" Trong lịch sử nhân loại, có lẽ chưa có một
nhân vật lịch sử nào mà những nhà viết tiểu sử lại gặp nhiều khó khăn như ông
Hồ Chí Minh, dù rằng cuộc đời 79 năm của ông (19.51890-2.9.1969) cho biết ông
là một nhân vật lịch sử hiện đại với hàng núi tài liệu đầy rẫy những hư thực. Người
ta có thể sưu tập hàng tấn... tấn sách viết về ông với nhiều loại quan điểm
khác nhau và với những ngôn ngữ khác nhau mà tác giả mang những quốc tịch khác
nhau.
Bản thân ông cũng đã tự viết về mình với những
bút danh khác nhau (trong hàng trăm bút danh mà ông sử dụng).
Cái nào đúng, cái nào sai. Cái nào là sự thật,
cái nào là hư cấu. Nếu Đảng CS Việt Nam dùng hết công suất của mình trong suốt
gần một thế kỷ tô son trát phấn cho ông, thì phía ngược lại những đối thủ chính
trị cửa ông cũng không ngần ngại gì mà sử dụng hết năng lực của mình để bôi tro
trát trấu vào ông. Những người có công tâm khi viết về ông cũng không tránh
khỏi những sai lầm khi nói tốt hay xấu về ông với hàng núi tư liệu “đen trắng
không rõ ràng” từ cái tên, cái bút danh của ông, từ ngày sinh, ngày mất, từ lai
lịch xuất thân cho đến những hành trạng của ông trong suốt thời gian làm bồi
bàn dưới một con tàu sang Pháp cho đến ngày cuối cùng với chức danh Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Nước.
Từ ngày ông mất (khi thì nói ngày này, lúc thì nói ngày kia, dù chỉ cách nhau có 24 giờ) đến này vẫn là một mớ hỗn độn. Ông nằm đó suốt từ bấy đến nay đã gần nửa thế kỷ. Xác thân ông nằm đó với một hỉnh hài bọng không; không nội tạng, không não tủy mà tiêu tốn chẳng biết cơ man nào là tiền bạc, mồ hôi, nước mắt của người dân Việt. Người ta vẫn vẽ ảnh, đắp tượng, dựng tượng ông khắp nơi, từ những quảng trường, những ngôi chùa cho đến bày bán nhan nhản ở các nhà sách... mà những bức ành ấy, những bức tượng ấy chẳng biết để làm gì? Ngoài cái việc là kẻ vẽ, người tô, người dựng, kẻ mua người bán đều có tiền. Ông đang trở thành hàng hóa; hàng hóa chính trị, hàng hóa văn học và... hàng hóa chính hiệu.
Người ta cũng đang thực hiện việc biến ông thành Bồ tát thị hiện khắp nơi (nói theo kiểu mấy ông sư Quốc Doanh) từ những nơi tôn quý đến cả những nơi không sạch sẽ.
Có một sự thật mà người ta không bao giờ dám nói: “Ông không là gì cả, chỉ là một con người bình thường nhưng bao con người khác với những thuộc tính, những khả năng nổi trội hay không nổi trội, một yêu cầu về vật chất tình cảm tầm thường và không tầm thường Thế thôi. Nhưng cái mà ông không bao giờ có được là ông không có một gia đình, vơ một đàn, con một đống, khi sống thì không dám nhận, khi chết thì chẳng ai thắp cho ông một nén nhang” Ông là một con người Tội Nghiệp. Hiểu theo nghĩa nào cũng đúng. Xin chia sẻ cùng ông một nổi quan hoài.
Dưới đây là một bản tiểu sử của ông trên Wikipedia, chẳng biết nó trung thực đến đâu? Nhưng nó khài quát được một phần hiện thực về hình tượng của ông. Người đọc nhận định như thế nào còn tùy."
Lê Thường Dân
Lê Thường Dân
Hồ Chí Minh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mục từ "Nguyễn Ái Quốc" dẫn đến bài này. Xin đọc về bút hiệu Nguyễn Ái Quốc tại Nguyễn Ái Quốc (bút hiệu).
Đối với các định nghĩa khác, xem Hồ Chí Minh (định hướng).
Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946
Chức vụ
Nhiệm kỳ
Tiền nhiệm
đầu tiên
Kế nhiệm
Tôn Đức Thắng (Quyền)
Vị trí
Phó chủ tịch nước
Nhiệm kỳ
17 tháng 8, 1945 –
20 tháng 9, 1955
10 năm, 34 ngày
20 tháng 9, 1955
10 năm, 34 ngày
Tiền nhiệm
đầu tiên
Kế nhiệm
Vị trí
Nhiệm kỳ
19 tháng 2, 1951 –
2 tháng 9, 1969
18 năm, 195 ngày
2 tháng 9, 1969
18 năm, 195 ngày
Vị trí
Nhiệm kỳ
28 tháng 8, 1945 –
2 tháng 3, 1946
0 năm, 186 ngày
2 tháng 3, 1946
0 năm, 186 ngày
Tiền nhiệm
đầu tiên
Kế nhiệm
Vị trí
Nhiệm kỳ
28 tháng 8, 1946 – 1947
Tiền nhiệm
Kế nhiệm
Vị trí
Nhiệm kỳ
31 tháng 3, 1935 –
2 tháng 9, 1969
34 năm, 155 ngày
2 tháng 9, 1969
34 năm, 155 ngày
Vị trí
Thông tin chung
Đảng phái
Sinh
Mất
Nơi ở
Hà Nội
Dân tộc
Tôn giáo
Không
Họ hàng
Hà Thị Hi (bà nội)
Nguyễn Thị Thanh (chị)
Nguyễn Sinh Khiêm (anh)
Nguyễn Sinh Nhuận (em)
Nguyễn Thị Thanh (chị)
Nguyễn Sinh Khiêm (anh)
Nguyễn Sinh Nhuận (em)
Cha hoặc mẹ
Nguyễn Sinh Sắc (cha)
Hoàng Thị Loan (mẹ)
Hoàng Thị Loan (mẹ)
Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) là một nhà cách mạng, người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ 20, một chiến sĩ cộng sản quốc tế. Ông là người viết và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian 1945 – 1969, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trong thời gian 1951 – 1969.
Là một lãnh tụ được nhiều người ngưỡng mộ và tôn sùng, lăng của ông được xây ở Hà Nội, nhiều tượng đài của ông được đặt ở khắp mọi miền Việt Nam, hình ảnh của ông được nhiều người dân treo trong nhà, đặt trên bàn thờ,[1][2][3][4][5] và được in ở hầu hết mệnh giá đồng tiền Việt Nam. Ông được thờ cúng ở một số đền thờ và chùa Việt Nam.[6][7][8] Ông đồng thời cũng là một nhà văn, nhà thơ và nhà báo với nhiều tác phẩm viết bằng cả tiếng Việt, tiếng Hán và tiếng Pháp. Ông đã được tạp chí Time bình chọn là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20.[9][10][11]
Tiểu sử và sự nghiệp
Xuất thân và quê quán
Bài chi tiết: Gia đình Hồ Chí Minh
"Hoàng sơ tổ khảo là Nguyễn Bá Phụ, tổ đời thứ hai là Nguyễn Bá Bạc, tổ đời thứ ba là Nguyễn Bá Ban, tổ đời thứ tư là Nguyễn Văn Dân,... tổ đời thứ năm, Nguyễn Sinh Vật là giám sinh đời Lê Thánh Đức (tức Lê Thần Tông) năm thứ ba..., tổ đời thứ sáu là Nguyễn Sinh Tài đỗ hiếu sinh khi 17 tuổi, năm 34 tuổi đỗ tam trường khoa thi Hội..., tổ đời thứ 10 là Nguyễn Sinh Nhậm[12])." Cả bốn đời đầu tiên của dòng họ đều chưa lấy đệm là "Sinh" và không rõ năm sinh, năm mất.[13]
Theo nhiều tài liệu chính thống cũng như tiểu sử tại Việt Nam, tên lúc nhỏ của ông Nguyễn Sinh Cung[14][15] (giọng địa phương phát âm là Côông), tự là Tất Thành.[16] Tuy nhiên, một số tài liệu ghi nhận tên lúc nhỏ của ông là Nguyễn Sinh Côn.[17][18][19][20][21] Điều này cũng được chính ông xác nhận bằng chính bút tích của mình trong một bài viết năm 1954.[22] Quê nội là làng Kim Liên (tên Nôm là làng Sen). Ông được sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng Trù (tên Nôm là làng Chùa, nằm cách làng Sen khoảng 2 km) và sống ở đây cho đến năm 1895. Hai làng này vốn cùng nằm trong xã Chung Cự, thuộc tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn. Quê nội của ông, làng Kim Liên[23] là một làng quê nghèo khó. Phần lớn dân chúng không có ruộng, phải làm thuê cấy rẽ, mặc quần ít, đóng khố nhiều, bởi thế nên làng này còn có tên là làng Đai Khố.[24] Vào đời ông, phần lớn dòng họ của ông đều cơ hàn, kiếm sống bằng nghề làm thuê, và cũng có người tham gia các hoạt động chống Pháp.[25]
Cha ông là một nhà nho tên là Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ phó bảng.[26] Mẹ là bà Hoàng Thị Loan. Ông có một người chị là Nguyễn Thị Thanh, một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm (tự Tất Đạt, còn gọi là Cả Khiêm) và một người em trai mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận (1900-1901, tên khi mới lọt lòng là Xin).
Tuổi trẻ
Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ và anh trai vào Huế lần đầu tiên. Sau khi mẹ mất (1901), ông về Nghệ An ở với bà ngoại một thời gian ngắn rồi theo cha về quê nội, từ đây ông bắt đầu dùng tên Nguyễn Tất Thành. Tất Thành theo học cử nhân Hoàng Phạm Quỳnh và một số ông giáo khác.[27]
Năm 1906, Nguyễn Sinh Cung theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở trường tiểu học Pháp-Việt Đông Ba. Tại đây, ông trải qua các niên khoá 1906-1907 lớp nhì và 1907-1908 lớp nhất. Trong kỳ thi primaire (tương đương tốt nghiệp tiểu học) năm 1908 - ông là một trong 10 học trò giỏi nhất của trường Pháp - Việt Đông Ba được thi vượt cấp vào hệ Thành chung trường Quốc Học.[28]
Theo nghiên cứu của học giả William J. Duiker, vào tháng 9 năm 1907, ông vào học lớp trung học đệ nhị niên tại trường Quốc học Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ.[29] Cha ông bị triều đình khiển trách vì "hành vi của hai con trai". Hai anh em Tất Đạt và Tất Thành bị giám sát chặt chẽ. Ông quyết định vào miền Nam để tránh sự kiểm soát của triều đình.[30] Tuy nhiên, theo tài liệu hiện lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại (Centre des archives d'Outre-mer hayCAOM) ở Pháp, Nguyễn Sinh Cung và được nhận vào Quốc Học Huế vào ngày 7 tháng 8 năm 1908.[20][31][32] Theo nhà nghiên cứu lịch sử Vũ Ngự Chiêu thì như vậy "không có việc Nguyễn Sinh Cung bị trục xuất khỏi trường Quốc Học vì tham gia vào cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Huế—cuộc biểu tình chống sưu dịch xảy ra ngày 9 tới 12 tháng 4 năm 1908; tức gần bốn tháng trước ngày trò Cung được nhận vào trường Quốc Học."[31]
Đầu năm 1910, Nguyễn Tất Thành đến Phan Thiết. Ông dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp ba và tư tại trường Dục Thanh của Hội Liên Thành.[33][34]
Trong thời gian này, Nguyễn Tất Thành thường gặp gỡ một số nhà nho yêu nước đương thời, tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc. Nguyễn Tất Thành đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Ông tuy khâm phục Đề Thám, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào cả. Theo quan điểm của ông, Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải cách, điều đó chẳng khác nào "xin giặc rủ lòng thương", còn Phan Bội Châu thì hy vọng Đế quốc Nhật Bản giúp đỡ để chống Pháp, điều đó nguy hiểm chẳng khác nào "đuổi hổ cửa trước, rước báo cửa sau". Nguyễn Tất Thành thấy rõ là cần quyết định con đường đi của riêng mình.[35]
Khoảng trước tháng 2 năm 1911, ông nghỉ dạy và vào Sài Gòn cũng với sự giúp đỡ của Hội Liên Thành. Tại đây, ông theo học trường Bá Nghệ là trường đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son (bây giờ là trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng), vừa đi bán báo ở khu vực thương cảng để kiếm sống và đồng thời tìm hiểu đời sống công nhân.[36][37][38] Ở đây, ông học được 3 tháng. Sau đó ông quyết định sẽ tìm một công việc trên một con tàu viễn dương để được ra nước ngoài học hỏi tinh hoa của phương Tây[39] để trở về giúp nhân dân Việt Nam.[40]
Hoạt động ở nước ngoài
Bài chi tiết: Hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1911-1941
Mô hình chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville được trưng bày tại bến Nhà Rồng
Thư Nguyễn Tất Thành gửi tổng thống Pháp năm 1911 xin được nhập học vào Trường Thuộc địa (École Coloniale)
Thời kỳ 1911-1919
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, ông lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Ngày 6 tháng 7 năm 1911, sau hơn 1 tháng đi biển, tàu cập cảng Marseilles, Pháp. Tại Marseilles, ông đã viết thư đến Tổng thống Pháp, xin được nhập học vào Trường Thuộc địa (École Coloniale), trường chuyên đào tạo các nhân viên hành chánh cho chính quyền thực dân, với hy vọng "giúp ích cho Pháp". Thư yêu cầu của ông bị từ chối và được chuyển đến Khâm sứ Trung Kỳ ở Huế.[41] Ở Pháp một thời gian rồi ông qua Hoa Kỳ. Sau khi ở Hoa Kỳ một năm (cuối 1912-cuối 1913), ông đến nước Anh làm nghề cào tuyết, đốt lò rồi phụ bếp cho khách sạn, học tiếng Anh, và ở London cho đến cuối năm 1916.[42] Một số tài liệu trong kho lưu trữ của Pháp và Nga cho biết trong thời gian sống tại Hoa Kỳ, ông đã nghe Marcus Garvey diễn thuyết ở khu Harlem và tham khảo ý kiến của các nhà hoạt động vì nền độc lập của Triều Tiên.[42] Cuối năm 1917, ông trở lại nước Pháp, sống và hoạt động ở đây cho đến năm 1923.[43]
Thời kỳ ở Pháp
Tấm biển đồng gắn tại nhà số 9 ngõ Compoint, quận 17 Paris: "Tại đây, từ năm 1921-1923, Nguyễn Ái Quốc đã sống và chiến đấu vì quyền độc lập và tự do cho nhân dân Việt Nam và các dân tộc bị áp bức"
Nguyễn Ái Quốc, đại biểu Đông Dương, chụp tại Đại hội Đảng cộng sản Pháp họp tại Marseille năm 1921
Tháng 2 năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp.[44] Ngày 18 tháng 6 năm1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu nước, Nguyễn Tất Thành đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm để kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lý tưởng của Tổng thống Wilson cho các lãnh thổ thuộc địa của Pháp ở Đông Nam Á, trao tận tay tổng thống Pháp và các đoàn đại biểu đến dự hội nghị.[45]Bản yêu sách không yêu cầu độc lập cho Việt Nam, nhưng bao gồm quyền tự do và bình đẳng.[46] Bản yêu sách này do một nhóm các nhà ái quốc Việt Nam sống ở Pháp, trong đó cóPhan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Tất Thành, cùng viết, và được ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc.[47] Từ đây, Nguyễn Tất Thành công khai nhận mình là Nguyễn Ái Quốc[48] và sử dụng tên này trong suốt 30 năm sau đó.[49] Thất bại của Hội nghị Versailles trong giải quyết các vấn đề thuộc địa đã đẩy niềm tin của Nguyễn Tất Thành sang chủ nghĩa cộng sản.[46]
Nguyễn Ái Quốc nói với các đại biểu của Đảng Cộng sản Pháp: "Tôi không hiểu bất cứ điều gì về chiến lược, thủ thuật hành động và tất cả những từ ngữ đao to búa lớn mà các ông dùng, nhưng tôi hiểu một điều rất đơn giản: Quốc tế Thứ 3 quan tâm rất nhiều tới vấn đề thuộc địa. Các đại biểu của Quốc tế Thứ 3 hứa sẽ giúp các dân tộc thuộc địa đang bị áp bức giành lại tự do và độc lập. Các thành viên của Quốc tế thứ 2 không nói một từ về số phận của các vùng thuộc địa".[46]
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin, từ đó ông hoàn toàn tin tưởng[50] vào chủ nghĩa cộng sản. Ông tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng 12 năm 1920) với tư cách là đại biểuĐông Dương của Đảng Xã hội Pháp, ông trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và tách khỏi đảng Xã hội. Năm 1921, ông cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp Thuộc địa (Union intercoloniale - Association des indigènes de toutes les colonies) nhằm tập hợp các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa đế quốc. Năm 1922, ông cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo Le Paria (Người cùng khổ), làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc nói chung vàthực dân Pháp nói riêng. Tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" bằng tiếng Pháp (Procès de la colonisation française) do Nguyễn Ái Quốc viết được xuất bản năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.
Thời kỳ ở Liên Xô lần thứ nhất
Nguyễn Ái Quốc, chụp tại Liên Xô năm 1923.
Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô lần đầu tiên vào năm 1922 tham gia Đại hội lần tư của Quốc tế Cộng sản, ở đó ông gặp Lenin và trở thành thành viên của Ban Đông Nam Á của Quốc tế Cộng sản.[46]
Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông được đào tạo chính quy về Chủ nghĩa Marx, tuyên truyền và khởi nghĩa vũ trang.[46] Tại đây ông đã dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (họp từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 10 năm 1923), ông được bầu vào Ban chấp hành và Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Tại Đại hội lần thứ 5 Đệ Tam Quốc tế (họp từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924), ông được cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam.
Năm 1924, tại thành phố Moskva, ông viết và nộp cho tổ chức Đệ Tam Quốc tế một bản Báo cáo về tình hình Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Nhận thấy phong trào đấu tranh giai cấp tại Việt Nam có sự khác biệt với phong trào đấu tranh giai cấp bên Tây phương đương thời, ông có nhận xét về các tầng lớp địa chủ, tăng lữ,... của Việt Nam như sau:
“
|
Những địa chủ ở đây chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ (…). Không có vốn liếng gì lớn…, đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa","An
|
”
|
— Nguyễn Ái Quốc[51]
|
Ông cho rằng:[51]
“
|
Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản đối, nó làm cho những người "nhà quê" phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917.
|
”
|
— Nguyễn Ái Quốc
|
Tư tưởng này của ông không có gì mâu thuẫn với Luận cương về các vấn đề dân tộc thuộc địa của Lênin, khi lấy chủ nghĩa dân tộc để đi đến chủ nghĩa cộng sản (đại đồng)
Thời kỳ ở Trung Quốc (1924-1927)
Tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc cho tờ Le Paria, đời sống người dân dưới ách thống trị của thực dân Pháp
Sau khi học tại Liên Xô, cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu theo phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô do Mikhail Markovich Borodin làm trưởng đoàn đến giúp chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch, làm phiên dịch lấy tên là Lý Thụy.
Trong thời gian ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc có nhiệm vụ tuyên truyền phổ biến tư tưởng cách mạng ra vùng Đông Phương. Theo đó, năm 1925, ông tập hợp Việt Kiều và thành lập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) để truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin (thường được phiên âm là Mác–Lê-nin) vào Việt Nam. Cuốn Đường Kách mệnh, mà ông là tác giả, tập hợp các bài giảng tại các lớp huấn luyện chính trị của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, được xuất bản năm 1927.[52]
Cùng năm 1925, ông tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín củaTôn Dật Tiên, làm hội trưởng và ông làm bí thư. Tổ chức này sau đó trở thành Đảng Cộng sản Nam Hải (the South Seas Communist party),[46] tiền thân của một loạt các tổ chức cộng sản sau này, bao gồm có cả Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc cũng gửi một loạt người Việt đi học trường quân sự của Tưởng Giới Thạch tại Quảng Châu, đồng thời tiến hành một khóa đào tạo về khởi nghĩa vũ trang. Do Tưởng Giới Thạch khủng bố các nhà cách mạng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam, ông rời Quảng Châu đi Hương Cảng, rồi thoát sang Liên Xô theo đường sa mạc Gobi. Tháng 11 năm 1927, ông được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên đoàn chống đế quốc từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927 tại Brussel, Bỉ.
Thời kỳ ở Thái Lan (1928 - 1929)
Mùa thu 1928, ông từ châu Âu đến Xiêm La (Thái Lan), cải trang là một nhà sư đầu trọc, với bí danh Thầu Chín để tuyên truyền và huấn luyện cho Việt kiều tại Xiêm, đồng thời xuất bản báo gửi về nước. Cuối năm 1929, ông rời khỏi Vương quốc Xiêm La và sang Trung Quốc.[53]
Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long (九龍, Kowloon) thuộc Hương Cảng, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, nhằm giải quyết những mâu thuẫn đang có giữa những người cộng sản ở Đông Dương, ông thống nhất ba tổ chức đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đó đổi tên là "Đảng Cộng sản Đông Dương", rồi đổi thành "Đảng Lao động Việt Nam" và nay là "Đảng Cộng sản Việt Nam"). Cũng vào năm này, khởi nghĩa Xô Viết Nghệ Tĩnh nổ ra, do Đảng Cộng sản chỉ đạo, nhưng thất bại. Pháp cấm Đảng Cộng sản Đông Dương, và Nguyễn Ái Quốc bị xử tử hình vắng mặt.
Tháng 3 năm 1930, ông trở lại Xiêm La trong một thời gian ngắn, sau đó quay lại Trung Hoa.
Những năm 1931 - 1933
Năm 1931, dưới tên giả là Tống Văn Sơ (Sung Man Ch'o), Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam với ý định trao cho chính quyền Pháp ở Đông Dương. TờL'Humanité số ra ngày 9 tháng 8 năm 1932 đưa tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi trong trạm xá nhà tù tại Hồng Kông đồng thời tố cáo đây là âm mưu của thực dân Pháp câu kết với thực dân Anh nhằm ám sát người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.[54]
Sau đó nhờ sự biện hộ và giúp đỡ tận tình của luật sư Frank Loseby,[55] Tống Văn Sơ được thả ngày 28 tháng 12 năm 1932. Ông đi Thượng Hải rồi bí mật quay trở lại Liên Xô.
Thời kỳ ở Liên Xô lần thứ hai
Ông đến Moskva vào mùa xuân năm 1934. Với bí danh Lin, Nguyễn Ái Quốc học ở Trường Quốc tế Lenin (1934-1935). Ông dự Đại hội lần thứ 7 Đệ Tam Quốc tế (từ ngày 25 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm 1935) với vai trò quan sát viên của ban thư ký Dalburo với tên Linov.[56] Ông bị Ban Lãnh đạo Hải ngoại Đảng Cộng sản Đông Dương viết thư gửi Quốc tế Cộng sản kết tội phải chịu trách nhiệm chính về việc hơn 100 đảng viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên bị bắt do việc ông biết Lâm Đức Thụ trước đây là kẻ phản bội mà vẫn tiếp tục sử dụng.[57] Ông bị buộc ở Liên Xô cho đến năm 1938 và bị giam lỏng ở đó do bị nghi ngờ về lý do ông được nhà cầm quyền Hương Cảng trả tự do.[58] Quốc tế Cộng sản thành lập Ban Thẩm tra vì nghi ngờ về sự trung thành chính trị của Nguyễn Ái Quốc nhưng không tìm ra chứng cứ nào cho thấy điều này, tiếp đó hồ sơ vụ việc Nguyễn Ái Quốc đã được Ban Thẩm Tra quyết định hủy bỏ.[59] Sau đó Nguyễn Ái Quốc tham gia lớp nghiên cứu sinh Viện Nghiên cứu các Vấn đề Dân tộc và Thuộc địa của Quốc tế Cộng sản.[60]
Trong những năm 1931-1935, ông đã bị Trần Phú và sau đó là Hà Huy Tập phê phán về đường lối cải lương "liên minh với tư sản và địa chủ vừa và nhỏ", không đúng đường lối đấu tranh giai cấp của Đệ Tam Quốc tế.[61][62] Trong một bức thư kể cho tổ chức Đệ Tam Quốc tế hay về phong trào cách mạng vô sản tại Đông Dương được viết vào tháng 3 năm 1935, Nguyễn Ái Quốc bị phê phán nặng nề. Bức thư này có ghi nhận về "tàn dư của tư tưởng dân tộc cách mạng pha trộn với chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa duy tâm của đảng của các đồng chí Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và của đồng chí Nguyễn Ái Quốc". Trong thư này cũng có đoạn: "Những tàn dư ấy rất mạnh và tạo thành một chướng ngại nghiêm trọng cho sự phát triển chủ nghĩa cộng sản. Cuộc tranh đấu không nhân nhượng chống những học thuyết cơ hội này của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và của Đảng Thanh niên là rất cần thiết (…). Chúng tôi đề nghị đồng chí Lin viết một cuốn sách để tự phê bình những khuyết điểm đã qua".[51]
Sở dĩ có việc phê phán này là do vào thời điểm đó, Quốc tế Cộng sản, dưới sự lãnh đạo của Stalin, đặt đấu tranh giải phóng dân tộc đi kèm với đấu tranh giai cấp, tuy nhiên khác biệt giữa Hồ Chí Minh và một số đồng chí của mình là tuy đề cập đến đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, nhưng khác biệt về lực lượng tham gia, cần tranh thủ.
Trong giai đoạn này, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập lần lượt làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương còn Hồ Chí Minh chỉ đảm nhiệm công tác liên lạc giữa Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản tại Đông Nam Á.[63]
Từ năm 1938 đến đầu năm 1941
Năm 1938, ông trở lại Trung Quốc. Trong vai thiếu tá Bát Lộ quân Hồ Quang, Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quý Dương, Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung Quốc mùa đông 1938 đến đầu 1939.[64]
Trở về Việt Nam
Đầu tháng 1-1941, Hoàng Văn Thụ, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng từ Việt Nam sang Tĩnh Tây (Quảng Tây, Trung Quốc) gặp Hồ Chí Minh để báo cáo kết quả xây dựng và củng cố an toàn khu Cao Bằng. Hoàng Văn Thụ đề nghị ông về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua lối Cao Bằng. Hồ Chí Minh cũng nhận định Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng, và ông quyết định trở về nước sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài[65]
Ông trở về Việt Nam vào ngày 28 tháng 1 năm 1941,[66] với hành lý là một chiếc vali nhỏ đan bằng mây tre để đựng quần áo và một chiếc máy chữ xách tay. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về sự kiện này qua bốn câu thơ: "Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!/Nhớ thương hòn đất ấm hơi Người/Ba mươi năm ấy, chân không nghỉ/Mà đến bây giờ mới tới nơi".[65]
Sau khi hỏi thăm dân địa phương, ngày 8 tháng 2 năm 1941, ông tới ở tại hang Cốc Bó, bản Pác Bó, tỉnh Cao Bằng với bí danh Già Thu. Dòng suối lớn chảy qua đây được ông gọi là suối Lê-nin, ngọn núi đá cao được gọi là núi Các-Mác. Ông đã làm một bài thơ (nay đã được tạc vào vách núi) thể hiện chí hướng:[67]
Non xa xa nước xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là
Đây suối Lê-nin, kia núi Mác
Hai tay gây dựng một sơn hà.
Tại đây, ông mở các lớp huấn luyện cán bộ,[68] cho in báo, tham gia các hoạt động thường ngày... Tài liệu huấn luyện và tuyên truyền chủ yếu là sách do ông dịch và viết về nhiều chủ đề. Tại cuối một cuốn sách như vậy ông ghi "Việt Nam độc lập năm 1945".[69] Ông cho lập nhiều hội đoàn nhân dân như hội phụ nữ cứu quốc, hội phụ lão cứu quốc, hội nông dân cứu quốc,...
Từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941, ông chủ trì Hội nghị lần thứ 8 (mở rộng) của Trung ương Đảng họp tại Pác Bó, Cao Bằng. Một trong những kết quả của hội nghị này là nghị quyết về việc thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh).[70][71]
Từ bị giam ở Trung Quốc cho tới thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Ngày 13 tháng 8 năm 1942, ông lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc với danh nghĩa đại diện của cả Việt Minh và Hội quốc tế phản xâm lược Việt Nam (một hội đoàn được ông tổ chức ra trước đó) để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc. Đây là lần đầu tiên trong các giấy tờ cá nhân ông sử dụng tên Hồ Chí Minh. Ông khai nhân thân là "Việt Nam-Hoa kiều".[72]
Ông bị chính quyền địa phương của Trung Hoa Dân quốc bắt ngày 29 tháng 8 khi đang đi cùng một người Trung Quốc dẫn đường và giam hơn một năm, trải qua khoảng 30 nhà tù. Ông viết Nhật ký trong tù trong thời gian này (từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943). "Nhật ký trong tù" là một tác phẩm được những tác giả người Việt Nam, người phương Tây và cả người Trung Quốc, như Quách Mạt Nhược, Viên Ưng hay Hoàng Tranh đề cao.[73] Các đồng chí của ông (Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh...) ở Việt Nam tưởng lầm là ông đã chết (sau này nguyên nhân được làm rõ là do một cán bộ Cộng sản tên Cáp nghe và hiểu sai ngữ nghĩa).[74] Họ thậm chí đã tổ chức đám tang và đọc điếu văn cho ông (Phạm Văn Đồng làm văn điếu) cũng như "mở chiếc va-li mây của Bác ra tìm xem còn những gì có thể giữ lại làm kỉ niệm" (lời của Võ Nguyên Giáp). Vài tháng sau họ mới biết được tình hình thực của ông sau khi nhận được thư do ông viết và bí mật nhờ chuyển về.[75]
Ngày 25 tháng 10 năm 1943, Hội Quốc tế chống xâm lược ở Đông Dương gửi 2 bức thư, một cho Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc, bức còn lại cho thống chế Tưởng Giới Thạch đề nghị can thiệp trả tự do cho Hồ Chí Minh, đồng thời đại diện của Đảng cộng sản Trung Quốc ở Trùng Khánh đã tiếp xúc bí mật với các sỹ quan OSS và SACO để gợi ý rằng có thể khiến Hồ Chí Minh hợp tác với phe Đồng Minh.[76] Sau khi thảo luận với Đại sứ quán Mỹ tại Trung Quốc, OSS và cơ quan ngoại giao Mỹ thương lượng với chính phủ Trung Hoa Dân quốc để giải thoát Hồ Chí Minh khỏi nhà tù và thuyết phục ông cộng tác với OSS.[77] Cùng lúc đó Trương Phát Khuê, tướng cai quản vùng Quảng Đông và Quảng Tâycủa Quốc Dân Đảng cũng gây áp lực để buộc ông Hồ hoạt động cho Quốc dân Đảng.[77] Hồ Chí Minh được trả tự do ngày 10 tháng 9 năm 1943, theo yêu cầu của Hoa Kỳ.[46] Có nguồn khác nói rằng tướng Trương Phát Khuê quyết định trả tự do cho Hồ Chí Minh nhằm lợi dụng ông và một số chính trị gia Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc ở miền Nam Trung Quốc chống phát xít Nhật.[78] Trương Phát Khuê hy vọng Hồ Chí Minh có thể thống nhất và tổ chức lại các nhóm người Việt lưu vong ở miền Nam Trung Quốc thành một khối thuần nhất thân Trung Quốc mà sự chia rẽ, chống đối về phương pháp tiến hành đấu tranh và sự tranh giành quyền lực giữa lãnh tụ của các nhóm này đã che lấp mất mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc của họ đồng thời để chấn chỉnh Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (Việt Cách) do Trung Quốc đỡ đầu.[79]
Ngay sau đó, Hồ Chí Minh tham gia Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Trước đó, Việt Minh đã ra tuyên bố ủng hộ tổ chức này. Ông cũng cố gắng tranh thủ sự ủng hộ từ Trương Phát Khuê, nhưng kết quả hạn chế.
Cuối tháng 9 năm 1944, ông trở về Việt Nam. Khi này các đồng chí của ông ở Liên tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng... đã quyết định tiến hành phát động chiến tranh du kích trong phạm vi liên tỉnh. Ông ngăn chặn thành công quyết định này.[80] Thay vào đó, ông ra lệnh tổ chức lập lực lượng vũ trang và căn cứ địa cho chặt chẽ và hiệu quả hơn. Ông trực tiếp ra chỉ thị thành lập một đội quân mang tính chính quy là đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, với 34 đội viên là các tiểu đội trưởng, trung đội trưởng hoặc thành viên của các đội quân nhỏ bé và rải rác trước đó của Việt Minh. Cuối năm 1944, ông lại trở lại Côn Minh hoạt động cho tới đầu năm 1945.
Ngày 29 tháng 3 năm 1945, Hồ Chí Minh gặp Trung tướng Mỹ Chennault tại Côn Minh (Trung Quốc). Trung tướng cảm ơn Việt Minh và sẵn sàng giúp đỡ những gì có thể theo yêu cầu. Còn Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm của Việt Minh là ủng hộ và đứng về phía Đồng Minh chống phát xít Nhật.[78] Theo Hồ Chí Minh, việc được tướng Chennault tiếp kiến được xem là một sự công nhận chính thức của Mỹ, là bằng chứng cho các đảng phái Quốc gia thấy Mỹ ủng hộ Việt Minh. Người Mỹ xem đây chỉ là một mưu mẹo của Hồ Chí Minh nhưng ông cũng đã đạt được kết quả.[81]
Hồ Chí Minh và OSS năm 1945.
Hồ Chí Minh nhận thấy Hoa Kỳ đang muốn sử dụng các tổ chức cách mạng người Việt vào các hoạt động quân sự chống Nhật tại Việt Nam, ông đã thiết lập mối quan hệ với các cơ quan tình báo Hoa Kỳ đồng thời chỉ thị cho Việt Minh làm tất cả để giải cứu các phi công gặp nạn trong chiến tranh với Nhật Bản, cung cấp các tin tức tình báo cho OSS, tiến hành một số hoạt động tuyên truyền cho Trung Hoa Dân Quốc và OWI. Đổi lại, cơ quan tình báo Hoa Kỳ OSS (U.S Office of Strategic Services) cung cấp vũ khí, phương tiện liên lạc, giúp đỡ y tế, cố vấn và huấn luyện quân đội quy mô nhỏ cho Việt Minh.[82][83]
Tháng 7 năm 1945, trước khi Hội nghị Tân Trào họp vào tháng 8 năm 1945, ông ốm nặng, tưởng không qua khỏi.[84] Một đơn vị nhỏ OSS nhảy dù phía sau đường ranh giới Nhật Bản ở Việt Nam để tham gia tác chiến cùng Việt Minh. OSS tìm thấy Hồ Chí Minh trong tình trạng sốt rét nặng và gửi thông điệp đến trụ sở quân Mỹ ở Trung Quốc để yêu cầu cung cấp thuốc men sớm nhất có thể. Hai tuần sau đó, bác sĩ quân y tên là Paul Hogland[85] đã đến. Những người Mỹ đã ở lại đó trong vòng hai tháng và có thể họ đã cứu sống ông.[82][86][87][88][89]
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội quốc dân tại Tân Trào (Tuyên Quang), cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Trong cao trào của Cách mạng tháng Tám, đại thần Phạm Khắc Hòe không ngừng nhắc lại cho Bảo Đại câu sấm truyền: "Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh". Vị thánh đó có thể là nhà chí sĩ Phan Bội Châu, nhưng Phan Bội Châu đã không thành công và đã mất năm 1940. Từ những năm 1920, người ta lại giải thích vị thánh cứu nước chỉ có thể làNguyễn Ái Quốc, cùng quê ở Nam Đàn (Nghệ An). Chính câu sấm truyền ấy cùng với dư luận đồn đại, theo ông Hòe kể lại sau này, đã khiến Bảo Đại đi đến quyết định cuối cùng. Ngày 20 tháng 8, Bảo Đại cho biết ông sẵn sàng thoái vị ngay nếu người đứng đầu Việt Minh là Nguyễn Ái Quốc (khi đó Bảo Đại chưa biết Nguyễn Ái Quốc chính là Hồ Chí Minh[90]).
Giai đoạn lãnh đạo
Từ Độc lập tới Toàn quốc kháng chiến
Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập trên quảng trường Ba Đình.
Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 trên quảng trường Ba Đình tại Hà Nội, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông trích dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và bản Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp để mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam.[91] Hồ Chí Minh nói với chỉ huy tình báo quân sự Mỹ OSS tại miền Bắc, Archimedes L.A Patti, rằng ông theo chủ nghĩa Lenin, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp và xin gia nhập Đệ Tam Quốc tế vì đây là những cá nhân và tổ chức duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Ông không thấy có sự lựa chọn nào khác. Nhưng trong nhiều năm sau đó những tổ chức này cũng không có hành động gì vì nền độc lập của các dân tộc thuộc địa. Trước mắt, ông đặt nhiều tin tưởng vào sự giúp đỡ của Mỹ trước khi có thể hy vọng vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Người Mỹ xem ông là một người quốc tế cộng sản, bù nhìn của Moscow vì ông đã ở Moscow nhiều năm nhưng ông không phải là người cộng sản theo nghĩa Mỹ hiểu mà là nhà cách mạng hoạt động độc lập.[92] Nhưng đến cuối tháng 9 năm 1946, Mỹ rút tất cả các nhân viên tình báo tại Việt Nam về nước, chấm dứt liên hệ với chính phủ Hồ Chí Minh.[93]
Bức điện Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Mỹ Harry Truman kêu gọi sự ủng hộ của Mỹ nhưng không được đáp lại
Ngoài ra, ông còn gửi thư cho nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới kêu gọi công nhận nhà nước Việt Nam mới được thành lập cũng như tranh thủ sự ủng hộ nhưng không nhận được hồi âm (Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman,[94]lãnh tụ Liên Xô Stalin,[95] tướng Charles de Gaulle, Thống chế Tưởng Giới Thạch, Tổng thống Pháp Léon Blum, bộ trưởng Thuộc địa Pháp Marius Moutet và Nghị viện Pháp,…).
Ngay sau khi thành lập, Võ Nguyên Giáp thay mặt Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời, ban hành các sắc lệnh giải tán một số đảng phái,[96][97] với lý do các đảng này "tư thông với ngoại quốc", làm "phương hại đến nền độc lập Việt Nam" (như Việt Nam Quốc xã, Đại Việt Quốc dân đảng...) nhằm kịp thời trừng trị "bọn phản cách mạng", "bảo vệ" chính quyền non trẻ đồng thời "giáo dục ý thức về tinh thần cảnh giác" cho nhân dân,[98] đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cho phép Ty Liêm phóng có thể bắt những hạng người bị quy là nguy hiểm cho nền Dân chủ cộng hoà Việt Nam.[99] Cùng với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh giải tán các nghiệp đoàn[100] để kiểm soát nền kinh tế,[101] thống nhất các tổ chức thanh niên (vào Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam). Đồng thời Chính phủ cũng ban hành sắc lệnh thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính địa phương các cấp.
Ngay sau khi được tin Tađêô Lê Hữu Từ trở thành Giám mục, tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh đã gửi thư chúc mừng vị Giám mục này. Trong thư có đoạn: "Có một nhà lãnh đạo mới của người Công giáo đi theo chân Đức Giê-su, chịu đóng đinh hầu giúp giáo dân biết hy sinh và chiến đấu bảo vệ tự do và độc lập của đất nước".[102] Về những lá thư của ông viết cho Tađêô Lê Hữu Từ, Viện sĩ Viện hàn lâm Hoàng gia Canada đồng thời giáo sư Đại học Lavát (Québec) - linh mục Trần Tam Tĩnh có nhận định: "Cụ Hồ Chí Minh rất thành thật tôn trọng tín ngưỡng và tin tưởng người Công giáo. Không có một dấu hiệu nào cho phép trách được rằng, Người nói dối". [103]
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp tấn công Sài Gòn. Quân dân Sài Gòn chống cự quyết liệt. Ủy ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập với Trần Văn Giàu là chủ tịch. Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ điện ra Trung ương xin cho được đánh. Chính phủ ra huấn lệnh, bản thân ông gửi thư khen ngợi "lòng kiên cường ái quốc của đồng bào Nam Bộ".[104]
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, tổng tuyển cử tự do trong cả nước được tổ chức, bầu ra Quốc hội và Quốc hội thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Hai đảng đối lậptrong Chính phủ là Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội (Việt Cách) không tham gia bầu cử dù trước đó Hồ Chí Minh đã gửi thư choNguyễn Hải Thần (lãnh tụ Việt Cách) và Vũ Hồng Khanh (lãnh tụ Việt Quốc) mời Việt Quốc và Việt Cách tham gia Tổng tuyển cử và đề nghị hai bên không công kích nhau bằng lời nói hoặc hành động cho đến ngày Quốc hội khai mạc.[105] Trên thực tế, các đảng này còn phát động tẩy chay bầu cử. Ngay cả khi đã tuyên bố nhất trí về kế hoạch tổng tuyển cử, các đảng phái Việt Quốc, Việt Cách vẫn dừng báo chỉ đả kích Việt Minh: trúng cử chỉ là Việt Minh cộng sản... chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được,[106] tổ chức các cuộc tuần hành, bắc loa hô hào kêu gọi tẩy chay bầu cử. Theo báo Sự thật, Việt Quốc, Việt Cách thậm chí bắt cóc, giết những ứng cử viên, đảng viên cộng sản, cán bộ Việt Minh (tiêu biểu là Trần Đình Long[107]) hay thủ tiêu những người cùng tổ chức có cảm tình với Chính phủ.[108]
Quốc hội khóa I của Việt Nam đã cử ra Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Đại biểu quốc hội chủ yếu là nhân sĩ trí thức, người ngoài Đảng. Hồ Chí Minh trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và với chức danh Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông cũng đảm nhiệm luôn công việc của thủ tướng. Chính phủ này, cho tới cuối năm 1946, đã trải qua 3 lần thay đổi cơ cấu và nhân sự vào các thời điểm: ngày 1 tháng 1; tháng 3; và ngày 3 tháng 11.
Nhà nước và chính phủ của ông đối mặt với hàng loạt khó khăn cả về đối nội và đối ngoại. Về đối ngoại, lúc này Việt Nam chưa được bất cứ quốc qia nào công nhận,[109] không phải thành viên Liên hiệp quốc,[110] cũng như không nhận được sự ủng hộ nào về vật chất của các nước khác. Ngoài 20 vạn quân của Trung Hoa Dân Quốc ở miền Bắc, còn có quân Anh và quân Pháp (vào thời điểm toàn quốc kháng chiến, tháng 12 năm 1946, Pháp có khoảng 6 vạn quân), và khoảng 6 vạn quân Nhật. Về đối nội, "giặc đói, giặc dốt" - như chính cách ông gọi - và ngân quỹ trống rỗng là những vấn đề hệ trọng nhất.[111][112]
Bởi thế, ông chú trọng đến việc phát triển giáo dục, mà trước hết là xóa nạn mù chữ bằng cách mở các lớp học Bình dân học vụ. Tháng 9 năm 1945, nhân ngày khai trường, Hồ Chí Minh đã viết thư gửi cho học trò Việt Nam. Thư có đoạn:[113]
“
|
Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.
|
”
|
— Hồ Chí Minh
|
Để diệt "giặc đói", ngoài việc kêu gọi tăng gia sản xuất, ông đề nghị đồng bào "cứ 10 ngày nhịn ăn 1 bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa" để đem số gạo tiết kiệm được cứu dân nghèo. Bản thân ông gương mẫu thực hiện việc nhịn ăn để cứu đói này.
Để đối phó với giặc ngoại xâm, ông thi hành một chính sách đối ngoại mềm dẻo và nhẫn nhịn. Ông nói:
“
|
Chính sách của ta hiện nay là chính sách Câu Tiễn, nhưng nhẫn nhục không phải là khuất phục
|
”
|
— Hồ Chí Minh.[114]
|
Tháng 10 năm 1945, khi Hà Ứng Khâm, tổng tham mưu trưởng của quân đội Trung Hoa Dân Quốc tới Hà Nội, 300.000 người được huy động xuống đường, hô vang các khẩu hiệu "Ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh", "Ủng hộ chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" để "đón tiếp".[115] Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, Trung Hoa Quốc Dân Đảng muốn làm thất bại ý đồ của Pháp định khôi phục lại địa vị tại Đông Dương và muốn ngăn chặn sự liên minh của người Việt Nam với các lực lượng cộng sản Trung Quốc trong phạm vi quyền lợi của Trung Quốc.[116] Ông chấp nhận cung cấp gạo (ban đầu kiên quyết từ chối[117]) cho quân Trung Hoa Dân Quốc đang làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật tại Việt Nam. Quân Trung Hoa Dân Quốc cũng được tiêu giấy bạc "kim quan" và "quốc tệ" tại miền Bắc.
Điều làm Hồ Chí Minh lo ngại là trong một số giới, đặc biệt là tầng lớp trung lưu Việt Nam, người ta vẫn gán mác cho ông và Việt Minh là "Cộng sản". Những người thuộc đảng phái quốc gia thân Trung Quốc thì lại không bị như vậy, nên ông phải làm mọi cách để gạt bỏ cái nhãn hiệu nói trên.[118] Tháng 11 năm 1945, ông quyết định cho Đảng Cộng sản Đông Dương tự giải tán. Về mặt công khai, đảng của ông không còn hiện diện mà chỉ có một bộ phận hoạt động dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương.[119] Ông kêu gọi các đảng viên nếu tự xét thấy mình không đủ phù hợp thì nên tự rút lui khỏi hàng ngũ lãnh đạo chính quyền.[120]
Với tư tưởng đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, ông kêu gọi và thực hiện triệt để chính sách đại đoàn kết dân tộc bằng cách mời nhiều nhân sĩ, trí thức tham gia các Chính phủ và Quốc hội. Trước Quốc hội, ông tuyên bố: "Tôi chỉ có một Đảng - đảng Việt Nam".[121] Trong số những nhân sĩ, trí thức do ông mời được lựa chọn vào các vị trí trong Chính phủ, có khá nhiều người vốn không tham gia Việt Minh. Đó là các bộ trưởng: Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đăng Khoa, Hoàng Tích Trí, Vũ Đình Hòe, Chu Bá Phương, Nguyễn Văn Tố và Bồ Xuân Luật. Năm 1947, Chính phủ được cải tổ với sự tham gia thêm của một số trí thức khác, như Phan Anh, Hoàng Minh Giám.[122] Về sau này ông cho biết:
"Khi tổ chức Chính phủ lâm thời, có những đồng chí trong Ủy ban Trung ương do Quốc dân đại hội bầu ra, đáng lẽ tham gia Chính phủ, song các đồng chí ấy đã tự động xin lui, để nhường chỗ cho những nhân sĩ yêu nước nhưng ở ngoài Việt Minh. Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết nhân dân lên trên lợi ích cá nhân. Đó là một cử chỉ đáng khen, đáng kính mà chúng ta phải học".[123]
Hồ Chí Minh xem những đảng phái quốc gia thân Trung Hoa Dân Quốc như Việt Cách, Việt Quốc là bọn quốc gia giả hiệu, đầy tớ Quốc dân Đảng, không có liên hệ gì với nhân dân Việt Nam. Ông miêu tả họ là những người không có tổ chức, một nhóm cơ hội tranh giành nhau, tàn dư của các đảng phái quốc gia cũ không có chương trình hành động cơ bản nhưng lại có quá nhiều lãnh tụ.[116] Nhưng ông chấp nhận sự hiện diện của Việt Cách, Việt Quốc trong các chính phủ liên tục được thay đổi, chấp nhận 70 ghế cho Việt Quốc, Việt Cách trong quốc hội không cần qua bầu cử. Tuy nhiên chức trách các Bộ cũng thay đổi. Bộ trưởng Quốc phòng trở thành người lo về tài chính mà không được xem xét danh sách nhân sự, quân số, súng đạn còn các Bộ trưởng khác của các đảng phái Quốc gia chẳng có chức trách cụ thể gì, không bao giờ được tham dự bất cứ buổi họp nào của nội các. Hồ Chí Minh cũng giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn, sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng.[124]
Khi biết Ngô Đình Diệm bị du kích Việt Minh bắt tại Tuy Hoà, Phú Yên,[125] Hồ Chí Minh yêu cầu đưa Ngô Đình Diệm ra Hà Nội. Ông đã đến gặp Ngô Đình Diệm để thuyết phục ông này tham gia chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Việt Minh lãnh đạo. Ngô Đình Diệm hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh lý do du kích địa phương xử bắn anh của ông thì được Hồ Chí Minh giải thích rằng đó một sai lầm do đất nước đang rơi vào tình trạng hỗn loạn.[126] Sau đó Hồ Chí Minh mời Ngô Đình Diệm giữ chức thủ tướng vì biết rằng ông là một người có tài lãnh đạo. Ngô Đình Diệm trả lời rằng ông chỉ đồng ý lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh với điều kiện ông được Việt Minh thông báo về tất cả mọi hành động và biết riêng mọi quyết định của họ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chối yêu cầu này do đó Ngô Đình Diệm không chấp nhận hợp tác với Hồ Chí Minh. [127][128][129]
Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồngtại Paris, 1946
Theo Hiệp ước Pháp-Hoa, ký ngày 28 tháng 2 năm 1946, quân Pháp sẽ thay thế quân của Tưởng Giới Thạch. Một tuần sau, ngày 6 tháng 3 năm 1946, ông cùng Vũ Hồng Khanh ký với Jean Sainteny - Ủy viên Pháp ở miền bắc Ðông Dương - bản Hiệp định sơ bộ với Pháp, với 3 nội dung chủ chốt:
Pháp công nhận Việt Nam "là một nước tự do, là một phần tử trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp". Trước đó, đàm phán căng thẳng khi ông muốn Việt Nam được công nhận là quốc gia độc lập và phản đối kịch liệt khi Pháp muốn dùng chữ "Quốc gia Tự trị" để mô tả tổ quốc của ông.
Pháp được đưa 1,5 vạn quân ra Bắc thế cho quân Tưởng, nhưng phải rút trong 5 năm, mỗi năm rút 1/5 quân số.
Ngừng xung đột, giữ nguyên quân đội tại vị trí cũ.
Ngày 31 tháng 5 năm 1946, ông lên đường sang Pháp theo lời mời của chính phủ nước này; cùng ngày, phái đoàn chính phủ do Phạm Văn Đồng dẫn đầu cũng khởi hành sang Pháp tham dự Hội nghị Fontainebleau 1946. Trước khi đi, ông bàn giao quyền lãnh đạo đất nước choHuỳnh Thúc Kháng[130] với lời dặn "Dĩ bất biến, ứng vạn biến".[131] Tại Việt Nam, ông dự đoán thời gian ở Pháp là "...có khi một tháng, có khi hơn"[132] nhưng cuối cùng ông ở Pháp 4 tháng (Hội nghị Fontainebleau diễn ra từ 6 tháng 7 tới 10 tháng 9 năm 1946) mà không tránh khỏi thất bại chung cuộc.
Trong khi Hồ Chí Minh đang ở Pháp, các lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội lần lượt rời bỏ Chính phủ vì bất đồng với Việt Minh về việc ký Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt (1946) cho phép quân Pháp quay trở lại Việt Nam[cần dẫn nguồn]. Ngày 19/6/1946, Báo Cứu Quốc của Tổng bộ Việt Minh đăng xã luận kịch liệt chỉ trích "bọn phản động phá hoại Hiệp định sơ bộ Pháp Việt mùng 6 tháng 3". Ngay sau đó, Võ Nguyên Giáp bắt đầu chiến dịch tiêu diệt tất cả các đảng phái đối lập như Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt, những người Trotskist, lực lượng chính trị Công giáo... bằng lực lượng công an và quân đội do Việt Minh kiểm soát với sự giúp đỡ của nhà cầm quyền Pháp. Ông cũng sử dụng các sỹ quan Nhật Bản trốn tại Việt Nam và một số vũ khí do Pháp cung cấp cho chiến dịch này.[133] Một trong những sự kiện nổi tiếng nhất trong chiến dịch tiêu diệt các đảng phái đối lập là vụ án phố Ôn Như Hầu. Trong vụ án này, Công an khám xét trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng với lý do hai đảng này âm mưu đảo chính nhằm lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Các thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng có mặt tại trụ sở cũng bị bắt trong đó có đại biểu của Việt Nam Quốc dân Đảng trong Quốc hội Việt Nam khóa I là Phan Kích Nam. Sau sự kiện này các lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội từng tham gia Chính phủ đã lưu vong sangTrung Quốc.
Hồ Chí Minh và Marius Moutet bắt tay sau khi ký Tạm ước Việt - Pháp
Hội nghị Fontainebleau 1946 thất bại vì phía Pháp chần chừ không ấn định chắc chắn thời điểm và cách thức thực hiện cuộc trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ về việc sáp nhập Nam Kỳ vào Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo yêu cầu của phái đoàn Việt Nam.[134] Phái đoàn Việt Nam do Phạm Văn Đồng dẫn đầu về nước nhưng Hồ Chí Minh vẫn nán lại Pháp ký Tạm ước với Pháp. Ngày 14 tháng 9 năm 1946, Hồ Chí Minh ký với đại diện chính phủ Pháp, bộ trưởng Thuộc địa Marius Moutet, bảnTạm ước Việt - Pháp (Modus vivendi). Trong bản Tạm ước này, hai bên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp cùng bảo đảm với nhau về quyền tự do của kiều dân, chế độ tài sản của hai bên; thống nhất về các vấn đề như: hoạt động của các trường học Pháp, sử dụng đồng bạc Đông Dương làm tiền tệ, thống nhất thuế quan và tái lập cải thiện giao thông liên lạc của Liên bang Đông Dương, cũng như việc thành lập ủy ban tạm thời giải quyết vấn đề ngoại giao của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cam kết ưu tiên dùng người Pháp làm cố vấn hoặc chuyên môn, và hai bên đã đồng ý chấm dứt mọi hành động xung đột, vũ lực cũng như tuyên truyền chống đối nhau, phóng thích tù nhân chính trị, bảo đảm không truy bức người của bên kia, và hợp tác để những kiều dân hai bên không làm hại nhau. Tạm ước cam kết sẽ có một nhân vật do Việt Nam chỉ định và Chính phủ Pháp công nhận được uỷ nhiệm cạnh thượng sứ để xếp đặt cộng tác thi hành những điều thoả thuận này. Cuối cùng, Chính phủ hai bên sẽ sớm tiếp tục đàm phán (chậm nhất là vào tháng 1 năm 1947) để tìm cách ký kết những bản thoả thuận riêng nhằm dọn đường cho một hiệp ước chung dứt khoát.[135][136]
Thế nhưng những nhân nhượng đó cũng không tránh nổi chiến tranh. Sau khi nhận được liên tiếp 3 tối hậu thư của Pháp trong vòng chưa đầy một ngày đòi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị chiến tranh, tước vũ khí của Tự vệ tại Hà Nội, và trao cho quân đội Pháp việc duy trì an ninh trong thành phố, ông kí lệnh kháng chiến. Tối ngày 19 tháng 12 năm 1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến do ông chấp bút được phát trên đài phát thanh. 20h tối cùng ngày, kháng chiến bùng nổ.
Giai đoạn kháng chiến chống Pháp
Tháng 3 năm 1947, ông và Trung ương Đảng chuyển lên Việt Bắc. Ông kêu gọi nhân dân tiêu thổ kháng chiến, tản cư cũng là kháng chiến, phá hoại (cho quân Pháp không sử dụng được cơ sở hạ tầng) cũng là kháng chiến.
Chuyến đi sang Trung Quốc và Liên Xô gặp Stalin và Mao Trạch Đông năm 1950 có ý nghĩa đặc biệt, nhất là trong vấn đề Trung Quốc và Liên Xô hỗ trợ chính phủ Bắc Việt Nam phát triển chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam và chống Pháp.[42] Đúng dịp Tết Nguyên đán Canh Dần năm 1950, ông thực hiện một chuyến đi bí mật sang Trung Quốc, Liên Xô. Ngày 2-1-1950, ông cùng Trần Đăng Ninh, từ Tuyên Quang đi bộ tới Trùng Khánh - Cao Bằng, rồi đi tiếp đến Long Châu, Quảng Tây. Đến đây, Hồ Chí Minh bắt được liên lạc với Đảng cộng sản Trung Quốc. Văn phòng Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc đã bố trí xe đón đoàn đi Nam Ninh, từ đó đoàn đi xe lửa đến Bắc Kinh. Ông làm việc ở Bắc Kinh một tuần, sau đó cùng Trần Đăng Ninh đi xe lửa liên vận đến Liên Xô. Chuyến đi bí mật này, ông đã thành công ở cả hai phương diện chính trị và ngoại giao, đó là chuyến đi lịch sử làm tiền đề cho việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam - Liên Xô, giữa Việt Nam - Trung Quốc và các nước Xã hội Chủ nghĩa khác. Ngày 11-3-1950, Hồ Chí Minh và ông Trần Đăng Ninh về đến Bắc Kinh, giữa tháng 4 -1950, ông mới về đến Tuyên Quang. [137]
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2 được tổ chức vào trung tuần tháng 2 năm 1951 tại Tuyên Quang, ông quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai trở lại. Tuy nhiên, khi này tên gọi không còn là Đảng Cộng sản nữa mà có tên mới là Đảng Lao động Việt Nam. Ông tuyên bố:
“
|
Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt
|
”
|
— Hồ Chí Minh[138]
|
Tại Đại hội này Đảng Lao động đã khởi xướng Cải cách ruộng đất nhằm xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần bị xem là "bóc lột", "phản quốc" (những người theo Pháp, chống lại đất nước), "phản động" (chống lại chính quyền) như địa chủ, Việt gian, cường hào, các đảng đối lập... để lập lại công bằng xã hội, đồng thời thiết lập nền chuyên chính vô sản nhằm tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng.
Từ tháng 10 năm 1952, chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi bản "chương trình cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam" cho Stalin để "đề nghị xem xét và cho chỉ dẫn" và cho biết chương trình hành động được lập bởi chính ông dưới sự giúp đỡ của Lưu Thiếu Kỳ.[139]
Cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được phát động vào cuối năm 1953 và kéo dài cho tới cuối năm 1957. Dù theo tuyên bố của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là đã "đánh đổ được giai cấp địa chủ cùng bọn Việt gian phản động",[140] cuộc cải cách này đã phạm nhiều sai lầm [141] nghiêm trọng, nhất là trong việc lạm dụng đấu tố và xử tử những người bị liệt vào thành phần địa chủ, phú nông thậm chí vu oan và giết nhầm cả những đảng viên trung kiên. Cựu thủ tướngVõ Văn Kiệt cho rằng, những vụ sát hại này đã "gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế".[142] Trước tình cảnh đó, từ tháng 2 năm 1956, công cuộc sửa sai được khởi sự, phục hồi được khoảng 70-80% số người bị kết án, trả lại tài sản ruộng đất. Những nhân vật cốt cán của cải cách bị cách chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm, ông khóc và nhận lỗi trước Quốc hội.
Cuộc Chiến tranh Đông Dương kết thúc vào năm 1954, khi thực dân Pháp bị đánh bại tại Điện Biên Phủ - sự kiện báo hiệu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi toàn thế giới[143] - và dẫn đến Hiệp định Genève. Kết quả mà đoàn Việt Nam thu nhận được kém hơn nhiều so với mục tiêu đề ra ban đầu. Tuy vậy, trên các phương tiện truyền thông chính thức, Hồ Chí Minh tuyên bố "Ngoại giao đã thắng to![144]
Giai đoạn sau năm 1954
Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cộng hòa Dân chủ Đức Wilhelm Pieck, 1957
Tháng 8 năm 1957, một năm sau cuộc nổi dậy năm 1956 tại Hungary,[145] Hồ Chí Minh dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam bỏ ra năm ngày thực hiện cuộc viếng thăm hữu nghị Cộng hoà Nhân dân Hungary. Một kỹ sư người Hungary đã ghi nhận:[145]
Bỏ qua mọi thứ lễ nghĩa nhưng vẫn khiến người khác phải kính trọng, con người ít lời, thông tuệ ấy có một tính cách rất lôi cuốn… Và ngày hôm đó đã đi vào tâm trí của tôi như một trong những kỷ niệm thật đẹp của đời tôi.
Hai năm sau (1959), ông tới thăm thủ đô Bắc Kinh nhân dịp kỷ niệm 10 năm cách mạng Trung Quốc. Trong những cuộc đàm phán riêng, ông nhận được sự hứa hẹn của cả Bắc Kinh lẫn Moskva để viện trợ thêm vũ khí và dân sự, nhưng đã khôn khéo từ chối những đề nghị gửi quân tình nguyện hay cố vấn quân sự đến Việt Nam.[146]
Hồ Chí Minh có quan hệ bạn bè thân thiết với Chu Ân Lai,[147] Diệp Kiếm Anh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm một đồi cây ở Phú Thọ, 1964
Từ khoảng nửa cuối thập niên 1960, Hồ Chí Minh giảm dần các hoạt động chính trị, thường xuyên sang Trung Quốc tham quan, nghỉ ngơi và dưỡng bệnh[148] (nhất là trong 3 năm cuối đời khi ông liên tục ốm nặng, phải đi sang Trung Quốc chữa bệnh nhiều lần). Trong một số lần tiếp xúc ngoại giao từ năm 1963, ông nói rằng mình sẽ dần bàn giao công việc cho Bí thư thứ nhất Lê Duẩn. Ông dần lui về nắm giữ vai trò biểu tượng của cách mạng, dành nhiều thời gian để đi thăm hỏi, động viên cán bộ và đồng bào, và viết báo. Quyền lực dần dần tập trung về tay bí thư thứ nhất Lê Duẩn và một số nhân vật gần gũi trongĐảng Lao động Việt Nam,[149][150] những người chủ trương tích cực thúc đẩy quá trình thống nhất đất nước bằng cách đẩy mạnh cuộc chiến tranh ở miền Nam. Tuy nhiên với vai trò và uy tín to lớn, các quyết sách lớn (như tổng tiến công Tết Mậu Thân hay việc đàm phán ở Paris) vẫn cần sự tham gia chỉ đạo và phê duyệt của Hồ Chí Minh.
Đầu tháng 9 năm 1963 Hồ Chí Minh lần đầu đi điều dưỡng trị liệu ở suối nước nóng Tòng Hoá (從化), tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Châu Ân Lai (周恩來) và Trần Nghị (陳毅) từ Bắc Kinh đến thăm Hồ Chí Minh, sắp xếp việc sinh hoạt hàng ngày và chăm sóc sức khoẻ cho Hồ Chí Minh. Ảnh chân dung thường thấy hiện nay của Hồ Chí Minh được treo ở các nơi quan trọng của Việt Nam là do nhiếp ảnh gia Lục Văn Tuấn (陸文駿) của "Quảng Đông hoạ báo" (廣東畫報) chụp trong thời gian Hồ Chí Minh điều dưỡng trị liệu ở suối nước nóng Tòng Hoá.[151]
Ít lâu sau khi Hoa Kỳ bắt đầu cuộc chiến tranh không kích, ném bom vào miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận được điện từ nhà triết học nổi tiếng người Anh Bertrand Russell - một người yêu hòa bình. Trong điện này, Russell nêu ra quan điểm chống đối của mình đối với sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam. Đáp lại, ông gửi Russell điện cảm ơn vào ngày 10 tháng 8 năm 1964. Điện này có đoạn:[152]
“
|
Chúng tôi luôn thiết tha với hoà bình và chủ trương giải quyết vấn đề Việt
|
”
|
— Hồ Chí Minh
|
Ngày 8/2/1967 tổng thống Mỹ Johnson gửi thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nội dung thư có đại ý là người Mỹ nhiều lần chuyển đến chính phủ Hồ Chí Minh mong muốn hoà bình bằng những kênh khác nhau nhưng không đạt kết quả nào và đề nghị chấm dứt cuộc xung đột tại Việt Nam để không tiếp tục gây đau khổ cho nhân dân hai miền Việt Nam cũng như nhân dân Mỹ. Tổng thống Mỹ cam kết sẽ ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam và ngừng tăng thêm quân tại miền Nam Việt Nam ngay khi miền Bắc chấm dứt đưa quân vào miền Nam. Hai bên cùng kiềm chế leo thang chiến tranh để đối thoại song phương một cách nghiêm túc hướng đến hoà bình. Việc tiếp xúc có thể diễn ra ở Moskva, Miến Điện hay bất cứ nơi nào Bắc Việt Nam muốn.
Ngày 15/2/1967 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư trả lời tổng thống Johnson tố cáo Mỹ đã xâm lược Việt Nam, vi phạm những cam kết của đại diện Mỹ tại Hội nghị Geneva, phạm nhiều tội ác chiến tranh tại cả hai miền Nam Bắc Việt Nam. Trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhân dân Việt Nam quyết tâm đánh thắng Mỹ bằng mọi giá. Nếu Mỹ muốn trực tiếp đối thoại với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì trước tiên phải ngừng ném bom vô điều kiện miền Bắc Việt Nam. Chỉ có thể đạt được hoà bình nếu Mỹ chấm dứt những hoạt động quân sự, rút quân Mỹ và đồng minh khỏi miền Nam để người Việt Nam tự giải quyết vấn đề của mình, đồng thời công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam.[153]
Giai đoạn cuối đời
Xem thêm: Di chúc của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh liên tục ốm nặng trong khoảng hơn 3 năm cuối đời. Hầu như cả năm 1967, ông ở Trung Quốc chữa bệnh.[42] Trong thời gian chuẩn bị diễn ra sự kiện Tết Mậu Thân 1968, ông đang trong đợt dưỡng bệnh dài ngày tại Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Tuy vậy ông vẫn quay về Việt Nam ít ngày vào tháng 12 năm 1967 để phê duyệt quyết định tiến hành cuộc tổng tấn công.[154][155] Hiệu lệnh mở màn cuộc tổng tấn công chính là bài thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh phát trên Đài tiếng nói Việt Nam: "Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua/Thắng trận tin vui khắp nước nhà/Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ/Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta."
Hồ Chí Minh bắt đầu viết di chúc vào dịp sinh nhật lần thứ 75 của ông năm vào ngày 10 tháng 5 năm 1965,[156] và sửa lại trong những dịp sinh nhật tiếp theo. Ông mang di chúc ra viết và dặn lại Vũ Kỳ: "Chú cất giữ cẩn thận, sang năm, mồng 10 tháng 5 nhớ đưa lại cho Bác". Mở đầu bản di chúc năm 1965 có đoạn: "Nhân dịp mừng 75 tuổi... Năm nay tôi 75 tuổi, tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn mạnh khỏe. Tuy vậy, tôi cũng là lớp người 'xưa nay hiếm'...".[157]
Trong di chúc, ông có viết:
“
|
Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
|
”
|
— Hồ Chí Minh
|
“
|
Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
|
”
|
— Hồ Chí Minh[141]
|
Qua đời
Các thiếu nhi khóc trong lễ tang Hồ Chí Minh năm 1969
Hồ Chí Minh qua đời vào hồi 9 giờ 47 phút sáng ngày 2 tháng 9 năm 1969 (tức ngày 21 tháng 7 âm lịch) tại thủ đô Hà Nội,[158]hưởng thọ 79 tuổi. Do hoàn cảnh thời chiến, để tránh trùng với ngày Quốc khánh, ngày mất của ông ban đầu được Ban Lãnh đạo Đảng công bố là ngày 3 tháng 9, đến năm 1989 mới công bố lại là ngày 2 tháng 9.[159]
Hà Nội đã nhận được hơn 22.000 bức điện chia buồn từ 121 nước trên khắp thế giới.[160] Nhiều nước trong khối xã hội chủ nghĩa đã tự tổ chức truy điệu và đưa ra những lời ca ngợi ông. Một tuyên bố chính thức từ Moskva đã gọi Hồ Chí Minh là một "người con vĩ đại của dân tộc Việt Nam anh hùng, nhà lãnh đạo xuất chúng của Cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc, và một người bạn lớn của Liên bang Xô Viết". Từ các nước Thế giới thứ ba, người ta ca ngợi ông trong vai trò của người bảo vệ những con người bị áp bức. Một bài báo xuất bản ở Ấn Độ miêu tả ông là sự kết tinh của "nhân dân và hiện thân của khát vọng đấu tranh cho tự do và cho sự đấu tranh bền bỉ của nhân dân".[160] Những bài báo khác đề cao phong cách giản dị và đạo đức cao của ông. Một bài xã luận trên một tờ báo của Uruguay viết:
“
Ông có một trái tim bao la như vũ trụ và tình yêu trẻ thơ vô bờ bến. Ông là hình mẫu của sự giản dị trong mọi mặt.[160]
”
Phản ứng từ các nước phương Tây dè dặt hơn. Nhà Trắng và các quan chức cấp cao của Hoa Kỳ từ chối bình luận. Báo chí phương Tây đặt sự chú ý cao đối với cái chết của Hồ Chí Minh. Các tờ báo ủng hộ phong trào phản chiến có xu hướng miêu tả ông như là một đối thủ xứng đáng và là người bảo vệ cho những con người bị áp bức. Ngay cả những tờ báo đã từng phản đối mạnh mẽ chính quyền Hà Nội cũng ghi nhận ông là người đã cống hiến cả cuộc đời cho công cuộc kiếm tìm độc lập và thống nhất đất nước Việt Nam của ông, đồng thời là tiếng nói nổi bật trong việc bảo vệ những dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.[160] Tại Vương quốc Anh, hay tin Hồ Chí Minh qua đời, vào ngày 12 tháng 9 năm 1969 Pet-ghi Đap-phơ - nhà báo tờ "Báo Diễn đàn", đã viết một bài báo, trong đó ông được xem như: "Hồ Chí Minh, một người vừa là G. Oasinhtơn, vừa là A. Linhcôn của đất nước mình".[161]
Bia tưởng niệm tại khách sạn Carlton, nơi Nguyễn Tất Thành làm việc năm 1913
Tang lễ được tổ chức vào ngày 9 tháng 9 tại quảng trường Ba Đình với hơn 100.000 người đến dự, trong đó có các đoàn đại biểu từ các nước xã hội chủ nghĩa. Hàng triệu người trên khắp đất nước Việt Nam đã khóc. Điếu văn truy điệu ông do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đọc, có đoạn viết:
“
|
Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa. Tổn thất này vô cùng lớn lao. Đau thương này thật là vô hạn ! Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch - Người anh hùng dân tộc vĩ đại. Và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta...
|
”
|
— Lê Duẩn.[162]
|
Trong di chúc, ông muốn được hỏa táng và đặt tro tại ba miền đất nước.[163][164] Tuy nhiên, theo nguyện vọng của Đảng Cộng sản, Nhà nước và nhân dân Việt Nam,[165] Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III quyết định giữ gìn lâu dài thi hài Hồ Chí Minh để sau này nhân dân cả nước, nhất là nhân dân miền Nam, khách quốc tế có thể tới viếng ông. Theo lời kể của con trai cả của bí thư Lê Duẩn, Lê Duẩn đã nói với Hồ Chí Minh về việc thi hài ông nên được bảo quản lâu dài để đồng bào trong Nam và cả nước được đến thăm, nghe vậy ông không nói gì.[166][167][168] Từ đó đến nay, thi hài ông được bảo quản trong lăngtại Hà Nội, tương tự như đối với thi hài Lenin ở Moskva.[169]
Hôn nhân và cuộc sống cá nhân
Xem thêm: Gia đình Hồ Chí Minh và Đôi dép Bác Hồ
Tăng Tuyết Minh.
Hôn nhân
Cho tới nay chưa có một tài liệu chính thức từ phía nhà nước Việt Nam nhắc đến việc Hồ Chí Minh đã từng kết hôn. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của một số sử gia ngoại quốc, Hồ Chí Minh đã kết hôn với Tăng Tuyết Minh ở Quảng Châu năm 1926 cho đến khi ông rời Quảng Châu, vào khoảng tháng 4 hoặc 5 năm 1927, từ đó không bao giờ còn gặp lại nhau.[170][171] Theo Hoàng Tranh (Viện Khoa học xã hội Quảng Tây, Trung Quốc), sau khi trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh đã thử tìm nhau thông qua tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc và cơ quan ngoại giao Việt Nam tại Trung Quốc nhưng không thành công[172][173] Một số Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, đặc biệt là Lê Duẩn phản đối việc này vì Hồ Chí Minh được nhân dân xem là cha già dân tộc, việc đoàn tụ với Tăng Tuyết Minh sẽ làm ảnh hưởng đến hình ảnh của Hồ Chí Minh và sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước.[174]
Về vấn đề Tăng Tuyết Minh, nhà nghiên cứu Sophie Quinn-Judge có ý kiến dè dặt hơn vì vào thời kỳ đó, đôi khi một cuộc hôn nhân diễn ra chỉ đơn thuần vì lý do chính trị, theo đó Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh đã sống chung với nhau như là một cách ngụy trang để duy trì các hoạt động chính trị của họ.[175]
Cũng theo Sophie Quinn-Judge, nếu căn cứ theo các tài liệu từ văn khố của của Đệ Tam Quốc tế từ năm 1934 đến 1935, Nguyễn Thị Minh Khai từng nhận mình là vợ của Hồ Chí Minh vào thời điểm năm 1931. Khi Nguyễn Thị Minh Khai đến Moskva cuối năm 1934, bà đã viết rằng bà đã có gia đình với "Lin", bí danh của Hồ Chí Minh vào thời điểm này.[176] Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn với Ban Tiếng Việt BBC, Sophie Quinn-Judge cũng nói thêm rằng mình "không biết chắc liệu đây có thuộc về dạng hôn nhân thật sự hay không", vì trong các thư từ của họ thường sử dụng nhiều loại mật mã, và nói chung những người hoạt động cách mạng có thể xem là "thuộc về một thế giới khác, vượt khỏi các khuôn khổ đạo đức bình thường" nên khó mà biết rõ cách thức hoạt động của họ.[175] Ngoài ra, Sophie Quinn-Judge cũng tìm ra một bức thư mà Nguyễn Thị Minh Khai viết vào năm 1933, trong đó Nguyễn Thị Minh Khai khẳng định rằng mình không hề bị vướng bận bởi chuyện chồng con, vì "người chồng" duy nhất của bà chính là sự nghiệp Cách mạng.[177]
Theo Halberstam, năm 1945, Hồ Chí Minh từng nói với nhà báo Harold Isaacs rằng ông cô đơn, không có gia đình, không có gì cả nhưng đã từng có một người vợ.[178] Nhưng trong nhiều cuộc gặp mặt khác, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định ông không có vợ và sẽ không lấy vợ cho đến lúc dân tộc Việt Nam toàn thắng, thống nhất đất nước.[174][179][180][181][182] Trong một buổi tiệc ở Bắc Kinh vào tháng 8 năm 1959, Hồ Chí Minh cũng đã tuyên bố với quan khách: chừng nào miền Nam chưa được giải phóng, ông sẽ không bao giờ kết hôn.[174]
Trong các thư từ, bản thân ông cũng nhiều lần khẳng định rõ ông là người không có gia đình riêng và không có con cái. Chẳng hạn như trong thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng khi nghe tin con trai ông này hi sinh:
“ Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột.[183] ”
Cuộc sống cá nhân
Hồ Chí Minh là người nghiện thuốc lá nặng. Trong buổi tiếp William C. Baggs, biên tập viên của Tin tức Miami tại Hà Nội đầu năm 1967, ông liên tục hút thuốc, loại thuốc lá Mỹ nhãn hiệu Salem. Ông ăn mặc đúng mực, lịch thiệp, nhạy cảm và không tạo áp lực lên người khác. Kiểu ăn mặc thường là áo pijama trắng cao cổ, đi dép cao su.[46] Ông Harry Ashmore, người của Trung tâm nghiên cứu của các tổ chức dân chủ và cựu biên tập viên của Công báo Arkansas nhớ lại:
“
|
Ông Hồ là một người có phong thái tao nhã, rất tinh tế với một cách xử sự nhẹ nhàng và không có tâm địa cá nhân
|
”
|
— Harry Ashmore[46]
|
Ngày 19 tháng 5 năm 1946, sinh nhật Hồ Chí Minh lần đầu tiên được tổ chức nhằm mục đích nâng cao tinh thần đoàn kết dân tộc. Dù là người đứng đầu một nước nhưng sinh nhật của ông được tổ chức rất đơn sơ, giản dị và mộc mạc. Những năm sau đó, sinh nhật của ông thường chỉ được tổ chức vào năm chẵn, còn các năm khác thì ông thường lặng lẽ tổ chức một bữa "ăn tươi" nho nhỏ với vài cán bộ thân cận. Trong hai lần sinh nhật cuối đời, Hồ Chí Minh đều lấy dự thảo di chúc ra sửa lại.[184] Tuy ông là chủ tịch của một nước nhưng đời sống sinh hoạt hằng ngày cũng chẳng khác mấy so với người thường, ông sống trong một căn nhà tranh hay còn gọi là túp lều. Bữa ăn đạm bạc của ông đã được nhận xét là rất giản dị và đơn sơ và theo thủ tướng Phạm Văn Đồng, người đã nhiều lần ăn chung với ông, nhận xét ông ăn vừa đủ không bỏ món thừa và ăn không sót một hột cơm vì ông tôn trọng thành quả lao động của nông dân.[185][186]
Hồ Chí Minh là người rất chăm tập thể dục và thích chăm sóc cây cối, là người có cuộc sống khá điều độ, tuy có tật hút thuốc là đến 2 năm cuối đời mới bỏ được. Ông giỏi một số thứ tiếng: Nga, Pháp, Trung, Anh, Ý.
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Bài chi tiết: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Xem thêm: Chủ nghĩa cộng sản
Ngôi nhà của Hồ Chí Minh tại thủ đô Hà Nội.
Là một nhà lãnh đạo nổi tiếng ở Đông Nam Á, ông đã kết hợp chủ nghĩa Marx-Lenin với chủ nghĩa dân tộc Việt Nam.[187] Tư tưởng chủ đạo trong các cuộc đấu tranh của Hồ Chí Minh là kết hợp cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản. Ông đi theo trào lưu chủ nghĩa cộng sản do Karl Marx và Friedrich Engels đề xuất vốn đang nổi lên vào thời của ông. Ông tiếp nhận tư tưởng củaLenin về vấn đề thuộc địa, và xem đó làm kim chỉ nam cho các hoạt động của mình sau này.[188] Ông viết trên tạp chí Các vấn đề phương Đông (Liên Xô), dẫn lại trên báo Nhân dân ngày 22 tháng 4 năm 1960: "Chủ nghĩa Lenin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản."[188]
Nhiều lần ông bảo: "bệnh quan liêu, mệnh lệnh chỉ đưa đến kết quả là hỏng việc và thực hành dân chủ rộng rãi cũng là cách chống quan liêu tích cực". Chính vì thế, ông đề nghị tất cả mọi người đều tuân theo 6 điều: "Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ. Có khuyết điểm thì phải thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình. Sẵn sàng học hỏi nhân dân. Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính để nhân dân noi theo".[189]
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng:[189] “
Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra.
”
— Hồ Chí Minh
Về giáo dục, ông là người rất quan tâm đến cách dạy học cụ thể và thiết thế. Ông cho rằng:[113] “
Chúng ta phải tẩy rửa những thành kiến giữa các dân tộc, phải đoàn kết thương yêu nhau như anh em một nhà. Nhiệm vụ của các cháu là thi đua học tập để sau này góp phần mở mang quê hương của mình và xây dựng nước Việt Nam yêu quý của chúng ta.
”
— Hồ Chí Minh
Năm 1955, trong Lễ khai mạc Trường Đại học Nhân dân Việt Nam vào ngày 19 tháng 1, ông có bài nói chuyện với những sinh viên cũng như thanh niên. Trong bài nói chuyện này có đoạn:(Tổng thống Mỹ John F. Kennedy sau này cũng có ý tưởng tương tự trong diễn văn nhậm chức năm 1961)[190]
Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?
Di sản
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tại Việt Nam, ông được xem là nhân vật chính trong công cuộc giải phóng dân tộc. Đối với nhiều người, ông là một nhà yêu nước đã vận dụng chủ nghĩa Marx-Lenin vào công cuộc giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thực dân và đế quốc. Tính giản dị và kiên cường của ông được nhiều người kính mến. Giáo sư David Thomas cho rằng "Chính viễn kiến của ông, sự hy sinh, tính bền bỉ và sự lãnh đạo của ông trong một nước nghèo nàn, lạc hậu đã thúc đẩy người Việt Nam đứng dậy, đánh thắng thực dân Pháp và quân đội Mỹ."Cũng chính giáo sư này xem ông là một nhân vật trong thời kỳ Phục Hưng, là người nói giỏi không ít ngoại ngữ, lại còn viết được thơ bằng chữ Hán. Trong đời, Hồ Chí Minh đã tham khảo những danh nhân về văn học và triết học như Victor Hugo, Charles Dickens,Lev Nikolayevich Tolstoy hay Fyodor Mikhailovich Dostoevsky thông qua các tài liệu bằng ngôn ngữ bản xứ của họ. Tuy nhiên, ông cũng nói rằng "Họ (Chính phủ Việt Nam) đã thánh hóa hình ảnh của ông, biến ông thành một vị thánh và điều đó khiến việc có được bức tranh thực và đầy đủ về cuộc đời ông trở thành bất khả." [191]
Nhiều người dân Việt Nam yêu quý ông, gọi ông bằng cái tên thân mật Bác Hồ. Trong văn thơ, ông còn được gọi là "Người Cha già dân tộc". Một số dân tộc thiểu số Việt Nam, như Vân Kiều, Pa Cô, Kor, đã lấy họ Hồ vì yêu quý ông.[192] Ông được thờ tại nhiều gia đình Việt Nam,[2][5][193][194] cũng như tại nhiều gia đình Việt kiều ở Thái Lan,[195] Lào[196],... và một số gia đình ở các nước khác như Na Uy.[197]
Với chiến thắng quyết định ở trận Điện Biên Phủ, những nước thuộc địa trước đây của Pháp, chủ yếu ở Bắc Phi và Tây Phi cũng theo gương Việt Nam nổi dậy. Hồ Chí Minh được người dân ở những nước này rất kính trọng, và được coi như tấm gương cho cuộc giải phóng tại đất nước họ. (!?)
Tưởng niệm
Trong nước
Tượng Bác Hồ với thiếu nhi của Diệp Minh Châu tại TP. Sa Đéc
Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, phủ toàn quyền Đông Dương bên cạnh Quảng trường Ba Đình, nơi ông đã đọc Tuyên ngôn độc lập được chọn là nơi làm việc của Đảng, Nhà nước và đồng thời là nơi ở, nơi làm việc của Chủ tịch nước. Từ đó trở đi, nơi đây trở thành Khu di tích Phủ Chủ tịch. Khu này là nơi sống và làm việc lâu nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của ông - từ 19 tháng 12 năm 1954 đến 2 tháng 9 năm 1969 (đây cũng là khoảng thời gian ông có những đóng góp quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam). Khu di tích Phủ Chủ tịch hàng năm đón nhiều khách tham quan trong và ngoài nước. Một công trình khác là Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi tuần có hơn 15.000 người đến đây viếng thăm,[198][199] trong đó có nhiều nguyên thủ các nước.
Bảo tàng Hồ Chí Minh tại Hà Nội là khu tưởng niệm về Hồ Chí Minh lớn nhất Việt Nam. Tại các tỉnh thành phố khác cũng có các bảo tàng, nhà lưu niệm về ông, đặt tại những địa điểm ông đã từng sống và làm việc. Nổi bật nhất là bến Nhà Rồng tại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi ông đã xuống tàu "Đô đốc Latouche Tréville" ra đi tìm đường cứu nước, và Nhà tưởng niệm xây dựng năm 1970 ở quê nội của ông.
Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh tại thành phố Hồ Chí Minh
Nhằm tôn vinh ông, năm 1976, kỳ họp Quốc hội đầu tiên sau ngày Việt Nam được thống nhất đã thống nhất quyết định đổi tên thành phố Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh. Chiến dịch quân sự lịch sử xảy ra trên thành phố này, kết thúc Chiến tranh Việt Nam và mở đầu thời kỳ thống nhất của Việt Nam cũng mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Tên ông còn được đặt cho các giải thưởng và huân chương cao quý nhất của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: Huân chương Hồ Chí Minh là huân chương bậc cao thứ nhì của Nhà nước; Giải thưởng Hồ Chí Minh là giải thưởng cao quý nhất dành cho những cống hiến trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ. "Cháu ngoan Bác Hồ" là danh hiệu dành cho các thiếu nhi có thành tích cao trong học tập và hoạt động xã hội. Tên ông còn được đặt cho hai tổ chức chính của thanh thiếu niên Việt Nam: Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Các tên Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc hay Nguyễn Tất Thành còn được đặt cho nhiều công trình công cộng, như đường quốc lộ, quảng trường, đường phố, trường học.
Hình ảnh và tượng ông hiện diện tại nhiều nơi công cộng, cũng như trên tất cả các đồng tiền giấy đang lưu hành tại Việt Nam. Cùng với quốc kỳ, tượng bán thân hoặc hình ông được đặt tại nơi trang trọng nhất của mỗi cơ quan nhà nước và trường học tại Việt Nam.
Quốc tế
Tại các quốc gia khác cũng có các nhà lưu niệm về Hồ Chí Minh,[201] chẳng hạn như ở Pháp.[202][203] Ngoài ra còn có rất nhiều đài kỷ niệm và bia tưởng niệm. Tại Việt Nam, Hồ Chí Minh còn được thờ trong một số đền, chùa và gia đình. Ngoài phạm vi Việt Nam, Hồ Chí Minh được tưởng niệm tại nhiều công trình trên thế giới.[204] Tên ông đã được đặt cho các đại lộ tại Luanda (Angola), tạiOuagadougou (Burkina Faso) và tại Maputo (Mozambique). Tại Berkeley, California, nơi có nhiều cuộc biểu tình chống chiến tranh Việt Nam, nhiều nhà hoạt động cộng đồng đã từng gọi Công viên Frances Willard là Công viên Hồ Chí Minh một cách không chính thức.[205] Nhiều nước trên thế giới đã phát hành tem bưu chính kỷ niệm ông: Liên bang Xô viết, Ấn Độ, Lào, Madagascar, Algérie,Cuba, Đông Đức, Triều Tiên, Quần đảo Marshall, Dominica,... Tượng đài ông được đặt tại nhiều thành phố trên thế giới, trong đó cóLa Havana (Cuba), Moskva (Nga), Zalaegerszeg (Hungary), Montreuil (Pháp), Calcutta (Ấn Độ), Antananarivo (Madagascar),[206] vàCaracas (Venezuela)[207][208]
Tuy nhiên, tại một số cộng đồng người Việt hải ngoại, đặc biệt là Hoa Kỳ mà đa phần là những người rời khỏi Việt Nam sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, hình ảnh của ông bị phản đối mãnh liệt. Năm 1999, khi một người cho thuê băng đĩa treo chân dung Hồ Chí Minh trước cửa tiệm mình tại Little Saigon, hàng vạn người Mỹ gốc Việt và cựu binh Hoa Kỳ tại Việt Nam đã tham gia biểu tình phản đối, gây ra nhiều tranh cãi về vấn đề tự do ngôn luận tại Hoa Kỳ.[209][210][211] Một cuộc triển lãm nghệ thuật về ông tại Oakland, California năm 2000 cũng bị hàng trăm người biểu tình phản đối.[212][213] Trong một hành động phản đối chuyến thăm của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tới Hoa Kỳ, hình nộm của ông bị đem ra treo cổ và hình ảnh ông bị giẫm đạp, một số cuộc biểu tình phản đối chính quyền Việt Nam tại Hoa Kỳ cũng có những hành động tương tự[212].[214][215][216][217]
Danh hiệu
Ông được xem là một danh nhân không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn của thế giới. Trong Khóa họp Đại hội đồng lần thứ 24 tại Paris (20/10 - 20/11/1987), UNESCO đã tôn vinh ông là "Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa" (nguyên văn: Hero of national liberation and Great man of culture)[218][219] và khuyến nghị các nước thành viên tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông do "các đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật", và ông "đã dành cả cuộc đời mình cho sự giải phóng nhân dân Việt Nam, đóng góp cho cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của các dân tộc [trên thế giới]".[218][220] Tuy nhiên, do sự phản đối của một số người Việt tị nạn và người Pháp tại thủ đô Paris, UNESCO không đứng ra tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hồ Chí Minh mà để chính phủ Việt Nam tự tổ chức nhưng không được lấy danh nghĩa UNESCO.[221] Dù vậy, nghị quyết gốc vẫn được UNESCO công nhận và bảo lưu giá trị. Phát biểu tại hội thảo quốc tế ở Hà Nội tháng 3/1990, Giám đốc UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương Modagat Ahmet, khẳng định:
"Hội nghị UNESCO phiên thứ 24 đã quyết định kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông vào năm 1990. Đây là một cử chỉ tôn kính đối với một nhân vật vĩ đại đã cống hiến trọn đời mình cho sứ mệnh tự do và độc lập. UNESCO rất vui sướng được tham gia vào sự kiện đáng ghi nhớ này. Điều đó biểu hiện sự cam kết sâu sắc của tổ chức này trong việc duy trì các giá trị và công lao của các nhân vật vĩ đại được nhân loại công nhận và kính trọng... Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay từ khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó. Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ, mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này".[219][222]
Văn bản gốc Nghị quyết của UNESCO về Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh được in trong "Tập biên bản của Ðại Hội đồng UNESCO khóa họp lần thứ 24 tại Paris, từ ngày 20-10 đến 20-11 năm 1987, Quyển 1: NGHỊ QUYẾT", được UNESCO xuất bản đồng thời bằng 6 thứ tiếng (tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Ả Rập, tiếng Trung Quốc, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Nga), được in và đóng quyển tại xưởng in của UNESCO, Paris, vào năm 1988, trong đó có Nghị quyết số 18.65 về Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh[222] Năm 2010, văn bản gốc bằng tiếng Pháp của Nghị quyết đã được Tổng Giám đốc UNESCO trao tặng cho Bảo tàng Hồ Chí Minh để trưng bày.[223]
Tuần báo TIME của Hoa Kỳ bình chọn Hồ Chí Minh là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ 20.[224] Tờ Time 2000 đã nhận định ông là người đã góp phần "làm thay đổi diện mạo hành tinh chúng ta trong thế kỷ XX".[225] Ngày 15 tháng 10 năm 2010, báo Time cũng đã bầu chọn Hồ Chí Minh là một trong 10 tù nhân chính trị nổi bật chiến đấu cho tự do nổi tiếng nhất mọi thời đại cùng với Aung San Suu Kyi, Nelson Mandela, Martin Luther King Jr., Mohandas Gandhi...[226]
Bộ tem đầu tiên của Việt Nam phát hành ngày 2 tháng 9 năm 1946
Tem Liên Xô tưởng niệm Hồ Chí Minh, 1990
Tem của Cộng hòa dân chủ Đức tưởng niệm Hồ Chí Minh 1970
Ảnh hưởng của Hồ Chí Minh ở Việt Nam ngày nay
Tại Việt Nam, hình ảnh Hồ Chí Minh phổ biến khắp nơi như là một "tấm gương sáng ngời về đạo đức",[227] một "nhân cách cao thượng" và được coi là một "thần tượng".[228]Những tác phẩm nói về Hồ Chí Minh thường ca ngợi những đức tính tốt đẹp của ông. Các cấp ủy Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân học tập và làm theo tấm gương đạo đức, lối sống của Hồ Chí Minh.[229] Mỗi năm, chính quyền và Đảng bộ đều tổ chức các cuộc thi Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho nội bộ lẫn quần chúng.
Ngoài những phát biểu của chính Hồ Chí Minh và hình vẽ, hình chụp của ông, những câu nói và khẩu hiệu tuyên truyền có thể đọc thấy ở mọi nơi đó là:
Đời đời nhớ ơn Bác Hồ vĩ đại
Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp chúng ta
Hồ Chí Minh – Chân dung một con người
Xem phần một: Hồ Chí Minh – Chân dung một con người
Ở Paris có bức tường “Những người làm nên thế kỷ 20″ (Ils ont fait le XX Siecle) có nụ cười Bác Hồ ở đây, giữa những trí tuệ, những tâm hồn lớn ở thời đại chúng ta. Trong một thế giới vẫn còn nhiều bạo ngược và lẫn lộn, đã có một cuộc đời Hồ Chí Minh, một con người Hồ Chí Minh.
Người ta có thể gọi Bác bằng nhiều cách khác nhau: 1 vị lãnh tụ, 1 người cộng sản chân chính, 1 tâm hồn và trí tuệ lớn lao, 1 con người của những quyết định lịch sử; nhưng trên hết thảy, Hồ Chí Minh là 1 người con yêu nước vĩ đại đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Ngày 19 tháng 5 năm 1890, cậu bé Nguyễn Sinh Cung cất tiếng khóc chào đời tại quê ngoại làng Chùa, Nam Đàn, Nghệ An. 500 năm trước, chúng ta có người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. 500 năm sau, theo đúng lời sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:“Đụn Sơn phân giải, Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh”, chúng ta có Hồ Chí Minh.
Tuổi thơ của cậu bé Cung đã chứng kiến kiếp sống nô lệ lầm than của dân tộc dưới nhiều tầng áp bức. Ngày vua Thành Thái bị thực dân Pháp bắt đi đầy, vua đã khẳng khái: “Muôn dân nô lệ từng đàn. Vui chi bệ ngọc ngai vàng riêng ta”. Khi đó Nguyễn Sinh Cung đang ở Huế cùng cha, trước cảnh đó, cậu đã cúi mặt xuống để không rơi lệ; nhưng cha cậu – nhà Nho yêu nước Nguyễn Sinh Sắc đã nhắc cậu ngẩng mặt lên nhìn để không quên thù nhà nợ nước vẫn còn chưa trả xong. Từ đó cho đến mấy chục năm về sau, người thanh niên yêu nước đó không bao giờ cúi mặt nữa, không bao giờ chịu khuất phục trước bất kỳ sức mạnh nào; kể cả sau này là Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Văn Ba, Lý Thuỵ, Hồ Quang, Bác Hồ, hay Hồ Chí Minh.
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước từ bến cảng Nhà Rồng với đôi bàn tay trắng. Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Rồi anh sang Liên Xô để hoạt động cách mạng Quốc tế. Năm 1924, Lý Thụy sang Trung Quốc, thành lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí hội ở Quảng Châu, đồng thời viết cuốn Đường kách mệnh.
Sau 30 năm bôn ba, đến năm 1941, Người trở về Việt Nam, thành lập Mặt trận Việt Minh, từ đây Người là Hồ Chí Minh, trực tiếp lãnh đạo Đảng Cộng Sản Đông Dương và phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Trong thư gửi đồng bào Nam Bộ, Bác viết:
Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài, nhưng ngắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi tổ tiên ta.
Năm 1946, trong lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, Người khẳng định:
Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ quyết không chịu mất nước, quyết không chịu làm nô lệ.
Bằng niềm tin sắt đá và nhiệt huyết của mình, Người đã nêu gương sáng của 1 người Việt Nam sống có lý tưởng:
Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến
Trí ta đã quyết, lòng ta đã đồng.
Tiến lên chiến sĩ, tiến lên đồng bào
Sức ta đã mạnh, người ta đã đông.
Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi
Thống nhất độc lập, nhất định thành công.
Trí ta đã quyết, lòng ta đã đồng.
Tiến lên chiến sĩ, tiến lên đồng bào
Sức ta đã mạnh, người ta đã đông.
Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi
Thống nhất độc lập, nhất định thành công.
Cuộc đời Bác còn có gì đặc biệt ? Trong thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tùng, Bác đã tự nhận là người không có gia đình và không có con nhưng “gia đình tôi là Việt Nam , con cái tôi là các thanh niên Việt Nam ”. Hiếm có vị lãnh tụ nào nếm mật nằm gai chịu khổ cùng quân dân trong những năm kháng chiến, rồi lại sát cánh cùng cả nước dựng xây trong những năm hòa bình như Hồ Chí Minh đã làm. Cho dù không phải tất cả đều diễn ra như mong muốn Trước những sai lầm nặng nề trong cải cách ruộng đất bởi tính giáo điều bảo thủ và áp đặt cộng sản, Bác đã khóc nhận trách nhiệm và tự phê bình trước toàn dân:
Một đảng mà giấu giếm khuyết điểm là một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận những khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó vì đâu mà có, và tìm mọi cách sửa chữa những khuyết điểm đó, như thế mới là một đảng mạnh dạn, chắc chắn, và chân chính.
Những năm sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ bị phá vỡ, đất nước bị chia cắt, lại phải lo thù trong giặc ngoài; một mặt là sự đánh phá khốc liệt của đế quốc Mỹ tại miền Bắc Việt Nam, một mặt là sự chống Cộng điên cuồng của chính quyền tay sai miền Nam Việt Nam; dân tộc ta vẫn kiên cường đi theo con đường đã vạch ra, đấu tranh không mệt mỏi giữa một bên là sức mạnh vật chất kinh khủng và mù quáng với một bên là sự lựa chọn trí tuệ và tình thương của từng con người. Trong những lúc cam go khó khăn nhất đó, Người vẫn vững một niềm tin, bởi đến ngày thống nhất, chúng ta sẽ xây dựng lại đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
Thế giới đánh giá ra sao về vị Chủ tịch nước này ? Họa sĩ Thụy Điển Eric Johansonnói về Nguyễn Ái Quốc:
Đó là một con người kiệt xuất trên nhiều lĩnh vực, một con người uyên bác.
Còn nhà thơ Xô Viết Oxit Măngđenstand đã viết:
Cả khuôn mặt Nguyễn Ái Quốc toát lên sự lịch thiệp và tế nhị, từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một nền văn hóa, không phải nền văn hóa ở châu Âu mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai. Qua cử chỉ cao thượng và tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc tôi thấy được ngày mai, thấy được viễn cảnh trời yên bỉển lặng của nền hữu ái toàn thế giới bao la như đại dương.
Tạp chí TIME đánh giá Bác là 1 trong những nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn nhất của thế kỷ 20.
Cuộc sống riêng của Người cũng có nhiều điểm đáng nói. Quê hương nghĩa nặng tình sâu, nhưng cả một đời vì nước vì non, cho đến khi luống tuổi, Bác mới chỉ kịp về thăm quê đôi lần. Trong dịp đi thăm quê Bác năm ngoái, người viết có được nghe hướng dẫn viên khu di tích kể lại rằng khi nhà nước có ý định trùng tu lại khu di tích này có đặt cổng ở phía vườn; lúc Bác về thăm mới chỉ rằng xưa kia cổng nhà Bác nằm ở phía này, khung cửi cũ của mẹ Bác – bà Hoàng Thị Loan – đặt ở phía kia. Vậy là suốt mấy chục năm bôn ba, cậu bé Cung vẫn nhớ như in những hình ảnh ngôi nhà nhỏ của ông Phó bảng đã nuôi dưỡng tâm hồn Người ngày nào.
Trong thư gửi anh cả Nguyễn Sinh Khiêm, Bác viết:
vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc Anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc Anh tạ thế, tôi không thể lo việc. Than ôi! Tôi chịu tội bất đễ trước linh hồn Anh và xin bà con nguyên lượng cho một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước.
Thân sinh Bác, cụ Nguyễn Sinh Sắc, mất tại miền Nam , Bác còn chưa đến thăm được.
Tuổi xế chiều, Bác Hồ đã về sống ở đây, đúng như mong muốn của Người được sống trong ngôi nhà nhỏ, có vườn cây, ao cá, sớm chiều bầu bạn với các cụ già em nhỏ, xa lánh vòng danh lợi. Cuộc sống vật chất của Người chỉ nhỏ bé vậy thôi, trái ngược với ham muốn to lớn của Người:
Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
Xin mượn câu nói của đồng chí Lê Duẩn thay cho lời kết bài: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ Tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, và non sông đất nước ta.”
Trong phòng riêng của người viết có treo 1 tấm ảnh “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân” như một lời nhắc nhở noi theo tấm gương của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, với niềm tự hào được làm một người con đất Việt – Trên ngực áo này không một tấm huân chương, và sau làn vải ngực áo này có một trái tim.
Nhân ngày này, xin được viết đôi dòng gửi đến Bác tình cảm kính yêu chân thành nhất. Chúc mừng 19 tháng 5 với 2 mốc son chói lọi: 1890 và 1983, chúc mừng sinh nhật Hồ Chủ Tịch
Các câu nói nổi tiếng
Một tấm bảng tuyên truyền tại Việt Nam với nội dung chỉ thị của Hồ Chí Minh về tổng khởi nghĩa
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về:
Hồ Chí Minh
"Hỡi đồng bào cả nước. Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc!".[230]
Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập, tự do! [231]
"Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì".[232]
"Người ta sinh ra và mãi mãi tự do và bình đẳng về quyền. Các quyền ấy là: tự do, tư hữu, an ninh và chống áp bức."[233].
"Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người", lấy ý từ câu "thập niên chi kế, mạc như thụ mộc; chung thân chi kế, mạc như thụ nhân" (Hán văn: 十年之計,莫如樹木;終身之計,莫如樹人) trong sách "Quản tử", chương thứ ba Quyền tu.
Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một; sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.
Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập[234]
Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?[235]
Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.[236]
Quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh.[237]
Tôi chỉ có một Đảng: Đảng Việt Nam.[238]
Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.
Hình ảnh miền Nam luôn ở trong trái tim tôi.
Nhiệm vụ của thanh niên không phải là đòi hỏi Nước nhà đã cho mình những gì, mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho Nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi Nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích Nước nhà mà hy sinh phấn đấu đến chừng nào?[239]
“ Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. ”
— Trích phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lễ kỉ niệm 20 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam , năm 1964)
“ Hỡi đồng bào cả nước! Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước. ”
— trích Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946)
“ "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"[240] ”
— trích Báo Cáo Chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ II, tháng 2 năm 1951
“ Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu ”
— Hồ Chí Minh - trích thư gửi các em học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 9/1945.[241]
“ Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính. ”
— Hồ Chí Minh - Sửa đổi lối làm việc [242]
Chúng ta thường nêu vấn đề dân chủ, đồng chí nào cũng thấy phải thực hành dân chủ. Nếu ai nói chúng ta không dân chủ, thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như thế![243]
Các câu nói khác
Trước 1945
Theo tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch của tác giả Trần Dân Tiên, trước khi Nguyễn Tất Thành rời Bến Nhà Rồng đến Pháp năm 1911, cậu rủ một người bạn đi cùng để có gì giúp đỡ lẫn nhau. Người bạn hỏi cậu lấy tiền đâu mà ra đi, cậu giơ tay ra mà nói: Đây tiền đây! Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. [244]
Về mục đích đi ra nước ngoài của mình, năm 1923 Nguyễn Ái Quốc đã trả lời rằng: "Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái... Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy".[245] Một lần khác anh nói: "Nhân dân Việt Nam trong đó có cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi"[246]
Khi lần đầu đến thăm tượng Nữ thần Tự do năm 1913, Nguyễn Tất Thành là nhìn xuống chân tượng và ghi vào sổ: "Ánh sáng trên đầu thần Tự Do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp, số phận người phụ nữ bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?".[247]
Vào mùa xuân 1919, một người bạn Pháp đưa cho Nguyễn Tất Thành một bản sao báo cáo của Lênin in trong báo Nhân đạo (L’Humanité): "Luận cương về những vấn đề dân tộc và thuộc địa". Anh vui mừng đến phát khóc lên, nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!"[248]
Trong bài báo nhan đề "Cách mạng Nga và các dân tộc thuộc địa", Nguyễn Ái Quốc viết: "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra"[249]
Trong tác phẩm "Nên Học Sử Ta", Hồ Chí Minh đã viết: "Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào nhân dân ta đoàn kết muôn người như một thì đất nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào nhân dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi…"[250]
1945 - 1946
Sau 80 năm bị thực dân Pháp giày vò, nước Việt Nam ta cái gì cũng kém cỏi, chỉ có lòng sốt sắng của dân là rất cao. [251]
Bọn ấy sang thì chả tử tế gì đâu. Chúng sẽ ăn hại, báo hại, đưa phản động về phá ta, làm những điều chướng tai gai mắt.[252]
Theo tinh thần "bốn bể đều là anh em", tôi yêu mến thanh niên Pháp cũng như yêu mến thanh niên Việt Nam . Đối với tôi, sinh mệnh của một người Pháp hay sinh mệnh của một người Việt Nam đều đáng quý như nhau. Hỡi các bà mẹ Pháp! Tôi kêu gọi tinh thần yêu nước cao quý và tình mẫu tử của các bà. Các bà hãy giúp chúng tôi ngăn chặn những hiểu lầm và mau chóng gây dựng mối tình hữu nghị và tinh thần hoà hợp giữa con em chúng ta.[253]
Các ông có thể giết 10 người của chúng tôi, trong khi chúng tôi chỉ giết được 1 người của các ông, nhưng cuối cùng các ông sẽ là người kiệt sức[254]
"Tôi tin và đồng bào cả nước đều tin vào lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam Bộ. Chúng ta nên nhớ lời oanh liệt của một nhà đại cách mạng Pháp: Thà chết tự do còn hơn sống nô lệ... Chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta có lực lượng đoàn kết của toàn dân. Chúng ta nhất định thắng lợi vì cuộc đấu tranh của chúng ta là chính nghĩa"[255]
Không, không vô vọng. Đó sẽ là một cuộc chiến gay go và quyết liệt nhưng chúng tôi sẽ thắng. Chúng tôi có một vũ khí mạnh chẳng kém những cỗ đại bác: đó là tinh thần dân tộc! Đừng có đánh giá thấp điều đó. Người Mỹ chắc hẳn phải nhớ là một đám nông dân chân đất Mỹ đã đánh thắng quân đội hoàng gia Anh như thế nào[256]
Nó (chiến tranh Đông Dương) sẽ là một cuộc chiến giữa voi và hổ. Nếu hổ đứng yên thì sẽ bị voi dẫm chết. Nhưng hổ không đứng yên. Ban ngày nó ẩn nấp trong rừng và ra ngoài vào ban đêm. Nó sẽ nhảy lên lưng voi, xé những mảnh da lớn, và rồi nó sẽ chạy trở lại vào rừng tối. Và dần dần, con voi sẽ chảy máu đến chết. Cuộc chiến tranh ở Đông Dương sẽ như vậy.[257]
Thập niên 1950-1960
“Mỗi Đảng viên, trước hết là mỗi cán bộ, phải thật thà tự phê bình, tự sửa chữa những khuyết điểm của mình. Đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết. Kiên quyết chống bệnh tự mãn tự túc, tự tư tự lợi, kiêu ngạo, ba hoa. Phải thực hành khẩu hiệu: “Chí công vô tư, cần, kiệm, liêm, chính! - Tháng 10 năm 1947”[258]
"Bây giờ, Đảng cầm quyền, có nhà cao cửa rộng, có ô tô sang trọng, dễ lên mặt “quan” lắm. Xe của cơ quan là để đi việc công, không phải để các chú đi chơi, mang theo cả quan ông, quan bà, quan cô, quan cậu, thế là hỏng đấy", "Khi phụ trách ở một vùng nào thì như một ông vua con ở đấy, tha hồ hách dịch, hoạnh họe. Đối với cấp trên thì coi thường, đối với cấp dưới thì độc quyền, lấn áp, đối với quần chúng thì ra vẻ quan cách, làm cho quần chúng sợ hãi. Cái đầu óc “ông tướng, bà tướng” ấy đã gây ra bao ác cảm, bao chia rẽ, làm cho cấp trên xa cấp dưới, đoàn thể xa nhân dân." [259].
"Không có việc gì khó / Chỉ sợ lòng không bền / Đào núi và lấp biển / Quyết chí ắt làm nên", đọc trong lần đến thăm liên phân đội thanh niên xung phong 312 ở Nà Tu thuộc tỉnh Bắc Cạn đêm ngày 30 tháng 3 năm 1951,[260][261] lấy ý từ bốn câu trong bài thơ ngũ ngôn "Huấn mông ấu học thi" (Hán văn: 訓蒙幼學詩) của Uông Thù (汪洙), người thời Bắc Tống ở Trung Quốc: "Tạc sơn thông đại hải / Luyện thạch bổ thanh thiên / Thế thượng vô nan sự / Nhân tâm tự bất kiên" (鑿山通大海 / 煉石補青天 / 世上無難事 / 人心自不堅) Bốn câu thơ trên là nguồn cảm hưng để năm 1953 Hoàng Hà sáng tác bài hát "Thanh niên làm theo lời Bác", sau này trở thành đoàn ca của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.[262]
"Đất có bốn phương Đông Tây Nam Bắc.
Trời có bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông.
Người có bốn đức Cần Kiệm Liêm Chính.
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một đức thì không thành người."[263]
"Hoàn cảnh thế nào không quan trọng, quan trọng là đối phó thế nào." [264]
Chủ nghĩa Mác-Lênin Việt Nam là chủ nghĩa Mác-Lênin có lý có tình![265]
Chúc mừng chú mới thắng trận. Nhưng đừng chủ quan, còn phải đánh với Mỹ nữa. (nói với Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngay sau trận Điện Biên Phủ)
Tôi xin mời Johnson tới Hà Nội như là khách của chúng tôi. Ông hãy đến với vợ và con gái, người thư ký, người bác sĩ và người đầu bếp của mình. Nhưng đừng mang theo tướng lĩnh và đô đốc![266]
Mỹ phải cút đi! Chúng tôi trải thảm đỏ cũng được, nhưng Mỹ phải cút đi! Mỹ phải chấm dứt xâm lược. Johnson miệng nói hòa bình tay lại ký những lệnh điều động quân. Chúng tôi không bác bỏ gì hết, nhưng nhân dân chúng tôi phải được yên ổn. Chúng tôi không muốn trở thành người chiến thắng. Chúng tôi chỉ muốn Mỹ cút đi! Gút-bai![267]
Chúng ta căm thù Đế quốc Mỹ xâm lược nhưng không được căm thù nhân dân Mỹ.
Tôi nói với nhân dân Việt Nam rằng họ là con cháu tôi, vì vậy tôi sống rất bình yên và giản dị, tôi ngủ rất ngon, ngay cả khi có việc ném bom của các ông.[268]
Tôi là người đa nghi và tôi có lý do để ngờ vực. Người Mỹ các ông ít nhiều đều là nhà kinh doanh. Tôi cũng là nhà kinh doanh... Khi việc ném bom chấm dứt, câu chuyện bắt đầu. Chúng ta sẽ xem các mặt hàng.[269]
Chúng tôi và nhân dân chúng tôi sẵn sàng nói chuyện với nhà cầm quyền Mỹ và nhân dân Mỹ. Nhưng với Johnson và McNamara thì hoặc là trải thảm đỏ hoặc đá đít ra ngoài cửa.[270]
Chúng tôi ở trên đất nước chúng tôi. Chúng tôi không làm điều gì tổn hại cho nước Mỹ. Đế quốc Mỹ hãy chấm dứt sự xâm lược của chúng và cuốn gói thì lập tức hòa bình sẽ được lập lại ở Việt Nam . Đế quốc Mỹ dù điên cuồng đẩy mạnh chiến tranh đến mức nào, chúng tôi cũng quyết đánh bại chúng. Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng vào thắng lợi của mình vì sự nghiệp của chúng tôi là chính nghĩa!".[271]
Chúng tôi sẵn sàng đem hoa và nhạc tiễn họ và mọi thứ khác họ thích, nhưng ông biết đấy, tôi thích tiếng lóng của các ông: qu'ils foutent le camp! ("qu'ils foutent le camp" có nghĩa là "hãy cút đi")[272]
Đế quốc Mỹ chán rồi, nhưng rút ra như thế nào. Thua mà danh dự. Đó là điều Mỹ muốn![273]
Đế quốc Mỹ đang thua ở Việt Nam và chúng nhất định sẽ thua. Song chúng chỉ chịu thua sau khi đã thua trên bầu trời Hà Nội![274]
Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước.[275]
Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; học tập tốt, lao động tốt; đoàn kết tốt, kỷ luật tốt; giữ gìn vệ sinh thật tốt; khiêm tốn, thật thà, dũng cảm. (Lời dạy các cháu thiếu niên, nhi đồng).[276]
Tác phẩm
Bài chi tiết: Tuyên ngôn độc lập (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)
Trong các tác phẩm của ông có thể nói bản tuyên ngôn độc lập do ông biên soạn là có tiếng vang nhất và được sánh vai cùng các bản tuyên ngôn độc lập trong lịch sử Việt Nam như bài thơ thần Nam Quốc Sơn Hà tương truyền của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi.
Bản án chế độ thực dân Pháp (1925)
Đường kách mệnh (1927)
Con rồng tre (1922, kịch, nhằm đả kích vua Khải Định)[277]
Các truyện ngắn: Pari (1922, Nhân đạo), Lời than vãn của bà Trưng trắc (1922, Nhân đạo), Con người biết mùi hun khói (1922, Nhân đạo), Vi hành (1923, Nhân đạo), Đoàn kết giai cấp (1924, Người cùng khổ), Con rùa (1925, Người cùng khổ), Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925, Người cùng khổ)[278]
Nhật ký trong tù (1942, thơ)
Sửa đổi lối làm việc (1947)
Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (bút danh Trần Dân Tiên[279][280][281][282])
Vừa đi đường vừa kể chuyện (bút danh T. Lan[283][284])
Trong cuốn sách này, Hồ Chí Minh hóa thân thành một cán bộ trong đoàn tùy tùng (T. Lan), đi công tác cùng với Hồ Chí Minh trong rừng núi Việt Bắc và được Hồ Chí Minh vui miệng kể chuyện cho nghe nhiều chuyện.[285]
Trong cuốn sách này, Hồ Chí Minh hóa thân thành một cán bộ trong đoàn tùy tùng (T. Lan), đi công tác cùng với Hồ Chí Minh trong rừng núi Việt Bắc và được Hồ Chí Minh vui miệng kể chuyện cho nghe nhiều chuyện.[285]
Hồ Chí Minh toàn tập, ấn bản I: Nhà xuất bản Sự thật (1980-1989), ấn bản II: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (1995-1996), bản số hóa trên CD-ROM: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2001-đến nay)
Tên gọi, bí danh, bút danh
Bài chi tiết: Bút hiệu của Hồ Chí Minh
Bài viết hoặc đoạn này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm chứng thông tin.
Những nội dung không có nguồn có thể bị đặt vấn đề và xóa bỏ.
Mời bạn bổ sung chú thích từ các nguồn đáng tin cậy để giúp cải thiện bài viết.
Những nội dung không có nguồn có thể bị đặt vấn đề và xóa bỏ.
Mời bạn bổ sung chú thích từ các nguồn đáng tin cậy để giúp cải thiện bài viết.
Sau nhiều năm hoạt động trong nước và ngoài nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng rất nhiều bí danh và tên gọi khác nhau để đánh lạc hướng kẻ thù. Tuy nhiên, danh xưng Hồ Chí Minh được chọn là tên gọi chính thức của ông và được nhiều người chấp nhận nhất. Theo một số tài liệu thì ông bắt đầu sử dụng danh xưng Hồ Chí Minh từ năm 1940 nhưng không ai biết cho đến khi bị chính quyền Trung Quốc bắt do nghi ngờ là gián điệp vào năm 1942. Từ đó ông bắt đầu công khai và dùng tên gọi Hồ Chí Minh với mọi người. Và từ đó trở đi danh xưng Hồ Chí Minh đã trở thành tên gọi chính thức của ông.[286][287]
Ngoài tên gọi Hồ Chí Minh (dùng từ 1942), và tên tự Nguyễn Tất Thành (阮必成), trong cuộc đời mình, ông còn có nhiều tên gọi và bí danh khác như Paul Tất Thành (1912);Nguyễn Ái Quốc (阮愛國, từ 1919); Văn Ba (khi làm phụ bếp trên tàu biển, 1911); Lý Thụy (李瑞, khi ở Quảng Châu, 1924-), Hồ Quang (1938-40), Vương (Wang) (1925–27, 1940), Tống Văn Sơ (1931–33), Trần (1940) (khi ở Trung Quốc); Chín (khi ở Xiêm La, 1928–30) và được gọi là Thầu (ông cụ) Chín; Lin (khi ở Liên Xô, 1934–38); Chen Vang(trong giấy tờ đi đường từ Pháp sang Liên Xô năm 1923); ông cũng còn được gọi là Bác Hồ, Bok Hồ, Cụ Hồ. Khi ở Việt Bắc ông thường dùng bí danh Thu, Thu Sơn và được người dân địa phương gọi là Ông Ké, Già Thu,. Tổng thống Indonesia Sukarno gọi ông là "Bung Hồ" (Anh Cả Hồ).
Ông dùng 173 bút danh khi viết sách, báo:[288] Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn, Nguyễn A.Q, Ng A.Q, Ng. Ái Quốc, N.A.Q, N., Wang, N.K., A.N; P.C. Lin, P.C. Line (1938, Trung Quốc), Line (1938, Trung Quốc), Q.T, Q.TH, Lê Quyết Thắng (1948–50), A.G, X.Y.Z (1947–50), G., Lê Nhân, Lê, Lê Ba, Lê Nông, Lê Thanh Long, L.T., T.L. (1955–69), T.Lan (1955–69), Tuyết Lan, Thanh Lan, Đin (1950–53), Tân Trào, Đ.X (trong chuyên mục "Thường thức chính trị" trên báo Cứu quốc năm 1953), C.B (trên báo Nhân dân 1951-57), V.K., K.C., C.K., Trần Lực (1948–61), C.S, Chiến Sĩ, Chiến Đấu, La Lập, Nói Thật, Thu Giang, K.V., Trầm Lam, Luật sư TH. Lam, Nguyễn Kim, K.O, Việt Hồng..v.v.
Trần Dân Tiên được một số người nghiên cứu ngoài Việt Nam gán cho là một bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh trong văn học, nghệ thuật
Tượng Hồ Chí Minh ở Sài Gòn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn cảm hứng cho nhiều nhạc sĩ, nhà thơ sáng tác nhiều tác phẩm.
Âm nhạc
Bài chi tiết: Danh sách ca khúc về Hồ Chí Minh
Người về đem tới ngày vui Mùa thu nắng toả Ba Đình Với tiếng Người còn dịu dàng như tiếng đất trời. Người về đem tới xuân đời từ đất nước cằn, Từ bùn lầy cả cuộc đời vùng lên.
Bài hát "Ca ngợi Hồ Chủ tịch" của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước:
Hồ Chí Minh sáng ngời gương đấu tranh. Vững bền đưa chúng ta vượt khó khăn. Hồ Chí Minh muôn năm chỉ lối cho nhân dân. Đến ngày chiến thắng vẻ vang.
Bài hát "Người là niềm tin tất thắng" của nhạc sĩ Chu Minh:
Đất nước nghiêng mình đời đời nhớ ơn. Tên người sống mãi với non sông Việt Nam . Lời thề sắt son theo tiếng bác gọi, bốn ngàn năm dồn lại hôm nay, người sống trong muôn triệu trái tim... Thế giới nghiêng mình, loài người tiếc thương. Đây người chiến sĩ đấu tranh cho tự do. Người là ước mơ của các dân tộc. Tiếng người vang vọng đến mai sau. Nguyện ước theo con đường Bác đi...
...Bác thương các cụ già xuân về gửi biếu lụa, Bác yêu đàn cháu nhỏ trung thu gửi cho quà. Bác thương đoàn dân công đêm nay ngủ ngoài rừng, Bác thương người chiến sĩ đứng gác ngoài biên cương..."
Bài hát "Hồ Chí Minh đẹp nhất tên người" của nhạc sĩ Trần Kiết Tường:
...Trên cánh đồng miền Nam , đau thương mây phủ chân trời. Khi ca lên Hồ Chí Minh, nghe lòng phơi phới niềm tin...
Bài hát The Ballad of Ho Chi Minh (Bài ca Hồ Chí Minh) [289] của nhạc sĩ người Anh Ewan MacColl
...From VietBac to the SaiGon Delta. Marched the armies of Viet Minh. And the wind stirs the banners of the Indo-Chinese people. Peace and freedom and Ho Chi Minh...
Bài hát Teacher Uncle Ho (Bác Hồ - Thầy giáo) của Pete Seeger:
...I'll have to say in my own way. The only way I know, that we learned power to the people and the power to know. From Teacher Uncle Ho!
Bài hát Inolvidable Ho Chi Minh (Hồ Chí Minh - Không thể nào quên) của Alí Primera:
Tenía la figura pequeña y la barbita blanca el camarada Ho Chi Minh querido tío Ho Chi Minh inolvidable Ho Chi Minh indoblegable Ho Chi Minh inolvidable Ho Chi Minh indoblegable Ho Chi Minh...
Nhiều sáng tác khác: "Bác đang cùng chúng cháu hành quân" (Huy Thục), "Thanh niên làm theo lời Bác" (Hoàng Hà), "Tuổi trẻ thế hệ Bác Hồ" (Triều Dâng), "Tấm áo Bác Hồ", "Gửi tới Bác Hồ" (Kapapúi - Tường Vi), "Đêm nghe hát đò đưa nhớ Bác" (An Thuyên), "Vầng trăng Ba Đình", "Miền Trung nhớ Bác", "Người về thăm quê" (Thuận Yến), "Bên lăng Bác Hồ", "Bên tượng đài Bác Hồ" (Lê Giang), "Đêm Trường Sơn nhớ Bác" (Trần Trung), "Bác Hồ sống mãi với Tây Nguyên", "Cô gái Pakô con cháu Bác Hồ" (Huy Thục), "Đôi dép Bác Hồ" (Văn An - thơ Tạ Hữu Yên), "Bài ca dâng Bác" (Trọng Loan), "Như có Bác trong ngày đại thắng" (Phạm Tuyên), "Lời Bác dặn trước lúc đi xa" (Trần Hoàn), "Tình Bác sáng đời ta" (Lưu Hữu Phước), "Hồ Chí Minh đẹp nhất tên người" (Trần Kiết Tường)...
Thơ, văn
Bài thơ "Người đi tìm hình của nước" của nhà thơ Chế Lan Viên:
...Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba-lê
Một viên gạch hồng Bác chống lại cả một mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn, người có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya...
...Nhớ ông cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường...
Bài thơ "Bác ơi" của Tố Hữu, sáng tác ngày 6 tháng 9 năm 1969 ngay sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, có đoạn:
Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.[290]
Bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên::
Giữa một vầng trǎng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Bài thơ "Một con người chủ nghĩa Mác sinh ra" của Hải Như:
Bác đã cho ta, Bác đã cho đời
Lẽ sống của ngày mai trên Trái Đất
Lẽ sống đẹp, không coi mình cao nhất
Mong kiếp người, ai cũng cất đầu cao
Bài thơ "Chúc tụng Bác Hồ" của Ismael Gomes Braga (Brazil ):[291]
Vị thánh sống của nghìn thánh sống
Và ân nhân của cả muôn đời
Hồ Chí Minh! - Chưa dễ thấy người
Chúng tôi đây bọn mù mắt sáng!
Tác phẩm Búp sen xanh của Sơn Tùng kể về thời tuổi trẻ của Hồ Chí Minh.
Trong tiểu thuyết Đỉnh cao chói lọi của Dương Thu Hương, Hồ Chí Minh được hư cấu thành nhân vật chính Chủ tịch.[292][293]
Giai thoại
Tại xứ Nghệ, người ta đã lưu truyền những câu sấm của Trạng Trình như sau: “Đụn Sơn phân giới/Bò Đái thất thanh/Thuỷ đáo Lam Thành/Song Ngư thuỷ thiển”
Vào cuối thế kỷ 19 đấu thế kỷ 20, khi các phong trào cứu nước như Văn Thân, Cần Vương, lần lượt thất bại. Vào lúc đó, có thể có một nhà nho yêu nước nào đó đã sửa câu sấm ký có mấy trăm năm trước thành câu sấm mới. "Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Thủy đáo Lam thành/ Nam Đàn sinh thánh" (Khi núi Đụn chẻ đôi, khe Bò Đái mất tiếng,sông Lam khoét vào chân núi Lam Thành, đất Nam Đàn sẽ sinh ra bậc thánh nhân).[294]
Sau phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, câu sấm này được nhắc lại và bàn tán. Lúc đó, khe Bò Đái cũng đã ngừng chảy, tiếng suối chảy ở khe không còn nghe được nữa. Vào thờiTự Đức (1848-1883) nước lũ sông Lam đã cuốn mất làng Triều Khẩu thuộc huyện Hưng Nguyên và nước sông Lam đã chảy đến chân núi Lam Thành, còn hai đảo Song Ngư (Hòn Ngư) ở (Cửa Lò) là hòn Son và hòn Mực ở ngoài cửa Hội nối liền nhau bởi nước biển đã cạn, do đó người dân càng tin và chờ đợi.[294]
Trong một cuộc gặp giữa Phan Bội Châu (lúc này đã bị Pháp bắt và quản thúc) với Đào Duy Anh và nhà nho Trần Lê Hữu, ông Hữu có hỏi: "Thưa cụ Phan, "Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh" chẳng phải là cụ hay sao? Cụ còn thất bại nữa là người khác!". Phan Bội Châu đáp: "Kể cái nghề cử tử xưa kia tôi cũng có tiếng thật. Dân ta thường có thói trọng người văn học và gán cho người ta tiếng nọ tiếng kia. Nhưng nếu Nam Đàn có thánh thực thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ chẳng phải ai khác"[295]
Hội họa
Đã có ít nhất bốn bức vẽ bằng máu về Hồ Chí Minh (huyết họa)[296]
Điện ảnh
Hình tượng Hồ Chí Minh trong phim truyện video "Hà nội - Mùa đông 1946" do NSƯT Tiến Hợi thể hiện.
Hình tượng Nguyễn Tất Thành (Văn Ba) trong phim truyện nhựa "Hẹn gặp lại Sài Gòn" do NSƯT Tiến Hợi thể hiện.
Hình tượng Tống Văn Sơ trong phim truyện Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông do NSƯT Trần Lực thể hiện.
Sân khấu
Hình tượng Hồ Chí Minh trong vở kịch "Đêm trắng" NSƯT Tiến Hợi thể hiện.
Hình tượng Hồ Chí Minh trong vở chèo "Những vần thơ thép" do NSƯT Mạnh Kiên thể hiện.
Hình tượng Hồ Chí Minh trong nhiều vở kịch nói do nghệ sĩ Văn Tân thể hiện từ năm 1974 - nay.
Đánh giá
Giáo sư David Thomas cho biết ông đã từng đọc một tạp chí tin tức và thời sự có tiếng tăm tại Hoa Kỳ có ghi nhận về một cuộc thăm dò ý kiến người dân Mỹ. Người ta tham khảo ý kiến về các lãnh tụ trên toàn cầu, xem ai là người Thiện (good), ai là người Ác (evil). Kết quả cho thấy Hồ Chí Minh, cùng với các lãnh đạo Adolf Hitler và Iosif Vissarionovich Stalin bị xem là những nhân vật ác, trong khi Nelson Mandela, Franklin D. Roosevelt và Mahatma Gandhi thì được xem là những nhân vật thiện. Giáo sư không tán thành với quan điểm này vì theo ông "ai từng nghiên cứu một cách khách quan cuộc đời và những thành tựu của Hồ Chí Minh thì không thể nào đi đến kết luận như vậy được".[191]
Là một người lãnh đạo cuộc đấu tranh của Việt Nam giành độc lập khỏi chế độ thực dân Pháp, ông lại không phải là một nhà dân tộc chủ nghĩa cực đoan. Điều này thể hiện qua nhận định tích cực về ông của nhiều người ngoại quốc.[51] Trong một hội thảo "Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay" - một hội thảo mang tầm cỡ quốc tế, Ahn Kyong Hwan - một giáo sư của Trường Đại học Chosun (Đại Hàn Dân quốc) nói: "Hồ Chí Minh có thể khác về mặt tư tưởng hay tôn giáo so với các vĩ nhân khác trên thế giới nhưng nhân cách của Người thì đáng để mọi người trên thế giới tôn kính…. Những nhà lãnh đạo chính trị trên thế giới phải noi gương tinh thần yêu nước, yêu dân tộc, yêu đồng bào vĩ đại của Người". Nhà báo Úc Wilfred Burchett, người từng có nhiều cuộc phỏng vấn Hồ Chí Minh, cho biết: "Cảm giác đầu tiên của tôi là sự thân mật, ấm áp và giản dị. Hồ Chủ tịch có khả năng khiến người ta thấy nhẹ nhõm ngay từ khoảnh khắc đầu tiên và trình bày những vấn đề phức tạp nhất chỉ trong vài từ và cử chỉ rõ ràng. Trong những cuộc gặp gỡ tiếp theo với nhân cách vĩ đại này, sự ấm áp, giản dị, cách thể hiện rõ ràng xuất phát từ trí tuệ mẫn tiệp và sự thấu hiểu trọn vẹn chủ đề khiến tôi có ấn tượng vô cùng sâu sắc".[297]
THỨ SÁU, 17 THÁNG 5 2013 10:19 QUANTRI
"Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội... Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết hàng nghìn bài báo dưới nhiều bút danh khác nhau. Để giữ bí mật, Người phải thay đổi họ tên rất nhiều lần. Do đó trong cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh có rất nhiều tên gọi, bí danh và bút danh. Cuốn sách của Bảo tàng Hồ Chí Minh - những tên gọi bí danh, bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh; NXB Chính trị Quốc Gia.- Hà Nội 2001 đưa ra con số thống kê có 169 tên chính thức. Ngoài ra nhà sưu tầm Bá Ngọc trong cuốn sách của mình Hồ Chí Minh - những tên gọi đi cùng năm tháng.- NXB Quân đội nhân dân.-Hà Nội 2003, thống kê Hồ Chí Minh có 174 tên trong đó có 78 tên chính thức, bí danh và 96 bút danh.
Mỗi tên gọi, mỗi bí danh Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng phần lớn đều gắn với những sự kiện lịch sử qua các thời kỳ, giai đọan họat động cách mạng. Trong khuôn khổ bài viết với mục đích giúp bạn đọc có tư liệu để nghiên cứu, chúng tôi trích nêu một số tên gọi, bí danh, bút danh và thông tin cần thiết xung quanh mỗi tên gọi, mỗi bí danh và bút danh của Người trong cuốn sách Bảo tàng Hồ Chí Minh - những tên gọi bí danh, bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh; NXB Chính trị Quốc Gia.- Hà Nội 2001.
1. Nguyễn Sinh Cung. 1890
Nguyễn Sinh Cung là tên lúc h thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19-5-1890, tại quê mẹ là làng Hoàng Trù (thường gọi là làng Chùa), xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An)
2. Nguyễn Sinh Côn
Theo một số hồi ký của các bạn học cùng trường Quốc học Huế với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nguyễn Sinh Cung còn được gọi là Nguyễn Sinh Côn. Trong một bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1954, Người cũng ghi tên còn nhỏ của mình là Nguyễn Sinh Côn!
3. Nguyễn Tất Thành, 1901
Tháng 5-1901, Ông Nguyễn Sinh Sắc đậu phó bảng khoa thi Hội năm Tân Sửu. Khoảng tháng 9-1901, ông chuyển về sống ở quê nội xã Kim Liên. Theo tục lệ ông Nguyễn Sinh Sắc được làng Kim Liên đón về và được làng cấp đất công, xuất quỹ làm cho một ngôi nhà. Nhân dịp này ông Nguyễn Sinh Sắc làm “lễ vào làng” cho hai con trai với tên mới: Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm), Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung). Thành đạt là mong muốn của người cha đặt hy vọng vào hai đứa con.
4. Nguyễn Văn Thành
5. Nguyễn Bé Con
Trong tài liệu đề ngày 6-2-1920 của Tổng đốc Vinh cung cấp về Nguyễn Sinh Sắc và hai con trai, ghi lời khai của Lý trưởng, hào lý làng Kim Liên, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn: con trai thứ của Nguyễn Sinh Sắc là Nguyễn Bé Con
6. Văn Ba. 1911
Với hoài bão quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành xin làm việc ở tàu Đô đốc Lautusow Tơrêvin (Amỉal latouche Tréville), một tàu lớn vừa chở hàng, vừa chở khách của hãng năm sao đang chuẩn bị rời cảng Sài gòn đi Mácxây (Marseill), Pháp
Ngày 3-6-1911, Nguyễn Tất Thành rời tổ quốc ra đi, bắt đầu cuộc hành trình cứu nước. Trong sổ lương của tàu tên anh là Văn Ba
7. Pôn Tất Thành (Paul Tat Thanh). 1912
Giữa tháng 12 năm 1912, Nguyễn Tất Thành đến nước Mỹ. Ngày 15-12-1912, từ Niu Oóc (New York), Nguyễn Tất Thành gửi thư cho khâm sứ Trung kỳ nhờ tìm địa chỉ của cha là Nguyễn Sinh Huy. Thư ký tên Pôn Tất Thành.
8. Tất Thành. 1914
Từ nước Anh Nguyễn Tất Thành gửi thư cho cụ Phan Chu Trinh ở Pháp thông báo tình hình học tập, sinh hoạt của bản thân. Trong một thư khác anh nhận định, bàn luận tình hình thời cuộc. Thư ký tên Tất Thành
9. Pôn Thành (Paul Thanh). 1915
Ngày 16-4-1915, Nguyễn Tất Thành viết thư cho toàn quyền Đông Dương qua lãnh sự Anh tại Sài gòn, nhờ tìm địa chỉ của cha mình. Thư ký tên Pôn Thành
10. Nguyễn Ái Quốc. 1919
Nguyễn Ái Quốc cái tên bắt đầu một chặng đường mới trong hành trình cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp và bắt đầu hoạt động chính trị dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc.
11. Phéc-Đi-Năng
Phéc-đi-năng là biệt hiệu bạn bè Pháp gọi Nguyễn Ái Quốc khi Người hoạt động ở Pháp đầu những năm hai mươi của thế kỷ XX
12. An-be-đơ Pu-vua-vin (Anbert de Pouvourville). 1920
Theo báo cáo ngày 30 tháng 1 năm 1920 của Bộ Nội vụ, giám đốc Sở Liêm phóng Trung ương, sở Kiểm tra trung ương cảnh sát hành chính về phong trào đòi độc lập của Đông Dương ở Pari, Nguyễn Ái Quốc là linh hồn của phong trào đòi độc lập cho Đông Dương, Người là Tổng thư ký của nhóm người Việt Nam yêu nước
Đây là một trong những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Paris mà báo cáo ghi lại : « Ông Nguyễn Ái Quốc còn cho công bố dưới dạng truyền đơn những đoạn trích từ nhiều tờ báo có liên quan đến vấn đề Đông Dương đăng trong báo « Điện tính thuộc địa » và ký tên An-be-đơ Pu-vua-vin (Anbert de Pouvourville).
Nguyễn Ái Quốc ở Pháp năm 1920
13. Nguyễn A.Q. 1921-1926
Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh Nguyễn A.Q. vào đầu những năm hai mươi. Hiện sưu tầm được hai bài báo Người ký bút danh Nguyễn A.Q. Bài báo đầu tiên Người ký bút danh Nguyễn A.Q là “Hãy yêu mến nước Pháp, người bảo hộ của các anh”, đăng trên báo Người tự do (Le Libertaire), ngày 7 đến 14-10-1921.
14. Culixe. 1922
Nguyễn Ái Quốc bút danh CULIXE trong bài báo “Rủi ro: Cảnh sinh hoạt của thợ thuyền An Nam”, đăng trên báo Nhân đạo (L’Humanite). Ngày 18-3-1922
15. N.A.Q. 1922
Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh N.A.Q vào những năm 1922-1930 với bút danh N.A.Q, Người viết bài đăng trên các báo Người cùng khổ (Le Paria) báo Nhân đạo (L’Humanite)
16. Ng.A.Q. 1922
Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh Ng.A.Q từ năm 1922 đến năm 1925. Bài báo đầu tiên Người ký bút danh Ng.A.Q là bài: Sở thích đặc biệt, đăng trên báo Người cùng khổ (Le Paria), ngày 1-8-1922.
17. Hăngri Trần (Henri Tchen). 1922
Henri Tchen là tên ghi trong thẻ đảng viên Đảng Cộng sản Pháp của Nguyễn Ái Quốc. Số thẻ 13861
18. N.1923
Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh N. trong các năm 1923-1924, 1928. Với bút danh N. Người viết bài: Lòng ngay thẳng của chính phủ thuộc địa, đăng trên báo Người cùng khổ (Le Paria), số 11, ngày 1-2-1923
19. Chen Vang. 1923
Khi quyết định trở về gần Tổ quốc, ngày 13-6-1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời Pari đi Liên Xô, tổ quốc của cách mạng, đất nước mà từ lâu Người mơ ước đặt chân tới.
Ngày 16-6-1923, Người đến nước Đức. Tại đây Người được cơ quan đặt mệnh toàn quyền Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết liên bang Nga tại Béclin cấp cho giấy đi đường số 1829, trong giấy này Người mang tên Chen Vang
20. Nguyễn.1923
Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh Nguyễn trong các năm 1923, 1924, 1928, Người ký bút danh Nguyễn trong bức tranh “Sự phục thù của Tu-tăng Ca-mông”, đăng trên báo Người cùng khổ, số 13, năm 1923
21. Chú Nguyễn. 1923
Chú Nguyễn là tên Nguyễn Ái Quốc ký trong bức thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp, trước khi Người rời Pari đi Liên xô năm 1923
22. Lin. 1924
Nguyễn Ái Quốc dùng tên Lin trong khoảng thời gian ở Liên xô lần thứ nhất 1923-1924 và trong các năm 1934-1939
23. Ái Quốc. 1924
Ái Quốc là tên ghi trong thẻ dự Đại hội V quốc tế Cộng sản của Nguyễn Ái Quốc (tháng 6-1924)
24. Un Annamite (một người An Nam ). 1924
Nguyễn Ái Quốc ký bút danh Un Annamite trong bài viết « Tình hình những người lao động ở Đông Dương », đăng trên báo Người cùng khổ, số 28, tháng 8 năm 1924
25. Loo shing Yan. 1924
Bài “thư từ Trung Quốc, số 1”, ngày 12-11-1924 của Nguyễn Ái Quốc viết về phong trào cách mạng Trung Quốc, sự thức tỉnh, giác ngộ cách mạng cho phụ nữ Trung Quốc, gửi tạp chí RABÓTNHÍTXA. Trong bài Người ký bút danh Loo Shing Yan (Nữ đảng viên quốc dân Đảng)
26. Ông Lu. 1924
Ngày 12-11-1924, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi một đồng chí trong quốc tế cộng sản báo tin Người đã đến Quảng Châu, Trung Quốc. Cuối thư Người ghi địa chỉ liên lạc của mình là: Ông Lu, Hãng Thông tấn RÔXTA, Quảng Châu, Trung Quốc. Sau này trong nhiều thư khác Nguyễn Ái Quốc cũng ghi địa chỉ liên lạc là Ông Lu
27. Lý Thụy. 1924
Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh Lý Thụy trong thời gian Người hoạt động ở Trung Quốc. Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu, với các giấy tờ tùy thân mang tên mới: Lý Thụy
28. Lý An Nam
28. Lý An Nam . 1924-1925
Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Quãng Châu, Trung Quốc với bí danh là Lý Thụy, làm phiên dịch trong văn phòng của Đoàn cố vấn Xô viết tại Quãng Châu. Mọi người thường gọi Người là anh Lý, anh Lý An Nam
29. Nilopxki (N.A.Q). 1924
Nguyễn Ái Quốc ký tên Nilopxki trong bài: Phong tào nông dân tỉnh Quảng Đông, 16-10-1925. Trong thư gửi Đoàn chủ tịch Quốc tế nông dân, ngày 5-11-1925, Nguyễn Ái Quốc ký tên Nilopxki (N.A.Q)
30. Vương. 1925
Bí danh của Nguyễn Ái Quốc xuất hiện từ đầu năm 1925, trong thời gian hoạt động ở Trung Quốc đầu năm 1926, Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện chính trị tại số nhà 13-1 (nay là 258), đường Văn Minh, Quảng Châu, Trung Quốc. Người trực tiếp lãnh đạo và là giảng viên chính của các khóa học, Người lấy tên là Vương.
Vương cũng là bí danh khi Người bắt liên lạc với đồng chí Nguyễn Lương Bằng ở Trung Quốc 1925
31. L.T. 1925
Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh L.T từ năm 1925. Người ký trong thư gửi ông H (Thượng Huyền), ngày 9-4-1925. Sau này với bút danh L.T, Người còn viết khoảng 15 bài đăng trên báo Nhân dân trong các năm 1949, 1957, 1958, 1960
32. HOWANG T.S. 1925
Nguyễn Ái Quốc ký bút danh HOWANG T.S. trong bài: Đại hội Công nhân và nông dân (2-5-1925)
33. Z.A.C. 1925
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Z.A.C là bút danh Nguyễn Ái Quốc viết bài đăng trên báo Thanh niên, cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tờ báo do Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra số đầu tiên ngày 21-6-1925. Nguyễn Ái Quốc là cây bút chủ chốt của tờ báo. Trong Ban biên tập còn có các đồng chí Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Duy Điếm. Những bài quan trọng về chính trị, tư tưởng là bài của Nguyễn Ái Quốc ký bút danh Z.A.C
34. Lý Mỗ. 1925
Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Quảng Châu, Trung Quốc. Ngày 13-7-1925 Người đến Ủy Ban bãi công Cảng tỉnh đề nghị được tham gia vào đội diễn thuyết với danh nghĩa là hội viên Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức. Trong danh sách đội diễn thuyết ghi tên là Lý Thụy. Về việc này, báo Công nhân chi lộ đặc hiệu số 20, ra ngày 14-7-1925 đã đưa tin một người Việt Nam gia nhập đội diễn thuyết và để giữ bí mật cho Nguyễn Ái Quốc, tờ báo dùng tên gọi Lý Mỗ
35. Trương Nhược Trừng. 1925
36. Vương Sơn Nhi. 1925
Nguyễn Ái Quốc phụ trách tờ báo Thanh niên, ngoài việc lo chạy viết đủ bài hàng tuần cho báo, Người còn viết bài cho báo tiếng Anh “Quảng Châu báo”, với bút danh Vương Sơn Nhi, Trương Nhược Trừng
37. Vương Đạt Nhân. 1926
Nguyễn Ái Quốc với bí danh Vương Đạt Nhân được Đoàn chủ tịch Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của quốc dân Đảng Trung Quốc mời đến dự và phát biểu ý kiến tại phiên họp thứ 9 của đại hội, họp ngày 14-1-1926.
38. Mộng Liên. 1926
Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh Mộng Liên năm 1926. Người ký dưới bài viết: Mục dành cho phụ nữ: Về sự bất công đăng trên báo Thanh niên, số 40, ngày 4-4-1926
39. X. 1926
Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh X. trong các năm 1926, 1927. Với bút danh X. Người viết một loạt bài nhan đề: Các sự biến ở Trung Quốc viết về tình hình chính trị ở Trung Quốc. Đăng trên 7 số báo L’ Anna. Bài đầu tiên dăng trong số 118, ngày 2-12-1926m
40. H.T. 1926
Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh H.T từ năm 1926. Người ký trong bài viết: Bà Trưng Trắc, đăng trên báo Thanh niên, số 73, ngày 12-12-1926
Cùng với bút danh Mộng Liên, H.T là bút danh của Nguyễn Ái Quốc viết bài cho báo Thanh niên. Còn một số bút danh khác như: Hạ Sĩ, Hương Mộng, Diệu Hương…có thể là bút danh của Nguyễn Ái Quốc . Bởi lúc đó chưa có nhiều người viết bài cho báo Thanh niên
41. Tống Thiệu Tổ. 1926
Theo hồi ký của một số người hoạt động ở Quảng Châu, Trung Quốc, Tống Thiệu Tổ là bí danh của Nguyễn Ái Quốc khi Người hoạt động ở Quảng Châu, Trung Quốc
42. X.X. 1926
Nguyễn Ái Quốc ký bút danh X.X năm 1926 dưới bài viết: “Phong trào Cách mạng ở Đông Dương” đăng trên tập san Thư tín quốc tế (Inprekorr), số 91, ngày 14-8-1926
43. Wang. 1927
Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh Wang trong các năm 1927, 1928. Với bút danh Wang, Người viết một loạt bài đăng trên tập san Thư tín quốc tế (Inprekorr). Bài đầu tiên là: Những tội ác kinh khủng của đế quốc Pháp ở ĐD, in trong tập Inprekorr, số 99, ngày 28-9-1927
44. N.K. 1927
Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh N.K năm 1927 Người ký dưới bài: “Sự thống trị của đế quốc Pháp ở Đông Dương”, đăng trong tập san Thư tín quốc tế (Inprekorr), tiếng Pháp, số 104, ngày 15-10-1927. Hiện mới sưu tầm được một bài ký bút danh N.K
45. N. Ái Quốc. 1927
46. Liwang. 1927
Ngày 16-12-1927, từ Béclin, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Đoàn chủ tịch quốc tế nông dân, đề nghị giúp đỡ tiền để chuẩn bị về nước. Thư ký tên N. Ái Quốc. Trong thư Người đề nghị nếu có tiền xin gửi đến Ủy ban Trung ương của Đảng Cộng sản Đức, cho “Liwang”
47. Ông Lai. 1927
Cũng trong thư gửi Đoàn chủ tịch quốc tế nông dân ngày 16-12-1927, Nguyễn Ái Quốc ghi địa chỉ trả lời thư cho Người: Ông Lai, ở nhà ông Ecsten, 21 phố Halesơ, Béclin. (Nguyên văn: M.Lai, Chez M.Eckshtein, 21. Halle – chactsse, Beclin)
48. A.P. 1927
Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh A.P. năm 1927. Với bút danh A.P Người viết bài « Văn minh » Pháp ở Đông Dương đăng trên tập san Thư tín quốc tế (Inprekorr), tiếng Đức, số 17 năm 1927
49. N.A.K. 1928
Nguyễn Ái Quốc ký N.A.K trong thư gửi Quốc tế Nông dân, ngày 3-2-1928
50- Thọ. 1928
51- Nam Sơn. 1928
Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Xiêm ( Thái Lan), tháng 7 năm 1928 Người xuất hiện ở Bản đông, huyện Phichít, tỉnh Phítxanulốc miền Trung nước Xiêm.
Trong buổi họp đầu tiên với kiều bào, Nguyễn Ái Quốc tự giới thiệu là Thọ, biệt hiệu Nam Sơn.
52- Chín (Thầu Chín). 1928
Nguyễn Ái Quốc hoạt động tuyên truyền trong Việt kiều ở Thái Lan. Người thường di chuyển từ vùng này sang vùng khác. Khoảng đầu tháng 8 năm 1928 Nguyễn Ái Quốc đến Uđon ( Thái Lan). Người lấy tên là Chín. Mọi người tôn trọng gọi là « Thầu Chín” ( ông già Chín).
53- Víchto Lơbông ( Victor Lebon). 1930
Ngày 27-02-1930, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho đại diện Đảng Cộng sản Pháp tại Quốc tế cộng sản. Người ghi địa chỉ nhận thư của mình là: Ông Víchto Lơbông, 123 Đại lộ Cộng Hòa, Pari, Pháp.
54- Ông Lý. 1930
Ông Lý, Hương cảng tiểu dạ báo, 53 phố Uyhêm, Hồng Công là địa chỉ Nguyễn Ái Quốc ghi để nhận sách báo gửi cho Người.
55- Ng.Ái Quốc. 1930
56- L.M.Vang. 1930
Ngày 27-2-1930, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho văn phòng đại diện Đảng Cộng sản Đức ở Quốc tế Cộng sản xin cho Người một giấy chứng nhận là phóng viên báo Thế giới. Thư ký tên Ng. Ái Quốc
57- Tiết Nguyệt Lâm. 1930
Cũng trong thư gửi văn phòng đại diện Đảng Cộng sản đức về việc xin giấy chứng nhận là phóng viên báo Thế giới. Nguyễn Ái Quốc ghi địa chỉ để gửi giấy chứng nhận cho Người là: Ông Tiết Nguyệt Lâm, Hoa phong công ty, số nhà 136, đường Wanchai, Hồng Công
58. Pôn (Paul). 1930
Ngày 27-2-1930 Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi đồng chí Sôta, liên đoàn chống đế quốc – Bélin, thông báo về việc Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Thư ký tên Pôn (Paul)
59- T.V.Wang. 1930
Ngày 2-3-1930, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Ban phương Đông, Quốc tế Cộng sản báo cáo về tình hình Mã Lai, đông Dương và việc gửi 3 học sinh đi học, cuối thư Người đề nghị “ Có thể mua hối phiếu của công ty xe lửa tốc hành Mỹ đề tên T.V. Wang và gửi bưu điện cho tôi”
60- Công Nhân. 1930
Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh Công Nhân năm 1930. Người viết bài “ Tranh thủ quần chúng như thế nào?”, đăng trên báo vô sản, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, số 1, ngày 31-8-1930
61- Vícto. 1930
Nguyễn Ái Quốc ký bí danh Vícto trong bức thư đề ngày 29-9-1930 gửi Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản báo cáo về cuộc đấu trânh từ ngày 11 đến ngày 17-9-1930 của nông dân Thanh Chương, Hưng Nguyên, Nghệ An
62- V. 1931
Ngày 19-2-1931, với bí danh V., Nguyễn Ái Quốc viết bài “ Nghệ Tỉnh đỏ” và bài “ Khủng bố trắng ở Đông Dương”
63-K. 1931
Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Ban phương Đông, thư đề ngày 21-2-1931, ký tên K.
64- Đông Dương. 1931
Nguyễn Ái Quốc ký danh Đông Dương dưới bài viết: “ Kỷ niệm một năm khởi nghĩa Yên Bái”, đăng trên tạp chí Thư tín Quốc tế, số 12, năm 1931
65- Quac.E.Wen. 1931
Ngày 5 -3-1931, với bút danh Quac.E.Wen, Nguyễn Ái Quốc viết bài: “ Uy quyền của đế quốc Pháp ở Đông Dương” gửi Quốc tế Cộng Sản
66- K.V. 1931
Nguyễn Ái Quốc dùng bí danh K.V từ năm 1931. Bí danh này được nhắc đến trong thư gửi ban chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Đông Dương
67- Tống Văn Sơ. 1931
Tống Văn Sơ là tên gọi trong thẻ căn cước của Nguyễn Ái Quốc khi Người bị bắt ở số 186, phố Tam Lung ( Cưu Long ),. Hồng Công ngày 6-6-1931
68- New Man. 1933
69- LiNốp. 1934
Lin là tên khai trong giấy tờ học ở trường Quốc tế LêNin Liên Xô. Trong nhóm học sinh Việt Nam ở Viện nghiên cứu các vấn đề dận tộc và thuộc địa, năm học 1934 – 1935, mọi người thường gọi là LiNốp
70- Teng man Huon. 1935
Tháng 8-1935 Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản. Trong bản khai để tham dự Đại hội, ngày 19-8-1935 Ngươig ghi:
Họ tên, bí danh trong Đảng hiện nay: Teng Man Huon.
71- Hồ Quang. 1938
Bí danh của Nguyễn Ái Quốc khi Người hoạt động ở Trung Quốc từ cuối năm 1938.
Nhờ mối liên hệ giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc, mùa thu năm 1938, từ Matxcơva Người đi Trung Quốc. Tại Lan Châu thủ phủ tỉnh Cam Túc ( Tây bắc Trung Quốc), văn phòng giải phóng quân đã chuẩn bị cho Người quân phục, phù hiệu bát lộ quân, quân hàm thiếu tá và giấy tờ mang tên Hồ Quang
72- P.C.Lin ( P.C Lin). 1938
Cuối năm 1938 và trong năm 1939, từ Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc viết hàng chục bài báo gửi về nước, đăng trên tuần báo Notre voix ( Tiếng nói của chúng ta ), tờ báo công khai của Đảng ta, xuất bản tại Hà Nội trong thời kỳ Mặt trận dân chủ.
Trong các bài báo ấy Người thường ghi “ Thư từ Trung Quốc” và ký tên P.C.Lin, P.C. Line ( đều là của đồng chí Lin).
73. D.C.Lin. 1939
Là bút danh Hồ Chí Minh ký dưới bài báo: “Những sự hung tàn của đế quốc Nhật”, đăng trên báo Dân chúng, cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương, xuất bản ở Sài gòn.
74- Lâm Tam Xuyên. 1939
Từ Quế Lâm ( Trung Quốc) Nguyễn Ái Quốc viết thư ( Bằng tiếng Pháp ) gửi một đồng chí ở Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản, thư đề ngày 20-4-1939.
Cuối thư, sau dàng địa chỉ bằng tiếng Pháp là dòng chữ Hán viết tay: Quãng Tây, Quế Lâm, Quế Tây, Lộ Tam Thập Ngũ hiệu Tân Hoa nhật báo chuyển giao Lâm Tam Xuyên tiên sinh.
75- Ông Trần. 1940
Cuối tháng 2-1940, Nguyễn Ái Quốc với bí danh Ông Trần đến hiệu dầu cù là Vĩnh An Đường ở Côn Minh, Vân Nam, Trung Quốc, bắt liên lạc với tổ chức của Đảng ta ở Vân Nam kể từ đó tìm đường trở về nước.
76- Bình Sơn. 1940
Trong thời gian từ 15-11 đến 18-12-1940, với bút danh Bình Sơn, Nguyễn Ái Quốc viết mười bài đăng trên Cứu Vong Nhật báo, Trung Quốc.
77- Đi Đông ( Dic – donc )
Là tên một số người bạn nước ngoài gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tên gọi này được Người kể trong bài báo : « đồng chí « Đi Đông » « , đăng ablo Cứu Quốc ngày 3-10-1951
78- Cúng Sáu sán. 1941
Ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc về nước hoạt động ở vùng Pác Bó Cao Bằng. Đồng bào địa phương không biết rõ về Người, nên một số dân bản thường gọi Người là Cúng Sáu Sán, có nghĩa là ông già ở rừng.
79- Già Thu. 1941
Trong thời gian hoạt động ở Pắc Bó, Cao Bằng các Cán bộ địa phương thường gọi Nguyễn Ái Quốc là Già Thu
80- Kim Oanh. 1941
Bút danh của Nguyễn Ái Quốc ký dưới bài thơ “Phụ nữ” đăng trên báo Việt Nam độc lập, số 104, ngày 1-9-1941
81- Bé Con. 1941
Bút danh của Nguyễn Ái Quốc ký dưới bài thơ “Trẻ con” đăng trên báo Việt Nam độc lập, số 104, ngày 1-9-1941
82- Ông cụ. 1941
Trong những năm 1940-1945, các đồng chí hoạt động Cách Mạng và đồng bào ở vùng biên giới Trung Việt thường dùng gọi Bác
83- Hoàng Quốc Tuấn. 1941
Hoàng Quốc Tuấn là tên của Nguyễn Ái Quốc được các đồng chí trong tổ chức Việt Nam dân tộc giải phóng liên hiệp hội tự đặt, với danh nghĩa là lãnh tụ Việt minh.
Trong lý lịch của một số thanh niên Cao Bằng được chọc đi học lớp vô tuyến điện ở Liễu Châu, Trung Quốc, các học viên đều thống nhất ghi danh lãnh tụ là Hoàng Quốc Tuấn.
84- Bác. 1941
Tên gọi “Bác”, xuất hiện từ dịp họp Hội nghị Trung ương lần thứ tám, tháng 5 năm 1941, ở Pác Bó, Hà Quảng, Cao Bằng. Dịp đó các đại biểu về dự hội nghị được biết có đại biểu Quốc tế là đồng chí Nguyễn Ái Quốc cũng có mặt. Lúc đầu khi gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc mọi người không biết xưng hô thế nào. Hồi ký của đồng chí Hoàng Quốc Việt kể rằng: mới đầu chúng tôi đều gọi Bác là đồng chí, rồi gọi là cụ, sau thấy anh Trường Chinh và anh Thụ dùng tiếng “Bác”, anh em thấy gọi như thế là hợp với lòng mình, nên từ đấy chúng tôi bắt đầu thưa với Bác bằng cái tên thân yêu mà bây giờ tất cả chúng ta đều gọi. Tiếng “Bác” được dùng rộng rãi hơn từ sau năm 1945, sau nay tên gọi Bác còn được ký dười một số thư gửi các đòng chí Trung Ương và Bộ Chính trị.
85- Thu Sơn. 1942
Tháng 1-1942, với bút danh Thu Sơn, Nguyễn Ái Quốc chuyển đến ở nhà đồng chí Xích Thắng (tức Dương Mạc Thạch) tại Châu Nguyên Bình, Cao Bằng trong một số ngày.
86- Xung Phong. 1942
Bút danh của Nguyễn Ái Quốc ký dưới bài thơ: “ Tặng Thống chế Pê Tanh”, và bài “Nhóm lửa” đăng trên báo Việt Nam độc lập, số 131, ngày 11-7-1942, số 133, ngày 1-8-1942
87- Hồ Chí Minh. 1942
Đầu những năm 1940, trước biến chuyển mới của tình hình cách mạng, một nhiệm vụ bức thiết đặt ra cho cách mạng nước ta lúc này là phải thực hiện liên minh quốc tế, trtanh thủ sự giúp đỡ của đồng minh. Trước mắt phải phối hợp hành động giữa phong trào Việt minh với phong trào chống
88- Hy Sinh. 1942
Nguyễn Ái Quốc ký bút danh Hy Sinh dưới bài thơ “Chơi giăng”, dăng trên báo Việt Nam độc lập, số 135, ngày 21-8-1945
89- Cụ Hoàng. 1945
Cuối tháng 2 năm 1945, Bác đi Côn Minh với ý định gặp các cơ quan Mỹ để tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của đồng minh chống phát xít đối với cách mạng Việt Nam. Khi đến Bixichai, vào nhà một việt kiều là cơ sở của ta, Người đựơc giới thiệu là “Cụ Hoàng”, đó cũng là tên công khai của Bác trên giấy tờ khi đi giao thiệp
90- C.M.Hồ. 1945
Hồ Chí Minh ký tên C.M.Hồ dưới thư gửi ông Phen, ông Tam vào tháng 7 và tháng 8 năm 1945
91- Chiến Thắng. 1945
Bút danh Chiến Thắng được chủ tịch Hồ Chí Minh dùng sau những ngày đầu đất nước tuyên bố độc lập
92. Ông Ké. 1945
Chiều một ngày cuối tháng 1 năm 1945, Nguyễn Ái Quốc trong bộ áo chàm người Nùng đến chiếc lán ở hangPác Tẻng (chân núi đá Lam Sơn, Cao Bằng), của gia đình đồng chí Hoàng Đức Triều (An Định). Người được giới thiệu với gia đình là “đồng chí Ông Ké”, với bí danh Ông Ké
93. Hồ Chủ Tịch. 1945
Tên gọi Hồ Chủ Tịch xuất hiện từ khi chính Nhật của nhân dân Trung Quốc và các lực lượng đồng minh chống phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương
94. Hồ. 1945
Hồ Chí Minh ký tên Hồ dưới các thư gửi ông Bécna và ông Phen đề ngày 9-5-1945 và 9-6-1945, cám ơn về sự giúp đỡ các học viên vô tuyến điện, nhờ ông Phen liên lạc chuyển giúp gói quà có lá cờ của đồng minh đến cho Người bằng cách nhanh nhất
95. Q.T. 1945
Với bút danh Q.T Hồ Chí Minh viết 10 bài, đăng trên báo Cứu quốc trong các năm 1945-1946
96. Q.Th. 1945
Với bút danh Q.Th Hồ Chí Minh viết 14 bài, đăng trên báo Cứu quốc trong các năm 1945-1946
97. Lucius. 1945
Tên mật do tổ chức OSS (cơ quan nghiên cứu chiến lược Mỹ) đặt cho Hồ Chí Minh.
Tháng 8 năm 1945, Sáclơphen một nhân viên của OSS lấy bí danh là “Ham Lét” và đặt mật danh cho Hồ Chí Minh là “Lucius” tên vị hoàng đế La Mã chiến thắng trong vở bi kịch của Shakespear là Titus Andronicus. Được biết Người đã dùng mật danh “Lucius” để điện cho “Ham Lét”
98. Bác Hồ. 1946
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, hai tiếng Bác Hồ buột phài gắn liền trên môi đối với mỗi người dân Việt nam. Trong một số thư gửi cho các thiếu niên nhi đồng, học sinh…Người thường ký hai chữ Bác Hồ
99. T.C. 1946
Hồ Chí Minh ký bút danh T.C trong bài “Tất cả hãy đến thùng bỏ phiếu” đăng trên báo Sự thật, số 10, từ ngày 6 đến ngày 9-1-1946, kêu gọi mọi người dân đi bầu cử để thực hiện quyền công dân của một nước độc lập tự do
100. H.C.M. 1946
Hồ Chí Minh ký H.C.M trong bức thư gửi đồng chí Môrixơ Tôrê, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Pháp, năm 1946. Người còn ký trong những bức điện gửi trên đường từ Pháp về nước năm 1946
101. Đ.H. 1946
Bút danh của Hồ Chí Minh viết tập “Nhật ký hành trình của Hồ Chí Minh bốn tháng sang Pháp” năm 1946
102. Xuân. 1946
Trên đường di chuyển từ Hà Nội qua Sơn Tây, Phú Thọ để trở lại chiến khu Việt Bắc trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã nghỉ lại ở nhà ông Hoàng văn Nguyên ở xóm Đồi, xã Cổ Tiết, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ từ ngày 4-3-1947 đến 18-3-1947. Thời gian ở Cổ Tiết, Hồ Chí Minh dùng bí danh 12 Xuân trong các giấy tờ giao dịch
103. Một người Việt Nam . 1946
Là tên đề dưới bài viết của Hồ Chí Minh “Hoa việt thân thiện” viết tháng 12-1946
104. Tân Sinh. 1947
Bút danh của Hồ Chí Minh viết một số tác phẩm trong các năm 1947-1948
105. Anh. 1947
Ngày 20-8-1947, Hồ Chí Minh gửi thư cho ông Nguyễn Khánh Toàn hỏi thăm tình hình sức khỏe. Cuối thư Người ký chữ Anh. Hiện nay mới chỉ thấy đây là bức thư duy nhất Bác ký chữ Anh
106. X.Y.Z. 1947
Hồ Chí Minh dùng bút danh X.Y.Z từ năm 1947 đến 1950
107. A. 1947
Hồ Chí Minh dùng mật danh A. năm 1947, trong các bức thư gửi đồng chí Hoàng Hữu Nam, Thứ trưởng Bộ Nội vụ lúc đó. Mật danh A. còn được nhắc đến trong cuốn Nhật ký của một Bộ trưởng (Nhật ký của ông Lê Văn Hiến, khi đó là Bộ trưởng Bộ Tài chính)
108. A.G. 1947
Bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng trong những năm 1947, 1949 và 1950. Với bút danh A.G, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết một số bài báo cho chuyên mục: Công tác thiết thực của báo Sự thật
109. Z. 1947
Theo cuốn Nhật ký của một Bộ trưởng mật danh Z. được Hồ Chí Minh dùng trong năm 1947
110. Lê Quyết Thắng. 1948
Hồ Chí Minh dùng bút danh Lê Quyết Thắng trong năm 1948 và 1949. Với bút danh Lê Quyết Thắng, Hồ Chí Minh viết cuốn sách “Một đoạn lịch sử Việt Nam từ năm 1847 đến 1947”. Sách do Việt Bắc xuất bản
111. K.T. 1948
Tháng 2 năm 1948, với bút danh K.T Chủ tịch Hồ Chí Minh dịch hai bài thơ chữ Hán, một bài là của Người gửi cụ Bùi Bằng Đoàn và một bài của cụ Bùi họa lại bài thơ của Người
112. K.Đ. 1948
Ngày 2-5-1948, Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng chí Hoàng Quốc Việt căn dặn về việc ra báo dịp tháng 5, động viên nhân dân đoàn kết, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm để kháng chiến mau thắng lợi. Để tuyên truyền Người làm một bài thơ với danh nghĩa là đội trưởng dân quân du kích mán, ký tên K.Đ và đề nghị đăng trong số báo này cùng với thơ của đồng chí Tố Hữu, Xuân Diệu
113. G. 1949
Bút danh của Hồ Chí Minh dùng trong năm 1949. Người viết bài báo: Thêu gấm và cho than, đăng trên báo Sự thật, số xuân Kỷ Sửu, ngày 29-1-1949. Với bút danh G. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài “Bệnh khẩu hiệu”, đưa ra quá nhiều khẩu hiệu không thiết thực, khó hiểu và dài dòng
114. Trần Thắng Lợi. 1949
Với bút danh Trần Thắng Lợi, Hồ Chí Minh viết bài “Đảng ta” đăng trên tạp chí “Sinh hoạt nội bộ” số 13, tháng 1-1949
115. Trần Lực. 1949
Hồ Chí Minh dùng bút danh Trần Lực trong các năm 1949-1958 và năm 1961. Với bút danh Trần Lực, Người viết gần 70 bài báo và một số tác phẩm ngắn
116. H.G. 1949
Hồ Chí Minh dùng bút danh H.G một lần năm 1949. Người viết bài: Trở lại vấn đề thi đua Ái quốc, đăng trên báo Cứu quốc, chi nhánh Thủ đô Hà Nội, mặc dù lúc này đang là vùng địch tạm chiếm
117. Lê Nhân. 1949
Bút danh của Hồ Chí Minh dùng năm 1949. Người viết bài Thất bại và thành công, đăng trên báo Sự thật, số 117, ngày 19-8
118. T.T. 1949
Bút danh Hồ Chí Minh ký dưới bài viết: Hồ Chủ Tịch và văn nghệ, viết năm 1949
119. DIN. 1950
Bút danh của Hồ Chí Minh dùng trong những năm 1950, 1953
120. Đinh. 1950
Bí danh của Hồ Chí Minh ký dưới bức thư gửi Thủ tướng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai và đồng chí Đặng Dĩnh Siêu, tháng 3-1950. Cũng với bí danh Đinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi tướng Trần Canh (thư bằng chữ Hán) ngày 9-10-1950
121. T.L. 1950
Hồ Chí Minh dùng bút danh T.L trong một thời gian dài, từ năm 1950 đến năm 1969. Với bút danh T.L Người viết gần 250 bài báo đăng trên các báo Sự thật, Nhân dân
122. Chí Minh. 1950
Ngày 9-11-1950, khi nghe tin người anh là Nguyễn Sinh Khiêm mất, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết một bức điện chia buồn gửi dòng họ Nguyễn Sinh. Cuối bức điện Người ký tên: Chí Minh
123. C.B. 1951
Bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1951 đến năm 1957. Với bút danh C.B Người viết hơn 700 bài báo đăng trên báo Nhân dân
124. H. 1951
Hồ Chí Minh gửi thư cho ông Xuphanuvông (Lào). Thư đánh máy, tiếng Pháp đề ngày 10-5-1951. Cuối thư có chữ ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh: H.
125. Đ.X. 1951
Bút danh của Hồ Chí Minh dùng từ năm 1951 đến năm 1955. Với bút danh Đ.X Người viết trên 250 bài đăng trên báo Cứu quốc
126. V.K. 1951
Hồ Chí Minh dùng bút danh V.K trong các năm 1951, 1960 và 1961. Với bút danh V.K Người viết 4 bài đăng trên báo Nhân dân
127. Nhân dân. 1951
Bài viết của Hồ Chí Minh nhan đề: “Chúc mừng ngày kỷ niệm lần thứ 34 cách mạng Tháng Mười” đăng báo Nhân dân, ngày 5-11-1951 và bài: “Nhân dân Việt Nam chúc mừng ngày kỷ niệm Đảng Cộng sản Trung Quốc” đăng báo Nhân dân, ngày 1-3/7/1954. Các bài này do Người tự đánh máy và sửa chữa. Cuối bài ghi hai chữ: NHÂN DÂN
128. N.T. 1951
Với bút danh N.T Hồ Chí Minh viết bài: “Phát ngôn của Chính phủ nhân tiếp các nhà báo” ngày 22-12-1951
129. Nguyễn Du Kích. 1951
Với bút danh Nguyễn Du Kích, Hồ Chí Minh dịch cuốn sách “Tỉnh ủy bí mật” của nhà văn Liên xô A.Phêđôrốp
130. Hồng Liên. 1953
Hồ Chí Minh ký bút danh Hồng Liên dưới bài báo: Nhân dịp Đại hội phụ nữ quốc tế, đăng trên báo Cứu quốc, số 2362, ngày 19-6-1953
131. Nguyễn Thao Lược. 1954
Với bút danh Nguyễn Thao Lược Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài: “Đẩy mạnh phong trào du kích”, đăng trên báo Nhân dân, số ra ngày 16-20/1/1954. Tác giả khẳng định: “biết địch biết ta, trăm trận, trăm thắng”
132. Lê. 1954
Hồ Chí Minh ký bút danh Lê trong bài báo: “Bức thư ngỏ gửi Thủ tướng Pháp Măng-đét Phơ-răng-xơ”, đăng báo Nhân dân, số 284, ngày 9-12-1954
133. Tân Trào. 1954
Bút danh của Hồ Chí Minh ký dưới bài báo: “Giải phóng Đài Loan” đăng trên báo Nhân dân, số 218, ngày 25 đến 27-8-1954
134. H.B. 1955
Hồ Chí Minh dùng bút danh H.B năm 1955. Hiện mới sưu tầm được một bài viết ký bút danh H.B, bài: “Có phê bình phải có tự phê bình”, đăng trên báo Nhân dân, số 488, ngày 4-7-1955
135. Nguyễn Tâm. 1957
Hồ Chí Minh dùng bút danh Nguyễn Tâm cho bài viết: “Quyển nhật ký trong ngục của Bác”. Bài được viết nhân dịp ngày sinh của Người, đăng báo Nân dân, ngày 19-5-1957
136. K.C. 1957
Hồ Chí Minh dùng bút danh K.C trong năm 1957, 1958. Người viết 4 bài báo xung quanh việc Mỹ phóng vệ tinh nhân tạo
137. Chiến Sĩ. 1958
Hồ Chí Minh dùng bút danh Chiến Sĩ từ năm 1958 đến 1968. Với bút danh này Người viết hơn 80 bài báo đăng trên báo Nhân dân và Quân đội nhân dân
138. T. 1958
Hồ Chí Minh ký bút danh T. trong bài báo: “Phong trào vệ sinh yêu nước đang sôi nổi tại Trung Quốc”, đăng báo Nhân dân, ngày 29-1-1958
139. Thu Giang. 1959
Hồ Chí Minh ký bút danh Thu Giang trong bài: “ Bác đến thăm Côn Minh”, đăng báo Nhân dân, ngày 12-4-1959
140. Nguyên Hảo Studiant (Nguyên Hảo, sinh viên). 1959
Hồ Chí Minh dùng năm 1959. Với bí danhNguyên Hảo Studiant Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi giáo sư Ivan Duycel (Bungari), ngày 10-4-1959
141. Ph.K.A. 1959
Hồ Chí Minh ký bút danh Ph.K.A trong bài: “ Cuộc nghỉ hè 2 vạn 3 nghìn cây số”, viết về chuyến đi thăm và nghỉ hè ở Trung Quốc và Liên Xô của Người, giới thiệu những thành quả trong công cuộc xây dựng CNXH của hai nước.
142- C.K. 1960
Hồ Chí Minh dùng bút danh C.K trong năm 1960. Người viết trên 20 bài báo về cần kiệm xây dựng CNXH, Người chỉ rõ đường đi lên CNXH của Việt Nam là phải công nghiệp hóa nước nhà
143- Tuyết Lan. 1960
Hồ Chí Minh ký bút danh Tuyết Lan trong bài: “ Ba chai rượu sâm banh”, đăng trên báo Nhân dân, số 2331, ngày 27-4-1960
144- Giăng Pho ( Jean Fort). 1960
Dưới hình thức dịch lại bức thư của một công nhân tên là Giăng Pho, ở Angiêri gửi cho tác giả nói về tình cảm của một người bạn quốc tế đối với Nguyễn Ái Quốc thời kỳ ở Pari và những năm sau.
145- Trần Lam. 1960
Hồ Chí Minh ký bút danh Trần Lam
146- Một người việt kiều ở Pháp về. 1960
Là tên đề dưới bài: “ Vài mẫu chuyện trong hồi bác sang thăm Pháp”, bài viết gửi cho báo Nhân dân, nhân dịp 19 tháng 5 năm 1960.
147- K.K.T. Khoảng năm 1960
Hồ Chí Minh ký bút danh K.K.T dưới bài viết:” Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế”, bài viết kêu gọi nhân dân Việt Nam nêu cao tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế, ủng hộ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Angiêri.
148- T.Lan. 1961
Bút danh của Hồ Chí Minh dùng khi viết tác phẩm: “Vừa đi đường vừa kể chuyện”, đăng trên nhiều kỳ báo Nhân dân, tháng 5-1961 và một bài báo khác nhan đề: “Bác ăn tết với chúng tôi”, đăng trên báo Nhân dân, ngày 14-2-1961
149- Luật sư Th. Lam. 1961
Hồ Chí Minh ký bút danh Luật sư Th. Lam trong bài viết: Kính hỏi Ủy ban Quốc tế giám sát và kiểm sát, đăng trên báo Nhân dân, ngày 5-8-1961
150- Ly. 1961
Hồ Chí Minh ký tên Ly trong bức điện đề ngày 13-12-1960, gửi đồng chí Ai dít, chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Inđônêxia, báo đã nhận được điện của đồng chí và thông báo tình hình sức khỏe của Người.
151- Lê Thanh Long. 1963
Hồ Chí Minh ký bút danh Lê Thanh Long trong bài: Nhân dịp mừng Đảng ta 33 tuổi, đăng trên báo Nhân dân, ngày 4-2-1963.
152- CH-KOPP ( A-la-ba-ma). 1963
Bút danh của Hồ Chí Minh ký dưới bài báo : Chó Mỹ da trắng cắn MỸ da đen, đăng trên báo Nhân dân, ngày 30-4-1963. Bài viết tố cáo chế độ phân biệt chủng tộc ở Mỹ.
153-Thanh Lan. 1963
Bút danh của Hồ Chí Minh ký dưới bài: đại hội phụ nữ Quốc tế, đăng trên báo Nhân dân, số 3377, ngày 26-6-1963
154-Ngô tam.1963
Ngày 7-9-1963, từ Trung Quốc, Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng chí Lê Duẩn, thư ký tên Ngô Tam. Trong thư Người thônmg báo tình hình sức khỏe của Người và hỏi thăm một số tình hình trong nước.
155. Nguyễn Kim. 1963
Hồ Chí Minh ký bút danh Nguyễn Kim trong bài: Thư bạn đọc, đăng trên báo Nhân dân, ngày 7-12-1951
156- Ng~.Văn Trung.1963
Hồ Chí Minh ký bút danh Ng~.Văn Trung trong bài viết: “ Phải chăng rồng lấy nước”, gửi Ban biên tập báo khoa học kỹ thuật, tháng 6/1963
157-Dân Việt. 1964
Hồ Chí Minh ký bút danh Dân Việt trong bài: Thư ngỏ ngài ngoại trưởng Anh Cát Lợi, đăng trên báo NHân dân, ngày 22-1-1964.
158- đinh Văn Hảo. 1964
Bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ký dưới bức thư gửi chủ bút tân Việt Hoa, ngày 2-5-1964.
159- C.S. 1964
Hồ Chí Minh ký bút danh C.S trong bài: “Chó Mỹ” đăng trên báo Nhân dân, ngày 10-9-1964. Bài viết về những thất bại của đế quốc Mỹ trong việc đưa các loại chó Mỹ, chó tay sai vào Việt Nam
160. Lê Nông. 1964
Hồ Chí Minh dùng bút danh Lê Nông trong các năm 1964-1966
161. L.K. Khỏang năm 1964
Bút danh của Hồ Chí Minh ký dưới bài: “Báo chí Anh lột trần âm mưu của Mỹ ở Việt Nam ”
162. K.O. 1965
Hồ Chí Minh ký bút danh K.O trong bài: “người mới việc mới”, đăng báo Nhân dân, ngày 10-9-1965. Bài viết về gương người tốt việc tốt được Bác Hồ thưởng huy hiệu
163. Lê Ba. 1966
Hồ Chí Minh ký bút danh Lê Ba trong bài: “Trả lời ông Men-Xphin thượng nghị sĩ Mỹ”, đăng báo Nhân dân, số 4407, ngày 30-4-1966
164. La Lập. 1966
Hồ Chí Minh dùng bút danh La Lập trong năm 1966. Người ký bút danh La Lập trong hai bài báo. Trong đó có bài: Tổng Giôn phạm tội ác tày trời, đăng báo Nhân dân, số 4508, ngày 10-8-1966
165. Nói Thật. 1966
Hồ Chí Minh dùng bút danh Nói Thật trong năm 1966. Người viết bốn bài báo ký bút danh Nói Thật, đăng báo Nhân dân
166. Chiến Đấu. 1967
Hồ Chí Minh dùng bút danh Chiến Đấu trong năm 1967. Người viết hai bài báo. Bài: “Giôn Sơn nhăn nhó mặt mo. Phần lo thua trận, phần lo dân cười”, đăng báo Nhân dân, số 4813, ngày 14-6-1967 và bài: lại thêm một thắng lợi to lớn của Trung Quốc anh em, đăng báo Nhân dân, số 4765, ngày 24-6-1967, viết về thắng lợi của Trung Quốc trong việc thử thành công quả bom khinh khí đầu tiên
167. B.
Trong thư gửi đồng chí Lê Duẩn, ngày 10-3-1968, Hồ Chí Minh ký chữ B.ở cuối thư. Nội dung thư là việc chuẩn bị cho Bác đi thăm Miền Nam . Người còn ký chữ B. trong một số thư gửi các đồng chí trong Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trong những năm 60
168. Việt Hồng. 1968
Hồ Chí Minh ký bút danh Việt Hồng trong bài: Vừa đi đường vừa nói chuyện về Các mác, đăng trong báo Nhân dân, số 5137, ngày 5-5-1968
169. Đinh Nhất. 1968
Hồ Chí Minh ký tên Đinh Nhất trong thư gửi các đồng chí Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu, ngày 25-5-1968. Người thông báo tình hình sức khỏe của Người sau thời gian đi nghỉ ở Trung Quốc về. Thư viết bằng chữ Hán.
Mỹ Hương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét