Người theo dõi

Chủ Nhật, 4 tháng 2, 2018

Huyền Quang thiền sư

Huyền Quang thiền sư
Huyền Quang thiền sư 玄光禪師 (hay Huyền Quang tôn giả, 1254-1334) tên thật là Lý Ðạo Tái 李道載 (có sách chép Trần Ðạo Tái, Lý Tái Ðạo). Ông người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang, sinh năm Giáp Dần (1254), mất ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334).
Theo "Tổ gia thực lục" trong "Tam tổ thực lục" thì từ nhỏ ông đã có khiếu văn chương, năm hai mươi tuổi đỗ khoa thi hương và năm sau lại đỗ đầu khoa thi hội. Được bổ dụng vào Viện nội hàn, từng tiếp sứ Bắc, rất nổi tiếng về thơ văn. Nhưng không bao lâu ông một mực xin từ chức đi tu. Được người đứng đầu dòng Thiền Trúc lâm lúc bấy giờ là Trần Nhân Tông rất quý mến, giao cho Pháp Loa hướng dẫn. Về sau ông trở thành vị tổ thứ ba của dòng thiền này.
Huyền Quang là một nhà sư đồng thời là một thi sĩ có tiếng đời Trần. Thơ ông rất đậm chất trữ tình. Các nhà phê bình đời trước như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú đều khen thơ ông "ý tinh tế, cao siêu", "lời bay bướm, phóng khoáng". Có lẽ con người thi nhân trong ông rõ nét hơn con người tôn giáo. Xung quanh thân thế ông có nhiều giai thoại khá hấp dẫn, đã trở thành những câu chuyện dân gian được lưu truyền rộng rãi, và cũng đã từng được nhà văn đương thời ghi lại dưới hình thức một truyện truyền kỳ, lý thú, đi vào kho sách vở nhà Phật từ nhiều thế kỷ nay.
Tác phẩm hiện còn 24 bài thơ, trong số đó có bài "Xuân nhật tức sự" gần đây được xác minh là thơ thiền đời Tống, một bài phú Nôm, sách vở cũ cho biết ông còn có các tác phẩm "Chư phẩm kính", "Công văn tập", thư từ tiếp sứ và tập thơ "Ngọc tiên tập" nhưng nay đều đã thất lạc.
Một số sách còn chép ông chính là tác giả câu thơ nôm cảm khái về nhân tình thái thế khá chua chát sau đây:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn,
Đến khi đỗ trạng, tám nghìn nhân duyên.



哀俘虜
刳血書成欲寄音,

孤飛寒雁塞雲深。
幾家愁對今霄月,
兩處茫然一種心。


Ai phù lỗ
Khoá huyết thư thành dục ký âm,

Cô phi hàn nhạn tái vân thâm.
Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt,
Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.


Thương tù binh
Trích máu thành lời thơ viết vội
Lẻ loi cánh nhạn tím mây sầu
Hỏi bao nhà ngắm vầng trăng buốt
Hai chốn đau cùng một nỗi đau
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu


題潢水寺
潢水亭邊野草多,

空山雨霽夕陽斜。
因過輦路投禪室,
擁梵敲鐘揀落花。


Đề Đạm Thuỷ tự
Đạm Thuỷ đình biên dã thảo đa,

Không sơn vũ tễ tịch dương tà.
Nhân qua liễn lộ đầu thiền thất,
Ủng phạm xao chung giản lạc hoa.


Đề chùa Đạm Thủy
Cỏ dại xanh hông chùa Đạm Thủy
Núi không, mưa lạnh ráng chiều buông
Tiện chân theo lối vua thăm Bụt
Hoa rụng quanh chùa, một tiếng chuông
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu


題洞軒檀越假山
花木寅緣種作山,

籠煙罩月落花寒。
從茲念慮都無俗,
贏得清風一枕安。


Đề Động Hiên đàn việt giả sơn
Hoa mộc di duyên chủng tác sơn,

Lung yên trạo nguyệt, lạc hoa hàn.
Tùng tư niệm lự đô vô tục,
Doanh đắc thanh phong nhất chẩm an


Đề Hòn Non Bộ
Trồng cây xép đá làm non giả
Vui thú cùng hoa khói đẫm trăng
Đầu óc sạch bon không dính bụi
Ngon lành gíấc giữa gió lăng quăng
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu


地爐即事
煨餘榾柮色焚香,

口答山童問短章。
手把吹商和木鐸,
徒教人笑老僧忙。


Ðịa lô tức sự
Ổi dư cốt đột tuyệt phần hương,

Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương.
Thủ bả xuy thương hoà mộc đạc,
Ðồ giao nhân tiếu lão tăng mang.


Cảm xúc trước lò sưởi
Khói vẫn loang hương tàn bếp củi
Giải chương kinh ngắn trẻ nhà quê
Một tay gõ mõ, tay nâng sáo
Cười cợt mặc người, mặc kệ ta
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu


菊花其一
松聲蔣詡先生徑,

梅景西湖處士家。
義氣不同難苟合,
故圓隨處吐黃花。


Cúc hoa kỳ 1
Tùng thanh Tưởng Hủ tiên sinh kính,

Mai cảnh Tây Hồ xử sĩ gia.
Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp,
Cố viên tuỳ xứ thổ hoàng hoa.


Hoa cúc kỳ 1
Reo suốt tiếng thông nhà Tưởng Hủ
Vàng mai rực rỡ lối Tây Hồ
Thanh khí không cùng nên chẳng hợp
Vườn xưa khắp khắp cúc vàng phô
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu


菊花其二
大江無夢浣枯腸,

百詠梅花讓好粧。
老去愁秋吟未穩,
詩瓢實為菊花忙。


Cúc hoa kỳ 2
Đại giang vô mộng hoán khô tràng,

Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang.
Lão khứ sầu thu ngâm vị ổn,
Thi biều thực vị cúc hoa mang.


Hoa cúc kỳ 2
Héo ruột ngàn sông không đủ thấm
Trăm thơ chưa đẹp một mai hoa
Bạc đầu ngâm mãi chưa nên vận
Cúc nở vàng cho rộn rã ta
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu


菊花其三
忘身忘世已都忘,

坐久蕭然一榻涼。
歲晚山中無歷日,
菊花開處即重陽。


Cúc hoa kỳ 3
Vong thân, vong thế, dĩ đô vong,

Toạ cửu tiêu nhiên nhất tháp lương.
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật,
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.


Hoa cúc kỳ 3
Đã không còn vướng vào thân thế
Ọp ẹp giường tre lặng lẽ ngồi
Đếm tháng đếm ngày chi giữa núi
Trùng dương đến lúc cúc vàng tươi
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu


菊花其四
年年和露向秋開,

月淡風光愜寸懷。
堪笑不明花妙處,
滿頭隨到插歸來。


Cúc hoa kỳ 4
Niên niên hoà lộ hướng thu khai,

Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài.
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ,
Mãn đầu tuỳ đáo sáp quy lai.


Hoa cúc kỳ 4
Mỗi năm mỗi nở mỗi thu sang
Gió mát trăng thanh mỗi rộn ràng
Cười nụ thương ai không biết ngắm
Đường về trên tóc giắt hoa vàng
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu


菊花其五
花在中庭人在樓,

焚香獨坐似忘憂。
主人與物渾無競,
花向群方出一頭。


Cúc hoa kỳ 5
Hoa tại trung đình nhân tại lâu,

Phần hương độc toạ tự vong ưu.
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh,
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.


Hoa cúc kỳ 5
Người ở lầu cao họa rợp sân
Thắp hương riêng ngắm ý trong ngần
Lòng người chung với lòng hoa vậy
Một đóa hồn nhiên chợt nở bừng
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu


菊花其六
春來黃白各芳菲,

愛艷憐香亦似時。
遍界繁華全墜地,
後彫顏色屬東籬。


Cúc hoa kỳ 6
Xuân lai hoàng bạch các phương phi,

Ái diễm liên hương diệc tự thì.
Biến giới phồn hoa toàn truỵ địa,
Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly.


Hoa cúc kỳ 6
Vào xuân vàng trắng thảy đều thơm
Hoa thuận theo thời mãi tỏa hương
Rồi lúc muôn hoa rơi rụng hết
Tường Đông vàng cúc ánh còn vương
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu


舟中
一葉扁舟湖海客,

撐出葦行風搣搣。
微茫四顧晚潮生,
江水連天一鷗白。


Chu trung
Nhất diệp biển chu hồ hải khách,

Xanh xuất vi hành phong thích thích.
Vi mang tứ cố vãn triều sinh,
Giang thủy liên thiên nhất âu bạch.


Trong thuyền
Xuồng con một chiếc bơi rong
Hai bờ lau lách bềnh bồng gió đưa
Nước rong bốn phía giăng mờ
Mênh mông trời nước con cò mình êng
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu


延祐寺
上方秋夜一鐘闌,

月色如波楓樹丹。
鴟吻倒眠方鏡冷,
塔光雙峙玉尖寒。
萬緣不擾城遮俗,
半點無憂眼放寬。
參透是非平等相,
魔宮佛國好生觀。


Diên Hựu tự
Thượng phương du dạ nhất chung lan,

Nguyệt sắc như ba phong thụ đan.
Si vẫn đảo miên phương kính lãng,
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn.
Vạn duyên bất nhiễu thành già tục,
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan.
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng,
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan.


Chùa Diên Hựu
Chùa vắng đêm thu chuông một tiếng
Đỏ lá phong rờn sóng nguyệt đưa
Cú mèo mớm mỏ trong gương nước
Ánh tháp đâu chân giữa mặt hồ
Bụi bặm ngăn che không dính lấy
Mắt nhìn rộng mở chẳng âu lo
Có không không có đều không có
Dù Bụt dù ma cũng lặng tờ
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

梅花
欲向蒼蒼問所從,

凜然孤峙雪山中。
折來不為遮青眼,
願借春思慰病翁。


Mai hoa
Dục hướng thương thương vấn sở tòng,

Lẫm nhiên cô trĩ tuyết sơn trung.
Chiết lai bất vị già thanh nhãn,
Nguyện tá xuân tư uỷ bệnh ông.


Hoa mai
Trông lên hỏi ý cành mai
Rảnh rang đứng giữa núi đầy tuyết sương
Hái không vì sắc vì hương
Mượn mùa xuân để tự thương thân già
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu


午睡

雨過溪山淨,

楓林一夢涼。
反光塵世介,
開眼醉茫茫。


Ngọ thuỵ
Vũ quá khê sơn tịnh,

Phong lâm nhất mộng lương.
Phản quang trần thế giới, 
Khai nhãn tuý mang mang.


Giấc ngủ trưa
Núi khe yên ắng sau mưa
Rừng phong có giấc ngũ trưa ngon lành
Bụi đời trong nắng vờn quanh
Mở hai con mắt trời xanh mơ màng
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu


泛舟
小艇乘風泛渺汒,

山青水綠又秋光。
數聲漁笛蘆花外,
月落波心江滿霜。


Phiếm chu
Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang,

Sơn thanh thuỷ lục hựu thu quang.
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.


Chèo Thuyền
Thuyền nương cánh gió đong đưa
Non xanh nước biếc trời vừa sang thu
Sáo thôn chài lượn ngàn lau
Trắng đầu ngọn sóng nhuộm màu sương buông
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu



過萬劫
諒州人物水流東,

百歲光陰撚指中。
回首故山凝望處,
數行歸雁帖晴空。


Quá Vạn Kiếp
Lạng Châu nhân vật thuỷ lưu đông,

Bách tuế quang âm nhiển chỉ trung.
Hồi thủ cố sơn ngưng vọng xứ,
Sổ hàng qui nhạn thiếp tình không.


Qua Vạn Kiếp
Người xứ Lạng Sơn nước chảy xuôi
Trăm năm bấm đốt chợt qua rồi
Quay đầu ngóng ngó về quê cũ
Lớp lớp chim bay rợp góc trời
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu


山宇
秋風午夜拂簷椏,

山宇蕭然枕綠蘿。
已矣成禪心一片,
蛩聲唧唧為誰家。


Sơn vũ
Thu phong ngọ dạ phất thiềm nha,

Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la.
Dĩ hỹ thành thiền tâm nhất phiến,
Cung thanh tức tức vị thuỳ gia.


Nhà trong núi
Hiên ngoài gió lộng thềm thu
Mưa tuôn nhà nát lu bu cỏ bò
Lòng thiền sạch bụi âu lo
Nỉ ni tiếng dế vọng về nhà ai
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu


早秋
夜氣分涼入畫屏,

蕭蕭庭樹報秋聲。
竹堂忘適香初燼,
一一叢枝網月明。


Tảo thu
Dạ khí phân lương nhập họa bình,

Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh.
Trúc đường vong thích hương sơ tẫn,
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh.


Buổi đầu thu
Hương đêm thơm ngát họa bình
Cây xao xác lá mang tin thu về
Hương trong lều trúc lượn lờ
Cành cành đan võng đón chờ trăng xanh
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu




贈仕途子弟
富貴浮雲遲未到,

光陰流水急相催。
何如小隱林泉下,
一榻松風茶一杯。


Tặng sĩ đồ tử đệ
Phú quí phù vân trì vị đáo,

Quang âm lưu thuỷ cấp tương thôi.
Hà như tiểu ẩn lâm tuyền hạ,
Nhất tháp tùng phong, trà nhất bôi.


Tặng những con em trên đường sĩ hoạn
Giàu sang mây nổi chừng chưa đến
Giòng nước thời gian đã giục già
Xóm nhỏ quay về đi tắm suối
Gió trăng nằm khểnh một chung trà
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

石室
半間石室和雲住,

一領毳衣經歲寒。
僧在禪床經在案,
爐殘榾柮入三竿。


Thạch thất
Bán gian thạch thất hoà vân trụ,

Nhất lĩnh xối y kinh tuế hàn.
Tăng tại thiền sàng kinh tại án,
Lô tàn cốt đột nhật tam can.


Nhà đá
Nhà đá nửa gian mây quấn quýt
Suốt năm lạnh tấm áo bông sờn
Giường thiền sư ngủ kinh trên án
Sánh bảnh lò trơ gốc củi tàn
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu




次寶慶寺壁間題
荒草殘煙野思多,

南樓北館夕陽斜。
春無主惜詩無料,
愁絕東風幾樹花。


Thứ Bảo Khánh tự bích gian đề
Hoang thảo tàn yên dã tứ đa,

Nam lâu Bắc quán tịch dương tà.
Xuân vô chủ tích thi vô liệu,
Sầu tuyệt đông phong kỷ thụ hoa.


Họa thơ đề tường chùa Bảo Khánh
Cỏ dại, khói nhòe thơ cũng gọi
Lầu nam quán bắc ráng chiều pha
Xuân không có chủ thơ không tới
Nhớ chướng tươm sầu mấy cội hoa
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu



晝眠
祖父田園任自鋤,

千青盤屈繞吾盧。
木犀窗外千鳩寂,
一枕清風晝夢餘。


Trú miên
Tổ phụ điền viên nhậm tự sừ,

Thiên thanh bàn khuất nhiễu ngô lư.
Mộc tê song ngoại thiên cưu tịch,
Nhất chẩm thanh phong trú mộng dư.


Ngủ trưa
Vườn ruộng ông cha cứ cấy cày
Quanh nhà xanh biếc một vườn cây
Ngoài khung cửa sổ chim đi vắng
Cơn gió trong xanh giấc ngủ ngày
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

春日即事
二八佳人刺繡持,

紫荊花下轉黃鸝。
可憐無限傷春意,
盡在停針不語時。


Xuân nhật tức sự
Nhị bát giai nhân thích tú trì,

Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
Khả liên vô hạn thương xuân ý,
Tận tại đình châm bất ngữ thì.


Cảm Xúc Ngày Xuân
Gái xinh mười sáu ngồi thêu gấm
Ríu rít oanh vàng hót dưới hoa
Thương quá, hồn xuân ươm ngó ý
Dừng thêu lặng lẻ ngó bâng quơ
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu


安子山庵居
庵逼青霄冷,

門開雲上層。
已竿龍洞日,
猶尺虎溪冰。
抱拙無餘策,
扶衰有瘦藤。
竹林多宿鳥,
過半伴閒僧。


Yên Tử sơn am cư
Am bức thanh tiêu lãnh,

Môn khai vân thượng tằng.
Dĩ can Long Động nhật,
Do xích Hổ Khê băng.
Bão chuyết vô dư sách,
Phù suy hữu sấu đằng.
Trúc lâm đa túc điểu,
Quá bán bán nhàn tăng


Ở am núi Yên Tử
Am lạnh chênh vênh chót núi
Khói mây theo cửa len vào
Suối Hổ tuyết dày gần thước
Động Rồng trời lên hơn sào
Tài vụng giúp đời không được
Thân già nương gậy thấp cao
Rừng tre bầy chim ríu rít
Ta với nửa bầy, bạn nhau
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu

Vân Yên tự phú
Buông niềm trần tục; 

Náu tới Vân Yên. 
Chim thuỵ dõi tiếng ca chim thuỵ; 
Gió tiên đua đòi bước thần tiên. 
Bầu đủng đỉnh dang hoà thế giới; 
Hài thong thả dạo khắp sơn xuyên. 
Đất phúc địa nhận xem luống kể, kể bao nhiêu dư trăm phúc địa; 
Trời Thiền thiên thập thu thửa lạ, lạ hơn ba mươi sáu Thiền thiên. 

Thấy đây: 
Đất tựa vàng liền; 
Cảnh bằng ngọc đúc. 
Mây năm thức che phủ đền Nghiêu; 
Núi nghìn tầng quanh co đường Thục. 
La đá tầng thang dốc, một hòn ướm vịn một hòn; 
Nước suối chảy làn sâu, đòi khúc những dò đòi khúc. 
Cỏ chiều gió lướt, dợm vui vui; 
Non tạnh mưa dầm, màu thúc thúc. 
Ngàn cây phơi cánh phượng, vườn thượng uyển đoá tốt rờn rờn; 
Hang nước tuới hàm rồng, nhả ly châu hột săn mục mục. 
Nhựa đông hổ phách, sáng khắp rừng thông; 
Da điểm đồi mồi, gióng hoà vườn trúc. 
Gác vẽ tiếng bồ lao thốc, gió vật đoành đoành; 
Đền ngọc phiến bối diệp che, mưa tuôn túc túc. 
Cảnh tốt hoà lành; 
Đồ tựa vẽ tranh. 
Chỉn ấy trời thiêng mẽ khéo; 
Nhìn chi vua Bụt tu hành. 
Hồ sen trương tán lục; 
Suối trúc bấm đàn tranh. 
Ngự sử mai hai hàng chầu rạp; 
Trượng phu tùng mấy chạnh phò quanh. 
Phỉ thuý sắp hai hàng loan phượng; 
Tử vi bày liệt vị công khanh. 
Chim óc bạn cắn hoa nâng cúng; 
Vượn bồng con kề cửa nghe kinh. 
Nương am vắng Bụt hiện từ bi, gió hiu hiu, mấy nhè nhẹ; 
Kề song thưa thầy ngồi thiền định, trăng vằng vặc, núi xanh xanh. 

Huống chi, 
Vân thuỷ bằng lòng; 
Yên hà phải thú. 
Vui thay cảnh khác cảnh hoàng kim; 
Trọng thay đường hơn đường cẩm tú. 
Phân ân ái, am Não am Long; 
Dứt nhân duyên, nàng Nường nàng Mụ. 
Mặc cà sa nằm trướng giấy, màng chi châu đầy lẫm, ngọc đầy rương; 
Quên ngọc thực bỏ hương giao, cắp nạnh cà một vò, tương một hũ. 
Chốt tiết dương tiếng nhạc dõi truyền; 
Voi la đá tính từ chẳng đố. 
Xem phong cảnh hơn cảnh Bà Roi; 
Phóng tay cầu chưng cầu Thằng Ngụ. 
Bao nhiêu phong nguyệt, vào cõi vô tâm; 
Chơi dấu nước non, dưỡng đời thánh thọ. 

Ta nay: 
Ngồi đỉnh Vân Tiêu; 
Cuỡi chơi Cánh Diều. 
Coi đông sơn tựa hòn kim lục; 
Xem đông hải tựa miệng con ngao. 
Nức đài lan nghĩ hương đan quế; 
Nghe Hằng Nga thiết khúc tiêu thiều. 
Quán thất bảo vẽ bao Bụt hiện; 
Áo lục thù tiếng gió tiên phiêu. 
Thầy tu trước đã nên Phật quả; 
Tiểu tu sau còn vị tỳ-kheo. 

Thấy đây: 
Hồ thiên lẻ tẻ; 
Xem lâu có nhẹ. 
Tuy rằng học đạo hư vô; 
Ngậm ngụt hỏi thiền ngôn nghĩ. 
Mê một tấm lòng xét chẳng cùng; 
Chác tấc bóng nghìn vàng còn rẻ. 
Hẹn đến lâm tuyền làm bạn, ? ? ? ?
Bảo rằng ? ? ? ?, ? ? ừ hễ. 
Đua khoái lạc, chân bước lăm chăm; 
Nhuốm phồn hoa, đầu đà bạc tỷ. 
Chẳng những vượn hạc thốt thề; 
Lại phải cỏ hoa cười thỉ. 

Từ đến đây! 
Non nước đã quen; 
Người từng mấy phen. 
Đầu khách dễ nên biến bạc; 
Mặt non hãy một xanh đen. 
Hồ nước giá lụa là lọc nước; 
Cửa tráu cây phên trúc cài theo. 
Đàn khúc nhạc tiếng không tiêu đính; 
Vỗ tay ca cách lễ tạ liền. 

Lạ những ôi! 
Tây Trúc dường nào; 
Nam châu có mấy. 
Non Linh Thứu ai đem về đây; 
Cảnh Phi Lai mặt đà thấy đấy; 
Vào chưng cõi thánh thênh thênh; 
Thoát rẽ lòng phàm phây phấy. 
Bao nhiêu phong nguyệt, thề thốt chẳng cùng; 
Hễ cảnh giang sơn, ai nhìn thấy đấy. 
Từ trước nhẫn sau; 
Thấy sao chép vậy. 

Kệ rằng: 
Rũ không thay thảy ánh phồn hoa, 
Lấy chốn thiền lâm làm cửa nhà. 
Khuya sớm sáng choang đèn bát-nhã, 
Hôm mai rửa sạch nước ma-ha. 
Lòng thiền vặc vặc trăng soi giọi, 
Thế sự hiu hiu gió thổi qua. 
Cốc được tính ta nên Bụt thực, 
Ngại chi non nước cảnh đường xa.


Hầu hết những thiền sư Việt Nam, xưa và nay, đều biết làm thơ. Thậm chí là thơ hay nữa là khác. Nhưng có lẽ Trúc Lâm Tam Tổ Huyền Quang là một trong những nhà thơ hay nhất. Hầu hết thơ Người còn sót lại đều là những bài thơ chuyên chỡ giáo lý đạo Bụt. Nhưng ngôn ngữ trong thơ lại rất đời thường và vì thế mà rất là thơ.
Tất cả được các cao nhân chuyển thể sang chữ Quốc ngữ hiện đại. Tôi vì quá thích nên cũng o e viết lại theo ý mình bằng một thức kiến thức học lóm với ước mong các bạn bè thân hữu gần xa xí xóa cho những sai lầm.

Nguồn:

http://www.thivien.net/Huy%E1%BB%81n-Quang-thi%E1%BB%81n-s%C6%B0/author-ky6a-6Hq9AEiujrHK0DNTQ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét