Người theo dõi

Thứ Hai, 20 tháng 3, 2017

LÀM THẾ NÀO ĐỂ GIẾT MỘT TỔNG THỐNG - CHƯƠNG 5 -

CHƯƠNG 5

Ngô Đình Cẩn

TỪ CHẾ ĐỘ NGÔ ĐÌNH DIỆM ĐẾN CÁI CHẾT CỦA NGÔ ĐÌNH CẨN 
Từ một thế kỷ nay và trên 25 năm qua, Việt Nam trở thành nghĩa địa của những cái chết tức tưởi, vô lý. Song cái chết của một Tổng Thống như ông Ngô Đình Diệm, tất nhiên không phải là một sự vô lý đơn giản như người ta nghĩ. Nó đã được sửa soạn tinh vi, vì làm thế nào để giết một ông Tổng Thống đã cầm quyền 9 năm không phải là một chuyện “tùy hứng”.

NGƯỜI EM ÚT
Quanh cái chết của TT Diệm đầy dẫy những sự vô lý trên nông nổi bi thảm. Sau khi ông chết đi, lại còn bao nhiêu sự vô lý khác. Chữ vô lý ở đây xin được hiểu theo sự suy đoán trong bản chất và tinh thần Việt Nam vốn trọng tình cảm, sự trung hậu va lễ nghĩa.
Một trong những sự vô lý đó, là cái chết của ông Ngô Đình Cẩn – Người em thứ 5 của TT Diệm. Cái chết này đã được công khai hợp pháp hóa vì ông Cẩn được ra Tòa xét xử. Nếu bị công tố viện gay gắt buộc tội thì cũng chả có gì gọi là vô lý. Khi đảo chánh bùng nổ, thì tướng Đỗ Cao Trí đang là Tư Lệnh Vùng I Chiến thuật. Ông Tướng này là người có thẩm quyền duy nhất tiếp thu toàn vẹn những gì có ở bên trong căn nhà tổ ấm của gia đình họ Ngô. Ông Cẩn tưởng đã thoát thân… dù tấm thân chỉ còn hai bàn tay trắng. Trong cuốn Vietnam Crisis, hai tác giả Stephen Pan và Dieaniel Lyons đã viết như sau: “Ông Cẩn lúc đầu tỵ nạn tại nhà Dòng Chúa Cứu Thế. Nhưng những người từng được ông giúp đỡ sợ rằng: nếu chứa chấp ông, sẽ có thể bị các nhà lãnh đạo đảo chánh nghiêm trị nên ông Cẩn phải qua Tòa Lãnh Sự Mỹ tại Huế xin trú ẩn. Tòa Lãnh Sự này phải xin chỉ thị của tòa Đại sứ Mỹ tại Saigon. Đại Sứ Henry Cabot Lodge trả lời rằng Tòa Lãnh Sự không được phép cho ông ta tỵ nạn, đồng thời ra lệnh phải đưa ngay ông Cẩn vào tòa Đại Sứ. Nhưng khi ông Cẩn đến Saigon tòa Đại Sứ Mỹ liền trao ông Cẩn cho HĐQNCM xét xử. Theo nguồn tin có thẩm quyền mà hai tác giả được biết, Tòa Đại Sứ mỹ đã hội ý với HĐQNCM và buộc HĐ phải cam kết 3 điều kiện thì Tòa Đại Sứ Mỹ mới dẫn độ:
1) Phải được xét xử minh bạch.
2) Không bị đối xử tàn nhẫn.
3) không bị bắn hoặc bị giết.

Stephen Pan và Dieaniel Lyons viết: “Trong tình cảnh lúc bấy giờ, nếu tin tưởng vào một cuộc xét xử minh bạch, công khai thì quả thật là ngây thơ. Mặc dù trong thời gian đó, ông Cẩn bị yếu nặng với những căn bệnh huyết áp cao và bệnh đái đường. Với cách đối xử rất tồi tệ lại thiếu thuốc men, săn sóc trong tù, ông Cẩn chắc chắn cũng sẽ không sống thêm được bao lâu.
Nhưng dù quá yếu đến nỗi không đứng nổi, ông ta vẫn bị cột gô vào cái trụ đứng, và bị bắn”. Stephen Pan và Dieaniel Lyons thắc mắc: “Người ta còn nhớ hồi tháng 8-1963 một nhà sư (…) đã lánh nạn trong Tòa Đại Sứ và được Cabot Lodge bảo vệ an toàn trong 9 tuần lễ, nghĩa là cho đến ngày hai anh em ông Diệm bị giết. Hãy để cho lịch sử phán xét những việc mâu thuẫn như trên.”
Nếu ông Cẩn bị HĐQNCM đem ra xử bắn trước cuộc chỉnh lý của Tướng Khánh thì cũng có thể giải thích được. Nhưng ông Cẩn lại bị xử tử khi Tướng Khánh lên cầm quyền và Cabot Lodge vẫn còn tiếp tục làm Đại Sứ. Ông Lodge thường được coi như quan thầy uy quyền của Tướng Khánh. Mấy ngày sau cuộc chỉnh lý, người ta cho rằng có thể ông Cẩn được tha xuất ngoại. Vì dù sao ướng Khánh cũng là một trong mấy người con tinh thần của TT Diệm và Tướng Khánh đã trung thành với TT Diệm cho đến phút cuối cùng khi Dinh Gia Long bị mất vào vào quân cách mạng. Chiều ngày 1-11-1963, tướng Khánh từ Pleiku còn gọi điện thoại cho tướng Cao ở Cần Thơ và hối thúc ông Cao đem quân về cứu TT Diệm. Tướng Khánh cho biết không thể đem quân về được vì Quân Đoàn II quá xa… Tướng Cao tin cho tướng Khánh rõ là tướng Minh, Khiêm và các Đại Tá Đỗ Mậu, Nguyễn Đức Thắng  hứa là bảo đảm tính mạng của TT Diệm và ông Nhu. Tướng Khánh trả lời: Không tin tụi nó được đâu… chúng nó nói vậy mà làm khác. Tướng Khánh vẫn giữ lòng trung thành cho đến phút chót. Thế nhưng… quyền lợi cá nhân và địa vị đã thay đổi lòng người.
Khi ông Cẩn bị đưa ra tòa, người ta vẫn tin rằng có thể ông chỉ bị xử qua loa. Khi bị kết án tử hình người ta vẫn tin ông Cẩn sẽ được Quốc Trưởng Dương Văn Minh chấp thuận đơn xin ân xá.
Cuối cùng vào một buổi chiều ánh nắng còn chan hòa, bệnh nhân tử tội Ngô Đình Cẩn được khiêng ra pháp trường trong vòng thành Khám Chí Hòa, tay bị trói chặt vào gốc cây cột giữa pháp trường và bị bắn gục trước sự chứng kiến của những người trước kia ra vào Dinh ông Cẩn thường khúm núm như gia nhân.
Đại Sứ Lodge là người đã buộc HĐQNCM phải cam kết không được xử bắn ông Cẩn. Khi ông Cẩn nhận từng loạt đạn, Lodge vẫn còn là một vị Đại Sứ Mỹ đầy uy quyền tại Việt Nam. Rồi có hai giả thiết nêu ra:
1- Ông Khánh làm như thế để chiều lòng những áp lực khác đang đè nặng lên ông.
2- Ông Khánh chủ chương thanh toán ông Ngô Đình Cẩn vì áp lực của những người từng ra vào luồn cúi dưới trướng “Cố vấn Chỉ Đạo”…
3- Ông Khánh chủ chương thanh toán ông Ngô Đình Cẩn chỉ vì “vụ tài sản” của ông Cẩn mà ông Khánh đã được chia phần kể từ khi ông ra nhậm chức Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật thay thế tướng Trí.

SÉT ĐÁNH NGANG ĐẦU
Sáng ngày 2-11-1963 tại tư thất ông Cẩn chuông điện thoại lại reo vang. Âm vang của hồi chuông thật rền rĩ réo rắt vào buổi sáng trong sương. Điện thoại gọi từ Đà Nẵng.
Đại Úy Minh nhấc máy lên nghe. Từ phía đầu giây bên kia, vẫn giọng Tướng Trí ngập ngừng, cắt quãng rời rạc. Lời Tướng Trí được ghi nhớ như sau: “Anh thông báo ngay cho ông Cậu biết, Saigon vừa báo tin cho tôi hay là Tổng Thống và ông Cố Vấn đã tự tử chết rồi. Tôi không hiểu ra sao nữa….” Đại Úy Minh chân tay bủn rủn, ông có cảm tưởng như đang nghe điện thoại trong cơn mê của giấc ngủ say. Ông hỏi đi hỏi lại Tướng Trí hai ba lần. Tướng Trí xác nhận: “Saigon vừa báo cho tôi hay như vậy“.
Lúc đấy, Đại Úy Minh mới tin đây là sự thực – Một sự thực phũ phàng ngoài trí tưởng tượng của ông. Nhưng tự tử quả là vô lý? Khi báo cho ông Cẩn hay hung tin này, ông Cẩn cũng vẫn không tin và nói: “Làm gì có chuyện động trời như vậy”. Nhưng TT Diệm và ông Nhu đã chết… Dù ông Cẩn chưa tin là sự thực thì sự thực vẫn tàn nhẫn xảy ra như thế.
Ngay lúc đó, Đại Úy Minh cho người đi báo hung tin cho Cha Thuận. Sáng ngày 2-11 màn tang tóc đã bao phủ căn nhà tổ ấm của gia đình TT Diệm – miền Phú Cam nơi mà anh em ông Diệm sinh ra và lớn lên từ đó. Lúc ấy chung quanh ông Cẩn vẫn còn đầy đủ cộng sự viên thân tín trong đó có ông Đào Quang Hiển Giám Đốc Nha Công An Trung Nguyên Trung Phần.
Rồi chiều 2-11 buổi chiều nặng nề như những phiên đá đè nặng trên phận người mong manh. Khoảng 1 giờ 30, Đại Úy Minh được lệnh ông Cẩn gọi điện thoại cho Tướng Trí ra Huế để báo cáo cho ông Cẩn biết rõ nội vụ. Huế cho đến lúc ấy tương đối yên tĩnh.
Vào khoảng 3 giờ, bỗng nhiều đoàn thiết giáp của Thiếu Tá Tuấn đến bao vây vùng Phú Cam và căn nhà ông Cẩn (Thiếu tá Tuấn sau thăng Trung Tá và bị Việt Cộng thảm sát trong biến cố Tết Mậu Thân tại Trường Thiết Giáp Gò Vấp Sài Gòn). Tình hình Huế bắt đầu ngột ngạt, dao động và như cây nước giữa biển nặng đang bắt đầu vỡ ra và dâng cao. Trong giờ phút cuối cùng này, một nhân chứng thuật lại: ông Cẩn đã mất tinh thần vì xúc động trước cái tin hai ông anh bị giết chết. Chung quanh ông vẫn còn đầy đủ cộng sự viên như Minh, Trọng, Độ…
Khoảng hơn 9 giờ đêm mồng 2, Huế bắt đầu chuyển động như cơn sóng trong trận cuồng phong. Trời tê buốt hoang vắng và đầy đe dọa, bất trắc thê lương. Dân Huế vây quanh radio nghe đài Saigon, BBC, VOA…
Hồi hộp rung động, kích thích… Tối một nhóm người tự động qui tụ lại như hình thức một HĐQNCM. Đứng đầu là Trung Tá Mô, Thiếu Tá Hiếu và Đào Quang Hiển. Ba viên chức này tìm gặp Đại Úy Minh đưa họ vào gặp ông Cẩn. Lúc ấy đoàn thiết giáp của Thiếu Tá Tuấn đang bao vây chung quanh nhà ông Cẩn nhưng chỉ có tính cách giữ gìn anh ninh trật tự và theo lời tướng Trí là để bảo vệ sanh mạng của ông Cẩn và đề phòng một khi dân chúng làm hoảng… quân đội có thể can thiệp kịp thời.
Thể theo lời yêu cầu của Trung tá Mô cũng như Thiếu Tá Hiếu… Đại Úy Minh vào tìm gặp ông Cẩn trong khi đó ba viên chức vẫn đứng chờ ở ngoài. Nhà lúc ấy vắng ngắt không có ai, không khí đầy một nỗi bi thương đổ vỡ. Bé gái Kính cho Đại úy Minh hay là ông Cẩn đã trốn khỏi. Để đánh lạc hướng phe ông Mô, Đại Úy Minh cho bọn ông Mô hay là ông Cẩn hiện đang bị mệt, và đang nằm nghỉ, mai sẽ vào gặp sau. Thực ra lúc ấy, ông Cẩn đã vào trú ẩn tại Nhà Dòng Chúa Cứu Thế.
TẨU VI THƯỢNG SÁCH
Trong bước đường cùng thì 36 kế, tẩu vi thượng sách vẫn hơn cả. Tuy nhiên ông Cẩn rời căn nhà tổ ấm cùng với cơn đau của loài chim bị bắn trúng cả hai cánh khi đang tung bay.
Qua ngày 3, Huế tương đối vẫn còn yên tĩnh tuy trong dân chúng bắt đầu chuyển động, đang bắt đầu một trận cuồng phong cho sóng đổ lên cao. Từ Đà Nẵng, Tướng Trí điện thoại cho biết ông sẽ trở ra Huế với tư cách đại diện HĐQNCM.
Lúc ấy, ông Cẩn bắt đầu lâm bệnh, khuôn mặt hốc hác, đôi mắt như lạc mất tinh thần. Ông xúc động một cách vô tả trước cái chết của hai ông anh.
Bên cạnh ông trong những giờ phút đó vẫn còn một số cộng sự viên thân tín như Cha Thuận (người cháu ruột của ông). Cho đến giờ phút đó vẫn không thấy ông Cẩn quan tâm gì đến tiền bạc tài sản. Khi thấy Đại Úy Minh vào thăm ông (tại một căn phòng trong nhà Dòng Chúa Cứu Thế) ông rướm nước mắt khóc và nói: Thôi hết rồi Minh ơi! Và những người có mặt đều khóc theo ông.
Ông bảo Đại Úy Minh gọi điện thoại cho Tướng Trí , nhắn Tướng Trí vào Huế ngay để ông có đôi điều dặn dò.
Huế lúc ấy bắt đầu sôi động. Thiếu tá Hiếu, Trung Tá Mô, ông Đào Quang Hiển và một số “bá quan văn võ” đã đứng về phía cách mạng. Biến chuyển mau lẹ quá. Huế ngỡ ngàng rồi Huế bùng lên trong cuộc nổi lửa.
Chiều 3-11, tướng Trí từ ngoài Đà Nẵng ra Huế. Quân đội vẫn làm chủ tình hình Huế.
Không có súng nổ, không có máu sắt. Sự lặng lẽ trong cơn dao động, hoang mang. Ảnh của TT Diệm vẫn còn được treo ở nhiều công sở. Người đầu tiên mà Tướng Trí tìm gặp là Đại Úy Minh. Đây là mẩu đối thoại giữa hai người:
Bây giờ Cậu ở đâu? Tướng Trí hỏi.
Cậu đang ở trong nhà Dòng Chúa Cứu Thế. Đại Úy Minh đáp.
Anh em cứ an tâm, không có gì phải lo sợ. Mọi việc ở ngoài này đã có tôi.
- Là Sĩ quan của Quân Đội, tôi phải tuân theo lệnh của Thiếu Tướng.
Anh cho tôi gặp ông Cậu. Tôi ra đây với tư cách đại diện HĐQNCM – Lời Tướng Trí. Lúc ấy, ông Cẩn vẫn nằm trên chiếc giường sắt. Cơn đau đã bớt. Ông lấy trầu ra ăn.
Ông Cẩn cho gọi một cộng sự viên thân cận và nói giọng thều thào “Chiếc bao bố ném ở dưới gậm giường (trong căn nhà ở Phú Cam) trong đó có 24 kilo vàng. Chiếc valise gồm một số gia bảo và quí vật v.v… Mày lo liệu giữ gìn không thì tụi nó lấy hết. Số bạc mặt tao vẫn để trong tủ...” Ông Cẩn còn dặn dò thêm: “Mày trao cho Trí giữ hộ… cứ đưa cho Trí không sao đâu”.
Buổi chiều ngày 3-11 tại nhà Dòng Chúa Cứu Thế, không khí thê lương ảm đạm như một ngày cuối đông miền hàn đới. Tình hình Huế lúc ấy đã náo động.
Cha bề trên Nhã cúi đầu lần hạt đi đi lai lại trên hành lang. Gặp Đại Úy Minh, Cha Nhã hỏi: “Anh đã tìm Cha Thuận chưa?”…Hai người nhìn nhau lặng lẽ, nỗi buồn thật mênh mông. Đại Úy Minh lên phòng ông Cẩn… Lúc đó ông Cẩn vẫn nằm vắt chân chữ ngũ, mắt ông đỏ ngầu vì khóc cho hai người anh…Tướng Trí cũng vào phòng ông Cẩn cùng với Đại Úy Minh. Tướng Đỗ Cao Trí vẫn niềm nở và trọng vọng ông Cẩn như xưa, ông giơ tay chào theo kiểu nhà binh. Ông Cẩn ngước nhìn Tướng Trí không nói một lời nào. Đôi mắt ông nặng chĩu một đau thương. Dường như lúc ấy ông Cẩn như muốn khóc. Mẩu đối thoại giữa Tướng Trí và ông Cẩn được ghi lại như sau:
HĐQNCM ủy cho con xin thưa lại với ông Cậu, Tổng Thống và ông Cố Vấn chết là do tai nạn ngoài ý muốn của các tướng lãnh.
Tướng Trí không dấu nổi xúc động, ông yên lặng một lúc rồi nói tiếp:
Chuyện đã xảy ra như vậy bây giờ biết làm thế nào. Con được HĐQNCM ủy cho đến đây xin thưa với ông Cậu , HĐQNCM kính mời Cậu tham gia cách mạng và xin Cậu đứng trong thành phần của HĐQNCM.
Ông Cẩn đưa mắt nhìn một vài người thân yêu. Mọi người vẫn yên lặng. Tướng Trí nói trong niềm xúc động:
Việc đã xảy ra như vậy thì thế nào HĐQNCM cũng áp dụng một số biện pháp với Cậu, như tịch biên tài sản… Con nghĩ Cậu nên tính xem thế nào… Cậu có thể đưa con giữ hộ.
Chuyện trò với ông Cẩn một lát rồi Tướng Trí ra xe cùng về với Đại Úy Minh.
Lúc ấy tại vùng Phú Cam vẫn yên tĩnh. Đoàn Thiết Giáp của Thiếu tá Tuấn đang giữ phận sự canh phòng và kiểm soát chặt chẽ. Nhà Ông Cẩn vắng lặng chỉ có con bé Kính sau này cho biết, valise và bao bố vàng được đưa lên xe jeep, rồi đoàn tùy tùng rời khỏi tư thất ông Cẩn.
ÔNG LÃNH SỰ
Từ khi tướng Trí và Đại Úy Minh đi khỏi, trong phòng ông Cẩn không còn ai. Một vài người thân yêu ngơ ngẩn ở trước cửa nhà Dòng có ý đợi Đại Úy Minh xem ông Minh có quyết định sang tị nạn ở Tòa Phó Lãnh Sự Mỹ hay không. Buổi sáng ở nhà Đại Úy Minh, ông Phó Lãnh Sự Mỹ có đến tìm gặp Đại Úy Minh và đề nghị:
Nếu Đại Úy và gia đình cũng như viên chức nào thấy ở ngoài này không có an ninh và nguy hiểm cho tính mạng, tôi mời tất cả qua tị nạn tại Tòa Lãnh Sự.
Đại Úy Minh đáp: -Xin cảm ơn ông Lãnh sự, có lẽ không cần thiết.
Ngày 1-11-1963, chính là ngày sinh nhật của ông Cẩn… ông đâu có ngờ chính là ngày ông phải để tang hai người anh… Sau khi ông Cẩn sang tị nạn tại nhà Dòng Chúa Cứu Thế thì ông Lãnh Sự và Phó Lãnh Sự có tìm gặp Đại Úy Minh và đề nghị đưa ông Cẩn qua Tòa Lãnh Sự tỵ nạn cho an ninh hơn và ông cam kết sẽ để ông Cẩn được hưởng quyền tỵ nạn như tòa Đại Sứ Mỹ đã dành cho Thượng Tọa Trí Quang trước đấy.
Nhưng ông Cẩn chỉ bằng lòng qua tỵ nạn với điều kiện ông phải được đem theo thân mẫu của ông tức bà cụ Ngô Đình Khả… lãnh sự Mỹ không chấp nhận điều kiện này. Hơn nữa, các cộng sự viên thân tín tỏ ý dè dặt vì không hiểu lòng dạ người Mỹ ra sao.
Ngày 5-11 Tướng Trí được lệnh của HĐQNCM đưa ông Cẩn về Saigon cùng với bà cụ Khả. Lúc ấy bà cụ Khả vẫn chưa hay tin TT Diệm và ông Nhu đã bị thảm sát vì trong nhà cố giữ kín tin này. Bà cụ Khả đã trên 90 tuổi và bán thân bất toại từ lâu…
Khi về Saigon thì mẹ con đôi ngả. Ông Cẩn vĩnh viễn xa mẹ từ buổi ấy. Ông bị biệt giam trong một căn phòng “ghê rợn” nhất của khám Chí Hòa.
Cái đau khổ lớn của tù nhân không phải vì thân thể bị câu thúc mà trước hết đau khổ vì cô đơn. Nỗi cô đơn như một phi tần trong chốn lãnh cung. Có ai trải qua cơn phong trần mới thông cảm được nông nỗi “giết nhau chẳng cái lưu cầu, giết nhau bằng cái u sầu độc chưa”. Trên sáu tháng trời ông Cẩn đã chết mòn trong cái u sầu thê lương như vậy của một  căn phòng đầy oan trái và hồn ma. Chắc chắn những đêm dài thao thức, ông Cẩn chỉ còn sống theo dĩ vãng huy hoàng 9 năm trong đó bao nhiêu khách công hầu đã đến với ông, van lậy ông một điều cậu, một điều con để mong ông ban phát bổng lộc.
Điều đau khổ nhất đối với riêng ông Cẩn là những ngày tháng ông phải sống xa mẹ. Từ ấu thơ cho đên ngày lao lý, ông Cẩn không bao giờ xa mẹ. Trong gia đình Tổng Thống chỉ có một mình ông Cẩn sống cạnh mẹ. TT Diệm cho đến Đức Cha Thục, ông Nhu, ông Luyện mỗi người một ngả một năm mới về thăm mẹ đôi ba lần. Theo nhân chứng, ông Cẩn được thân mẫu yêu thương nhất vì đức hiếu thảo. Kể từ ngày bà Cụ Khả bị bán thân bất toại, suốt ngày nằm trên ghế tựa ông Cẩn luôn luôn có mặt bên cạnh không chịu xa mẹ lấy một đêm.
Mỗi sáng chủ nhật theo thường lệ Linh Mục Cao Văn Luận đều đến nhà làm lễ cho bà Cụ và gia đình ông Cẩn. Vào một sáng chủ nhật năm 1961, Đại Úy Minh không bao giờ quên hình ảnh một người con ôm mẹ khóc. Theo thông lệ, khi xem lễ bà cụ Khả vẫn nằm trên ghế tựa, trước mặt kê một cái bàn quỳ để tượng trưng cho lòng kính Chúa. Đằng sau, con bé Kính đứng giữ hai vai bà Cụ. Sáng hôm ấy không hiểu sao con bé Kính lại đứng ở nơi khác. Bà Cụ chới với thế nào bị ngã lộn nhào giữa lúc Linh Mục đang dâng lễ. Ông Cẩn thất thần… Chưa bao giờ ông Cẩn lại biểu lộ nét mặt hãi sợ như vậy. Mặt ông tái xám, tay run rẩy… Bà cụ té sưng trán và rướm máu. Chính tay ông ẵm bà cụ đặt lên giường. Nước mắt ông chảy dàn dụa. BS Lê Khắc Quyến được gọi đến cấp tốc (BS Quyến là Y sĩ riêng của gia đình ông Cẩn và vẫn được coi là đồng chí thân cận của ông Cẩn). Lúc ấy ông Cẩn gần như người mất trí, ông cầm cái này rồi lại lấy cái kia tay chân run rẩy luống cuống. Sau khi bà cụ đã tỉnh, ông Cẩn mới khăn áo chỉnh tề, ông vận chiếc áo tấc xanh (Loại áo dài ta mặc trong dịp tế lễ) đội khăn đóng mặc chiếc quần ta dài trắng tinh, chân đi dép. Mọi người lấy làm ngạc nhiên không hiều ông Cẩn định đi đâu, làm gì. Sau mới rõ , ông đến trước mặt bà thân mẫu, lậy ba lậy (lên gối, xuống gối và mỗi lần vái tay khấu đầu phủ phục). Lạy xong ông ôm chân thân mẫu khóc và xin được tha lỗi. Ngày hôm ấy ông không tiếp khách, chỉ luẩn quẩn bên bà mẹ.
Ngày thường, tự tay ông lo liệu thức ăn đồ uống cho thân mẫu. Đối với mẹ, ông cư xử theo đúng lễ giáo của một nhà nho thủa xưa. Tối trước giờ mẹ ngủ, ông đến viếng một lần. Sáng dù bận thế nào, ông cũng vào phòng thăm mẹ. Mỗi năm vào ngày sinh nhật, ông sửa soạn quần áo từ hôm trước để sáng hôm sau khăn đóng áo dài vào khấu đầu phủ phục lạy mẹ ba lạy.
Trên đây là môt vài chi tiết cụ thể để giúp ta tìm hiểu con người ông Cẩn thường bị mô tả là Hung Thần Miền Trung.
Ngày 20-4-1964, Tòa Án Cách Mạng tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn mà chánh thẩm là Đại Tá Đặng Văn Quang (vợ chồng Đại Tá vốn là con đỡ đầu của thân mẫu Đức Cha Nguyễn Văn Thuận chị ruột ông Cẩn). Trước Tòa án ông Cẩn nói: “tôi quân sự không biết, hành chánh không biết, học thức tầm thường làm sao ra lệnh cho ai được?”. Bốn ngày sau, ông Cẩn đệ đơn xin ân xá và 2 ngày sau tướng Dương Văn Minh bác đơn xin ân xá với tư cách Quốc Trưởng. Trong thời gian 2 ngày, tướng Khánh đã “đau đầu” rồi bối rối không biết làm thế nào để giải quyết cho mọi bề êm đẹp. Bao nhiêu cuộc tiếp xúc, bao nhiêu việc trả giá tấm thân của ông Cẩn trở thành món hàng để “bên này đưa ra điều kiện này bên kia đặt điều kiện khác“. Chữ “nếu” làm cho ông Khánh bù đầu. Nếu không giết ông Cẩn chúng tôi sẽ có thái độ hoặc nếu không ân xá cho ông Cẩn chúng tôi sẽ hành động !! Các cố vấn của Tướng Khánh thì cho rằng: “Trong vụ này Thủ Tướng cứ coi như vô can. Việc xử như thế nào do Tòa. Việc ân xá hay không là do tướng Minh.
Nếu tướng Minh ân xá thì hợp ý với Thủ Tướng và có thể xoa dịu được phe bên này, mà áp lực “búa rìu” của phe bên kia sẽ đổ hết vào đầu Tướng Minh và ngược lại….Cộng sự viên thân cận của Tướng Khánh lúc ấy đều là những người đồng chống chế độ Ngô Đình Diệm và bị giam cầm như Phạm Thái (VNQDĐ) Tổng Trưởng thông tin hay thuộc đảng Đại Việt như BS Nguyễn Tôn Hoàn,  Phó Thủ Tướng hoặc thuộc “gà nhà” của GHPHTN (khuynh hướng Thượng Tọa Tâm Châu) như LS Nghiêm Xuân Hồng Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng…
Hôm xử bắn ông Cẩn tại Khám Chí Hòa, buổi sáng ông Khánh uống một hơi hết ly rượu mạnh, mắt ông lại lồi hẳn ra.
CHẾT VÌ CỦA
Qua lời nguyền phục hận cho anh em TT Diệm Tướng Khánh đã nhiều lần bày tỏ trước ngày chỉnh lý… Ai cũng tưởng ông là người một lòng, một dạ sống chết với với anh em TT Diệm. Nhưng Tướng Khánh thì “lời nói gió bay lên trời” thảy đều không quan trọng.
Sau khi đảo chánh thành công, hầu hết các Tướng tham dự đều được vinh thăng, nhưng trường hợp Tướng Khánh lại bị chậm trễ. Trong quá khứ và thuở còn mang lon cấp Tá, Tướng Minh và Khánh biết rõ nhau quá nhiều  Đã từ lâu, không ai ưa ai. Ngày 5-11, Tướng Khánh ở Pleiku bay về Saigon môt mặt trình diện Tướng Minh. Mặt khác chạy lon. Vốn là người láu cá vặt nên Tướng Khánh chạy theo “cửa” Thủ Tướng Thơ vì biết rằng ông Thơ hay bị xiêu lòng nếu chịu khó năn nỉ. Hơn nữa, ông Thơ vẫn có lòng tốt với bọn em út. Quả nhiên Tướng Khánh thành công. Thủ Tướng Thơ điện thoại cho Tướng Minh để “xin lon” cho Tướng Khánh và Tướng Minh cũng đồng ý cho ông Khánh lên lon Trung Tướng. Sáng hôm sau, Tướng Khánh lại đến tư thất Thủ Tướng Thơ để năn nỉ. Việc thăng Trung Tướng, Thủ Tướng Thơ đã dàn xếp xong, Tướng Khánh nóng lòng nên cho người lên phố mua cặp sao ngay. Tại tư thất, Thủ Tướng Chánh Phủ vẫn còn mặc áo pyjama. Vốn là con người xuề xòa, không kiểu cách TT Thơ đã gắn lon Trung Tướng cho ông Khánh trong lúc mặc đồ ngủ.
Thực ra thì Tướng Khánh cũng chả thương xót TT Diệm gì cả. Đối với ông ai cũng có thể là “tri kỷ”… Ai cũng có thể là bạn đường… Người như Tướng Khánh khó lòng giữ được sự trung kiên.
Vì Tướng Khánh không phải chỉ bắt cá hai tay mà ba bốn tay. Cùng một câu chuyện gặp ông A Tướng Khánh nói thế này, gặp ông B, Khánh lại nói thế cách khác.
Ngày 9-5-64, Ông Cẩn bị xử bắn tại Khám Chí Hòa thì Phan Quang Đông bị xử bắn tại Huế. Ông Khánh bay ra Huế để lấy lòng dân chúng từ một trung tâm tranh đấu… nhưng ông lại bị dân chúng vây tại Dinh Tỉnh Trưởng Thừa Thiên. Ông phải “trốn lủi” đi cửa sau rồi dùng trực thăng rời khỏi cố đô.
Sau một ngày hành trình toát mồ hôi lại bị dân chúng la ó đả đảo, hôm ấy ông Khánh tìm lại giấc ngủ bình an sau khi ông Cẩn ra người thiên cổ. Chết là hết, ông Khánh được bình an vì những tưởng ông Cẩn chết sẽ mang theo tất cả những bí mật về phần tài sản của ông. Sự đời đâu có giản dị như vậy. Cái kim bọc để lâu ngày cũng tấy, huống chi tài sản của ông Cẩn không phải là ít từ của chìm đến của nổi. Nhiều người thân tín trong gia đình ông Cẩn cho rằng: “ông Cẩn chết vì tài sản đó“. Để gây quỹ cho Đảng Cần Lao, trong 9 năm ông Cẩn đã ủy cho một số người đứng tên quản trị. Ông X đứng tên và quản trị một cơ sở kinh doanh này. Ông Y được trao phó đứng tên mua một thửa đất kia. Trong cái valise của ông Cẩn lại chất đầy những vật quý rồi lại có một số trương mục tại Ngân Hàng do mấy người trong đoàn thể đứng tên. Nếu ông Cẩn còn sống, các đương sự khó lòng có thể chiếm đoạt nổi. Có thể Tướng Khánh đã được chia một phần tài sản ấy về mặt của nổi để gọi là dùng vào quỹ mật.
Tại nhà Dòng Chúa Cứu Thế ngày 3-11 khi HĐQNCM mời tham gia, một vài người thân tín của ông Cẩn đã đề nghị: “Tình thế đã ra như vậy rồi nay HĐQNCM mời cậu tham gia thì cậu cứ tham gia. Bao nhiêu tài sản, của cải của đoàn thể hiện do ai đứng tên, do ai cất giữ cậu khai hết rồi đem nạp cho cho HĐQNCM để xung vào quỹ Quốc Gia” Nếu ông Cẩn nghe lời nhân chứng B, công khai hóa tài sản và đem nộp cho Quốc gia, thì ít nhất cũng không ai có thể nuốt trôi được hết dù cho có “chấm mút” ít nhiều.
Nói về tài sản của ông Cẩn, giới thân tín của ông đều ngao ngán “Ông Cẩn không bao giờ tin những cộng sự viên thân cận của ông mà ông vẫn cho rằng, còn quá trẻ không hiểu gì về vấn đề kinh tài cho đoàn thể.
Dạo năm 1961 nhiều cán bộ bị thương, đau yếu túng quẫn, Đại Úy Minh có đề nghị: “Cậu trích một số tiền trong quỹ đoàn thể giúp đỡ cán bộ đã phải hy sinh hay thương tích vì quốc gia và đoàn thể.” Lúc đó Ông Cẩn nói: “Tiền đâu bây chừ… tao làm gì có tiền?” Mấy cộng sự viên rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu tiền bạc bấy lâu đi đâu ở trong những tay ai? Vào năm 1959, có người đề nghị ông Cẩn mua lại một số đất của Hoàng Tộc. Ông bảo Đại Úy Minh và mấy người thân tín cùng ông đi coi xem đất cát ra sao. Một người lên tiếng cản ngăn: “con nghĩ Cậu không nên làm như vậy. Mình vừa truất phế Bảo Đại xong bây giờ lại đứng ra mua đất đai của Hoàng Tộc thì cho dù có trả tiền theo thời giá cũng vẫn bị mang tiếng” Ông Cẩn đáp: “Tao một thân một mình thì cần chi. Lo là lo cho bọn bay, cho đoàn thể, mà không có vốn liếng thì làm sao hoạt động được? Tụi bay còn trẻ biết gì”.
Từ đó, mấy cộng sự viên thân tín không ai đả động gì đến việc này dù họ cũng biết rõ ông Cẩn đã ủy cho những ai lo phần kinh tài. Theo người biết chuyện thì mẹ con bà Luyến và một số người khác đã làm hỏng ông Cẩn nhất là vấn để kinh doanh tiền bạc. Rồi khi tàn cuộc thì những “ai đó” đã phỗng tay trên. Trong suốt 9 năm đã có bao nhiêu ông bà lớn tâng bốc bà Luyến lên tận mây xanh, một tiếng Dì, một tiếng con cứ làm như bà Luyến là một nhân vật quan trọng không kém ông Cẩn. Thậm chí lại có người gọi bà Luyến là Mợ. Một đằng Cậu Cẩn, một đằng Mợ Luyến. Do đó đã gây lên bao nhiêu dư luận xấu xa. Mà bà Luyến, tuy anh em con dì với anh em ông Cẩn nhưng lại chỉ là thứ gia nhân lo việc nội trợ trong nhà.
PHÚ HỘ ĐỒNG QUÊ
Trong 9 năm, ông Cẩn đã cho tiền thiên hạ rất nhiều. Bản thân ông vốn là cậu Ấm con quan Thượng Thư Lễ Bộ nhưng ông lại là con người tiêu biểu cho trạng thái quê mùa. Thường ngày, ông dùng cơm với cá kho, dưa chua. Ngay nhà ông bao giờ cũng muối sẵn từng vại dưa, vại cà, có khi ông tỉ mẫn muối cả hàng vại “dưa rau muống”. Một sáng kiến khá kỳ cục… vì chưa thấy ai dùng rau muống để muối dưa, ông lại không ăn được vây yến hay sơn hào hải vị. Nhà ông ở Phú Cam nuôi hàng trăm con chim bồ câu. Nuôi là để dành đấy thôi. Ông Cẩn có tâm lý một nhà giầu xứ quê nên cái gì cũng thu vén chắt chiu cái gì cũng cho vào trong kho hết, trong kho của nhà ông chứa đựng không biết bao tranh sơn mài đồ gốm, đồ cổ. Dĩ chí có nhiều người biếu ông miếng gỗ cẩm lai ông cũng cho cất vào kho để dành. Ngày 1-11 chính là ngày sinh nhật của ông cho nên khách bốn phương đổ về Huế tấp nập với bao nhiêu quà, ông không ăn, trong nhà cũng không thể ăn hết, tuy vậy dù là quà thuộc về thực phẩm, ông cũng vẫn cho vào kho cất đi. Mấy hôm sau để thối ra đấy người nhà lại cất công đem đi đổ… Con người ông Cẩn là một thế giời đầy mâu thuẫn ông vừa có cái cốt phong kiến của con quan, ông lại có tính thu vén chắt chiu của một phú nông cùng cái hách của Tổng Lý  thời xưa. Ông có bản chất sắc thái của một ông già quê. Ngoài thú câu cá, ông còn tự tay vót tre đan rổ rá. Rổ rá trong nhà ông phần lớn là do ông đan lấy và ông coi đó như một sinh thú.
CÔNG LÝ
Ngày 20-4-64, ông Cẩn được xét xử trước Tòa Án Cách Mạng. Ông Cẩn cũng bị khép vào các tội như Phan Quang Đông, chỉ khác một số tội cố sát. Trên đây, xét từ nguyên nhân sâu xa thì ông Cẩn chết vì lý do tài sản. Nhưng ra tòa, bản án tử hình dành cho ông lại bắt nguồn từ cục gián điệp miền Trung với Huỳnh Văn Trọng, Nguyễn Đắc Phương. Theo sự tố cáo trước tòa thì Nguyễn Đắc Phương bị người của ông Cẩn xô từ trên lầu xuống và Phương đã chết vì như vậy tức là Phương bị cố sát có dự mưu chứ không phải Phương tự tử.
Buổi sáng 20-4 khi tòa xử, có vợ Nguyễn Đắc Phương ra làm nhân chứng. Một vài tờ báo mô tả rằng: Người vợ của ông Phương vì thương chồng phẫn uất quá nên ra tòa bị ngất xỉu. Một người ở Huế biết quá rõ bà Phương lại nói rằng “bà Phương mới sinh con được hai ngày thì phải ra tòa nên mới ngất xỉu”. Tại sao thế? Chồng bà đã chết từ lâu cơ mà? Đại cương vụ án gián điệp miền Trung như thế này:
Hồ sơ vụ này đã có từ thời ông Giám đốc Công An Trung Phần Nguyễn Chữ. Đầu năm 1960 mấy Linh Mục ở Đà Nẵng có lên gặp Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục trình bày về một số người bị bắt oan trong đó có cả tín đồ Thiên Chúa Giáo. Đức Cha Thục thay vì hỏi thẳng Phan Quang Đông (vì Đông phụ trách nhiệm vụ này) ngược lại Đức Cha Thục lại vào thẳng Saigon trình bày nội vụ với TT Diệm, sau đó TT Diệm ra lệnh cho Đại Tá Đỗ Văn Mậu mở cuộc điều tra.
Đại Tá Mậu đánh công điện cho Đại úy Thích trưởng khu an ninh Huế điều tra vụ này. Dĩ nhiên là động đến ông Cẩn, Đại úy Thích tìm Đại Úy Minh bàn luận cùng ông Minh nên xử trí thế nào. Ông Minh cho rằng, vụ này nên hỏi lại Phan Quang Đông và báo cho Đông biết sự thể nó như vậy. Sau đó, sẽ trình bày với ông Cẩn.
Đại Úy Thích vào gặp ông Cẩn trình bày về bức công điện từ Sàigon. Phản ứng đầu tiên là ông Cẩn tái mặt, ông bảo ông Thích phải điều tra lại ngay xem có sự oan ức gì không. Ông Cẩn nói: Giết oan người ta thì Chúa phạt đến đời con đời cháu. Sau khi An Ninh Quân Đội điều tra lại thì đều xác nhận vụ án gián điệp có thật.
Ngày 20-11-1964, Tòa xử ông Cẩn về vụ ấy.
NGƯỜI TỬ TÙ
Một viên Giám thị tại khám Chí Hòa (từng có nhiệm vụ canh gác phòng ông Cẩn) đã kể lại với chúng tôi: Có một đêm đã khuya lắm, anh ta đi qua phòng ông Cẩn, tò mò nhìn qua ổ khóa. Anh thấy ông Cẩn đi đi lại quanh phòng rồi ông gục đầu vào tường. Anh nghe thấy tiếng ông khóc nấc. Sau đó anh thấy ông Cẩn đi lại phía giường.
Ông quì dưới chân giường gục đầu vào nệm, anh vẫn nghe thấy tiếng ông khóc nấc. Một lần khác có việc vào phòng ông, ông lại có vẻ bình thản và hỏi: “Chú có nghe tin tức gì ngoài nớ không?“ Tất nhiên là anh ta chỉ ậm ừ rồi mau chóng đi ra vì sợ bị nghi có liên lạc với tù nhân… Lần nào gặp, ông Cẩn cũng có lời hỏi han anh như: lương bao nhiêu, có đủ ăn không, mấy con, bố mẹ còn không, có nuôi được bố mẹ không?
Buổi sáng ngày ông Cẩn phải ra pháp trường, người con gái bà Ấm (cháu gọi ông Cẩn bằng cậu) được phép vào tận trong phòng giam thăm ông với sự hiện diện của một viên chức. Chị ta dơ năm ngón tay ra hiệu cho ông Cẩn (có nghĩa là 5 giờ bị xử). Ông Cẩn khẽ gật đầu. Vì không nén được xúc động, người cháu gái khóc bù lu bù loa và nặng lời nguyền rủa những ai phản phúc ông Cậu mình. Ông Cẩn vẫn điềm đạm. Lời ông nói với cô cháu gái được ghi nhận như sau: “không có gì đáng buồn mà phải khóc lóc. Làm chính trị là phải như thế. Cậu không có gì oán thán hết. Làm chính trị thì phải biết sẽ có một ngày như thế này “.
Buổi chiều, có những viên chức sau đây đã đưa ông từ phòng giam ra pháp trường: Đại tá Trang Văn Chính Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành, Trung Tá Nguyễn Văn Đức ủy viên chánh phủ và Luật sư Võ Văn Quan cùng một số viên chức khác và có cả bà Ấm, người chị ruột ông Cẩn.
Trước đó ông Cẩn bị bệnh to khớp xương và những tháng nằm trong tù ông gần như bị tê liệt, mỗi khi đi đứng phải có người xốc hai vai.
Song buổi chiều ra pháp trường một số người hiện diện đều ngạc nhiên, da mặt ông tự nhiên đỏ hồng, từ trên lầu xuống nhà ông vịn tường mà đi không cần người xốc nách. Ông vẫn nói với chị ông và các cháu (trong đó có bà Trần Trung Dung) “không việc gì mà phải khóc lóc hay chửi rủa ai. Cứ cầu nguyện cho người ta. Cậu làm chính trị cậu đã nghĩ đến ngày phải như thế này”
Đại tá Chính và mấy người khác lên tiếng chào ông, ông cúi đầu thi lễ: “Xin chào các ngài” Mọi người đều công nhận ông có vẻ thản nhiên và khỏe mạnh hơn ngày thường.
ĐẢNG LÀ TA
Xưa kia ông Cẩn vẫn thường phê bình ông Nhu rất gay gắt “Làm chính trị như anh ấy chỉ lo chương trình kế hoạch thì có ngày chết”. Theo ông Cẩn làm chính trị vào thời nay cần phải có tiền, phải gây cơ sở tức là phải nghĩ đến chuyện làm kinh tài cho đoàn thể. Điều ấy đúng. Không một đảng phái nào muốn phát triển tồn tại mà không nghĩ đến chuyện này, ông Cẩn thường nói với các “đồng chí” của ông (như đồng chí Văn Anh, Bí thư Xứ bộ Trần Quốc Toản, từng được ông Cẩn chu cấp tiền cho xây biệt thự tại Nha Trang) “Làm chính trị mà không có tiền, có cơ sở thì mần răng?” Tiếc thay, quan niệm đó đúng thực tế, nhưng đã sai lầm từ căn bản (do môi trường, hoàn cảnh, con người đó). Với ông Cẩn thì “ngoài lòng yêu mẹ ông còn yêu Đảng của ông”. Đảng trong  quan niệm của ông chỉ có nghĩa: “Đảng là ta mà ta là Đảng” (Le Parti c’est moi) ông  muốn một tay mình quán xuyến Đảng, thu vén chắt chiu cho Đảng. Do đó, mọi tài sản sẽ dành cho Đảng. Ông Cẩn thường nói: “Tao một thân một mình và đã già rồi thì cần gì. Mua đất cát, dựng xí nghiệp này nọ (…) là lo cho bọn bay sau nay“.. Việc xây dựng Đảng của ông đã lầm lẫn ngay từ ngôn ngữ “BỌN BAY
Và Đảng đã được lãnh đạo qua hình thức phụ quyền cha con. Cứ cho rằng lãnh đạo Đảng như vậy cũng được đi. Nhưng thực tế của miền Nam không phải là thực tế của miền Bắc Cộng sản. Ở Bắc thì Bác rồi mới đến Đảng, nhưng Đảng là một tập thể anh em, với kỷ luật sắt thép. Còn ở Nam thì khác, vào Đảng vì lý tưởng cũng có mà vì chủ nghĩa xôi thịt cũng nhiều. Chẳng hạn, năm 1954 khi kết nạp Đảng Viên, một trong tình thế bấp bênh lộn xộn lúc ấy, có một trung tá chỉ huy một “GM” (Groupe Mobile) từ Bắc di quân vào Nam. Viên trung tá vốn là người của biệt đội Con Ó (thuộc phòng VI của Trần Đình Lan). Ông Cẩn đã ủy cho một người thân tín phải tìm cách thuyết phục đưa viên trung tá vào Đảng. Với cấp bậc và chức vụ đương nhiên viên trung tá trở thành một đảng viên quan trọng thuộc hàng “lãnh đạo”. Con người ông ta ra sao, lòng trung thành và hiệu năng phục vụ đảng như thế nào, ông Cẩn không cần biết. Khi vào Đảng rồi “đồng chí” của ông đóng vai trò con cái trong nhà “vâng vâng dạ dạ” bẩm lạy Cậu. Từ đó viên trung tá trở thành đồng chí Văn Thanh, chỉ còn là thứ nô bọc trong vai trò nô bộc cao cấp. Như vậy thì làm sao kiếm tìm được tình đồng chí trong ý nghĩ thiêng liêng của từ ngữ này? Thế nhưng ông Cẩn vẫn say mê Đảng… Và gây kinh tài cho Đảng gồm những ông tai to mặt lớn kiểu “đồng chí Văn Thanh“, trong khi đó một số đông cũng yêu Đảng như mối tình đầu lại bị ông chê “Tụi bây còn trẻ mà biết gì”.
Trong quan niệm phụ quyền cha con và “Ta là Đảng” ông Cẩn tự ý lo liệu, tự ý ủy quyền cho một số người quản trị tài sản của Đảng ông. Sự quản trị do tín nhiệm cá nhân và lại không có gì dàng buộc với tập thể…Hóa cho nên khi ông Cẩn ngã xuống thì anh nào “may tay có lời“, Đảng của ông trở thành tay trắng, tan tác một sớm một chiều và ông cũng chết trong hai bàn tay trắng. Đó cũng là một bài học quý giá cho những ai khi có chánh quyền mà muốn lập Đảng dù lập Đảng tất cả ý chí và lòng say mê. Nhưng đừng quên rằng, chuyện đời rất khó, “thấy ăn thì tìm đến thấy khó thì tìm đi” đó là lẽ trắng đen của đời.
Sự ủy quyền quản trị tài sản cho Đảng cần lại trao cho một số người trong đó có dược sư, dân biểu, ông Cẩn (do môi trường, hoàn cảnh thuận tiện và ý thức non kém về chính trị cũng như sự lãnh đạo Đảng) khiến cho ông đã chọn lầm một số người toàn là những kẻ tùy cơ hội tùy thời ăn có, cho nên khi được ủy quyền rồi thì bọn người này lại nhân danh ông Cẩn mà sách thủ tác oai tác quái để nói là kinh tài cho Đảng theo lệnh Cậu Cẩn mà kỳ thực chỉ lo cho cá nhân đầy tham vọng của họ.
Bao nhiêu oán thán đã có ông Cẩn chịu. Thực tế đã xảy ra như vậy và khi chết, ông lại chết vì tài sản cùng với hai bàn tay trắng.
Khi ra pháp trường ông Cẩn lẻ loi một mình. Mặt ông vẫn thản nhiên, ông bị trói vào cột (như báo chí đã tường thuật). Trung Úy Bảo, sĩ quan báo chí Phủ Thủ Tướng là người duy nhất đại diện báo chí nhà nước có mặt tại “sân bắn” lúc ấy. Trung úy Bảo thuật lại: Hai bàn chân của ông chỉ có năm ngón chấm đất, gót chân lơ lửng. Ông Bảo viết tiếp: biết đâu lúc ấy ông Cẩn không nhận ra tôi”. Trung úy Bảo đứng cách tử tội Ngô Đình Cẩn 15 m về phía tay mặt. Đằng trước ông Cẩn là toán QC. Sau toán QC là báo chí. Do tình cờ của số phận nhân chứng lại có mặt trong tư thế đại diện chính quyền trong buổi xử bắn ông Cẩn. Thật là éo le!
Nhân chứng nói: “Nhìn ông Cẩn lúc ấy tôi rớm nước mắt song vẫn cố tình làm ra vẻ thản nhiên“. Định mệnh lịch sử có thật hay sao? Trước đó, nhân chứng được Trung tá Khôi cho ra Huế mang thư riêng đến ông Cẩn. Nhân chứng tưởng chừng ông Cẩn phải là người dữ dằn hung hãn lắm.
Nhưng khi được Đại Úy Minh đưa vào yết kiến Trung Úy Bảo rất ngạc nhiên. Ông Cẩn nằm trên chiếc ghế xích đu kê ở hàng hiên. Ông đang nhai trầu bỏm bẻm. Thấy Bảo ông Cẩn ngồi nhỏm dậy và tự tay kéo ghế mời ngồi. Ông gọi đích danh Bảo rồi hỏi thăm chuyện trò lan man về tình hình Saigon, về gia cảnh và công việc làm ăn của Trung Úy Bảo.
Vẫn khuôn mặt cũ, buổi chiều hôm ra pháp trường, Trung Úy Bảo thấy ông Cẩn vẫn giữ vẻ bình thản, da mặt đỏ hồng.
Rồi một loạt súng nổ, ông Cẩn trở về cõi thiên cổ.
Trước đó ông ta từ chối không chịu bịt mắt. Nhưng Trung tá ủy viên Chính Phủ nói “Đây là luật lệ bắt buộc như vậy“. Ông Cẩn đành chịu, ông cũng không quên lên tiếng xin mọi người tha thứ cho ông và những người đồng đạo có mặt lúc ấy đã đọc cho ông một Kinh Lạy Cha trong đó có câu “xin cho chúng tôi hàng ngày dùng đủ và tha tội chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi”. Khi bị trói vào cột, ông Cẩn được gặp riêng Cha Thính thuộc Dòng Chúa Cứu Thế là vị Cha linh hướng của ông. Rồi sau đến LS Võ Văn Quan… LS Quan nói chuyện với ông Cẩn một lúc, rồi đưa tay gỡ cặp kính trắng trên mặt ông, không khí thật trầm lặng và căng thẳng trong nỗi thê lương. Cha Thính quay đi… mắt vị Linh Mục long lanh hạt lệ. LS Quan khẽ thở dài như tiếc thương cho một phận người.
Chỉ một loạt đạn thứ nhất, ông Cẩn đi ngay. Đầu ông gục xuống , lắc lư.

Trung Úy Bảo đến bên ông… Mầu da đỏ hồng biến thành mầu xám nhạt. Không ai giữ được tiếng thở dài nghẹn ngào. Ông được tháo dây trói và đặt trên brancard khiêng trở lại khám đường. Nhân chứng đi theo. Trong gian phòng hoang lạnh, không còn ai ngoài nhân chứng, người Hiến Binh áp giải và lát sau thì có bà Ấm lật đật chạy vào. Ông Cẩn nằm trên brancard, phủ tấm vải trắng loang lổ máu. Người chị của ông khóc rưng rưng, nước mắt dàn dụa trên gò má. Thế là xong một đời người.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét