VẬN HỘI
NÀO CHO VIỆT NAM ?
Posted
by adminbasam on 28/05/2016
Phạm
Dzũng
Thuyền
hình cá sấu trên sân thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái). Ảnh: internet
I-
Hiện tượng “Di dân và Đồng hóa” trong lịch sử hình thành một quốc gia
Nhìn
tổng thể về lịch sử loài người kể từ khi còn là những bộ lạc, người ta ghi nhận
sự hình thành, phát triển hoặc tiêu vong của các cộng đồng dân cư (sắc tộc, bộ
lạc, xã hội thành thị…), của nhiều định chế chính trị và quyền lực quân sự, như
là các quốc gia, các đế quốc, và ngay cả của nhiều nền văn minh. Tất cả những
diễn trình lịch sử đó đều tuân theo quy luật biến dịch, mà trong đó có quy luật
thiên nhiên khắc nghiệt: “Đấu tranh sinh tồn”, thể hiện qua hiện tượng di dân
và đồng hóa (và bị đồng hóa). Hiện tượng này đã liên miên xảy ra từ hàng vạn
năm trước tới nay và sẽ còn tiếp tục mãi mãi.
Vậy nếu áp dụng góc nhìn hiện tượng học “Lịch sử xã hội loài người là lịch sử di dân và đồng hóa”, thì có thể thấy rõ động lực và hệ quả của nhiều sự kiện và chu kỳ biến động lịch sử trên thế giới từ xưa đến nay. Cũng từ góc nhìn này, có thể tiên liệu được động thái của nước lớn đối với các nước lân bang nhỏ hơn, và nếu ứng dựng vào lịch sử xung đột Việt Hoa sẽ nhìn thấy được bản chất đảng cầm quyền Cộng Sản VN dựa vào lịch sử hình thành và điều kiện phát triển của nó, qua đó cũng sẽ đánh giá được các chính sách, chiến lược mà CSVN đã và đang thực hiện, cũng như tiên liệu được kế sách của nó khi đối phó với thời thế, cùng những hệ lụy đối với sự tồn tại của đất nước VN và tương lai của dân tộc Việt.
Cần ghi nhận rằng theo nghĩa thông dụng, thì:
– “Quốc-Gia (hay Nước)” chỉ là một Định chế chính trị (political institution) của một vùng lãnh thổ có dân cư- Định chế thì có tính ngắn hạn và dễ thay đổi, td: Nước Chiêm Thành nay đã tiêu tan, Quốc-gia Việt Nam Cộng Hòa nay đã không còn nữa, Nước Mỹ (Hợp chủng Quốc Mỹ Châu) thì mới có mặt từ khoảng 500 năm nay.
– “Tổ Quốc” là một khái niệm tình cảm cộng đồng đối với khu vực địa lý mà một cộng đồng dân cư đã sinh sống qua nhiều thế hệ, thí dụ: người Việt ở Mỹ chỉ vài ba thế hệ nữa là đa số dù muốn hay không cũng sẽ không còn thiết tha đến đất nước Việt, mà sẽ chỉ còn biết Tổ Quốc mình, Đất nước mình là Mỹ Quốc.
– “Dân tộc” là một tập hợp sinh học thuần nhất của những cư dân sinh sống trong một vùng địa lý. Như vậy, “Dân tộc” là một thực thể, do đó tồn tại lâu dài hơn là những định chế và tình cảm cộng đồng, và là yếu tố căn bản cho Quốc Gia hoặc một cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, sự hình thành một Quốc Gia ổn định lâu dài là điều kiện cần để hình thành và phát triển nền văn hóa và văn minh của một dân tộc hoặc cộng đồng dân cư.
Về lãnh vực Chủng tộc học, luật thiên nhiên chung cuộc vẫn là cạnh tranh và sinh tồn. Chủng tộc nào hiếu chiến, thích mạo hiểm, sanh đẻ nhiều sẽ có khuynh hướng xâm lăng đất đai và có ưu thế về phát tán di thể (lai giống). Nhưng về mặt xã hội, cộng đồng dân cư nào đông hơn, có nền văn hóa cao hơn thì sẽ ưu thế về mặt ổn định và phát triển thế lực. Mông cổ, Mãn Thanh về quân sự mạnh hơn Hán nên đã xâm lăng Hán, nhưng rồi cũng bị Hán hóa vì dân số Hán đông hơn và văn hóa cao hơn, hơn nữa, còn tự nguyện hội nhập (đồng hóa), vì dân Mông, Mãn vẫn thán phục, ưa chuộng văn hóa Hán tộc. Tiến trình xâm lăng, di dân và đồng hóa với địa phương của dân du mục Bắc Á (Mông, Mãn…) đã xảy ra từ cả vạn năm nay, cho nên nếu xét về di thể (gene), thì nhiều dân tộc đã có lai di thể Mông Cổ: Hoa, Việt, Hàn, Thái, Nhật, Mexico và một số vùng bên Ấn, Hồi, Nga, Mỹ châu … v.v… Đó là kết quả của những đợt di dân hoặc xâm lược của các bộ lạc du mục hùng mạnh có nguồn gốc Mông Cổ (Mongoloid) từ Tây Bắc Á.
Xem ra, diễn trình di dân và lai giống đối với loài người là không thể đảo ngược. Tuy nhiên nếu quốc gia được hình thành dựa trên những định chế tổ chức xã hội hợp lý thì sẽ giúp cho những cộng đồng dân cư khác nhau hội nhập một cách bình đẳng, từ đó gia tăng phúc lợi xã hội và thế lực cho quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Thời Hoa Kỳ lập quốc, những di dân từ Âu Châu qua đã xóa sổ hàng triệu người bản xứ Mỹ Châu (vốn thuộc các chủng Mongoloid Á châu). Nhưng ngày nay, sự hình thành nước Mỹ hợp chủng với thể chế liên bang trên căn bản các định chế chính trị dân chủ và tiến bộ (tôn trọng tư hữu và tự do cá nhân, cơ hội đồng đều, không kỳ thị, hội nhập tự nguyện và bình đẳng) đã được chứng minh là mô hình hợp lý, có hiệu quả, và do đó có sức hấp dẫn di dân và chất xám mạnh nhất, đã giúp nước Mỹ phát triển nhanh chóng và ổn định, khác hẳn sự hình thành lãnh thổ bằng xâm lược, diệt chủng, bóc lột và nô lệ hóa của các đế quốc bá quyền cổ điển (Du mục, Phong kiến, Thực dân, Phát xít và Cộng sản).
II- Cuộc đấu tranh sinh tồn của Việt tộc chống sự xâm lược của Hán tộc
A-Bắc xâm và Nam tiến
Lịch sử và khảo cổ học đã chứng minh nhiều dân tộc (sắc tộc, bộ lạc, quốc gia…) ở vùng Hoa Nam, lưu vực sông Dương Tử đã bị xâm lược và đồng hóa bởi những sắc dân Hoa Bắc. Những sắc tộc nào di dân được xuống Đông Nam Á thì tồn tại được đến ngày nay mà không (hoặc ít) bị đồng hóa, là nhờ địa thế hiểm trở, khí hậu nhiệt đới, và sức sống (dân khí) của dân tộc đó (*1).
Những luồng di dân kèm theo hội nhập hoặc đồng hóa về văn hóa và nhân chủng sẽ tạo thành những biến chuyển địa lý chính trị có ảnh hưởng lớn lao nhiều mặt cho khu vực hoặc cả thế giới trong hàng trăm năm sau. Ở vùng lục địa Trung Hoa, khuynh hướng bành trướng về phía nam là bắt buộc đối với người Tàu phương bắc vì phía bắc và phía tây chiếm 2/3 nội địa nước Tàu là sa mạc hoặc núi non hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, thiếu nước, không phát triển nông nghiệp, không thể sản xuất đủ lương thực để nuôi dân số càng ngày càng đông.
Người Việt cũng vậy, trước sức ép nam tiến của Hán tộc, sau nhiều đợt di cư, Việt tộc quần cư ở đồng bằng sông Hồng, sông Mã, tạm yên được với Bắc phương vài ngàn năm nhờ vào địa hình biên giới hiểm trở. Trong khoảng thời gian này người Việt cũng phải mở nước bằng cách nam tiến, thôn tính và đồng hóa Chiêm Thành, Chân Lạp (nửa nước Miên) (*2), chuẩn bị tây tiến và bắc tiến bằng con đường từ phía Đông Nam (nếu thôn tính xong Miên) để thôn tính Lào, xung đột với Thái, Miến…
Mộng gồm thâu Đông Dương (hoặc thành lập Liên bang Đông Dương) của người Việt vẫn được ôm ấp kể từ thời các vua chúa nhà Nguyễn, vì địa lý nước Việt rất bất lợi cho sự thống nhất và an ninh lãnh thổ cũng như sự phát triển kinh tế và văn hóa:
*Rặng Trường Sơn phía Tây làm cho miền Trung quá hẹp, lãnh thổ rất dễ bị đứt khúc ở khoảng vĩ tuyến 17-18 như lịch sử đã từng chứng minh.
*Sông Mê Kông, xuất phát từ Tây Tạng dài gần 5,000 Km mà chỉ có trên 200 Km chảy qua đồng bằng Nam bộ, tạo ra một áp lực về thủy lợi và sinh tồn cho vựa lúa miền Nam VN nếu bị tác động từ thượng nguồn (với hàng chục đập thủy điện như hiện nay).
Địa lý các nước Miên, Lào cũng bất lợi không kém, do không có hoặc thiếu đường ra biển, tạo nên thế bị phụ thuộc.
Chỉ đến khi nào hình thành được “Liên bang Đông Dương”, mở rộng địa lý đất đai và dân số, làm chủ được ½ dòng chảy của sông Mê Kông, khai thác được lợi thế bờ biển và cảng biển của VN, thì cả 3 nước Việt Miên Lào mới hy vọng phát triển thịnh vượng để tồn tại và chận đứng ý đồ xâm lược của Tàu.
Về phương diện lịch sử, tình huống địa chánh trị này của Việt Nam và Đông Dương mới phát sinh từ khoảng thế kỷ 16-17, kể từ khi di dân Việt bắt đầu chiếm ngụ và khai phá miền đất sình lầy miền đông nam bộ vốn là phần bỏ hoang của nước Chân Lạp (Cao Miên). Đà thay đổi này bị ngừng lại khi đội quân viễn chinh của Thực dân Pháp thắng quân đội trang bị lạc hậu của triều đình nhà Nguyễn (thời vua Tự Đức).
So với bề dài lịch sử, nước Việt Nam có hình chữ S mới được khoảng 200 năm, thực ra là một đất nước rất mới, và còn đang trên đà phát triển ưu thế trong khu vực Nam Á. Khi Thực dân Pháp lập được ách đô hộ trên toàn cõi Việt Nam (Hòa ước Giáp Tuất 1874), thì lục tỉnh Nam kỳ mới được sát nhập vào VN khoảng 50 năm. Trước đó một chút, nếu VN canh tân kịp đồng thời với Nhật, thì nhiều phần chắc là cho tới ngày nay VN đã làm chủ Đông Dương, có thể kiểm soát được cả Thái Lan, Miến Điện, và trở thành đối trọng với Tàu, và biết đâu sẽ có đủ thế lực để đòi lại đất cũ là Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam (Nước Nam Việt thời Triệu Đà), thực hiện được hoài bão của vua Quang Trung.
Bản Đồ Việt Nam 1835 gồm đất Cao Miên cho tới Biển Hồ – Nam Vang đổi tên là Trấn Tây Thành, dưới quyền Trương Minh Giảng. Nguồn: internet
Vận hội lớn này đã lỡ rồi. Sau khi vua Tự Đức đầu hàng, 3 nước Việt Miên Lào trở thành Đông Dương thuộc Pháp. Cho đến sau thế chiến II, thì lại tách ra thành 3 nước riêng biệt như cũ. Từ nay, một Liên Bang Đông Dương tương lai muốn được ổn định và phát triển thì không còn có thể được hình thành theo kiểu bá quyền như trước, mà phải dựa trên sự đồng thuận của các dân tộc trong khu vực, và phải được tổ chức với những định chế dân chủ pháp trị (như Mỹ, Canada, Liên Âu…). Nếu chưa có được một Liên bang (hoặc Liên Hiệp) Đông Dương như vậy, thì địa lý chánh trị vùng Đông Nam Á vẫn chưa thể ổn định; những nước Đông Nam Á sẽ không thể yên ổn trước áp lực bành trướng của Tàu, và Việt Nam sẽ vẫn còn là nơi bị giằng xé nhiều nhất, sẽ tiếp tục phải gánh chịu những tổn thất bi thương nhất trong thế cờ nhằm thực hiện những sắp xếp chiến lược toàn cầu của những cường quốc. Phải chăng đó là cái giá phải trả cho sự tồn tại của Việt tộc và những dân tộc Đông Dương trước tham vọng bành trướng của Tàu?
Xuyên suốt lịch sử, người Tàu từ Hoa Nam di dân liên tục vào VN và các nước Đông Nam Á từ rất lâu, trước cả thời phong kiến bắc thuộc, hoặc do tha phương cầu thực, hoặc qua chiến tranh xâm lược hoặc là hệ lụy các biến động chính trị, td. Thiên Địa Hội phản Thanh phục Minh, Thế chiến II, nội chiến Mao- Tưởng (*3). Khi họ vào ít, và không kèm tổ chức bang hội thì họ bị Việt hóa, td: người Tiều (Triều Châu= Minh Hương) ở miền Trung, lục tỉnh miền Tây và Rạch Giá … nhưng nếu họ vào nhiều và tổ chức được bang hội, thì họ thành lập khu vực riêng có tiềm năng trở thành khu tự trị (td: Chợ Lớn), nếu họ tổ chức được chính quyền thì họ tách ra làm quốc gia riêng: Singapore, Đài Loan v.v.., không chịu tùng phục chánh quốc nữa, giống như thời xa xưa An Dương Vương Thục Phán xâm lăng đánh thắng Vua Hùng, và rồi Triệu Đà (207-137BC) sau khi thắng An Dương Vương vậy. (*4)
Khác với người Việt vốn nói cùng một thứ tiếng, gọi nhau là “Đồng bào”, gọi mảnh đất mình ở là “nước nhà”; những vùng khác nhau bên Tàu không nói cùng một thứ tiếng, cũng không phải là “Đồng bào”. Ở bên Tàu, do lịch sử chiến tranh thôn tính nhau liên miên, sự chia rẽ, kỳ thị giữa các địa phương nói tiếng khác nhau rất lớn (Tạng, Thổ, Triều Châu, Quảng Đông, Vân Nam , Hải Nam , Phước Kiến v.v…). Người Tàu do đó cũng không có quan niệm Tổ Quốc là “Nước Nhà” như người Việt. Trong quan niệm của văn hóa phong kiến du mục của Đại Hán, chữ “Quốc” chỉ vùng lãnh thổ và dân cư mà đấng con Trời (Thiên tử) cai trị, và là tài sản riêng của Thiên Tử, cho nên vùng đất ấy đã lần lượt được gọi là Tần quốc, Hán quốc, Ngụy quốc, Đường quốc, Nguyên, Minh, Thanh quốc…, cho tới ngày nay dân vùng biên giới Hoa-Việt vẫn nói “vua Đặng”, “vua Tập”…
Người Tàu cũng như người Việt, nặng đầu óc phong kiến, có mộng làm vua một cõi, đồng thời cũng có thói thần phục kẻ mạnh, là kẻ có tài gồm thâu thiên hạ. Thời xưa (trên 3000 năm trước) vốn không có nước Tàu.Vùng đất đai rộng lớn đó vốn là nơi sinh sống của rất nhiều sắc dân của hàng mấy chục nước lớn nhỏ, chưa kể những bộ lạc vùng rừng núi xa xôi (Man, Di, Nhung, Địch…). Họ luôn luôn đánh giết nhau để cướp bóc, thôn tính đất đai và bắt nô lệ (thời Xuân Thu, Chiến Quôc), chỉ sau thời Đông Chu, Tần Thủy Hoàng diệt xong 6 nước lớn cuối cùng, nước Tàu mới thống nhứt, và gọi là Trung Hoa. Nên biết dân nước Tần của Tần Thủy Hoàng từ thời Đông Chu trở về trước gọi là rợ Tây Nhung, vốn là một sắc dân ở tây bắc nước Tàu, là giống dân lai giữa Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ (Uighur: Thổ Phồn, Hồi Hột), tạo nên người Hoa Bắc, vốn du mục nên rất thiện chiến và hung bạo (*5).
Như vậy nước Tàu hình thành do chiến tranh xâm lược. Lịch sử hình thành nước Tàu là lịch sử xâm lăng và đồng hóa bằng bạo lực chiến tranh.
Xét theo cơ cấu địa lý kinh tế và dân số, nước Tàu có bản chất một liên bang, tuy nhiên lịch sử hình thành đế quốc đã tạo thành trong đầu bất cứ người Tàu nào một tâm lý thần phục kẻ mạnh, và một thứ luận lý về quyền lực phong kiến và bành trướng vô giới hạn. Khi Tàu mạnh cũng vậy, mà khi Tàu yếu, lại càng cần phải tìm thế chính thống hoặc đánh lạc hướng những bất mãn và khủng hoảng bằng cách kích thích óc dân tộc chủ nghĩa quá khích của người dân để gây chiến với lân bang, nhân đó có cớ thắt chặt kiểm soát nội bộ và cai trị dân. Tình trạng nhân mãn càng khiến cho Tàu buộc phải tiếp tục chọn con đường tồn tại bằng cách bành trướng với bất cứ giá nào, bất kể khủng hoảng nội bộ và nguy cơ đụng độ với lân bang hoặc các cường quốc khác, cho tới khi chế độ toàn trị sụp đổ và Đế quốc bể ra nhiều mảnh, hiện tượng này có tính chu kỳ (đã xảy ra nhiều lần) trong lịch sử 4000 năm của Tàu.
B-Bàn tay Đại Hán trong mọi biến động quân sự, chính trị tại Đông Dương.
Chỉ nhìn bản đồ địa lý cũng thấy được cái thế sinh tồn của Đế Quốc Tàu: Tàu nay chỉ còn duy nhất hướng Đông Nam để bành trướng và tiến ra biển. Nếu làm chủ được VN, Tàu sẽ kiểm soát được Đông Dương, kiểm soát được hải lộ chiến lược và kinh tế Thái bình Dương. Về mặt an ninh cho lục địa, Việt Nam như cái bao lơn trông ra biển, chính là cái cổng ra vào rất quan trọng. Nếu VN rơi vào quỹ đạo Mỹ như Nhật , Nam Hàn, Phi luật Tân, Úc … thì Tàu sẽ ở vào cái thế bị vây chặt tứ bề như con cá nằm trong rọ. Do đó trong điều kiện chưa đủ mạnh để thực hiện tham vọng làm bá chủ thế giới, bằng bất cứ giá nào Tàu cũng phải giữ miền Bắc VN làm lá chắn phía đông nam, giống như Bắc Hàn là lá chắn phía đông bắc. Tuy nhiên vì bài học lịch sử thất bại ngàn năm còn đó, Tàu phải tránh trực tiếp xâm lăng bằng quân sự, vì vậy “Tằm ăn dâu” (Cabbage strategy- Salami slicing) là con đường duy nhất để thôn tính Việt Nam . Kế sách đó được thực hiện rất sớm, bền bỉ và liên tục trên nhiều mặt:
1-Thâm nhập sâu vào guồng máy cầm quyền, can thiệp vào tổ chức nội bộ và nhân sự lãnh đạo nhằm tiêu diêt nhân tài, tiêu diệt những người có tinh thần dân tộc, tạo ra hoặc thúc đẩy chia rẽ, phân hóa, nội chiến.
2-Phá hủy truyền thống dân tộc và cơ cấu xã hội, bóp méo xuyên tạc lịch sử, xâm lăng văn hóa, truyền bá văn hóa bạo lực đấu tranh giai cấp CSCN.
3-Phá hoại tài nguyên và tiềm lực kinh tế sản xuất, sao cho Việt càng ngày càng suy sụp và lệ thuộc để tự động trở thành phiên thuộc.
4-Lấn đất, lấn biển dưới nhiều hình thức và khi thời cơ thích hợp.
Trên thế giới, sự kiện các nước tìm cách ảnh hưởng lẫn nhau là điều không thể không xảy ra. Sự kiện các nước lớn tìm cách khống chế các nước nhỏ để thôn tính đất đai, bóc lột tài nguyên và lao động, hoặc đặt căn cứ quân sự cũng không thể tránh được. Chỉ khi nào có được dân khí cường thịnh (lãnh đạo giỏi, tinh thần đoàn kết dân tộc cao), và nền kinh tế phát triển (như Nhật, Hàn) đồng thời có chánh sách ngoại giao và liên minh khôn khéo (như Thái Lan, Phi luật Tân…), thì mới tạo nên một thực lực làm cho nước ngoài phải kiêng nể, giữ được độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Tiếc thay những điều này đã và đang không thực hiện được ở Việt Nam .
Tài liệu lịch sử cho thấy ngay cả chiến tranh Giải thực trước 1954 cũng đã bị Tàu, kể từ thời Trung Hoa Dân Quốc của Tôn Văn, Tưởng Giới Thạch lợi dụng chiêu bài đồng minh, đồng chí, hữu nghị, cố vấn v.v… ngoài mặt là giúp đỡ, nhưng bề trong là để thực hiện cả một kế sách thâm sâu để thôn tính VN và Đông Dương như họ đã từng làm trong suốt chiều dài lịch sử (*6)
Vậy sẽ rất là thiếu sót cho cả 2 phe người Việt và các bình luận gia trong nước và quốc tế khi chỉ nhìn và đặt tên cho cuộc chiến ở Việt Nam và Đông Dương 1945-1975 là chiến tranh Đông Dương, chiến tranh Ý- thức- hệ (Tư bản/ Cộng sản, Quốc/ Cộng …), hoặc chiến tranh Giải phóng, hoặc Nội chiến.
Dường như mọi người đều không nhận thấy hoặc cố tình bỏ qua cái bóng ma của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán trong lịch sử giao dịch và xung đột Việt-Hoa và trong mọi cuộc chiến Đông Dương.
Tàu không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để thực hiện kế sách “Tằm ăn dâu”. Ngay cả trong những thời kỳ có vẻ thân thiện hữu nghị Tàu vẫn dùng mọi cách, hoặc trực tiếp qua áp lực kinh tế, chính trị, quân sự hoặc gián tiếp qua tình báo và phản tình báo để gây chia rẽ, lũng đoạn nội bộ để làm yếu thế lực Việt, băng hoại tinh thần dân tộc và văn hóa Việt, và cả cơ cấu tổ chức xã hội Việt.
Thí dụ: Cuộc Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) 1953-1956 đẫm máu để thực hiện đấu tranh giai cấp cuồng tín, và ngay sau đó là vụ án Nhân Văn giai phẩm, rập khuôn theo chiến dịch Trăm Hoa đua nở cùa CS Tàu đã phải xảy ra, vì nó là sách lược quân sự căn bản (binh pháp Tôn Vũ: Tiên phát chế nhân= đánh phủ đầu) để khống chế toàn diện VN của Tàu, với sự phục tùng hoặc đồng lõa của các lãnh tụ tay sai Việt do CS Tàu đào tạo, nuôi dưỡng. Thực chất là chỉ mượn màu đấu tranh giai cấp nhằm che dấu dã tâm chính là:
1-Tiêu diệt nhân tài: tiêu diệt sớm (“giết tiềm lực”) những người có tinh thần dân tộc trong hàng ngũ Việt Minh và trong xã hội, họ là những tinh hoa của dân tộc Việt, họ đều có học, đều xuất thân từ những gia đình khá giả hoặc tương đối khá giả (do đó dễ bị quy kết vào giai cấp địa chủ bóc lột), họ đã hết lòng chiến đấu chống thực dân dưới lá cờ Việt Minh chỉ do lòng yêu nước, họ có uy tín trong dân rất cao sau nhiều chiến thắng quân sự. Nếu những người này không bị tàn sát, thanh trừng thì sau này họ chắc chắn sẽ là những nhà lãnh đạo chính trị quân sự có tài và có tinh thần dân tộc, sẵn sàng bảo vệ tổ quốc trước dã tâm xâm lược, lũng đoạn của ngoại bang.
2-Sàng lọc dân và thanh lọc nội bộ: dùng khủng bố nhà nước để răn đe những phần tử bất đồng chính kiến và dân chúng, khiến họ quá sợ hãi và chịu hoặc khuất phục tuyệt đối, hoặc phải trốn chạy (di cư, vượt biên). Chính sách khủng bố nhà nước này đã thành công, với hậu quả là làm kinh tế miền Bắc VN trì trệ, phải lệ thuộc toàn diện vào viện trợ của Nga, Tàu giống như Bắc Hàn:
– Giai đoạn 1953 (Đợt 1): thực hiện khủng bố ở vài địa phương xa, chủ yếu là gây tiếng vang đe dọa để sàng lọc dân, đuổi những thành phần không kiểm soát được vào miền Nam, vừa nhằm cướp tài sản của người di cư, vừa tạo gánh nặng cho miền Nam (1954: do quá sợ sẽ bị Cộng Sản đấu tố, khủng bố nên hơn 1 triệu người phải di cư vào Nam).
– Giai đoạn 1956-1959 (gồm 4 đợt): Nhằm thanh lọc đảng và kiểm soát xã hội: tiêu diệt, loại trừ những cá nhân không vững “lập trường giai cấp”, thiết lập độc tài toàn trị “chuyên chính vô sản”, kiểm soát toàn diện tư tưởng và đời sống mọi người, không chừa một ai, kể cả cán bộ, đảng viên cao cấp. Có lãnh tụ Đảng đã phải tuyên bố từ bỏ giai cấp bằng cách đấu tố chính cha mẹ mình.
CCRĐ bên Tàu là rập khuôn theo kiểu Nga, mục đích là để củng cố quyền lực Đảng và lãnh tụ họ Mao. Khi Nga (Stalin) buộc Hồ Chí Minh thi hành CCRĐ và đặt dưới quyền giám sát của CS Tàu, thì Tàu lồng thêm vào âm mưu phá hoại thâm độc của họ, vì trong kế sách “tằm ăn dâu” thì việc triệt bỏ sớm những lãnh tụ tương lai có tinh thần dân tộc trong hàng ngũ Việt Minh, và triệt tiêu mọi mầm mống chống đối trong dân chúng chính là một bước tiến công quyết định, vì có triệt bỏ được những lãnh tụ tương lai này và làm tê liệt tinh thần dân tộc của dân Việt, thì về lâu về dài Tàu mới nắm chắc được đảng cầm quyền CSVN tay sai để thực hiện những bước thôn tính kế tiếp. Do vậy, phải nhìn thấy cuộc CCRĐ tắm máu không phải là sự sai lầm của các lãnh tụ CSVN hoặc sự ngu muội của cấp thừa hành như bọn họ đã cố tuyên truyền lừa bịp, mà là sự cài đặt sắp xếp có bài bản và áp lực cực lớn của Tàu (Mao đưa cả 1 đoàn cố vấn Tầu do Kiều Hiểu Quang, phó bí thư tỉnh ủy Quảng Tây lãnh đạo bên cạnh Hồ Chí Minh, lập ra các đội CCRĐ ở từng địa phương, uy quyền đến nỗi ra lệnh đấu tố, giết cả cán bộ Đảng; không khí sợ hãi đến nay còn truyền tụng: “nhất đội, nhì giời” (*7)-
Không nhìn thấy rằng dã tâm cực kỳ thâm độc này của Tàu nếu được thực hiện sẽ ảnh hưởng sâu xa lâu dài thế nào đối với vận mệnh mất còn của dân tộc, thì quả là các lãnh tụ CSVN quá ấu trĩ, không xứng đáng là lãnh tụ (*8), và phải chịu trách nhiệm với lịch sử, với nhân dân vì đã làm cho đất nước suy sụp, tạo cơ hội cho ngoại bang can thiệp và xâm lược. Nhưng nếu đã nhìn thấy dã tâm này của Tàu mà vẫn đang tâm nhắm mắt tàn sát đồng chí, đồng đội, đồng bào thì phải gọi là gì đây? Chính danh thì phải gọi đó là tay sai cho giặc, là phản quốc, là bán nước, là có nợ máu với nhân dân.
Chỉ cần nhìn lại lịch sử, đọc lại tài liệu của chính Đảng CSVN để suy nghĩ về cuộc CCRĐ tắm máu “trời long đất lở”, thanh trừng, đầy đọa và giết oan hơn nửa triệu người, gồm trong đó có đến 43% tổng số cán bộ đảng viên Việt Minh, bất kể cấp bậc và công trạng (*9) cũng đủ để thấy sự thật về bản chất tay sai của Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo đảng CSVN ngay từ 1956.
Hậu quả của chiến dịch này là: cho tới mãi mãi, trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng CSVN, nhất là trong đám lãnh tụ miền Bắc, sẽ chỉ gồm toàn những người vừa “lú” vừa cuồng tín, sợ Tầu, phục Tàu; Không thể tìm được một ai còn tinh thần dân tộc hoặc có tư duy xứng đáng với một người lãnh đạo.
Vụ Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968 ở miền Nam là một thất bại về mặt quân sự, nhưng thực chất là thanh trừng nội bộ để tranh dành quyền lực, vốn là bản chất của mọi chế độ độc tài toàn trị. Mục tiêu thực của chiến dịch đó không khác của chiến dịch CCRĐ năm 1956: cũng chính là “giết tiềm lực”, nhằm tiêu diệt những người chiến đấu chống chính quyền miền Nam vì lý tưởng dân tộc chủ nghĩa (Chống Mỹ xâm lăng như kiểu chống Tây thực dân- Chống cường hào ác bá… ), đồng thời tiêu diệt lực lượng chính trị và quân sự hậu thuẫn cho phe MTGP miền Nam vốn có tiềm năng chia phần hoặc chống đối lại quyền lực chính trị của Bắc Việt. CS Miền Bắc đã thành công trong mục tiêu đó, vì đã mượn tay lực lượng VNCH để làm triệt tiêu trên 70% lực lượng chiến đấu cũa MTGP Miền Nam (*10),nhờ đó sau 1975, miền Bắc có thể áp đặt quyền lực chính trị và mô hình kinh tế XHCN hoang tưởng trên toàn miền Nam mà không bị chống đối, cho dù mô hình kinh tế què quặt này đã làm cho miền Nam phá sản, sắp chết đói.
Cũng như vua quan cuối thời nhà Nguyễn với đầu óc phục Tàu đã làm cho Việt Nam mất cơ hội hiện đại hóa như nước Nhật cùng thời, đầu óc của nhóm lãnh tụ CSVN lại còn tệ hại hơn nhiều, không chỉ là phục, mà còn sợ và lệ thuộc Tàu đến mức độ không thấy được tai họa của Chủ Nghĩa CS đối với sự tồn vong của dân tộc và đất nước.
Sau năm 1975, Lê Duẩn tuy ra mặt chống Tàu (vì Tàu không muốn một VN thân Nga), nhưng do trình độ thấp kém, lại bị ngộ độc bởi nọc độc Chủ Nghĩa CS(*11), nên sau khi chiếm được miền Nam, đã thực hiện một loạt biện pháp ngạo mạn ngu xuẩn: áp dụng chính sách kỳ thị chánh trị quá khích và độc ác đối với người miền nam, với người Việt gốc Hoa, nhất là đối với những cựu quân nhân viên chức của phe thua trận, làm trầm trọng thêm sự chia rẽ dân tộc, chia rẽ Nam Bắc; Đồng thời vừa chiếm đóng Miên, vừa áp đặt kinh tế XHCN hoang tưởng vào miền Nam, làm cho nền kinh tế thị trường đang lên này bị bức tử, khiến cho kinh tế cả nước đột ngột sụp đổ, nghĩa là đã trúng kế của kẻ thù phương Bắc: Chia rẽ dân tộc, Phá hoại sinh lực kinh tế, Cô lập với cộng đồng thế giới… Mặt khác, chiến lược chống đối với Tàu mà chỉ dựa vào có một đồng minh duy nhất (Liên Xô) là một nước cờ tồi (nước xa không thể cứu lửa gần). Sự thất bại là hiển nhiên, nhất là sau khi Liên Xô sụp đổ, khiến cho sự tồn vong của VN rơi vào cái thế tuyệt vọng hơn, vừa mất thêm đất đai (sau cuộc chiến biên giới Việt-Hoa 1979 và 1983), vừa lệ thuộc Tàu nặng nề thêm về kinh tế, chính trị (*12).
C- Chủ Nghĩa Cộng Sản chỉ là cái mặt nạ của Chủ nghĩa Đế Quốc
Nga (Liên xô) vốn âm mưu dùng Chủ Nghĩa CS để thôn tính cả thế giới, luôn cả Tàu, dưới chiêu bài Thế Giới Đại Đồng, nhưng Tàu to quá, Nga nuốt không nổi, đồng thời, khác với Hồ Chí Minh và đảng CSVN, Mao Trạch Đông và đảng CS Tàu dù là phải chịu lép vế một thời, phục tùng Stalin để được huấn luyện và yểm trợ chống lại Quốc Dân đảng, đã không ngu dại để biến thành tay sai muôn đời cho Nga, làm tên lính xung kích cho CS Nga như Hồ Chí Minh và đảng CSVN, hậu quả là Tàu và Nga trở thành kẻ thù của nhau-
Sau này kinh tế XHCN thất bại, không chịu đựng nổi cuộc chạy đua vũ trang với Mỹ nên Nga Xô Viết xụp đổ, không giữ được những nước nhỏ mới thôn tính được sau thế chiến II – Nhưng Tàu dùng CNCS làm bình phong thì dù thất bại về kinh tế, vẫn có thể thôn tính được các nước Đông Dương, vì kinh tế XHCN nếu làm cho Tàu yếu một, thì cũng làm cho các nước nhỏ bị yếu nhiều lần hơn, đảng cầm quyền do bị cô lập, sẽ phải càng phải lệ thuộc vào đảng đàn anh để có chỗ dựa chính trị, hầu giữ vững quyền lực và quyền lợi: “còn Đảng, còn mình”.
Rốt cuộc các diễn biến ở VN từ 1930 dường như đều thuận lợi cho sách lược Nam tiến ngàn năm không ngưng nghỉ của Tàu.
Nghĩ cho cùng, về thực chất sâu xa lịch sử xung đột Việt-Hoa, chỉ toàn là Tàu chủ động đánh Việt, toàn là Tàu giấu mặt trá hình, dùng mọi thủ đoạn thâm độc tìm cách làm cho Việt chia rẽ, đánh lẫn nhau mà suy yếu đi, dân mình Bắc Nam đều chỉ là nạn nhân, các lãnh tụ CSVN vì ngu muội và bị sai khiến, cũng chỉ là con cờ trong bàn tay phù thủy.
Chúng ta nay đã đều biết ai đứng đàng sau Mặt Trận Việt Minh (trước 1954) và MT Giải Phóng Miền Nam (trước 1975) để giựt giây? chính là đảng CSVN, con đẻ của Quốc Tế III (Nga Xô), tay sai của Mao Trạch Đông và đảng CS Trung Hoa. Ngay từ đầu, CS Tàu đã muốn dùng chủ nghĩa CS để thôn tính các nước Đông Dương, mở rộng biên cương xuống phía Nam, làm chủ biển Thái Bình và cả vùng Đông Á. Trong ý đồ đó, miếng xương khó nuốt nhất vẫn là một nước VN thống nhất và hùng mạnh. Từ 3,000 năm nay Tàu gặp khó khăn khi muốn xâm lăng và đồng hoá VN vì ý chí về đồng bào đồng chủng, và độc lập dân tộc của VN còn mạnh, nay Tàu vớ được Chủ Nghĩa Cộng Sản, dùng mục tiêu hoang tưởng là “Đấu tranh giai cấp để tiến đến Thế Giới Đại Đồng”, tạo ra một thứ ảo vọng “Thiên Đàng hạ giới”, lừa gạt những người kém tinh thần dân tộc, những người nhẹ dạ, cả tin, cuồng tín giáo điều hoặc thiếu học vấn, kém suy luận, để che đậy ý đồ xâm lược (của Tàu) và âm mưu bán nước (của thành phần tay sai, thân Tàu trong Đảng CSVN)-
Chiến tranh giải thực ở VN vốn không cần chịu mất mát và đổ máu nhiều đến thế, nhưng với âm mưu làm yếu Việt, Tàu đã xúi dục, cổ võ, yểm trợ cho chiến tranh và phân hóa. Nhìn bề ngoài, thì giống như người Việt chống Pháp, Việt Minh đánh Việt Gian … nhưng thực ra chính là Hán tộc (Tàu) đánh Việt tộc bằng cách dùng ngay người Việt (Việt Minh) đánh giết người Việt.
Lực lượng Việt tộc (chính quyền Quốc Gia, các đảng phái Quốc Gia, các tôn giáo…) biết rõ sự lệ thuộc của các lãnh tụ Việt Minh vào Cộng Sản Tàu, Nga, nhưng vì yếu thế, nên đành phải dựa vào Pháp để chống Cộng, mà do Pháp thua, phải ký HĐ Geneve, nên phải cùng chạy xuống miền Nam.
Sau đó Tàu lại tiếp tục xúi Việt đánh Việt bằng chủ nghĩa CS và yểm trợ ồ ạt về quân sự cho CS Bắc Việt và Mặt Trận GP Miền Nam, thậm chí còn đưa quân Tàu giả dạng vào miền Bắc (*13) để miền Bắc có thể xua toàn lực thanh niên xâm nhập miền Nam (sinh Bắc tử Nam), một công hai việc: vừa thúc đẩy mở rộng chiến tranh làm suy yếu dân Việt, vừa lan tràn ảnh hưởng xuống Đông Nam Á.
*Thời kỳ trước 1954, Tàu dùng tay sai Đệ tam Quốc Tế là Hồ Chí Minh dựng nên Đảng CSVN, núp dưới chiêu bài Mặt Trận Việt Minh, trợ giúp vũ khí nặng, nên Việt Minh thắng Pháp trận Điện Biên Phủ. Sau chiến thắng đó Việt Minh hoàn toàn có thế lực để thống nhất và kiểm soát cả nước, nhưng vì Tàu chưa củng cố xong nội bộ, lại lo ngại sẽ không kiểm soát được một VN thống nhất nên đã đã áp lực Việt Minh nhượng bộ phe Đồng Minh do Mỹ đứng đầu, chịu chia cắt VN. Mục tiêu của Tàu lúc đó là cần củng cố hậu phương, nên chỉ muốn biến Bắc VN thành thành lá chắn phía đông nam, giống như Bắc Hàn là lá chắn phía đông bắc.
*Thời kỳ sau 1954, Tàu yểm trợ cho CS Bắc Việt xâm lăng miền Nam chỉ là tranh dành ảnh hưởng với Nga ở Đông Dương, và muốn cho VN suy kiệt do nội chiến để không thể trở thành đối thủ đáng ngại cho mưu đồ bành trướng.
Như vậy, sau 1975, mặc dù bề ngoài thấy giống như là phe Xã Hội CN thắng phe Tư Bản, Bắc Việt thắng Nam Việt, hoặc là Giải Phóng Miền Nam thắng Mỹ… nhưng thực ra vẫn chỉ là Tàu thắng Việt, vì Tàu đã thành công trong âm mưu dùng người Việt đánh người Việt, khiến cho 2 miền đều kiệt quệ, chết người, hại của, gây nên hận thù chồng chất và chia rẽ dân tộc thêm sâu sắc.
Nhớ lại, sau khi dàn xếp thỏa hiệp được với Tàu để dồn nỗ lực làm suy yếu Nga, Mỹ bỏ rơi VNCH, làm ngơ cho Tàu chiếm đoạt Hoàng Sa, cắt hết quân viện làm cho miền Nam thất trận 1975 (*14 ). Ngay sau đó miền Bắc xé bỏ thỏa thuận trước đây với MTGPMN (miền Nam trung lập trong 2 năm rồi mới hiệp thương thống nhất), áp đặt ngay chính sách kỳ thị chính trị với miền nam, và nền kinh tế giáo điều XHCN trên cả nước bằng cách cào bằng lực lượng sản xuất miền nam với các chiến dịch đánh tư sản và đổi tiền (thực chất là cướp tài sản), cô lập hoặc xua đuổi những người có tinh thần dân tộc, kể cả các lãnh tụ của Mặt Trận GPMN. Một số lớn nhân lực (vài trăm ngàn thanh niên trẻ và chuyên gia các ngành nghề quân sự, dân sự, khoa học kỹ thuật) có tiềm năng chống Tàu hoặc xây dựng kinh tế rất lớn bị lừa vào các trại cải tạo, thực chất là các trại tù. Một số lớn dân chúng có tiềm năng xây dựng nền công nghiệp và kinh tế thị trường bị cưỡng bức đi khai khẩn vùng rừng núi hoang vu (gọi là vùng kinh tế mới).
Những nhân tài vật lực (lực lượng sản xuất tiên tiến) này miền Nam đã mất 20 năm mới vun trồng và tích lũy được, đã từng là vốn quý khiến cho kinh tế xã hội và đời sống miền Nam thời đó cao hơn cà Singapore, Thái, Nam Hàn, đã bị sự ngạo mạn u mê của các lãnh tụ “Bên thắng cuộc” làm tiêu tan hết chỉ trong vài năm.
Sự kỳ thị chính trị một cách quá khích và nền quản trị quá kém cỏi đã làm Kinh tế cả nước phá sản, tinh thần người dân bị suy sụp, bị đẩy đến chỗ cùng quẫn đến nỗi phải bỏ quê hương vượt biển ra nước ngoài cả triệu người, là một con số rất lớn chưa từng có trong trong lịch sử VN và thế giới- Cả triệu người, đại đa số là dân thường, kể cả dân miền Bắc phải liều lĩnh chạy ra biển khơi, bỏ nước mình để ra đi về nơi xứ lạ quê người, bất kể bão tố, cướp biển, hãm hiếp và chết chóc (khoảng 1/3 vùi thây trong biển cả). Điều đó nói lên được sự cùng quẫn thất vọng của người dân đối với nền cai trị ở VN. Thảm kịch này không khác gì một cuộc “tự diệt chủng” vốn là đặc trưng trong mọi chế độ Cộng sản, lại bồi thêm một lần mất máu (bleeding) rất lớn nữa cho sinh lực Việt tộc, cho lực lượng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. (*15)
Tàu còn xúi dục, yểm trợ Kmer Đỏ tàn sát người Việt, đốt phá và tấn công biên giới tây nam để khích VN phải xua quân qua Kampuchia, tốn người, hại của, mất uy tín đối với quôc tế. Vậy mà Tàu lại viện lý do VN chiếm đóng Kampuchia để xua quân tấn công biên giới phía bắc, tàn sát hàng ngàn dân Việt. Rõ ràng là ném đá dấu tay rồi lại thừa cơ đối sách yếu kém của CSVN để gây chiến và cướp đất biên giới. Cũng phải ghi nhận rằng cuộc thảm sát của Kmer Đỏ làm chết gần 2 triệu người (21% dân số Miên) cũng là 1 cuộc “cải cách” còn triệt để và đẫm máu hơn là Cải Cách Ruộng Đất ở VN, vốn là đòn độc hiểm của Tàu, dùng người Miên giết người Miên để khống chế Miên về lâu về dài.
Thảm họa “tự diệt chủng” của dân Miên trực tiếp là qua bàn tay Kmer đỏ, nhưng chính CSVN đã đưa Kmer đỏ về Miên và giúp chúng lật đổ chế độ Lon Nol. Do vậy, đây cũng đồng thời là âm mưu của Đảng CSVN, dùng Kmer đỏ để diệt chủng, làm yếu dân Miên hầu thực hiện mộng Liên Bang Đông Dương.
D- Đệ Nhất Cộng Hòa, một thể chế không đúng thời vận.
Có một điều đáng tiếc, là ở miền Nam VN sau 1954, nếu ông Ngô Đình Diệm có lập trường đúng về ưu tiên cấp bách cho dân tộc lúc đó, là một mặt cần “chính danh” (legitimacy) để ổn định nhân tâm đối phó lại với thủ đoạn tuyên truyền của Việt Minh CS, một mặt cần một mô hình dân chủ pháp trị thích hợp nhất với thời thế, và quyết tâm xây dựng chế độ theo mô hình đó một cách dứt khoát, không nhượng bộ áp lực cá nhân thân tộc thì sẽ giữ được cái thế “chính danh, đại nghĩa”, tiếp tục huy động được sự ủng hộ sâu rộng của các đoàn thể quần chúng và đảng phái, tôn giáo, và đã có thể kéo dài chế độ thêm một thời gian đủ dài để xây dựng được nền móng chính trị dân chủ vững mạnh, củng cố và dựa vào sức mạnh đại đoàn kết dân tộc chống lại sự thao túng của ngoại bang, kể cả Mỹ và thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc, phá hoại của CS.
Đối với các nước ở Đông Á vào Thế Kỷ 20, nhất là những nước phong kiến nông nghiệp vừa mới thoát khỏi chế độ nô lệ thuộc địa, dân trí còn thấp kém, nhất là ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân chưa có, xem ra mô hình chính trị dân chủ thích hợp nhất phải là Quân chủ lập hiến, vì những nước theo mô hình này vẫn ổn định cho tới gần đây (Thái, Miên, Nhật …) – Nhiều nước dân chủ Âu Mỹ tới nay cũng vẫn còn là Quân chủ lập hiến (Anh, Úc, Canada …)
Tại Việt Nam, bài học lịch sử cận đại còn đó: Trịnh Kiểm (1503–1570) có thế lực chính trị hơn vua Lê, nhưng lòng dân còn mến mộ công đức vua Lê Lợi đã cởi ách nô lệ cho dân, cho nên Trịnh Kiểm không dám cướp ngôi, họ nhà Trịnh đành phải “Giữ chùa, thờ Phật thì ăn oản” cho đến khi bị nhà Tây Sơn dẹp.
Vua Quang Trung (1753-1792) sau đó xưng Vương được chính danh, là vì vua Lê Chiêu Thống “cõng rắn cắn gà nhà” đưa quân Tàu vào. Nhà Tây Sơn sau khi vua Quang Trung mất đã chia rẽ, đánh lẫn nhau, và làm dân đói khổ, cho nên bị vua Gia Long diệt.
Nhà Nguyễn Gia Long (1802-1945) đã có công mở rộng đất nước gấp đôi, và cai trị trên 100 năm, được lòng dân mến mộ và tuân phục. Vị vua cuối cùng là Bảo Đại cũng hết lòng đấu tranh đòi Thực Dân Pháp trao trả độc lập. Dù thoái vị vì mắc mưu Việt Minh lợi dụng lòng yêu nước của mình, nhưng cũng chưa hề làm mất lòng dân. Trong khi đó, ông Ngô Đình Diệm chỉ là một đại quan của vua Bảo Đại; Gia tộc ông chưa có công trạng gì lớn với đất nước, uy tín với dân và sĩ phu cả nước cũng chưa có gì đáng kể, nếu ông sáng suốt hơn, thì thay vì lật đổ và bêu xấu vua Bảo Đại, ông nên bắt chước Trịnh Kiểm với vua Lê, như vậy sẽ có chính danh, chính nghĩa để huy động được sự tuân phục của giới sĩ phu và dân chúng, vô hiệu hóa được sự tuyên truyền của Việt Minh. Với chế độ Quân Chủ Lập Hiến, Việt Nam sẽ ổn định về chính trị, có uy tín trong khu vực (Đông Dương) và thế giới, do đó sẽ thắng Cộng Sản và trở thành cường quốc khu vực.
Vậy thất bại của ông Ngô Đình Diệm là do mâu thuẫn giữa một bên là hệ tư tưởng phong kiến nông nghiệp của đại đa số trí thức, nhân sĩ thời đó, thể hiện qua tác phong quan lại của ông và gia tộc, với một bên là tham vọng cá nhân và áp lực xây dựng chính quyền theo mô hình dân chủ pháp trị kiểu Mỹ (dân chủ cộng hòa), mô hình này quá mới lạ đối với những điều kiện văn hóa, tâm lý xã hội của một nước nhỏ Á châu, và cũng không thích hợp với tình hình nhân tâm ly tán ở một miền Nam VN đang tan tác hỗn loạn sau 1954.
Những điều kiện mâu thuẫn như vậy đã khiến cho cho một lãnh tụ có tinh thần dân tộc như ông Diệm, sau khi lên làm Tổng Thống, không những không phát triển được mối quan hệ hợp tác với các đảng phái Quốc Gia, với các tôn giáo và các lực lượng chống cộng khác (Cao Đài, Hòa Hảo…) là những lực lượng quần chúng rộng lớn và có tổ chức chặt chẽ vốn đã tự nguyện tập họp giúp ông ngay từ ban đầu, mà lại còn bị ảnh hưởng của gia tộc và bọn xu nịnh, đưa chế độ vào tình trạng tự cô lập và xa rời quần chúng, dần dần làm mất thế chính danh mỏng manh của mình, tạo điều kiện cho địch (kể cả Mỹ) khai thác các sơ hở, mâu thuẫn để tuyên truyền phá hoại. Hậu quả là đưa nền cộng hòa sanh non đến chỗ chết yểu, sụp đổ quá sớm, không đủ thời gian để tiếp tục thực hiện việc cấp thiết sinh tử là chấn hưng dân khí, xây dựng một hệ thống chính quyền và một thế hệ nhân tài về chính trị, quân sự hoàn toàn mới cho phe Quốc Gia (không còn tàn dư của thời Pháp thuộc qua sự lưu dụng những công chức và sĩ quan cao cấp được Pháp đào tạo).
Vậy là Việt tộc lại mất đi thêm một vận hội lớn hiếm có để phục hưng sức mạnh chống lại tham vọng xâm lược của Tàu.
III- Vận nước còn nổi trôi
A- Chiến lược thôn tính Việt Nam và Đông Dương của Tàu
Sau 80 năm thuộc Pháp, với chính sách bóc lột về kinh tế, kềm hãm sự mở mang dân trí, và chia để trị (Bắc, Trung, Nam kỳ với 3 chế độ cai trị khác nhau), Thực dân Pháp đã làm cho VN chia rẽ và kiệt quệ.
Đến khi Mao Trạch Đông nhờ viện trợ của CS Nga, đánh thắng Tưởng Giới Thạch, nắm được chính quyền, thì Mao khởi đầu chiến lược thôn tính Đông Dương. Nếu Tưởng thắng, thì cũng sẽ làm y như vậy- Tàu nào cũng giống nhau- Sẽ rất là lạ nếu thực tế lịch sử lại không xảy ra như vậy- Mộng Đại Hán nằm sẵn trong đầu bất cứ anh Tàu nào-
Theo đó, hiển nhiên là CS Tàu phải điều khiển cho được cuộc chiến Đông Dương. Có rất nhiều tài liệu lịch sử đã được phổ biến cho thấy chiến tranh ở VN kể từ Chiến dịch biên giới 1950, trận Điên Biên Phủ và Hiệp định Geneve 1954, các chính sách lớn của CSVN kể cả cuộc CCRĐ đẫm máu 1956, tất cả đều có bàn tay của Tàu xếp đặt và điều khiển để làm suy yếu VN.
Cùng một đối sách áp dụng với Triều Tiên, dù không muốn thấy một VN thống nhất, Tàu nhận thấy việc ra mặt yểm trợ Bắc Việt xâm chiếm miền Nam là cần thiết để ngăn chận Nga Xô bành trướng thế lực, và về lâu dài còn có lợi cho mưu toan khống chế Đông Á, phá thế bao vây chiến lược của cả Nga lẫn Mỹ, do đó từ 1960 Tàu tiếp tục viện trợ hào phóng cho Bắc Việt và MTGPMN.
Sau khi Nga Xô sụp đổ, mất chỗ dựa duy nhất, lại bị cấm vận vì chiếm đóng Kampuchia, nền kinh tế tan hoang và nhân tâm ly tán khiến đảng CSVN không còn đường nào khác, đành phải bám vào thứ chính nghĩa bịp bợm và hoang tưởng là “bảo vệ CNXH thế giới”, quay lại khuất phục Tàu, bí mật nhượng bộ Tàu mọi mặt kể cả bán nước để được tồn tại (Hội nghị Thành Đô 1990).
Đến đây thì thấy rõ nhà cầm quyền CSVN hiện nay đang lâm vào tình thế bắt buộc phải giao căn nhà VN cho Tàu. Mọi động thái hiện nay của CSVN chính là đang chuẩn bị giao Việt Nam cho Tàu. Kiểm điểm lại, kể từ khi khởi đầu can thiệp vào Đông Dương từ năm 1930 với tay sai là Hồ chí Minh và Đảng CSVN, đến nay Tàu đã chiếm được các cao điểm quân sự ở biên giới phía Bắc (Ải Nam Quan, Đồi Lão Sơn …), chiếm đóng Hoàng Sa Trường Sa để làm chủ vùng biển VN, ém quân trên Cao nguyên và bờ biển Trung phần VN, yết hầu chiến lược của toàn thể Đông Dương, lật đổ ảnh hưởng của VN tại Lào và Campuchia, tạo thế bao vây VN trên bộ và ngoài biển, gài người nắm các chức vụ then chốt trong Bộ Chính trị CSVN và guồng máy an ninh, quốc phòng VN, tiêu diệt các lực lượng dân tộc, triệt hạ ý chí dân tộc, đào sâu chia rẽ nam bắc, phá hoại kinh tế, xã hội và văn hóa và VN, thông qua nhà cầm quyền tay sai khiếp nhược “hèn với giặc, ác với dân”.
Một khi ý chí đấu tranh của người dân bị mất định hướng, bị đàn áp hung bạo đến tê liệt và suy kiệt, người dân sẽ chỉ còn biết an thân thủ phận lo sinh kế, lòng yêu nước và tinh thần đại đoàn kết dân tộc bị lụn bại thì đất nước sẽ rơi vào cái thế buộc phải lệ thuộc ngoại bang, đưa tới mất nước và bị đồng hoá, y như dân Chiêm Thành, Chân Lạp trước đây vậy.
Dân ta ở VN sẽ thành ra người Tàu gốc Việt, như là đã xảy ra ở Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông vậy. Sẽ lại có thể xảy ra một đợt di tản lớn, người Việt lại ào ạt chạy ra nước ngoài, vài ba thế hệ sau là thành con lai hết…. Rốt cuộc đó cũng là thể hiện quy luật vận động của lịch sử loài người: Di dân và Đồng hoá. Khí thế đấu tranh của dân tộc nếu không đủ mạnh để sớm lật đổ chế độ cai trị độc tài của Đảng CSVN, dành lại nền độc lập tự chủ thì khó có thể tránh được một cuộc chiến tự diệt chủng tàn khốc nữa có thể làm tan rã Việt Nam .
Cuộc cờ muôn thuở ở VN cho tới nay vẫn không thay đổi, sau mỗi cuộc cờ, giữa 2 phe người Việt, vẫn không có bên nào là “Bên Thắng Cuộc”, mà kẻ thắng chính là Tàu, còn kẻ thua cuộc vẫn là nhân dân Việt Nam, là Việt tộc, là các dân tộc Đông Dương.
B- Chiến lược can thiệp của Mỹ
Trong điều kiện chủ nghĩa bá quyền Đại Hán còn tồn tại, nếu VN bị Tàu thôn tính hoặc hoàn toàn kiểm soát, thì Đông Dương và Biển Đông sẽ thuộc về Tàu. Tình thế này đã được dự đoán từ sau Thế chiến II, và không thể được các cường quốc khác chấp nhận.
Còn đối với Mỹ thì sao? nếu VN mất vào tay Tàu thì Mỹ cũng đâu có thiệt gì? Đại chiến lược của Mỹ vẫn là giữ vững thế siêu cường số một- Mục tiêu cốt lõi của Mỹ vẫn là bảo vệ và phát triển lợi nhuận các đại công ty tài phiệt và công kỹ nghệ.
Đối với Mỹ, quyền lợi là trên hết, cho nên Mỹ vốn là cần Tàu hơn là cần VN. Đầu tư của tư bản Mỹ vào Tàu rất lớn, thông qua nhà cầm quyền độc tài đảng trị CS Tàu, Mỹ không cần xâm lăng đất đai của Tàu cũng vẫn bóc lột được 1 tỷ rưỡi người Tàu-
Trong Đại chiến lược nhằm đối đầu với những thế lực có tiềm năng tranh chấp vai trò số 1 của mình, bao giờ kẻ mạnh hơn cũng chủ động áp dụng chiến thuật Điểm và Diện, để địch thủ không đỡ nổi. Đối phó với Tàu, tranh chấp ưu thế quân sự trên biển Đông chỉ là “Diện”, còn “Điểm” chính là cái “tử huyêt” của tên khổng lồ một mắt Đại Hán mà Mỹ đang khai thác, đó là mâu thuẫn sinh tử giữa thể chế chính trị độc tài toàn trị và nền kinh tế thị trường đang toàn cầu hóa nhanh chóng dưới tác động thúc đẩy ngày càng mạnh của các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đó chính là cái mâu thuẫn “ai thắng ai” giữa “quan hệ sản xuất lỗi thời, phản động” và “lực lượng sản xuất tiên tiến”, nói theo thuật ngữ kinh tế học Mác Xít-
Cái mạnh căn bản của một đảng chính trị, một chế độ, một quốc gia, cho đến một đại cường vẫn là phải có cái thế “chính danh” trong triết học chính trị của mình. Mỹ và đồng minh có nền văn hóa và thể chế chính trị phù hợp với nhau và đi đúng xu thế thời đại, là nhân bản, dân chủ hóa và toàn cầu hóa, tức là có “chính danh”. Cái mạnh này của phe các nước dân chủ chính là cái yếu chí tử của các thể chế chính trị độc tài toàn trị, vốn chỉ có thể tạm thời tồn tại nhờ vào dối trá và đàn áp.
Do đó, dù Mỹ chẳng sợ gì Tàu, nhưng cũng không dại gì để gây chiến với Tàu, vì không có lợi- Mỹ đã thắng Nga và sắp xếp Nga vào quỹ đạo thế giới thế nào thì cũng sẽ tính là về lâu dài sẽ thắng Tàu và sắp xếp Tàu vào trật tự thế giới bằng cách tương tự. Mỹ đang một mặt sắp xếp cái bẫy chạy đua vũ trang, một mặt thúc đẩy Tàu đi cho hết chu kỳ bành trướng quyền lực của một thể chế độc tài toàn trị. Mỹ đang thổi cho Tàu phải phình to ra để sẽ tự nổ thành nhiều mảnh, y như Nga Xô Viết vậy, dù biết trước mà vẫn không tránh được…. Từ nay cho tới lúc đó, thì nếu Tàu mà ra mặt đụng độ với Mỹ, Mỹ chỉ cần xù nợ hoặc không mua hàng là Tàu sẽ gặp khó khăn rất lớn, có thể có nội loạn ngay nếu có thêm cả trăm triệu người thất nghiệp do cấm vận. “Cấm vận” là vũ khí độc quyền của Mỹ và đồng minh. Dĩ nhiên Mỹ cũng sẽ gặp khó khăn, vì đã có phần nào phụ thuộc vào hàng hóa rẻ tiền nhập từ Tàu. Tuy nhiên vì mục tiêu lâu dài và Đại chiến lược của mình, Mỹ cũng không thể để Tàu chiếm được VN hoàn toàn, vậy thì Mỹ và đồng minh sẽ phải tìm mọi cách để ngăn chặn tham vọng bành trướng của Tàu bằng cách yểm trợ cho phe chống đối ở VN trở nên đủ mạnh để tạo áp lực với Tàu, buộc Tàu phải dừng chân lại.
Chiến tranh giằng co ở Đông Dương do đó sẽ lại bùng nổ dưới hình thức chiến tranh ủy nhiệm. Tại sao phải là chiến tranh ủy nhiệm? vì chắc chắn Tàu và Mỹ, kể cả Nhật, Ấn, Úc sẽ không trực tiếp đánh giết nhau, nhưng sẽ dựa vào tình trạng mâu thuẫn, chia rẽ và suy sụp ở VN để tạo ra 2 phe, thí dụ: phe Bắc Việt (thân Tàu) và phe Mặt Trận Giải Phóng v.v… và viện trợ cho 2 phe đánh giết nhau. Cuộc chiến Long tranh Hổ đấu để tái sắp xếp bàn cờ và tranh dành quyền lực ở Thái Bình Dương này sẽ lại làm cho dân Việt xương tan máu đổ vài chục năm, rốt cuộc chỉ để Mỹ đạt được thỏa hiệp với Tàu, thể hiện bằng cách chia đôi VN như vào năm 1954.
Cái mà Mỹ muốn và phải được, là cầm chân được Tàu, duy trì hiện trạng cán cân lực lượng với ưu thế về Mỹ, chờ dịp để thực hiện “tái sắp xếp” Tàu vào quỹ đạo thế giới của mình, giống như đã từng làm với Nhật, Đức sau năm 1945 và với Liên Xô sau 1991. Cái mà Tàu được sẽ có ý nghĩa lớn đối với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, là làm chủ thực sự nửa nước VN, mở được cửa ngõ tiến ra biển Đông để trở thành cường quốc biển.
Ngoài lý do là thế xung đột không tránh được giữa đại cường cũ (Mỹ), và đại cường mới (Tàu) đang hình thành, còn một lý do nữa để cho thấy chiến tranh ủy nhiệm chu kỳ là khó tránh, là vì các đại cường luôn luôn cần thử nghiệm, sản xuất và dự trữ vũ khí mới, đồng thời kho vũ khí cũ trị giá hàng ngàn tỷ cần phải được tiêu thụ. Không phải Vũ khí là loại hàng hóa đem lại siêu lợi nhuận sao?
C-Cuộc chiến để tồn tại của VN
Về mặt địa chính trị, người ta thấy một tình huống có tính quy luật:
Một đất nước bị tụt hậu, suy sụp mọi mặt và chia rẽ đến tận tập đoàn lãnh đạo, đồng thời lại ở vị trí địa lý bị giằng co giữa những thế lực đại cường, thì khó thoát được nạn bị chia cắt lãnh thổ hoặc tan rã.
*Tình huống này đã xảy ra ở Việt Nam và Hàn Quốc vào những năm 1950 với Hiệp định Bàn Môn Điếm chia đôi Hàn Quốc, và Hiệp Định Geneva chia đôi VN.
*Tình huống này cũng đang xảy ra hiện nay ở Việt Nam: tình trạng đất nước bị tụt hậu, suy sụp mọi mặt và chia rẽ Bắc Nam rất trầm trọng ngay cả trong hàng ngũ cao cấp nhất của Đảng CSVN sẽ mau chóng đẩy cả nước vào tình thế bị chia cắt lãnh thổ hoặc tan rã. Như vậy là bãi chiến trường được chọn đã sẵn sàng.
Thế cờ sắp tới là cả Mỹ và Tàu đều chuẩn bị thử sức nhau lâu dài ở biển Đông, ở miền Nam VN. Nếu không phục hưng lên kịp, VN sẽ lại là 1 quân cờ, là nơi tiêu thụ vũ khí tồn kho, nơi chiến trường trắc nghiệm kỹ thuật chiến tranh và vũ khí mới.
Điềm gì đây khi Mỹ đã bỏ cấm vận vũ khí sát thương cho VN (cuối tháng 5, 2016) mà không ràng buộc gì với nhân quyền? Nếu vũ khí Mỹ lại ào ạt đổ vào VN, thì có cách gì khác để Mỹ chống Tàu mà không dùng đến máu VN ?
Mặc dù lịch sử diễn biến, nhưng với một nền tuyên truyền dối trá và bưng bít sự thật, bị chi phối bởi Tàu và tay sai, thế hệ con em chúng ta đã và sẽ không học hỏi được kinh nghiệm gì của lịch sử, đại cuộc như vậy vẫn sẽ tiếp tục bị chi phối bởi thế lực ngoại bang, cho nên đại thể diễn biến lịch sử sắp tới sẽ vẫn là cảnh bổn cũ soạn lại. Những bàn tay lông lá cũ đã và đang chuẩn bị những lá bài mới cho giai đoạn mới.
Tình hình quốc nạn như nước sôi lửa bỏng, trong lúc giai cấp lãnh đạo càng ngày càng thối nát, hèn với giặc ác với dân, đồng thời chia rẽ và mâu thuẫn về quyền lực và quyền lợi giữa các nhóm lợi ích ngày càng gay gắt. Đảng CSVN và các lãnh tụ huyền thoại của họ ngày nay đã lộ hết bộ mặt thật tay sai phản dân bán nước, nên không còn chút uy tín gì với nhân dân trong nước và quốc tế. Một mặt do họ tự đánh mất qua sự dốt nát, tác phong côn đồ tồi tệ và sự độc ác phi nhân tính của họ đối với chính nhân dân của mình; mặt khác, từ sau 1975 tới nay, chính Tàu là kẻ đã tiết lộ mọi chuyện thâm cung bí sử trong bang giao Tàu-Việt, các văn bản thần phục, thỏa thuận giao chủ quyền biển đảo và biên giới VN của các lãnh tụ CSVN cho cả thế giới biết. Những tiết lộ này đã khiến cho chút chính nghĩa “giải phóng” còn lại cũa CSVN tay sai cũng trở thành khôi hài. Tàu ngày nay thấy không còn cần che dấu nữa, không cần bảo vệ chút uy tín nào của đàn em như trước đây nữa.
Thái độ ngược ngạo ở biển Đông, ở thượng nguồn sông Mê Kông cho thấy Tàu đang nhấn mạnh cho dân Việt và thế giới biết rằng: Tình trạng lệ thuộc của VN đã được xác định. Sự tồn tại của Đảng CSVN ngày nay hoàn toàn nằm trong bàn tay Tàu, buông ra thì còn thoi thóp, bóp lại là chết ngay.
Với tình trạng trần truồng và bất lực như vậy, ai còn tin được Đảng CSVN còn có khả năng và cơ hội để bảo vệ đất nước VN thì thật là hoang tưởng.
Không lạ gì khi thấy CSVN phải hèn với giặc, ác với dân. Ngay cả những cuộc biểu tình bất bạo động chống tập đoàn Formosa xả độc phá hoại tài nguyên và môi sinh biển Vũng Áng mà cũng bị đàn áp đổ máu, chứng tỏ chúng xem dân như bầy thú nuôi bị nhốt chờ làm thịt, do đó đàn áp là cách duy nhất để cai trị.
Điều đáng lo ngại là Phong trào đấu tranh và phản kháng trong nước đang đứng trước nguy cơ bị đàn áp khủng bố tệ hại nhất, vì bộ máy đàn áp đang được điều khiển bởi Tàu, qua những Robot mang nhãn hiệu VN nhưng được sản xuất bởi Tàu như: Nguyễn Phú Trọng, Phùng Quang Thanh, Trần Đại Quang v.v… Do vậy Đảng cầm quyền tay sai nếu không đủ nhân lực và vũ khí phương tiện để đàn áp hiệu quả, thì sẽ nhận được ngay viện trợ dồi dào từ Tàu. Sẽ không lạ nếu qui mô đàn áp khủng bố có thể tàn bạo tới mức diệt chủng, vì đó là bản chất của mọi chế độ độc tài toàn trị (td: Thiên An Môn).
Xin mở ở đây một dấu ngoặc: Cùng thời gian và điều kiện gần giống VN, Hàn Quốc đã bị chia đôi, vậy Bắc Hàn đang và sẽ tồn tại như thế nào?
Hàn Quốc là 1 bán đảo, giống như 1 cái giỏ. Dưới áp lực xâm lược của Tàu và Nhật, người dân Hàn không có nẻo thoát bằng nam tiến như dân Việt. Họ còn tồn tại là nhờ họ rất cứng cỏi, họ đã không hề bị đô hộ mấy ngàn năm như VN. Hiện nay, dù bị buộc phải lệ thuộc Tàu về kinh tế, và áp lực về chính trị, chế độ cai trị ở Bắc Hàn vẫn tỏ ra rất độc lập với Tàu về chủ quyền.
Chính sách chống Mỹ cực đoan có vẻ như điên cuồng đã giúp cho Bắc Hàn thực hiện chương trình vũ khí nguyên tử và phát triển hỏa tiễn tầm xa. Thái độ có vẻ hung hăng quá khích này của họ Kim trên thực tế không những không làm hại an ninh hoặc quyền lợi kinh tế của Nam Hàn, và thế lực quân sự của Mỹ, mà lại có vẻ có lợi, vì tạo điều kiện cho Nam Hàn gia tăng quốc phòng, và Mỹ có cớ triển khai tên lửa phòng thủ sát nách Tàu, giống như bên tung bên hứng; Trong khi đó Tàu vẫn bị buộc phải nuôi Bắc Hàn mà không can thiệp được vào chương trình nguyên tử của Bắc Hàn, cũng không thể cài người vào trong tập đoàn lãnh đạo dưới bàn tay chuyên chế sắt máu của gia tộc phong kiến quân phiệt họ Kim.
Gia tộc họ Kim đã giữ vững được chủ quyền, ổn định được đất nước và chế độ suốt 3 thế hệ, kể từ Kim Nhật Thành, thì phải là những người lãnh đạo có bản lãnh, không thể là khùng điên, hung đồ như người ta vẫn nhận xét- Với bom Nguyên tử, một ngày nào đó, nếu chế độ Bắc Hàn muốn thống nhất với miền Nam, chắc chắn Tàu cũng sẽ không làm gì được. Thiển nghĩ trong điều kiện bị áp lực kinh tế và cô lập chính trị của mình, Bắc Hàn mặc dù chưa thể đưa người dân thoát khỏi cuộc sống nghèo đói, không còn cách nào khác tốt hơn là xử dụng kế “Tôn Tẫn giả điên” như đã và đang làm để giữ được chủ quyền trước mối đe dọa xâm chiếm và đồng hóa của Tàu, thay vì tiếp tục chọn giải pháp tự diệt chủng, xua quân “giải phóng miền Nam” như các lãnh tụ CSVN đã làm.
Cần thêm là vào giữa năm 2015, không rõ thực sự vì áp lực từ đâu, VN đã phải giao cho Nga gần 30kg Plutonium tinh chế, là nguyên liệu làm bom nguyên tử(*16). Phải chăng Tàu sợ một họ Kim khác xuất hiện ở VN?
Đối với Việt Nam, tình trạng tụt hậu, suy sụp và lệ thuộc Tàu mọi mặt, lãnh đạo thì hèn kém và chia rẽ, dân khí lại bạc nhược đến nỗi thay vì kết hợp lại để chống lại giặc nội xâm, thì lại hầu như bất cứ ai có dịp là đều sẵn sàng bỏ nước ra đi, cho thấy nguy cơ tan rã hoặc bị chia cắt rất cận kề. Nếu không chấn hưng được dân khí, huy động được toàn lực nhân dân trong nước, cộng thêm yểm trợ của các nước lân bang, thì ít nhất sẽ mất miền Bắc. Một bộ phận dân Việt nếu tiếp tục chạy thoát được sang các nước khác thì sau vài thế hệ cũng bị lai giống hoặc đồng hóa.
Sự tồn tại của Việt tộc luôn luôn bị đe dọa bởi chủ nghĩa bá quyền Đại Hán, ngày nay lại còn bị đồng thời đầu độc bởi Chủ Nghĩa Cộng Sản. Sức sống của dân tộc đang bị mòn mỏi cùng cực- Nếu không lật đổ được Chế độ CS thối nát này và bọn tay sai thân Tầu, thì cơ may tồn tại của dất nước VN là rất ít.
Trừ phi Tàu, do bị Mỹ “triệt buộc”, phải phình to, và tự nổ sớm, thì đất nước ta và dân ta lại tồn tại và có thêm một vận hội mới nhờ vào thế mạnh của cuộc cách mạng dân chủ thế giới đợt thứ 3… Mong lắm thay !!!
Phạm Dzũng
_____
GHI CHÚ
(*1) Dân khí, Nguyên khí dân tộc: Cách đây hơn năm thế kỷ, Thân Nhân Trung (Thân Trọng Đức 1418-1499 thời Vua Lê Thánh Tôn) đã viết: “…Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn…”
Hoặc nói như cụ Phan Chu Trinh: “Chấn dân khí – Hưng dân trí – Hậu dân sinh…”
*Ý thức của thành lãnh đạo về sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân là đặc điểm của dân khí cường mãnh: Hội nghị Diên Hồng.
*Biểu hiện của dân khí là ở chỗ xuất hiện trong dân gian những lãnh tụ, những bậc hào kiệt có khả năng quy tụ quần chúng đông đảo đứng lên xây dựng đất nước, chống độc tài, chống bán nước, chống xâm lăng.
(*2) Chiếm Chiêm Thành: Khởi đầu với vua Lý Thánh Tông (1069), đến năm 1693 với chúa Nguyễn Phúc Chu, xóa sổ nước Chiêm Thành.
– Chiếm Miên (Chân lạp): Khởi đầu từ 1658, Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần chiếm Biên Hòa. Năm 1835 do Miên suy yếu, bị Xiêm (Thái) xâm lược, vua Minh Mạng giúp đánh đuổi quân Xiêm và chiếm đóng Miên, đặt Nam Vang là Trấn Tây Thành.
*Xem thêm: Cambodia , lá bài cũ và câu chuyện mới của người Trung Quốc
(*3) Người Hoa ở VN: Lê Bắc-
– Vào năm 1679 và 1680, khi nhà Thanh bình định tỉnh Quảng Đông thì một số quan, quân, dân nhà Minh đã chạy qua VN và đã góp công sức rất lớn trong việc mở mang bờ cõi phía Nam. Ngoài 2 đợt di dân quan trọng đó, suốt thế kỷ 19 có nhiều người Hoa, theo tình hình xã hội, đã di dân tới Việt Nam.
– Khi Pháp chiếm được 6 tỉnh Nam Kỳ, đất rộng người thưa, tư bản Pháp đã chiêu mộ và khuyến khích người Hoa từ Trung Quốc và Singapore sang kinh doanh, khai thác
– Chiến tranh Quốc Cộng ở Trung Hoa đã làm cho nướcTàu loạn lạc, nhiều nhóm người Hoa cũng đã chạy trốn Cộng Sản và di cư sang VN.
– Năm 1954, nhiều người Hoa ở Hà Nội, Hải Phòng đã di cư vào Nam .
– Năm 1975-1979, với biến động ở Campuchea, nhiều người Hoa cũng đã chạy tỵ nạn sang sinh sống ở Việt Nam .
(*4) An Dương Vương (Thục Phán), rồi đến Triệu Đà đều là người Hoa Nam .
Xem: Lê văn Siêu, Việt Nam Văn Minh sử Cương, NXB Thanh Niên 2004-trg 36: Sáu trong 12 sứ quân thời sau vua Ngô Quyền là thổ phỉ bên Tàu chạy qua.
Xem: Phan Như Huyên,Việt Nam Nước tôi, Garden Grove , CA , USA , 2000)Triệu Đà (207-137BC) chiếm Âu Lạc của An Dương Vương Thục Phán, xưng vương, đặt tên nước là Nam .
(*5) Xem: Cát Kiếm Hùng, Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc Tập I ,trang 10-11, Người dịch : Phong Đảo, NXB Văn Hóa Thông Tin Hà Nội 2004.
(*6) Lý Đông A, Chu Tri Lục 3 Cương Lĩnh
1943). http://thangnghia.com/?p=43
(*7 ) Xem Đại Nghĩa: Hồ Chí Minh và Cải Cách Ruộng Đất. Việt, gồm Âu Lạc, Quảng Đông, Quảng Tây, đặt kinh đô ở Phiên Ngung thuộc tỉnh Quảng Đông.
*Ông Hoàng Tùng, nguyên Tổng Biên tập báo Nhân Dân (1954-1982) kể lại trong chuyện “Bí mật HCM” cho chúng ta thấy được sự nô lệ của ông Hồ và đảng Lao Động Việt Nam (tiền thân của đảng CSVN) như thế nào: “Mùa hè năm 1952 Mao Trạch Đông và Stalin gọi bác sang, nhất định bắt phải thực hiện CCRĐ. Sau thấy không thể từ chối được nữa, bác mới quyết định phải thực hiện CCRĐ…. Mục đích của họ không phải là CCRĐ mà là đánh vào đảng ta ….
*Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, trả lời báo Quê Mẹ khi du lịch sang Pháp sau năm 1975: “Trong lịch sử Việt Nam từ hồi lập quốc đến nay chưa có một cuộc thanh trừng giết dân nào khủng khiếp tàn bạo như cuộc CCRĐ. Hầu như mọi cuộc đấu tố đều có sự nhúng tay của cố vấn Trung cộng. Điều đó cho thấy chính quyền HCM lệ thuộc ngoại bang như thế nào”. (Người Việt ngày 7-9-2004).
*Xem thêm: Huy Đức, Bên Thắng Cuộc, NXB OsinBook, California, USA 2012, trg 255 “…Cùng với cải cách ruộng đất, chiến dịch “Chỉnh đốn tổ chức Đảng và chính quyền” mà Hồ Chủ tịch ca ngợi trong báo cáo trước Hội Nghị Trung ương 5 cũng đã gây tổn thương nặng nề cho Đảng”.
*Xem thêm: Trần Gia Phụng, Huyền thoại Hồ Chí Minh (Đàn Chim Việt- 20/3/2013): “Việt Minh thủ tiêu hàng loạt các đảng viên Quốc Dân Đảng, các nhà trí thức khác, và hàng ngàn tín đồ đạo Cao Đài.(5) Việt Minh thủ tiêu tất cả những ai không theo chủ nghĩa CS và có thể tranh quyền với Việt Minh, từ trung ương, ở các thành phố lớn, đến những đơn vị nhỏ nhất ở các làng xã, dù họ là những người yêu nước hay là những nhân tài của đất nước. Việt Minh gọi hành động nầy là “giết tiềm lực”, tức giết những người có tiềm lực nguy hiểm cho CS về sau.”
*Xem thêm: Trần Ngươn Phiêu, Nhân chứng cuối cùng.
(*8) Xem: Tùng Phong (Ngô Đình Nhu) Chính Đề Việt Nam – Nhà xuất bản Hùng Vương, Los Angeles 2009: Bối cảnh của vấn đề.http://phamthientho.files.wordpress.com/2011/07/chc3adnh-c3b0e1bb81-vn-ngc3b4-c3b0c3acnh-nhu1.pdf.
(*9) Bùi Tín, Nhìn lại cuộc Cải cách ruộng đất: Những bài học còn nóng hổi-
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8440&rb=0401 (trích):“…Vậy là tính sơ sơ, số nạn nhân trực tiếp nói chung lên đến nửa triệu con người….. -Chưa hết, theo thống kê nội bộ, trong chỉnh đốn tổ chức được tiến hành ở 2.876 chi bộ ĐCS gồm có 15 vạn đảng viên, đã có đến 84.000 đảng viên bị xử trí (bị tù, tra tấn, xỉ vả, bị giết) chiếm 47%. Con số khủng khiếp này – nhiều hơn số địa chủ bị đấu tố – đã được giữ rất kín. Tôi có những bạn thân, đồng đội cấp trung đoàn (hồi ấy chưa có quân hàm) là trung đoàn trưởng, tỉnh đội trưởng… bị đánh rụng hết răng, mù mắt, gẫy chân; một số khi sửa sai thì đã bị lao phổi nặng do phải nằm đất ẩm, chỉ có manh chiếu rách. Số đảng viên bị tra tấn còn tàn khốc hơn dân thường vì bị coi là phần tử thù địch chui vào Đảng để phá từ bên trong. Hầu hết là đảng viên trí thức, có trình độ học vấn khá”.
(*10) Trận Tết Mậu Thân 1968
Xem:Wikipedia:http://vi.wikipedia.org/wiki/Sự_kiện_Tết_Mậu_Thân#cite_ref-24. “.. Sau tổng tiến công Mậu Thân, vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam bị thu hẹp. Quân Giải phóng bị đẩy ra xa và suy yếu trầm trọng: các đơn vị quân sự suy yếu, các lực lượng chính trị bị lộ và bị triệt phá gần hết, thương vong cao hơn hẳn các năm trước…”.
*Xem thêm: Trần Nguơn Phiêu, Gió mùa Đông Bắc (2008).- Nỗi lòng Huỳnh Tấn Phát.
(*11) Ngộ độc chủ nghĩa CS: *Xem: Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày (Hồi ký chính trị của một người không làm chính trị), Nxb. Văn Nghệ , California , 1997, tr. 424, phần chú thích 1. “Lê Duẩn nói: “… ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc-
Nguyễn văn Linh đã từng nói (1986): “Tôi biết rằng dựa vào Trung Quốc là mất nước, nhưng thà vậy còn hơn mất Đảng.
Chủ Nghĩa CS phá hủy văn hóa truyền thống và ý thức dân tộc, phá hủy nền tảng tư duy về đạo đức cá nhân, cũng phá hủy luôn cấu trúc tự nhiên kinh tế và xã hội do áp dụng triết lý bạo lực về giai cấp đấu tranh, cộng với biện chứng hoang tưởng về xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội toàn thế giới (Thế giới Đại Đồng)- Biện chứng này tạo cho Đảng cầm quyền một thứ “Chính Nghiã” ảo, dựa vào đó để che dấu âm mưu thôn tính của nước lớn, và sự phục tùng lẫn âm mưu bán nước của tập đoàn cầm quyền nước mhỏ.
(*12) Xem: Nguyễn Gia Kiểng – Quan hệ Việt- Trung- Thực tế bẽ bàng hơn nhiều.
(*13) Trần Trung Đạo: Từ Buổi Chiều Trên Nghĩa Địa Hàng Dương,
http://www.trantrungdao.com/?p=290) Sự thật bị giấu kín (320 ngàn quân Trung Cộng từng tham gia chiến tranh Việt Nam
(*14) Daniel Ellsberg, Time Magazine US , Jun 28-1971: Pentagon Papers- The secret war.
*Xem thêm: Trương như Tảng – Hồi ký của một Việt Cộng.
(*15) Hồi ký Trần Quang Cơ, Chương 1- http://www.diendan.org/tai-lieu/ho-so/hoi-ky-tran-quang-co/hoiky-tqc-ch-1.
“Lý Quang Diệu đã nhận xét: “Năm 1975 thành phố Hồ Chí Minh có thể sánh ngang với Bangkok . Nhưng nay (năm 1992) nó tụt lại đằng sau tới hơn 20 năm”…
*Xem thêm: Robert F. Turner, Những sự thật về chiến tranh Việt Nam, Hậu quả của Hoa Kỳ sau khi bỏ rơi Đông Dương.
Nguồn: https://anhbasam.wordpress.com/2016/05/28/8492-van-hoi-nao-cho-viet-nam/#more-167174
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét