy thì chỉ là Đồng hoang tưởng. Vì chuyện tình của cụ Nguyễn Trãi là của "trai tài, gái sắc" và hoàn toàn không có chuyện cưỡng bức bằng quyền lực. Còn của Đồng thì sao ? Vào những ngày máy bay Mỹ đánh bom Hà-nội ồ ạt, mà hiệu quả của trận B52 xuống khu phố Khâm Thiên, trông rất rùng rợn, rất có lợi cho những người Mỹ chống chiến tranh ở Việt Nam v.v... chứ thực ra thì chỉ có dân, mà chủ yếu là nạn nhân của tập đoàn mafia đỏ chết, chứ lực lượng của mafia đỏ chẳng suy xuyển mảy may, thì có một chuyện cười ra nước mắt xảy ra.
Đó là tác giả "con nai vàng ngơ ngác" bị du kích Quảng Bá (Hồ-tây, Hà-nội) bắt được đang làm chuyện "con nai âu yếm quá mức" với một diễn viên nổi tiếng của đoàn tuồng khu 5, từng thủ vai chính trong vở "Nghêu, Sò, Ốc, Hến". Nghe chuyện liên quan đến khu 5, quê hương của mình, Đồng cho gọi nhà thơ "nai vàng ngơ ngác" lên hỏi chuyện. Chẳng biết đôi bên "mà cả" ra sao mà cuối cùng thì cô diễn viên đó thành "vợ nhỏ" của Đồng. Những người nhạy tin của Hà-nội thì thầm với nhau rằng : tưởng vở tuồng là do hư cấu, vậy mà đời thường lại có đúng "vai tri huyện là Phạm Văn Đồng" và "vai thầy đề" là nhà thơ nọ !
Tham quyền cố vị thì rồi cũng chết. Là đồ giả thì dù mạ vàng, thời gian cũng làm long sơn. Tổ tiên ta đã dạy :Thật Thà Là Cha Qủy Quái.
Chó chết thì hết chuyện. Nhưng Phạm Văn Đồng chết thì chuyện chưa hết. Người Việt Nam ở trong nước hay ngoài nước, nhất là giới trẻ, hãy nhìn con đường mà Phạm Văn Đồng đã đi : từ người thanh niên yêu nước tha hóa thành tội đồ bán nước. Đó là vì đã chọn lầm tổ chức, chọn lầm tà thuyết.
Giờ đây thật, giả lẫn lộn, mọi người, nhất là tuổi trẻ, cần tỉnh táo nhận xét, tìm hiểu kỹ càng, không nghe phỉnh phờ, nhìn vào việc làm và hiệu quả của nó đối với quyền lợi cơ bản của đất nước và dân tộc thì sẽ phân biệt được trắng, đen.
Việt Thường. 1-11-1999
Công hàm bán nước của Phạm văn Đồng 1958
dâng Hoàng Trường Sa cho Trung cộng
Thủ Tướng Phủ
Nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hoà
Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố , ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng./.
Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
(Ấn ký)
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính Phủ Nước Việt-nam Dân chủ Cộng Hòa
Kính gửi: Đồng chí CHU AN LAI
Tổng lý Quốc vụ viện
Nước Cộng hoà Nhân dân Trung-hoa tại BẮC KINH
—————————————————————————–
Trích từ nguồn:
DECLARATION OF THE GOVERNMENT OF THE PEOPLE’S REPUBLIC OF CHINA ON THE TERRITORIAL SEA
(Approved by the 100th Session of the Standing Committee of the National People’s Congress on 4th September, 1958)
The People’s Republic of China hereby announces:
(1) This width of the territorial sea of the People’s Republic of China is twelve national miles. This provision applies to all Territories of the People’s Republic of China, including the mainland China and offshore islands, Taiwan (separated from the mainland and offshore islands by high seas) and its surrounding islands, the Penghu Archipelago, the Dongsha Islands, the Xisha islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China.
(2) The straight lines linking each basic point at the mainland’s coasts and offshore outlying islands are regarded as base lines of the territorial sea of the mainland China and offshore islands. The waters extending twelve nautical miles away from the base lines are China ’s territorial sea. The waters inside the base lines, including Bohai Bay and Giongzhou Strait , are China ’s inland sea. The islands inside the base lines,
including Dongyin Island , Gaodeng Island , Mazu Inland, Baiquan Island , Niaoqin Island , Big and Small Jinmen Islands , Dadam Island , Erdan Island and Dongding Island , are China ’s inland sea islands.
(3) Without the permit of the government of the People’s Republic of China , all foreign aircrafts and military vessels shall not be allowed to enter China ’s territorial sea and the sky above the territorial sea.
Any foreign vessel sailing in China ’s territorial sea must comply with the relevant orders of the government of the People’s Republic of China .
(4) The above provisions (2) and (3) also apply to Taiwan and its surrounding islands, the Penghu Islands, the Dongsha Islands, the Xisha Islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China.
—————————————————————————–
Tuyên Bố của Chính Phủ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về Lãnh Hải
(Ðược thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân ngày 4 tháng 9 năm 1958 )
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc nay tuyên bố:
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa,quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.
(3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, tất cả máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc
(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Ðài Loan và Penghu hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Ðài Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Các nước ngoại quốc không nên xen vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc
(Bản dịch của Trung Tâm Dữ Kiện)
Chú thích:
Quần đảo Tây Sa (tên tiếng Tàu Xisha) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands
——————
—————————————————————————–
Nghiên cứu của Todd Kelly đề cập đến Công Hàm Bán Nước
On 15 June 1956, two weeks after the RVN reiterated the Vietnamese claims to the Truong Sa Islands, the DRV Second Foreign Minister told the PRC Charge d’Affaires that “according to Vietnamese data, the Xisha and Nansha Islands are historically part of Chinese territory.”[65] Two years later, the PRC made a declaration defining its territorial waters. This declaration delineated the extent of Chinese territory and included the Truong Sa. In response, the DRV Prime Minister, Pham Van Dong, sent a formal note to PRC Premier Zhou Enlai stating that “The Government of the Democratic Republic of Viet Nam respects this decision.” [66]
————————————————————————
Ngày 15 tháng 6 năm 1956, hai tuần lễ sau khi Việt Nam Cộng Hoà (RVN) tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa, Thứ trưởng Ngoại giao của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (DRV) đã nói với Ban Thường Vụ của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC) rằng “theo những dữ kiện của Việt Nam thì quần đảo Hoàng Sa (Xisha) và quần đảo Trường Sa (Nansha) là một bộ phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc” . Hai năm sau đó, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa đã ra bản tuyên bố xác định lãnh hải của họ. Bản tuyên bố này đã vạch ra rõ ràng cái khoảng khu vực của lãnh thổ Trung quốc có bao gồm cả Trường Sa .
Để đáp lễ, Thủ tướng Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (DRV), Phạm Văn Đồng đã gởi một bản công hàm đến Thủ tướng Trung quốc Chu Ân Lai, nhấn mạnh rằng “Chính Phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định này”.
Trích và lược dịch từ Vietnamese Claims to the Truong Sa Archipelago by Todd Kellyvà A Journal of the Southeast Asian Studies Student Association
DRV = Democratic Republic of Vietnam – Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt Nam )
PRC = People’s Republic of China – Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (Trung-quốc)
RVN = Republic of Vietnam – Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt Nam )
—————————————————————————–
——————————————————
Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo, nhóm đảo mà Việt Nam Cộng hòa bảo vệ và thực hiện được chủ quyền là nhóm Nguyệt Thiềm hay Trăng Khuyết (Crescent group) và nhóm Bắc đảo hay An Vĩnh/Tuyên Đức (Amphitrite group). Dưới thời Việt Nam Cộng hòa đã có đài khí tượng do Pháp xây, trực thuộc ty khí tượng Đà Nẵng và được bảo vệ bởi một tiểu đoàn thủy quân lục chiến.
Năm 1958, Trung Quốc cho công bố bản Tuyên ngôn Lãnh hải 4 điểm, trong đó có tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc bao gồm các đảo Đài Loan, Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam) và Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam), đảo Macclesfield (Trung Sa), quần đảo Bành Hồ (Pescadores)[1].
Vào giai đoạn này, Trung Quốc vẫn là đồng minh hậu thuẫn cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành cuộc Chiến tranh Việt Nam chống lại Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ.
Ngày 22 tháng 9 năm 1958, báo Nhân Dân đăng công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồnggửi Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc, ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ Trung Quốc quyết định về hải phận [2].
Năm 1961, chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành sắc lệnh khẳng định chủ quyền Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Namcủa Việt Nam Cộng hòa.
Trong thời gian 1964-1970, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng hòa chạm súng liên tục trên hải phận Hoàng Sa, nhưng không đưa đến thương vong [3]. Trong thời điểm đó, Việt Nam Cộng hòa cũng thiết lập một sân bay nhỏ tại đảo Hoàng Sa.
——————————————————
Bài viết của ký giả Frank Ching trên Tạp chí Kinh tế Viễn Ðông đề cập đến Công Hàm Bán Nước
Vấn đề Tranh chấp Chủ quyền trên Quần đảo Hoàng SaSaigon – Hanoi – Paracels Islands Dispute – 1974
Frank Ching (Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994)
1) Tái thẩm định miền Nam Việt Nam
Chỉ có một số ít các chính phủ sẵn sàng thú nhận rằng họ đã phạm phải sai lầm, ngay cả khi những chính sách của họ cho thấy điều đó một cách rất rõ ràng. Lấy thí dụ như Việt Nam chẳng hạnKhi nước CHXHCN Việt Nam đã từ bỏ chủ nghĩa xã hội trên tất cả mọi mặt, ngoại trừ cái tên, thì họ vẫn ngần ngại không muốn thú nhận điều này. Chính sách kinh tế thị trường mà họ đang theo đuổi, dù sao, đã nói lên điều ngược lại.
Trong những năm chiến tranh, những trận đánh chống lại quân đội Mỹ và quân đội miền Nam Việt Nam, đã được chiến đấu dưới danh nghĩa của chủ nghĩa xã hội và nhận được sự ủng hộ của toàn thể thế giới cộng sản, đặc biệt là từ Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa. Những trận đánh này đã đòi hỏi một sự hy sinh nặng nề về xương máu và tài nguyên của đất nước, là một cái giá mà người Việt Nam vẫn tiếp tục phải trả cho đến ngày hôm nay khi nhà nước CSVN đang cố gắng, một cách rất muộn màng, đặt việc phát triển kinh tế lên trên ý thức hệ chính trị. Cái ý thức hệ đó trong quá khứ đã buộc Hà Nội phải lựa chọn những chính sách mà khi nhìn lại thì không có vẻ gì là khôn ngoan cả. Và việc bóp méo ý thức hệ này đã gây cho họ nhiều thứ rắc rối khác hơn là chỉ đưa họ vào tình trạng khó xử với các đồng chí cộng sản đàn anh của họ ở Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh. Ðôi khi nó cũng làm mờ mắt họ về những lập trường đứng đắn được khẳng định bởi kẻ thù của họ là chính phủ Sài Gòn . Trong những ngày đó, chế độ Hà Nội rất hăng hái trong việc lên án chính quyền miền Nam , cho họ là những con rối của Mỹ, là những kẻ đã bán đứng quyền lợi của nhân dân Việt Nam . Ngay cả lúc đó, một điều rõ ràng là những lời cáo buộc này đã không có căn cứ. Bây giờ, 20 năm sau, cũng lại một điều rõ ràng là đã có những lúc mà chính quyền Sài Gòn đã thật sự đứng lên cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam, một cách vô cùng mạnh mẽ, hơn xa cả cái chính quyền tại Hà Nội.Một trường hợp để chứng minh cụ thể là vụ tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa trên biển Nam Trung Hoa. Quần đảo Hoàng Sa, giống như quần đảo Trường Sa ở xa hơn về phía Nam, được tuyên bố chủ quyền bởi cả hai Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng khi chế độ Hà Nội vẫn đang nhận viện trợ từ Bắc Kinh, thì họ im hơi lặng tiếng trong việc tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Quần đảo này đã bị chiếm đoạt bởi Trung Quốc sau một vụ đụng độ quân sự vào tháng Giêng năm 1974, lúc quân Trung Quốc đánh bại những người tự bảo vệ từ miền Nam Việt Nam. Từ đó, quần đảo này đã nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc.
Sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, có một sự bất đồng nhanh chóng giữa Bắc Kinh và Hà Nội, và chính quyền Hà Nội – vừa mới thống nhất với miền Nam – lại tái tuyên bố chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa. Mặc dù đã có những cuộc đàm phán cao cấp giữa hai nước, nhưng vụ tranh chấp này vẫn chưa được giải quyết. Các chuyên gia của hai nước có hy vọng là sẽ gặp gỡ sớm sủa hơn để bàn thảo về những vấn đề chuyên môn, nhưng không chắc chắn là sẽ có một quyết định toàn bộ . Thật ra, một viên chức cao cấp của Việt Nam đã thú nhận rằng vấn đề sẽ được giải quyết bởi các thế hệ tương lai. Dù không muốn phán đoán về những giá trị của lời tuyên bố chủ quyền của bất cứ bên nào, một điều rõ ràng là cương vị của phía Việt Nam đã bị yếu thế hơn vì sự im hơi lặng tiếng của Hà Nội khi quân đội Trung Quốc chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa. Sự thiếu sót của Hà Nội để phản đối trước hành động quân sự của nước ngoài bây giờ được dùng để quật ngược lại Việt Nam mỗi khi đề tài trên được nêu ra.
Giới thẩm quyền Việt Nam ngày hôm nay giải thích sự im lặng của họ vào thời điểm đó bằng cách nói rằng họ đã phải dựa vào viện trợ của Trung Quốc trong cuộc chiến chống Mỹ, vốn là kẻ thù chính yếu của họ lúc đó. Vậy thì một điều chắc chắn là, khi chiến tranh càng được chấm dứt sớm hơn thì quan hệ hữu nghị giữa Hà Nội và Bắc Kinh cũng như vậy .
Cộng thêm vào đó là những điều bị bóp méo mới toanh mà Hà Nội phải dùng đến để tăng thêm giá trị cho lời tuyên bố về chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa. Bởi vì sự im lặng đồng ý ngầm trong quá khứ mà Hà Nội bó buộc phải tránh không dám dùng những lời tuyên bố chính thức của họ từ thập niên 1950 đến thập niên 1970, mà phải dùng những bản tuyên bố của chế độ Sài Gòn – tức là công nhận tính hợp pháp của của chính phủ miền Nam. Một cách rất sớm sủa, như vào năm 1956, chính phủ Sài Gòn đã công bố một thông cáo chính thức xác nhận chủ quyền của mình trên Hoàng Sa và Trường Sa.
Chế độ Sài Gòn cũng công bố một nghị định để bổ nhiệm nhân sự hành chánh cho quần đảo Hoàng Sa. Cho đến khi họ bị thất bại bởi lực lượng quân sự Trung Quốc vào năm 1974 (chỉ vài tháng trước khi miền Nam Việt Nam bị sụp đổ trước sự tấn công của cộng sản từ miền Bắc), thì chính phủ Sài Gòn vẫn tiếp tục tuyên bố chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa.
Trong vài năm vừa qua, nước Nam Dương (Indonesia ) đã bảo trợ cho các buổi hội thảo với tính cách phi chính phủ về vùng biển Nam Trung Hoa. Tại các buổi hội thảo lúc có lúc không này, phía Việt Nam một lần nữa lại thấy bối rối khi được yêu cầu giải thích về sự im lặng của họ hồi đó, khi Trung Quốc nắm giữ cái mà Việt Nam bây giờ tuyên bố là một phần của lãnh thổ họ. “Trong thời gian này”, họ nói, “có những tình trạng rắc rối về chính trị và xã hội tại Việt Nam, cũng như trên thế giới, mà phía Trung Quốc đã lợi dụng, theo từng bước một, để dùng biện pháp quân sự chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa. Và Trung Quốc đã thu gọn toàn bộ Hoàng Sa vào năm 1974.”
Với lợi thế của hai thập niên về lịch sử, bây giờ có thể thẩm định được những hành động của chính quyền miền Nam với một nhãn quan công minh hơn. Trong cái phúc lợi của việc hàn gắn vết thương chiến tranh, nếu không phải vì những chuyện khác, có lẽ điều khôn ngoan cho Hà Nội là nên xem xét lại quá khứ và trả lại cho Cesar những gì thuộc về Cesar. Và sự chống đỡ mãnh liệt của chính quyền Sài Gòn để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, đúng vào cái lúc mà chế độ Hà Nội đang bận rộn ve vuốt để nhận đặc ân từ Trung Quốc, là một hành động xuất sắc nên được công nhận.Hồ Chí Minh đã có một lần được hỏi rằng ông ta ủng hộ Liên Sô hay ủng hộ Trung Quốc Ông ta đã trả lời rằng ông ta ủng hộ Việt Nam. Bây giờ là lúc để chế độ Hà Nội nhìn nhận rằng đã có lúc khi mà chính quyền Sài Gòn đã ủng hộ cho Việt Nam nhiều hơn là chính quyền của miền Bắc.
2) Ðằng sau những tuyên bố về chủ quyền trên hai quần đảo
Những gì đã xảy ra sau khi Hồ Chí Minh được quân đội của Mao Trạch Ðông và các đồng chí giúp nắm giữ quyền lực tại miền Bắc Việt Nam .
Việt Nam tuyên bố chủ quyền trên “quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” dựa trên các tài liệu xưa cũ và đặc biệt là tập bút ký “Phủ Biên Tập Lục” của Lê Quý Ðôn. Việt Nam gọi hai quần đảo này là Hoàng Sa (Paracels) và Trường Sa (Spratlys); Trung Quốc gọi là Tây Sa (Xisha) và Nam Sa (Nansha). Người Việt Nam đã đụng độ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa vào ngày 19/1/1974 với kết qủa là một tàu lớn của Hải quân miền Nam cũ bị đắm và 40 thuỷ thủ bị bắt. Vào tháng 3/1988 nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa lại đến và đánh chìm 3 tàu của Việt Nam, 72 thuỷ thủ bị thiệt mạng và 9 bị bắt. Vào ngày 25/2/1992, nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của họ.
Lý do chính để Trung Quốc làm như thế đã được biết đến trước đây như một phần của kế hoạch gọi là “Không gian sinh tồn”, bởi vì tài nguyên thiên nhiên của hai vùng Mãn Châu và Tân Cương sẽ bị cạn kiệt sớm. Ðể làm điều này, Trung Quốc bắt đầu bằng phần dễ nhất – là cái mà cộng sản Việt Nam đã hứa trước đây. Có nghĩa là Trung Quốc căn cứ vào một sự thương lượng bí mật trong qúa khứ. Trong một bản tin của hãng thông tấn Reuters ngày 30/12/1993, thì cộng sản Việt Nam đã bác bỏ sự thương lượng bí mật này nhưng không đưa ra bất cứ lời giải thích nào. Lê Ðức Anh đi thăm Trung Quốc và làm chậm trễ vụ tranh chấp này đến 50 năm. Có phải là Trung Quốc có thái độ vì sự vô ơn và những hứa hẹn trong quá khứ của Lê Ðức Anh?3) Cộng Sản Việt Nam bán Quần Đảo Hoàng sa và Trường sa, nhưng bây giờ muốn nói không.Theo tài liệu “Chủ quyền tuyệt đối của Trung Quốc trên quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa” của Bộ Ngoại giao Trung Quốc (Beijing Review, 18/2/1980), thì Hà Nội đã “dàn xếp” vấn đề này trong quá khứ. Đại khái họ đã bảo rằng:
- Hồi tháng 6 năm 1956, hai năm sau ngày chính phủ của ông Hồ Chí Minh đã được tái lập tại Hà Nội, Thứ trưởng Ngoại giao Bắc Việt Ung Văn Khiêm nói với Li Zhimin, Xử lý Thường vụ Toà Đại Sứ Trung quốc tại Bắc Việt, rằng “theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc”.
- Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố bề rộng của lãnh hải Trung Quốc là mười hai hải lý, được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, “bao gồm … Quần Đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa …”. Mười ngày sau đó, Phạm Văn Đồng đã ghi rõ trong bản công hàm gởi cho Chu An Lai, rằng “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa về vấn đề lãnh hải”.
Ðây là của văn bản của nhà nước Việt Nam do Phạm Văn Ðồng ký gởi cho Chu Ân Lai vào ngày 14/9/1958 để ủng hộ cho lời tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc như theo sau:
Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố , ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính Phủ
Nước Việt-nam Dân chủ Cộng Hòa
Thêm một điều cần ghi nhận là Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC) đã chỉ đe dọa những lãnh thổ mà Việt Nam đã tuyên bố là của mình, và để yên cho các nước khác. Rõ ràng là ông Hồ Chí Minh qua Phạm Văn Đồng, đã tặng cho Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa “một cái bánh bao lớn” bởi vì lúc đó ông Hồ Chí Minh đang chuẩn bị cho công cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam. Ông Hồ cần sự viện trợ khổng lồ và đã nhắm mắt để nhận tất cả những điều kiện của Bắc Kinh. Đối với ông ta, việc bán “trên giấy tờ” hai quần đảo lúc đó vẫn thuộc về miền Nam Việt Nam là một điều dễ dàng.Vì sự việc này mà Cộng sản Việt Nam đã chờ một buổi họp của các quốc gia khối ASEAN tại Manila, để dùng cơ hội này như một cái phao an toàn và ký ngay một văn kiện đòi hỏi những quốc gia này giúp Việt Nam giải quyết vấn đề “một cách công bình”
Về phía Trung Quốc, sau khi đã lấy được những đảo của Cộng sản Việt Nam, họ đã tỏ thái độ ôn hòa đối với Mã Lai Á và Phi Luật Tân, và bảo rằng Trung Quốc sẵn sàng thương lượng các khu vực tài nguyên với các quốc gia này, và gạt Việt Nam qua một bên. Trung Quốc đã nói họ sẽ không tán thành bất cứ quốc gia nào can thiệp vào vấn đề giữa họ và Cộng sản Việt Nam.Sau đó, Phạm Văn Đồng đã chối bỏ việc làm sai lầm của ông ta trong quá khứ, trong một ấn bản của Tạp chí Kinh tế Viễn Đông ngày 16/3/1979. Đại khái, ông ấy nói lý do mà ông ấy đã làm bởi vì lúc đó là “thời kỳ chiến tranh”. Đây là một đoạn văn trích từ bài báo này ở trang số 11:
“Theo ông Li (Phó Thủ tướng Trung quốc Li Xiannian), Trung quốc đã sẵn sàng chia chác vùng vịnh “mỗi bên một nửa” với Việt Nam, nhưng trên bàn thương lượng, Hà Nội đã vẽ đường kiểm soát của Việt Nam đến gần Đảo Hải Nam. Ông Li cũng đã nói rằng vào năm 1956 (hay 1958 ?), Thủ tướng Việt Nam Phạm văn Đồng đã ủng hộ một bản tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền của họ trên Quần Đảo Trường Sa Và Hoàng Sa, nhưng từ cuối năm 1975, Việt Nam đã kiểm soát một phần của nhóm đảo Trường Sa – nhóm đảo Hoàng Sa thì đã nằm dưới sự kiểm soát bởi Trung Quốc. Năm 1977, theo lời tường thuật thì ông Đồng đã biện hộ cho lập trường của ông ấy hồi năm 1956: “Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy”.
”Vì hăng hái muốn tạo ra một cuộc chiến thê thảm cho cả hai miền Nam Bắc, và góp phần vào phong trào quốc tế cộng sản, ông Hồ Chí Minh đã hứa, mà không có sự tự trọng, một phần đất “tương lai” để cho Trung Quốc nắm lấy, mà không biết chắc chắn là có thể nào sẽ nuốt được miền Nam Việt Nam hay không.
Như ông Đồng đã nói, “Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy”. Vậy thì ai đã tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam , ngay cả việc bán đất ? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đã chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh.
4) Trong cuốn “Vấn đề tranh chấp lãnh thổ Hoa -Việt” của Pao-min-Chang thuộc tủ sách The Washington Papers, do Douglas Pike viết lời nói đầu, được Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Quốc tế thuộc Ðại học Georgetown , Washington D.C. xuất bản
Ngoài cái khoảng cách về địa lý, cả hai nhóm quần đảo này nằm ngoài phía bờ biển của miền Nam Việt Nam và vẫn dưới sự quản lý hành chánh của chế độ Sài Gòn vốn không thân thiện gì. Hà Nội đơn giản là không ở trong cái tư thế để đặt vấn đề với cả Trung Quốc lẫn sức mạnh của hải quân Mỹ cùng một lúc. Do đó, vào ngày 15/6/1956, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng đã nóì với phía Trung Quốc: “Từ quan điểm của lịch sử, thì những quần đảo này thuộc về lãnh thổ Trung Quốc” (Beijing Review 30/3/1979, trang 20 – Cũng trong báo Far East Economic Review 16/3/1979, trang 11).
Hồi tháng 9 năm 1958, khi Trung Quốc, trong bản tuyên bố của họ về việc gia tăng bề rộng của lãnh hải của họ đến 12 hải lý, đã xác định rằng quyết định đó áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một lần nữa Hà Nội đã lên tiếng nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc trên 2 quần đảo đó. Ông Phạm Văn Đồng đã ghi nhận trong bản công hàm gởi cho lãnh tụ Trung Quốc Chu An Lai ngày 14/9/1958: “Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc” (xem Beijing Review 19/6/1958, trang 21 — Beijing Review 25/8/1979, trang 25 — Sự tồn tại của bản công hàm đó và tất cả nội dung đã được xác nhận tại Việt Nam trong BBC/FE, số 6189, ngày 9/8/1979, trang số 1.)
5) Tại sao ?
Theo ông Carlyle A Thayer, tác giả bài “Sự tái điều chỉnh chiến lược của Việt Nam” trong bộ tài liệu “Trung Quốc như một Sức mạnh Vĩ đại trong vùng Á châu Thái Bình Dương” của Stuart Harris và Gary Klintworth [Melbourne: Longman Cheshire Pty Ltd., forthcoming 1994] :
Phía Việt Nam , trong khi theo đuổi quyền lợi quốc gia, đã thực hiện nhiều hành động mà theo quan điểm của Trung Quốc thì có vẻ khiêu khích cao độ. Thí dụ như, trong công cuộc đấu tranh trường kỳ dành độc lập, Việt Nam đã không biểu lộ sự chống đối công khai nào khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền của họ trên biển Nam Trung Hoa và đúng ra lại tán thành họ. Nhưng sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đã đổi ngược lập trường. Năm 1975, Việt Nam đã chiếm đóng một số hải đảo trong quần đảo Trường Sa và sau đó đã tiến hành việc tuyên bố chủ quyền lãnh thổ trên toàn bộ biển Nam Trung Hoa.
Như Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã thú nhận:
“Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, tình hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc.
”Đặc biệt thêm nữa là cái tuyên bố đó để nhắm vào việc đạt yêu cầu cho những nhu cầu cấp thiết vào lúc bấy giờ để ngăn ngừa bọn tư bản Mỹ dùng những hải đảo này để tấn công chúng tôi. Nó không có dính dáng gì đến nền tảng lịch sử và pháp lý trong chủ quyền của Việt Nam về hai quần đảo Hoàng Sa Và Trường Sa” (Tuyên bố trong một buổi họp báo tại Hà Nội ngày 2/12/1992, được loan tải bởi Thông Tấn Xã Việt Nam ngày 3/12/1992)
Những ghi nhận này cho thấy rằng tất cả những điều mà Trung Quốc đã tố cáo phía trên là sự thật. Những gì xảy ra ngày hôm nay mà có liên hệ đến hai quần đảo này chỉ là những hậu quả của sự dàn xếp mờ ám của hai người cộng sản anh em trong qúa khứ. Không một ai trong cộng đồng thế giới muốn bước vào để dàn xếp sự bất đồng giữa Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc. Lý do rất rõ ràng: cái công hàm ngoại giao và sự nhìn nhận của Cộng sản Việt Nam không thể nào xoá bỏ được bởi một nước nhỏ như Việt Nam , kẻ đã muốn chơi đểu để lừa dối Trung Quốc. Hơn nữa, Cộng sản Việt Nam không thể nào tránh được Trung Quốc trong khi họ phải bắt chước theo chính sách “đổi mới” của Trung Quốc để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Lược dịch từ: Paracels Islands Dispute by Frank Ching (Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994)
——————————————————
Palawan Sun: Bắc Việt Nam ủng hộ Tuyên bố 1958 của Trung Quốc
When in 1957 China protested Vietnam ’s move in Robert Island , Saigon was already in control also of two other islands of the Crescent Group: Pattle and Money Islands . The three South Vietnamese held islands are on the western side of the Crescent Group. Then in August 1958 Saigon took over Duncan Island in the eastern sector of the Crescent, thus facing the Amphitrite Group. Two weeks later the PRC government declared its sovereignty over the whole of the Paracels. They were supported by North Vietnam .
—————————————————————————
Vào năm 1957 khi Trung quốc phản đối sự chiếm đóng của Việt Nam tại đảo Robert, thì chính quyền Sài Gòn đã hoàn toàn kiểm soát hai đảo khác trong nhóm Crescent: đảo Pattle và đảo Money. Ba (3) đảo mà (chính quyền) Nam Việt Nam chiếm giữ nằm bên phía tây của nhóm Crescent. Rồi đến tháng 8 năm 1958, (chính quyền) Saigon lại chiếm giữ thêm đảo Duncan nằm bên khu vực phía đông của nhóm đảo Crescent, đối diện với nhóm Amphitrite. Hai tuần sau đó, chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố chủ quyền của họ trên toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa. Họ đã được ủng hộ bởi (chính phủ) Bắc Việt Nam .
—————————————————–
Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà (1974)
Nhiệm vụ cao cả và cần thiết của một chính phủ là bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cương quyết thi hành nhiệm vụ này, bất kể những khó khăn có thể sẽ gặp phải và bất kể những cáo buộc vô căn cứ có thể sẽ đến bất cứ từ đâu.
Trước sự chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Cộng bằng quân sự trên Quần đảo Hoàng Sa, nguyên là một phần đất thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà, Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà xét thấy cần thiết phải long trọng tuyên bố trước công luận thế giới, bạn cũng như thù, rằng:
Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần không thể cắt rời của lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ không khuất phục trước bạo lực và bác bỏ tất cả hoặc một phần chủ quyền của họ trên những quần đảo này.
Chừng nào mà bất cứ một hòn đảo nào của phần lãnh thổ đó của Việt Nam Cộng Hòa vẫn bị một nước khác chiếm đóng bằng bạo lực, thì Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ tiếp tục tranh đấu để lấy lại quyền lợi hợp pháp của mình.
Kẻ chiếm đóng bất hợp pháp sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về bất cứ tình trạng căng thẳng nào bắt nguồn từ đó.
Nhân cơ hội này, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng long trọng tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên các hải đảo ngoài khơi miền Trung và Nam phần Việt Nam, đã luôn luôn được chấp nhận như một phần lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa trên căn bản không thể chối cãi được về địa lý, lịch sử, chứng cứ hợp pháp và bởi vì những điều thực tế.
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia trên những quần đảo này bằng tất cả mọi phương tiện. Ðể gìn giữ truyền thống tôn trọng hoà bình, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẵn sàng giải quyết, bằng sự thương lượng, về các tranh chấp quốc tế có thể bắt nguồn từ các quần đảo đó, nhưng điều đó không có nghĩa là Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẽ từ bỏ chủ quyền của mình trên bất cứ phần lãnh thổ nào của quốc gia.
Tuyên bố bởi Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 14 tháng 2 năm 1974
Trích và lược dịch từ nguồn:
Tuyên bố của Bộ Ngoại giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam về Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa (1979)
Vào ngày 30/7/1979, Trung Quốc đã công khai công bố tại Bắc Kinh một số tài liệu với ý định để minh chứng cho việc tuyên bố chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Về vấn đề này, Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam tuyên bố:
1. Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần của lãnh thổ Việt Nam . Các Sứ quân Việt Nam đã là những người đầu tiên trong lịch sử đến chiếm đóng, tổ chức, kiểm soát và khai phá các quần đảo này trong chức năng của họ như là các lãnh chúa. Quyền sở hữu này có hiệu quả và phù hợp với luật pháp quốc tế. Chúng tôi có đầy đủ các tài liệu lịch sử và luật pháp để chứng minh chủ quyền tuyệt đối trên hai quần đảo này.
2. Sự diễn giải của Trung quốc về văn bản ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà như một sự công nhận chủ quyền của phiá Trung quốc trên các quần đảo là một sự xuyên tạc trắng trợn khi tinh thần và ý nghĩa của bản văn chỉ có ý định công nhận giới hạn 12 hải lý của lãnh hải Trung quốc.
3. Năm 1965, Hoa Kỳ gia tăng cuộc chiến tranh xâm lược tại miền Nam Việt Nam và phát động một cuộc chiến huỷ diệt bằng không quân và hải quân chống lại miền Bắc Việt Nam . Họ đã tuyên bố rằng khu vực chiến trường của quân đội Hoa Kỳ bao gồm Việt Nam và vùng lân cận của khu vực khoảng 100 hải lý tính từ bờ biển Việt Nam . Vào lúc đó, trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, nhân dân Việt Nam đã phải chiến đấu trong mọi tình huống để bảo vệ chủ quyền đất nước. Thêm nữa, Việt Nam và Trung Quốc lúc đó vẫn duy trì quan hệ hữu nghị. Bản tuyên bố ngày 9/5/1965 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đưa ra lý do để tồn tại chỉ với quá trình lịch sử này.
4. Từ năm 1972, theo sau Bản Thông cáo chung Thượng Hải, những kẻ cai trị Trung Quốc đã âm mưu với bọn hiếu chiến Mỹ để phản bội nhân dân Việt Nam, gây ra biết bao nhiêu trở ngại cho cuộc chiến tranh tự vệ của Việt Nam. Ðầu Tháng Giêng 1974, chỉ trước khi nhân dân Việt Nam toàn thắng vào mùa Xuân 1975, Trung Quốc đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp quân sự, lúc đó vẫn dưới sự quản lý của chính quyền Sài Gòn.
Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã tuyên bố rõ ràng cương vị của họ như sau đây:
- Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là những câu hỏi thiêng liêng cho tất cả mọi quốc gia.
- Những khó khăn về biên giới lãnh thổ, thường tồn tại trong các cuộc tranh chấp giữa các nước láng giềng do lịch sử để lại, có thể vô cùng rắc rối và nên được nghiên cứu kỹ càng.
- Các quốc gia quan tâm nên cứu xét vấn đề này trong tinh thần công bằng, tôn trọng lẫn nhau, hòa nhã, láng giềng tốt và giải quyết vấn đề bằng sự thương lượng.
5. Tại các cuộc thảo luận tổ chức vào ngày 24/9/1975 với phái đoàn Ðảng và Nhà nước Việt Nam trong chuyến thăm viếng Trung Quốc, Phó Thủ tướng Ðặng Tiểu Bình đã thú nhận rằng có sự tranh chấp giữa hai bên về vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và hai bên sau đó nên bàn thảo với nhau để giải quyết vấn đề
6. Chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa một cách bất hợp pháp bằng quân sự, Trung Quốc đã xâm phạm vào sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và dẫm chân lên làm cản trở tinh thần của Hiến chương Liên Hiệp Quốc kêu gọi giải quyết tất cả các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình. Sau khi phát động một cuộc chiến xâm lược Việt Nam với tầm vóc to lớn, phía Trung Quốc lại nêu ra vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi tạo ra một tình trạng càng ngày càng căng thẳng dọc theo biên giới Việt Nam và từ chối việc thảo luận những giải pháp cấp thiết để bảo đảm hoà bình và ổn định trong khu vực biên giới giữa hai nước. Ðiều rõ ràng là những kẻ cai trị Trung Quốc vẫn không từ bỏ ý định tấn công Việt Nam một lần nữa. Hành động của họ là một sự đe doạ nghiêm trọng cho hoà bình và ổn định trong vùng Ðông Nam Á và làm lộ rõ hơn tham vọng bành trướng, với bản chất bá quyền hiếu chiến của một nước lớn, bộ mặt xảo trá lật lọng và phản bội của họ.
Hà Nội, ngày 7 tháng 8 năm 1979
Trích và lược dịch từ nguồn:
——————————————————
International Recognition Of China’s Sovereignty over the Nansha Islands
5. Viet Nam
a) Vice Foreign Minister Dong Van Khiem of the Democratic Republic of Viet Nam received Mr. Li Zhimin, charge d’affaires ad interim of the Chinese Embassy in Viet Nam and told him that “according to Vietnamese data, the Xisha and Nansha Islands are historically part of Chinese territory.” Mr. Le Doc, Acting Director of the Asian Department of the Vietnamese Foreign Ministry, who was present then, added that “judging from history, these islands were already part of China at the time of the Song Dynasty.”
b) Nhan Dan of Viet Nam reported in great detail on September 6, 1958 the Chinese Government’s Declaration of September 4, 1958 that the breadth of the territorial sea of the People’s Republic of China should be 12 nautical miles and that this provision should apply to all territories of the People’s Republic of China, including all islands on the South China Sea. On September 14 the same year, Premier Pham Van Dong of the Vietnamese Government solemnly stated in his note to Premier Zhou Enlai that Viet Nam “recognizes and supports the Declaration of the Government of the People’s Republic of China on China ’s territorial sea.”
c) It is stated in the lesson The People’s Republic of China of a standard Vietnamese school textbook on geography published in 1974 that the islands from the Nansha and Xisha Islands to Hainan Island and Taiwan constitute a great wall for the defense of the mainland of China
——————————————————————————–
Sự công nhận của thế giới về chủ quyền của Trung Quốc trên Quần đảo Trường Sa
5. Việt Nam
a) Thứ trưởng ngoại giao Ðồng văn Khiêm của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khi tiếp ông Li Zhimin, xử lý thường vụ Toà Ðại Sứ Trung quốc tại Việt Nam đã nói rằng “theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc”. Ông Le Doc, quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc Bộ Ngoại giao Việt nam, cũng có mặt lúc đó, đã nói thêm rằng “xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã hoàn toàn thuộc về Trung quốc từ thời nhà Tống”
b) Báo Nhân Dân của Việt Nam đã tường thuật rất chi tiết trong số xuất bản ngày 6/9/1958 về Bản Tuyên Bố ngày 4/9/1958 của Nhà nước Trung quốc, rằng kích thước lãnh hải của nước Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý và điều này được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của phía Trung quốc, bao gồm tất cả các quần đảo trên biển Nam Trung Hoa. Ngày 14/9 cùng năm đó, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng của phía nhà nước Việt Nam, trong bản công hàm gởi cho Thủ tướng Chu An Lai, đã thành khẩn tuyên bố rằng Việt Nam “nhìn nhận và ủng hộ Bản Tuyên Bố của Nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa trong vấn đề lãnh hải”
c) Bài học về nước CHND Trung Hoa trong giáo trình cơ bản của môn địa lý của Việt Nam xuất bản năm 1974, đã ghi nhận rằng các quần đảo từ Trường Sa và Hoàng Sa đến đảo Hải Nam và Ðài Loan hình thành một bức tường phòng thủ vĩ đại cho lục địa Trung Hoa .
——————————————————
Nguồn:
Phạm Văn Đồng và Bộ chính trị csbv cầm đầu bởi Hồ Chí Minh đã dâng Hoàng Trường Sa cho Trung cộng !!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét