CHỦ
QUYỀN CỦA VIỆT NAM
TRÊN HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA
Thứ
ba 14/06/2011 12:00:00 (GMT +7)
Tác
giả: Từ Đặng Minh Thu
Nguồn: Tạp chí thời đại
Nhắc đến
Biển Đông, không ai không nghĩ đến hai cái tên rất đẹp Hoàng Sa và Trường Sa.
Tiếc thay hai cái tên đó lại gắn liền với những gì đi ngược với thiện, mỹ, hoà,
vì hai quần đảo xa xôi này đã và đang là đối tượng của một cuộc tranh chấp sôi
nổi giữa các quốc gia và lãnh thổ trong vùng. Cuộc tranh chấp đã kéo dài gần
một thế kỷ nhưng đến nay vẫn chưa giải quyết được, và ngày càng trầm trọng hơn,
đang là mối đe doạ cho hoà bình ở vùng Đông Nam Á.
Khi thì
bùng nổ, khi thì lắng dịu, cuộc tranh chấp này mang mọi hình thức đấu tranh, từ
đấu tranh chính trị, ngoại giao đến đấu tranh vũ lực. Các quốc gia tranh chấp
cũng thay đổi tuỳ theo thời cuộc. Lúc đầu chỉ có Pháp và Trung Hoa, tiếp sau
đó, Nhật Bản và Philippin cũng nhảy vào đòi quyền lợi. Sau Chiến tranh thế giới
thứ hai, Nhật Bản bại trận rút lui khỏi cuộc tranh chấp, Pháp rời Đông Dương,
Trung Hoa thay đổi chính quyền, thì các quốc gia và vùng lãnh thổ tranh chấp
gồm Việt Nam Cộng hoà, Trung Quốc, Đài Loan và Philippin. Sau khi Việt Nam thống nhất thì cuộc tranh chấp tiếp diễn
giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và ba quốc gia và vùng lãnh thổ
kia. Ngày nay, từ khi “Luật Biển mới” ra đời, tầm quan trọng của 2 quần đảo
tăng thêm, thì số quốc gia tranh chấp cũng tăng theo. Malaixia và Brunây cũng
đòi quyền lợi trên quần đảo Trường Sa. Với Công ước Luật Biển mới, quốc gia nào
nắm những quần đảo này không những được hưởng lãnh hải quanh đảo mà cả vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa quanh quần đảo. Tuy nhiên, vấn đề phân chia lãnh
hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa các quốc gia chưa thực hiện
được khi chưa biết hai quần đảo này thuộc về ai. Vì vậy, vấn đề xác định chủ
quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa càng quan trọng. Bài viết này sẽ phân
tích một số lý lẽ chính mà Việt Nam
và Trung Quốc đưa ra để khẳng định chủ quyền của mình, vì đây là hai quốc gia
chính trong cuộc tranh chấp.
I. DIỄN BIẾN CUỘC TRANH CHẤP
Diễn
biến cuộc tranh chấp sẽ được trình bày vắn tắt theo thứ tự thời gian, qua ba
giai đoạn: trước thời Pháp thuộc, trong thời Pháp thuộc, và sau thời Pháp
thuộc.
1.
Trước thời Pháp thuộc
Những
người đánh cá Trung Hoa và Việt Nam
sống trên các đảo tuỳ theo mùa nhưng từ bao giờ thì không thể xác định được.
Đầu thế kỷ XVII: Chúa Nguyễn tổ chức khai thác trên các đảo. Đội Hoàng Sa và
Đội Bắc Hải có nhiệm vụ ra đóng ở hai quần đảo, mỗi năm 8 tháng để khai thác
các nguồn lợi: đánh cá, thâu lượm những tài nguyên của đảo, và những hoá vật do
lấy được từ những tàu đắm.
Năm 1753: Có 10 người lính của Đội Bắc Hải đến quần đảo Trường Sa: 8 người xuống đảo, còn 2 người thì ở lại canh thuyền. Thình lình cơn bão tới và thuyền bị trôi dạt đến cảng Thanh Lan của Trung Quốc. Chính quyền Trung Hoa cho điều tra, và khi biết các sự kiện, đã cho đưa 2 người lính ViệtNam về.[2]
Năm 1753: Có 10 người lính của Đội Bắc Hải đến quần đảo Trường Sa: 8 người xuống đảo, còn 2 người thì ở lại canh thuyền. Thình lình cơn bão tới và thuyền bị trôi dạt đến cảng Thanh Lan của Trung Quốc. Chính quyền Trung Hoa cho điều tra, và khi biết các sự kiện, đã cho đưa 2 người lính Việt
- Năm 1816:
Vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thuỷ
trình.
- Năm
1835: Vua Minh Mạng cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng
Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiều nhiệm vụ hơn: khai thác, tuần tiễu, thu thuế
dân trên đảo, và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục
hoạt động cho đến khi Pháp nhảy vào Đông Dương.
2. Thời Pháp thuộc
2. Thời Pháp thuộc
- Năm
1884: Hiệp ước Huế áp đặt chế độ thuộc địa.
-
9-6-1885: Hiệp ước Pháp – Thanh Thiên Tân là một hiệp ước hữu nghị, chấm dứt
xung đột giữa Pháp
và Trung
Hoa.
-
26-6-1887: Hiệp ước Pháp – Thanh ấn định biên giới giữa Bắc Việt Nam và Trung
Hoa.
- 1895 –
1896: Vụ La Bellona và Imeji Maru.
Có hai
chiếc tàu La Bellona và Imeji Maru bị đắm gần Hoàng Sa, một chiếc bị đắm năm
1895, và chiếc kia bị đắm năm 1896. Những người đánh cá ở Hải Nam bèn thu
lượm đồng từ hai chiếc tàu bị đắm. Các công ty bảo hiểm của hai chiếc tàu này
phản đối chính quyền Trung Hoa. Chính quyền Trung Hoa trả lời là Trung Hoa
không chịu trách nhiệm, vì Hoàng Sa không phải là lãnh thổ của Trung Hoa, và
cũng không phải của An Nam.[3]
· Năm
1899: Toàn quyền Paul Doumer đề nghị chính phủ Pháp xây ngọn hải đăng nhưng
không thành vì tài chính bị thiếu.
· Năm
1909: Tổng đốc Lưỡng Quảng ra lệnh thám thính quần đảo Hoàng Sa.
· Năm
1920: Mitsui Busan Kaisha xin phép Pháp khai thác quần đảo Hoàng Sa. Pháp từ
chối.
· Bắt
đầu năm 1920: Pháp kiểm soát quan thuế và tuần tiễu trên đảo.
·
30-3-1921: Tổng đốc Lưỡng Quảng sáp nhập Hoàng Sa với Hải Nam . Pháp không
phản đối.
· Bắt
đầu từ năm 1925: Tiến hành những thí nghiệm khoa học trên đảo do Dr. Krempt,
Giám đốc Viện Hải dương học Nha Trang tổ chức.
·
8-3-1921: Toàn quyền Đông Dương tuyên bố hai quần đảo: Hoàng Sa và Trường Sa là
lãnh thổ của Pháp.
· Năm
1927: Tàu De Lanessan viếng thăm quần đảo Trường Sa.
· Năm
1930: Ba tàu Pháp: La Malicieuse, L’alerte và L’Astrobale chiếm quần đảo Trường
Sa và cắm cờ Pháp trên quần đảo này.
· Năm
1931: Trung Hoa ra lệnh khai thác phân chim tại quần đảo Hoàng Sa, ban quyền
khai thác cho Công ty Anglo-Chinese Development. Pháp phản đối.
· Năm
1932: Pháp chính thức tuyên bố An Nam có chủ quyền lịch sử trên quần đảo Hoàng
Sa. Pháp sáp nhập quần đảo Hoàng Sa với tỉnh Thừa Thiên.
· Năm
1933: Quần đảo Trường Sa được sáp nhập với tỉnh Bà Rịa. Pháp cũng đề nghị với
Trung Hoa đưa vấn đề ra Toà án Quốc tế nhưng Trung Hoa từ chối.
· Năm
1938: Pháp cho đặt bia đá, xây hải đăng, đài khí tượng và đưa đội biên phòng
người Việt ra để bảo vệ đảo Pattle (đảo Hoàng Sa) của quần đảo Hoàng Sa.
· Năm
1946: Nhật bại trận phải rút lui. Pháp trở lại Pattle (An Vĩnh) nhưng vì chiến
cuộc ở Việt Nam
nên phải rút.
· Năm
1947: Quân của Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên đảo Woody (đảo Phú Lâm) của quần đảo
Hoàng Sa. Pháp phản đối và gửi quân Pháp - Việt trở lại đảo. Hai bên đàm phán
tại Paris . Pháp
đề nghị đưa ra Trọng tài quốc tế nhưng Trung Hoa từ chối.
· Năm
1950: Quân của Tưởng Giới Thạch rút khỏi đảo Woody.
· Năm
1951: Tại Hội nghị San Francisco, Nhật tuyên bố từ bỏ tất cả các đảo, Đại diện
chính phủ Bảo Đại là Thủ tướng Trần Văn Hữu khẳng định chủ quyền của Việt Nam
trên hai quần đảo mà không có nước nào lên tiếng phản đối.
3.
Sau thời Pháp thuộc
· Năm 1956:
Quân đội Pháp rút khỏi Đông Dương. Đội canh của Pháp trên đảo Pattle được thay
thế bởi đội canh của Việt Nam .
Trung
Quốc cho quân chiếm phía Đông của quần đảo Hoàng Sa, tức nhóm Amphitrite (Nhóm
Đông). Trong khi phía Tây, nhóm Crescent (Lưỡi Liềm), vẫn do quân Việt Nam đóng trên
đảo Pattle nắm giữ.
·
1-6-1956: Ngoại trưởng Việt Nam Cộng hoà Vũ Văn Mẫu xác nhận lại chủ quyền của
Việt Nam
trên cả hai quần đảo.
·
22-8-1956: Một đơn vị hải quân của Việt Nam Cộng hoà cắm cờ trên quần đảo
Trường Sa và dựng bia đá.
· Năm
1961: Việt Nam Cộng hoà sáp nhập quần đảo Hoàng Sa với tỉnh Quảng Nam .
· Năm
1973: Quần đảo Trường Sa được sáp nhập vào tỉnh Phước Tuy.
· Năm
1974: Trung Quốc oanh tạc quần đảo Hoàng Sa và chiếm các đảo do quân Việt Nam
Cộng hoà đóng.
· Năm 1975:
Quân đội Nhân dân Việt Nam
thay thế quân đội của Việt Nam Cộng hoà tại quần đảo Trường Sa.
· Năm
1977: Việt Nam
tuyên bố lãnh hải, kể cả lãnh hải của các đảo.
· Trong
thời gian này, nhiều quốc gia khác cũng đã chiếm một số đảo của quần đảo Trường
Sa.
· Năm
1988: Lần đầu tiên Trung Quốc gửi quân tới quần đảo Trường Sa. Quân của Trung
Quốc đụng độ với Hải quân Việt Nam .
Trên 70 người lính Việt Nam
hy sinh. Trung Quốc đã chặn không cho tàu mang cờ Chữ Thập Đỏ ra cứu quân Việt Nam .
· Năm
1989: Trung Quốc chiếm thêm một đảo.
· Năm
1990: Trung Quốc đề nghị khai thác chung quần đảo Trường Sa.
· Năm
1992: Trung Quốc chiếm thêm một số đảo nữa.
· Năm
1994: Đụng độ giữa Việt Nam
và một chiếc tàu Trung Quốc nghiên cứu cho Công ty Crestone.
Hiện nay
Trung Quốc kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Còn quần đảo Trường Sa thì do
sáu quốc gia và lãnh thổ chiếm giữ là: Việt Nam , Trung Quốc, Đài Loan,
Philippin, Malaixia và Brunây.
(Tapchithoidai)
II. PHÂN TÍCH LẬP LUẬN CỦA VIỆTNAM
VÀ TRUNG QUỐC
II. PHÂN TÍCH LẬP LUẬN CỦA VIỆT
Lý lẽ mà
cả Việt Nam
và Trung Quốc đưa ra là chủ quyền lịch sử, cả hai quốc gia đều khẳng định mình
có chủ quyền từ lâu đời được củng cố và chứng minh bằng lịch sử. Ngoài ra,
Trung Hoa ngày xưa, cũng như Đài Loan ngày nay, và nhiều tác giả thường viện
dẫn Hiệp uớc Pháp – Thanh 1887 để khẳng định hai quần đảo thuộc về Trung Quốc.
Vì Trung Quốc và Đài Loan đã đồng ý nói chung một tiếng nói trong vụ tranh chấp
này, do đó, đây cũng có thể là một lý lẽ của Trung Quốc. Thời kỳ gần đây, từ
khi tranh chấp với Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam , Trung Quốc đã viện dẫn thêm
một lý lẽ, là những lời tuyên bố trước đây của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Phần này sẽ phân tích ba lý lẽ nói trên.
1.
Chủ quyền lịch sử
Cả Việt Nam và Trung
Quốc đều nại rằng mình đã khám phá, chiếm hữu và hành xử chủ quyền lâu đời.
Chúng ta thử phân tích lý lẽ chủ quyền lịch sử của mỗi bên có đạt đủ tiêu chuẩn
của luật quốc tế hay không. Trước tiên, chúng ta hãy tìm hiểu luật quốc tế chi
phối sự chiếm hữu lãnh thổ vô chủ như thế nào.
1.1.
Sự chiếm hữu lãnh thổ vô chủ theo luật quốc tế.
Một sự
chiếm hữu lãnh thổ, muốn hợp pháp, phải hội đủ ba điều kiện:
Một
là, điều kiện liên quan đến đối tượng của
sự chiếm hữu: lãnh thổ được chiếm hữu phải là đất vô chủ (res nullius),
hoặc là đã bị chủ từ bỏ (res derelicta).
Hai
là, tác giả của sự chiếm hữu phải là một
quốc gia. Chiếm hữu phải được thực hiện bởi chính quyền của quốc gia muốn chiếm
hữu hoặc bởi đại diện của chính quyền chiếm hữu nhân danh quốc gia mình. Tư
nhân không có quyền chiếm hữu.
Ba
là, phương pháp chiếm hữu:
Phương
pháp chiếm hữu đã trải qua nhiều thay đổi theo thời gian. Trước năm 1884, quyền
chiếm hữu do Đức Giáo Hoàng ban cho. Từ thế kỷ VIII đến XV, Đức Giáo Hoàng chia
đất giữa hai quốc gia là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Đến thế kỷ XVI, khi nhiều
quốc gia khác cũng bắt đầu tham gia vào công cuộc đi tìm đất mới, thì phương
cách chia đất bởi Đức Giáo Hoàng bị chỉ trích, và người ta đặt ra một phương
thức mới cho sự chiếm hữu lãnh thổ, đó là quyền khám phá. Quốc gia nào khám phá
ra mảnh đất đó trước thì được chủ quyền trên đất đó. Khám phá đây có nghĩa là
chỉ nhìn thấy đất thôi, không cần đặt chân lên đất đó, cũng đủ để tạo chủ
quyền. Sau này, điều kiện đó được xem như không đủ, nên người ta đưa thêm một
điều kiện nữa, là sự chiếm hữu tượng trưng. Quốc gia chiếm hữu phải lưu lại
trên lãnh thổ một vật gì tượng trưng cho ý chí muốn chiếm hữu của mình: cờ, bia
đá, đóng cọc, hoặc bất cứ một vật gì tượng trưng cho chủ quyền của quốc gia
chiếm hữu. Đến thế kỷ XVIII, người ta thấy chiếm hữu tượng trưng cũng không đủ
để chứng tỏ chủ quyền của một quốc gia. Vì vậy, đến năm 1885, Định ước Berlin nhằm giải quyết
vấn đề chia đất ở châu Phi, ấn định một tiêu chuẩn mới sát thực hơn cho sự
chiếm hữu lãnh thổ. Đó là sự chiếm hữu thực sự và hành xử chủ quyền trên lãnh
thổ được chiếm hữu. Ngoài ra, Định ước Berlin
cũng ấn định rằng quốc gia chiếm hữu phải thông báo sự chiếm hữu của mình cho
các quốc gia khác biết. Nguyên tắc chiếm hữu thực sự và hành xử chủ quyền sau
này đã trở thành tập quán quốc tế và được làm cơ sở cho sự chiếm hữu lãnh thổ
vô chủ trong luật quốc tế hiện đại. Tuy nhiên, yếu tố thông báo không phải là
một tập quán quốc tế, nó chỉ áp dụng riêng cho trường hợp chiếm hữu đặt trong
phạm vi của Định ước Berlin
mà thôi.
Ngày nay
theo luật quốc tế, sự chiếm hữu lãnh thổ phải bao gồm cả hai yếu tố vật chất và
tinh thần. Yếu tố vật chất được thể hiện qua việc chiếm hữu thực sự và hành xử
chủ quyền trên lãnh thổ đó. Điều này có nghĩa là quốc gia chiếm hữu phải có sự
hiện diện thường trực trên lãnh thổ được chiếm hữu, và phải có những hoạt động
hoặc những hành vi có tính quốc gia đối với lãnh thổ đó. Sự hành xử chủ quyền
phải có tính liên tục. Còn yếu tố tinh thần có nghĩa là quốc gia phải có ý định
thực sự chiếm hữu mảnh đất đó. Phải hội đủ hai yếu tố vật chất và tinh thần
trên thì sự chiếm hữu mới có hiệu lực. Và sự từ bỏ lãnh thổ cũng phải hội đủ cả
hai yếu tố: vật chất, tức là không hành xử chủ quyền trong một thời gian dài,
và tinh thần, tức là có ý muốn từ bỏ mảnh đất đó. Phải hội đủ cả hai yếu tố: từ
bỏ vật chất và từ bỏ tinh thần thì lãnh thổ đó mới được xem như bị từ bỏ, và
trở lại quy chế vô chủ.[4]
Ngoài
phương pháp chiếm hữu thực sự và hành xử chủ quyền (occupation và effectivité), một
quốc gia cũng có thể thụ đắc chủ quyền qua những phương pháp khác như chuyển
nhượng (cession), thời hiệu (prescription), củng cố chủ quyền
bằng danh nghĩa lịch sử (consolidation par titre historique),… Phương
pháp “củng cố chủ quyền bằng danh nghĩa lịch sử” được áp dụng nếu quốc gia đã
sử dụng lâu đời một lãnh thổ khác mà không có phản đối của một quốc gia nào
khác.[5]
Những
tiêu chuẩn trên đã được áp dụng thường xuyên bởi án lệ quốc tế, trong những bản
án về tranh chấp đảo Palmas, đảo Groenland, đảo Minquier và Ecrehous…
1.2.
Chủ quyền lịch sử của Việt Nam
Phải nói
rằng, vì hoàn cảnh chiến tranh, nên tài liệu lịch sử của Việt Nam đã bị tàn
phá hoặc thất lạc rất nhiều. Việt Nam đã đưa ra những tài liệu lịch
sử và địa lý đủ để chứng minh rằng mình đã khám phá ra hai quần đảo này từ lâu,
đã chiếm hữu tượng trưng cũng như thực sự và hành xử chủ quyền trên hai quần
đảo qua nhiều đời vua và trải qua ít nhất là ba thế kỷ.
1.2.1.
Khám phá ít nhất là từ thế kỷ XV, và hành xử chủ quyền trong thế kỷ XVII
Dân đánh
cá Việt Nam
đã sống trên những đảo này và khai thác đảo từ lâu đời. Tài liệu sớm nhất mà
Việt Nam còn có được là
quyển “Tuyển tập Thiên Nam
Tứ Chí Lộ đồ thư” của Đỗ Bá, viết vào thế kỷ XVII. Danh từ “Tuyển tập” cho
ta thấy tài liệu này được thu nhập từ nhiều tài liệu trước nữa. Trong quyển
này, Đỗ Bá đã tả những quần đảo này rất chính xác, và xác nhận rằng Chúa Nguyễn
đã lập Đội Hoàng Sa để khai thác quần đảo từ thế kỷ XVII. Đoạn trích do sử gia
kiêm nhà Hán học Võ Long Tê dịch như sau:
“Tại
làng Kim Hộ, ở hai bên bờ sông có hai ngọn núi, mỗi ngọn có mỏ vàng do nhà nước
cai quản. Ngoài khơi, một quần đảo với những cồn cát dài, gọi là “Bãi Cát
Vàng”, dài khoảng 400 lý, và rộng 20 lý nhô lên từ dưới đáy biển, đối diện với
bờ biển từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Vinh. Vào mùa gió nồm Tây Nam , những
thương thuyền từ nhiều quốc gia đi gần bờ biển thường bị đắm dạt vào những đảo
này; đến mùa gió Đông Bắc, những thuyền đi ngoài khơi cũng bị đắm như thế. Tất
cả những người bị đắm trôi dạt vào đảo, đều bị chết đói. Nhiều hàng hoá tích
luỹ trên đảo.
Mỗi năm,
vào tháng cuối của mùa đông, Chúa Nguyễn đều cho một hạm đội gồm 18 thuyền đi
ra đảo để thu thập những hoá vật, đem về được một số lớn vàng, bạc, tiền tệ,
súng đạn. Từ cửa Đại Chiêm, ra tới đảo mất một ngày rưỡi, nếu đi từ Sa Kỳ thì
chỉ mất nửa ngày.”[6]
Theo sử
gia Võ Long Tê, mặc dù quyển sách của Đỗ Bá được viết vào thế kỷ XVII (vào năm
1686), đoạn thứ nhất của hai đoạn trên được trích từ phần thứ ba của
quyển Hồng Đức Bản Đồ - Hồng
Đức là tên hiệu của vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497).[7] Như
vậy, Việt Nam
đã khám phá hoặc biết tới những đảo này ít ra cũng từ thế kỷ XV. Danh từ Bãi Cát
Vàng chứng tỏ rằng những đảo này đã được những người Việt Nam ít học
nhưng hiểu biết nhiều về biển khám phá và khai thác, từ lâu trước khi chính
quyền Chúa Nguyễn tổ chức khai thác đảo. Dân Việt Nam đã sinh sống ở đó từ nhiều thế
kỷ, và chính quyền nhà Nguyễn từ thế kỷ XVII đã biết tổ chức khai thác đảo có
hệ thống. Những yếu tố này, nhất là sự khai thác của nhà nước từ thế kỷ XVII
qua rất nhiều năm, đã tạo nên từ thời đó một chủ quyền lịch sử cho Việt Nam trên những
đảo này.
1.2.2.
Hành xử chủ quyền trong thế kỷ XVIII: Quyển Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn
Lê Quý
Đôn là quan dưới thời nhà Lê, phụ trách vùng Thuận Hoá, Quảng Nam . Ông đã
viết Phủ biên tạp lục vào
năm 1776, tại Quảng Nam ,
nên đã sử dụng được rất nhiều tài liệu của chính quyền các Chúa Nguyễn để lại.[8] Đoạn
sau đây nói về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
“… Phủ
Quảng Ngãi, ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn có núi gọi là cù lao
Ré, rộng hơn 30 dặm, trước có phường Tứ Chính, dân cư trồng đậu ra biển bốn
canh thì đến; phía ngoài nữa, lại có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều hải
vật và những hoá vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi ba ngày đêm thì mới
đến, là chỗ gần Bắc Hải”.[9]
Một đoạn
rất dài khác cũng trong Phủ biên tạp lục nhưng cần phải trích dẫn vì nó cung
cấp nhiều chi tiết quan trọng liên quan đến cách Chúa Nguyễn tổ chức khai thác
hai quần đảo một cách hệ thống:
… Phủ
Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh, ở gần biển, ngoài biển về phía Đông
Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ
hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có
suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng
lớn, nước trong suốt đáy. Trên đảo có vô số yến sào; các thứ chim có hàng ngàn,
hàng vạn, thấy người thì đậu vòng quanh không tránh. Trên bãi vật lạ rất nhiều.
Ốc vân thì có ốc tai voi to như chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay,
sắc đục, không như ngọc trai, cái vỏ có thể đẽo làm tấm bài được, lại có thể
nung vôi xây nhà; có ốc xà cừ, để khảm đồ dùng; lại có ốc hương. Các thứ ốc đều
có thể muối và nấu ăn được. Đồi mồi thì rất lớn. Có con hải ba, tục gọi là
Trắng bông, giống đồi mồi nhưng nhỏ hơn, vỏ mỏng có thể khảm đồ dùng, trứng
bằng đầu ngón tay cái, muối ăn được. Có hải sâm tục gọi là con đột đột, bơi lội
ở bến bãi, lấy về dùng vôi sát quan, bỏ ruột phơi khô, lúc ăn thì ngâm nước cua
đồng, cạo sạch đi, nấu với tôm và thịt lợn càng tốt.
Các
thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng
Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận
giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra
biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được
hoá vật của tầu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng sứ, đồ chiên, cùng
là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng
tám thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong mới
cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về. Lượm
được nhiều ít không nhất định, cũng có khi về người không. Tôi đã xem sổ của
cai đội cũ là Thuyên Đức Hầu biên rằng: Năm Nhâm Ngọ lượm được 30 hốt bạc; năm
Giáp Thân được 5.100 cân thiếc; năm Ất Dậu được 126 hốt bạc; từ năm Kỷ Sửu đến
năm Quý Tỵ năm năm ấy mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba. Cũng có năm
được thiếc khôi, bát sứ và hai khẩu súng đồng mà thôi.
Họ
Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Thứ
Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy
sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các
xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm vật của tầu và các
thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản.
Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy được”.[10]
Đoạn này
cho thấy việc khai thác hai quần đảo của Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải kéo dài từ
thế kỷ XVII sang đến cuối thế kỷ XVIII. Hoạt động của hai đội này được tổ chức
có hệ thống, đều đều mỗi năm ra đảo công tác 8 tháng. Các thuỷ thủ do nhà nước
tuyển dụng, hưởng bổng lộc của nhà nước, giấy phép và lệnh ra công tác do nhà
nước cấp.
Các bộ
sử như Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam thực lục tiền biên,
Đại Nam nhất thống chí, Hoàng Việt địa dư chí, đều có đoạn ghi các Chúa
Nguyễn tổ chức khai thác hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và cả các đảo khác
nữa: Đội Thanh Châu phụ trách các đảo ngoài khơi Quy Nhơn lấy tổ chim yến, Đội
Hải Môn hoạt động ở các đảo Phú Quý, Đội Hoàng Sa chuyên ra quần đảo Hoàng Sa,
sau đó lại tổ chức Đội Bắc Hải thuộc đội Hoàng Sa nhưng phụ trách các đảo xa ở
phía Nam trong đó có quần đảo Trường Sa, đảo Côn Lôn và các đảo nằm trong vùng
vịnh Thái Lan thuộc chủ quyền của Việt Nam.[11]
Đặc biệt
là bộ Lịch triều hiến chương loại chí: Dư địa chí của Phan Huy Chú (1782 – 1840). Phan
Huy Chú và các tác phẩm của ông được Gaspardone nghiên cứu. Bộ sử này viết vào
đầu thế kỷ XIX và gồm 49 quyển nằm ở École Fransaise d’Extrême Orient.[12]
1.2.3.
Chính thức chiếm hữu và hành xử chủ quyền trong thế kỷ XIX
Chủ
quyền được tiếp tục hành xử qua thế kỷ XIX, dưới thời nhà Nguyễn (là thời đại
kế vị chính quyền các Chúa Nguyễn).
Vị vua
đầu tiên của nhà Nguyễn, Vua Gia Long, đã củng cố thêm quyền lịch sử của Việt Nam bằng cách
chính thức chiếm hữu hai quần đảo. Năm 1816, Vua đã ra lệnh cho Đội Hoàng Sa và
hải quân của triều đình ra thăm dò, đo thuỷ lộ, và cắm cờ trên quần đảo Hoàng
Sa để biểu tượng cho chủ quyền của Việt Nam . Đoạn sau đây của bộ Việt
Nam
thực lục chính biên chứng
minh điều này:
“Năm
Bính Tý, năm thứ 15 đời Vua Gia Long (1816)
Ra lệnh
cho lực lượng hải quân và đội Hoàng Sa đổ bộ lên quần đảo Hoàng Sa để thanh tra
và khám xét thuỷ trình.”
Sự chiếm
hữu hai quần đảo theo lệnh của Vua Gia Long cũng được chứng nhận bởi các tài
liệu của phương Tây.
Bài của
M.A. Dubois de Jancigny viết như sau:
“… Từ
hơn 34 năm, Quần đảo Paracel, mang tên là Cát Vàng hay Hoàng Sa, là một giải
đảo quanh co của nhiều đảo chìm và nổi, quả là rất đáng sợ cho các nhà hàng
hải, đã do những người Nam Kỳ chiếm giữ. Chúng tôi không biết rằng họ có xây
dựng cơ sở của mình hay không, nhưng chắc chắn rằng vua Gia Long đã quyết định
giữ nơi này cho triều đại mình, vì rằng chính ông đã thấy được rằng tự mình
phải đến đấy chiếm lấy và năm 1816 nhà vua đã trịnh trọng cắm ở đây lá cờ của
Nam Kỳ”.[13]
Một bài
khác của Jean Baptiste Chaigneau cũng ghi nhận điều trên:
“Nam Kỳ,
mà nhà vua hiện nay là hoàng đế bao gồm bản thân xứ Nam Kỳ, xứ Bắc Kỳ, một phần
của Vương quốc Campuchia, một số đảo có người ở không xa bờ biển và quần đảo
Paracel gồm những bá đá ngầm, đá nổi không có người ở. Chỉ đến năm 1816 hoàng
đế hiện nay mới chiếm lĩnh những đảo ấy.”[14]
Năm
1833, vua Minh Mệnh cho đặt bia đá trên quần đảo Hoàng Sa và xây chùa. Vua cũng
ra lệnh trồng cây và cột trên đảo. Bộ Đại Nam thực lục chính biên, quyển
thứ 104, viết như sau:
“Tháng
tám mùa thu năm Quý Tỵ, Minh Mệnh thứ 14 (1833)… Vua bảo Bộ Công rằng: Trong
hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một mầu, không
phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường (mắc cạn) bị hại. Nay
nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và
trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết ngõ
hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời”.[15]
Năm sau,
Vua Minh Mệnh ra lệnh cho Đội Hoàng Sa ra đảo lấy kích thước để vẽ bản đồ.
Quyển Đại Nam
thực lục chính biên (1834),
quyển thứ 122 ghi nhận điều này:
“Năm
Giáp Ngọ, thứ 15, đời Minh Mệnh:
… Vua
truyền lệnh cho Đội trưởng Trương Phúc Sĩ và khoảng trên 20 thuỷ thủ ra quần
đảo Hoàng Sa để vẽ bản đồ…”.[16]
Đến năm
1835 thì lệnh xây miếu, dựng bia đá được hoàn tất và được ghi nhận trong
quyển Đại Nam
thực lục chính biên, quyển thứ 154:
“Tháng
sáu mùa hạ năm Ất Mùi, Minh Mệnh thứ 16 (1835)… Dựng đền thờ thần (ở đảo) Hoàng
Sa thuộc Quảng Ngãi. Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn cát
trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có giếng, phía Tây Nam có miếu cổ,
có tấm bài khắc 4 chữ: “Vạn Lý Ba Bình” (1). Còn Bạch Sa chu vi 1.070 trượng,
tên cũ là Phật Tự Sơn, bờ đông, tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn quanh
mặt nước. Phía bắc, giáp với một cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi
340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát, gọi là Bàn Than Thạch. Năm
ngoái vua toan dựng miếu lập bia ở chỗ ấy, nhưng vì sóng gió không làm được.
Đến đây mới sai cai đội thuỷ quân Phạm Văn Nguyên đem lính và Giám thành cùng
phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu
(cách toà miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu xây bình
phong. Mười ngày làm xong, rồi về”.[17]
Đoạn sau
đây của cùng bộ sách, cho thấy vua nhà Nguyễn không những quan tâm đến việc
khai thác đảo mà còn nhận thức được vị trí chiến lược của hai quần đảo, xem
chúng như là lãnh thổ biên phòng của Việt Nam và tổ chức cả một chương trình
dài hạn để củng cố biên cương đó – theo Đại Nam thực lục chính biên,
quyển thứ 165:
“Năm
Bính Thân, niên hiệu Minh Mệnh thứ 17 (1836), mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng
1…
Bộ Công
tâu: Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia, đã
phái vẽ bản đồ mà hình thể nó xa rộng, mới chỉ được một nơi, cũng chưa rõ ràng.
Hàng năm, nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Từ năm nay trở
về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, xin phái thuỷ quân và vệ Giám thành đáp
một chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, bắt hai tỉnh
Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng
Sa, không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào; khi thuyền đi đến, cũng xét xem
xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi, và nước biển xung
quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị
thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại xét ngày khởi hành, từ cửa
biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào đường đi, tính
ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ biển, đối thẳng vào là tỉnh
hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào,
cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về dâng trình”.
“Vua y
lời tâu, phái suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi, chuẩn cho
mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi (mỗi bài gỗ dài 5 thước,
rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ “Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân,
thuỷ quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông
nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ”.[18]
Sau đó,
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được vẽ trên bản đồ của triều đình Vua Minh
Mệnh. Những đoạn trên đây cho thấy chủ quyền lịch sử của Việt Nam đã tiếp tục
được hành xử bởi các vua nhà Nguyễn. Đội Hoàng Sa và Bắc Hải được trao thêm
nhiều nhiệm vụ: tuần tiễu, đi lấy kích thước đảo để vẽ bản đồ, thăm dò địa hải,
vẽ thuỷ trình,… Những Đội này cũng có nhiệm vụ thu thuế những người tạm sống
trên đảo[19].
Hai đội
Hoàng Sa và Bắc Hải hoạt động cho đến khi Pháp xâm lược Việt Nam . Ít nhất từ
thế kỷ XVII (và có thể từ thế kỷ XV hoặc trước nữa), từ thời Chúa Nguyễn, trải
qua các triều đại vua nhà Nguyễn, trong 3 thế kỷ, hai đội này đã có nhiều hoạt
động khai thác, quản trị và biên phòng đối với hai quần đảo. Đây là những hoạt
động của nhà nước, do nhà nước tổ chức. Những hoạt động này kéo dài suốt 300
năm không có một lời phản đối của Trung Hoa thời đó. Nhà Nguyễn cũng ý thức
được trách nhiệm quốc tế của mình từ thời đó và cho trồng cây trên đảo để các
thuyền bè khỏi bị đắm và mắc cạn. Rõ ràng đây là những sự hành xử chủ quyền của
một quốc gia trên lãnh thổ của mình. Như vậy, chủ quyền của Việt Nam được
thụ đắc qua hai phương pháp phối hợp nhau: (1) quyền lịch sử bắt nguồn từ sự sử
dụng và chiếm hữu lâu đời một lãnh thổ vô chủ dưới thời các Chúa Nguyễn, thế kỷ
XVII và XVIII (consolidation par titre historique), và (2) chủ quyền
bắt nguồn từ sự chính thức chiếm hữu và hành xử chủ quyền một cách liên tục
dưới thời các vua nhà Nguyễn, thế kỷ XIX (prise de possession, occupation
et effectivité). Thực ra việc thụ đắc bằng phương pháp (1) cũng đã đủ để
tạo chủ quyền cho Việt Nam ,
và như vậy, Việt Nam
đã có chủ quyền lịch sử từ thế kỷ XVII. Quyền này lại được củng cố thêm khi các
vua nhà Nguyễn chính thức chiếm hữu đảo. Đội Hoàng Sa và Bắc Hải không hiện
diện thường xuyên trên đảo vì điều kiện sinh sống ở các đảo không cho phép. Tuy
nhiên, lệ án quốc tế đã mềm dẻo đối với những nơi này luật không bắt buộc phải
có một sự hiện diện thường xuyên của quốc gia chiếm hữu. Trong vụ án
Clipperton, Pháp chỉ cho tàu chiến thanh tra đảo, mà không đặt một cơ quan công
quyền nào hiện diện thường xuyên tại đảo. Trọng tài Quốc tế đã cho rằng như vậy
cũng đủ để hành xử chủ quyền, vì điều kiện ở đảo không cho phép sống thường
xuyên trên đó.[20] Trong
trường hợp Việt Nam, mặc dù không ở lại đảo thường xuyên, hai Đội Hoàng Sa và
Bắc Hải cũng sống ở đó 8 tháng mỗi năm đến khi gió nồm bắt đầu thổi, tức là mùa
bão biển tới, họ mới trở về đất liền 4 tháng, và đến tháng giêng lại trở ra các
đảo đóng ỏ đó 8 tháng và hàng năm đều như vậy. Với hoàn cảnh thời đó, thuyền
của các quốc gia khác, kể cả thuyển của Trung Hoa đều sợ không dám đến đảo,
trong khi Việt Nam cho quân đến đóng ở các đảo 8 tháng mỗi năm. Như vậy, đã
vượt tiêu chuẩn ấn định bởi vụ án Clipperton, và quá đủ để xem như Việt Nam đã chiếm
hữu hai quần đảo từ thời các Chúa Nguyễn (thế kỷ XVII).
1.2.4.
Trung Quốc nói rằng những đảo trong bản đồ của Việt Nam (Đại Nam nhất thống
toàn đồ), không phải là Xisha (đảo Cồn cát Tây) và Nansha (đảo Cồn cát Nam) của
Trung Quốc vì bản đồ cho thấy những đảo gần bờ biển quá.[21]
Phải nói
rằng kỹ thuật đo lường, kỹ thuật vẽ bản đồ, ý niệm về khoảng cách và thời gian
ngày xưa không phải như ngày nay. Chính những tác giả Trung Quốc đã khẳng định
điều đó.[22] Vấn
đề xác định những đảo tranh chấp không phải là mới mẻ, vì nó đã được đặt ra
trong nhiều bản án.[23] Vấn
đề này cũng được đặt ra đối với lập luận của Trung Quốc ở mục 1.3. của bài này.
Dù sao, trong trường hợp Việt Nam, chỉ cần nhìn bản đồ cũng thấy rằng không có
sự nhầm lẫn giữa Hoàng Sa, Trường Sa và các đảo ở ven biển, khi bản đồ được vẽ,
vì những đảo ven bở biển như đảo Ré cũng đều được vẽ trên bản đồ, những đảo này
đã được vẽ sát dọc theo bờ biển. Mà trên thực tế, giữa những đảo ven bờ biển và
Hoàng Sa, Trường Sa, không có đảo hoặc quần đảo nào khác. Từ đó, chúng ta có
thể kết luận rằng những quần đảo mà bản đồ Việt Nam ghi là Hoàng Sa và Vạn Lý
Trường Sa chính là Hoàng Sa và Trường Sa. Phương pháp suy diễn này đã được áp
dụng trong bản án Palmas. Người vẽ bản đồ chỉ không có ý niệm xác thực về
khoảng cách không gian và tỷ lệ phải áp dụng khi chuyển nó lên mặt giấy để vẽ
bản đồ, nên vẽ khoảng cách ngắn hơn thực tế. Ngay cả khoảng cách giữa hai quần
đảo Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa cũng bị rút ngắn lại, khiến cho thoạt nhìn,
người ta có thể tưởng rằng đây chỉ là một quần đảo. Tuy nhiên, nhiều điều rút
từ những ghi chép trong sách sử Việt Nam , và từ những bản đồ thời đó, đã
chứng minh đó không phải chỉ là một quần đảo Hoàng Sa:
(1) Trên
bản đồ Đại Nam
nhất thống toàn đồ có ghi
tên hai đảo rõ rệt vẽ bằng chữ nho: Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa.
(2) Các
sách sử địa của Việt Nam
có nói đến 130 đảo. Con số này không phù hợp với số đảo thuộc quần đảo Hoàng
Sa, hoặc quần đảo Trường Sa tính riêng. Nhưng nếu cộng số đảo của hai quần đảo
lại thì con số vừa đúng là 130.[24]
(3) Nếu
so sánh bản Đại Nam nhất thống toàn đồ (Bản đồ 1), bản đồ phóng đại của quần
đảo này trích từ Đại Nam nhất thống toàn đồ (Bản đồ 2), bản đồ The Times
Atlas of the World (ghi tắt
là Atlas, Bản đồ 3 và 6), bản đồ phóng to hiện thời của dãy Hoàng Sa (Bản đồ
4), và bản đồ của dãy Trường Sa (Bản đồ 7), thì sẽ thấy như sau:
· Hình
dạng của dãy quần đảo trên Bản đồ 1 không phù hợp với hình dạng của quần đảo
Hoàng Sa nói riêng. Hình dạng của quần đảo của Hoàng Sa là theo hình vòng tròn,
nó gồm hai cụm đảo chính là cụm Crescent hình dạng đúng như cái tên của nó, tức
là các đảo nằm cụm vào nhau theo hình lưỡi liềm. Phía sau cụm Crescent (Lưỡi
Liềm) là cụm Amphitrite (An Vĩnh), xếp theo hình vòng cung. Ngoài ra có vài đảo
rải rác quanh đó, nằm theo hình vòng tròn vây quanh hai cụm đảo chính, chứ
không phải hình dài (xem Bản đồ 3 và 4). Trong khi đó, nếu nhìn vào Bản đồ 2,
ta sẽ thấy một quần đảo theo hình chuỗi trải dài xuống và bị thóp lại ở giữa,
hoàn toàn không phải là hình cụm như quần đảo Hoàng Sa. Phần trên của chuỗi
này, được xếp theo cụm giống như Hoàng Sa (xem đoạn từ A tới B trên bản đồ, do
tác giả kẻ cho dễ thấy). Nhưng nửa dưới của chuỗi đảo mang một hình dạng xuôi
dài xuống (đoạn kẻ từ B tới C), không giống một phần nào của quần đảo Hoàng Sa
như ta thấy trên Bản đồ 3 hoặc Bản đồ 4. Phần này chắc chắn không phải là Hoàng
Sa. Theo Bản đồ 6 thì giữa quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa không có một
quần đảo nào khác cả, mà quần đảo hình chuỗi dài xuống thì lại càng không có.
Như vậy phần dưới của chuỗi đảo được vẽ trên Bản đồ 2 không thể là quần đảo nào
khác hơn là Trường Sa. Mỗi phần lại có một tên riêng viết bằng chữ nho: “Hoàng
Sa” và “Vạn Lý Trường Sa”. Điều này chứng minh Đại Nam nhất thống toàn đồ phân biệt rõ
ràng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
·
Bản Đại Nam nhất
thống toàn đồ (Bản đồ 1) cho
thấy chuỗi đảo kéo dài suốt từ Quảng Nam đến tận Cam Ranh, đảo thấp nhất
trên bản đồ nằm ngoài khơi Cam Ranh và Khánh Hoà. Trong khi đó quần đảo Hoàng
Sa trên bản đồ Atlasnằm ngoài khơi tỉnh Quảng Nam , đảo thấp nhất của nó theo hướng tây nam là
đảo Triton (đảo Tri Tôn) nằm song song với tỉnh Quảng Nam . Trên Bản
đồ 2, đảo thấp nhất phía tây của cụm đảo A-B nằm ngang với cửa Đại Cát (trong
sách của Đỗ Bá gọi là Đại Chiêm), mà Đại Cát vị trí ngang với Quảng Nam . Như vậy,
đảo nói trên là đảo Triton (gạch chữ X trên Bản đồ 2, do tác giả ghi). Và như
thế thì làm sao cắt nghĩa được đoạn dưới của chuỗi đảo trên Đại Nam nhất thống
toàn đồ, là đoạn bắt đầu từ Quảng Nghĩa (Quảng Ngãi trên bản đồ Atlas)
đến vịnh Cam Ranh? Đảo Hoàng Sa không kéo dài xuống tới Khánh Hoà hoặc vịnh Cam
Ranh. Nếu nhìn vảo bản đồ Atlas, ta sẽ thấy song song với tỉnh
Phan Rang, gần vịnh Cam Ranh (xem Bản đồ 6), là đảo Thitu (đảo Thị Tứ) của dãy
Trường Sa: Northeast Cay (đảo Song Tử Đông), Southeast Cay (đảo Song Tử Tây),
South Reef (đá Nam), và West York Island (đảo Dừa), đều nằm ngoài khơi, ngang
với khoảng cách từ Khánh Hoà tới Cam Ranh (xem Bản đồ 7).
· Nhìn
vào bản đồ của Đại Nam
nhất thống toàn đồ (Bản đồ
1), có thể có 4 giả thuyết:
a) Đội
Hoàng Sa và Bắc Hải không biết đến Trường Sa và các tác giả chỉ vẽ Hoàng Sa mà
thôi.
b ) Đội Hoàng Sa và Bắc Hải đã hoạt động ở cả quần đảo Hoàng Sa và toàn thể quần đảo Trường Sa, và tác giả của bản đồ muốn vẽ cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng vì kỹ thuật kém, nên toàn khối Trường Sa gần với Hoàng Sa hơn ngoài thực tế.
b ) Đội Hoàng Sa và Bắc Hải đã hoạt động ở cả quần đảo Hoàng Sa và toàn thể quần đảo Trường Sa, và tác giả của bản đồ muốn vẽ cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng vì kỹ thuật kém, nên toàn khối Trường Sa gần với Hoàng Sa hơn ngoài thực tế.
c) Đội
Hoàng Sa và Bắc Hải chỉ hoạt động và thám thính các đảo phía bắc của dãy Trường
Sa, tức Northeast Cay, Southeast Cay, South Reef và Thitu; và người vẽ bản đồ,
vì kỹ thuật kém nên vẽ các đảo đó gần với quần đảo Hoàng Sa.
d) Đội
Hoàng Sa và Bắc Hải đã hoạt động ở những đảo nói trên của quần đảo Trường Sa và
cả dãy đảo phía dưới các đảo này tức Xubi Reef (đá Subi), Loaita Island (đảo
Loai Ta), Itu Aba Island (đảo Ba Bình), Great Discovery Reef (đá Lớn), Spratly
Island (đảo Trường Sa), … nhưng vì kỹ thuật kém, nên vẽ dãy đảo này gần với
quần đảo Hoàng Sa. Dựa vào những dữ kiện vừa nêu, thì giả thuyết thứ nhất
(a) đáng loại bỏ trước tiên, vì số đảo, hình dạng của quần đảo Hoàng Sa, địa
điểm của nó so với những tỉnh trong đất liền, tất cả những chi tiết này như
được vẽ trên Bản đồ 1 và 2 không ăn khớp với thực tế trên Bản đồ 3 và 4. Chúng
ta cũng không nghĩ rằng tác giả bản Đại Nam nhất thống toàn đồ có thể vì kỹ thuật kém nên kéo dài
Hoàng Sa xuống tận Cam Ranh. Vì Đại Nam thư lục chính biên, quyển
165, có nói rõ một trong những mục đích của những chuyến công tác của Đội Hoàng
Sa và Bắc Hải là gạch lộ trình để ra mỗi đảo, và ấn định rõ vị trí của mỗi đảo
so với mỗi tỉnh ngang với nó trong đất liền. “Phải ấn định rõ cửa khẩunào
đưa ra mỗi đảo. Mỗi lộ trình phải được ước lượng bằng “dặm”.[25] Như
vậy, tác giả của bản đồ này không thể nào nhầm lẫn mà ấn định đảo cuối của dãy
Hoàng Sa nằm ngang với Cam Ranh. Giả thuyết thứ ba © không giải thích được hình
dạng của chuỗi đảo trên bản đồ 1. Giả thuyết thứ hai ( c) và thứ tư (d) có lẽ
sát sự thực vì nó giải thích được hình dạng của chuỗi đảo trên Bản đồ 1, vị trí
của đảo ngang với vùng Khánh Hoà, Cam Ranh. Hình chuỗi nằm xuôi dài xuống của
các đảo ở đoạn CD, khiến chúng ta nghiêng về giả thuyết thứ tư (d) hơn. Tuy
nhiên, giả thuyết thứ ba © cũng có thể áp dụng được nếu cho rằng Đội Hoàng Sa
và Bắc Hải đã biết toàn thể hoặc đa số các đảo trên dãy Trường Sa, nhưng khi
đưa lên bản đồ chỉ vẽ được một số đảo ở phía Tây mà thôi. Như vậy, sẽ ăn khớp
với số đảo là 130 đã được ghi trong những sách sử nói trên. Vả lại, Đại
Nam
thực lục chính biên cũng có
nói trong tờ trình của Bộ Công, là quần đảo rất rộng nên chỉ vẽ được một số đảo
giới hạn. Tờ trình cũng công nhận là bản đồ vẽ không được chính xác.
“Quần
đảo Hoàng Sa, biên giới biển của nước ta, là một địa điểm chiến lược rất quan
trọng… Những đoàn công tác đã được phái đi để lấy kích thước vẽ bản đồ, nhưng
vì quần đảo quá rộng, nên chỉ mới vẽ được một đảo trên bản đồ, mà
cũng không được chính xác và chi tiết như mong muốn…”. Vì vậy, tờ trình của
Bộ Công đã đề nghị Vua cho công tác ra các đảo mỗi năm: “Ta nên gửi đoàn công
tác ra mỗi năm để thám sát toàn diện quần đảo…”.[26]
Bản đồ
vẽ quần đảo Trường Sa gần với quần đảo Hoàng Sa hơn trong thực tế chỉ vì kỹ
thuật thời đó còn kém, không biết tỷ lệ đưa lên giấy. Bản đồ của Trung Hoa và
của phương Tây thời đó cũng mang khuyết điểm này. Hơn nữa, vị trí của hai quần
đảo nằm trên cùng một kinh tuyến 111°;[27] quần
đảo Trường Sa nằm hơi nhích sang phía đông nam, nên trên thực tế cũng không xa
nhau lắm, và vì thời đó người ta không có được ý niệm chính xác về kích thước
và tỷ lệ phải tuân theo khi vẽ bản đồ, thì có khuynh hướng vẽ hai quần đảo gần
nhau hơn thực tế, cũng dễ hiểu. Dù sao, giả thuyết thứ hai ( b ) thứ ba © hoặc
thứ tư (d) cũng đều chứng minh được Việt Nam ít ra cũng có hành xử chủ quyền
trên quần đảo Trường Sa.
Những
bản đồ của phương Tây thời xưa cũng không phân biệt được quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa nên đã vẽ cả hai thành một khối gọi là Hoàng Sa. Thí dụ, bản
đồ của anh em Van Langren, 1595, bản đồ Les établissement et point de
penetration européen en Extrême Orient au 18è siècle (Bản đồ 8 và 9).
Bản
đồ 10
Đại Việt
đời Hồng Đức
(Bản vẽ
lại cho dễ đọc các địa danh)
( VÌ KHÔNG TÌM ĐƯỢC ĐƯỜNG LINE GỐC NÊN PHẦN HÌNH ẢNH KHÔNG LOAD ĐƯỢC. XIN CÁC BẠN THÔNG CẢM)
Bản
đồ 11
Đại Việt
Quốc Tổng Lãm Đồ (Lê Trung Hưng)
Trước
thời Minh Mạng, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng được xem như một quần
đảo, nên gọi hai quần đảo là Hoàng Sa, có khi gọi là Vạn Lý Trường Sa. Nhưng
sau khi các đoàn công tác được Vua Minh Mạng ra lệnh lấy kích thước và thám sát
cả hai quần đảo, thì bản đồ được vẽ sau đó (tức bản Đại Nam nhất thống
toàn đồ), mới ghi rõ ràng hai tên khác nhau cho hai quần đảo. Nếu trên Bản
đồ 2, chúng ta lấy bút khoanh cụm đảo ở đoạn A-B lại, và cũng khoanh chuỗi đảo
ở đoạn B-C lại, thì ta sẽ thấy hai quần đảo riêng rẽ, với hai cái tên riêng rẽ
(xem Bản đồ 5).
Do đó,
ta có thể kết luận rằng Việt Nam
đã hành xử chủ quyền trên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì vậy mới có
sự hiện diện của Đội Bắc Hải được cử đi khai thác và quản lý những đảo Trường
Sa, Côn Lôn, vùng Hà Tiên,… (thể theo quyển Phủ Biên tạp lục, quyển 2). Người
ta có thể thắc mắc tại sao Đội Bắc Hải đảm trách Trường Sa, Côn Lôn, Hà Tiên,
là những vùng phía Nam, mà lại gọi là Bắc Hải. Sử gia Võ Long Tê có giải thích
rằng Bắc Hải theo nghĩa chữ nho cũng có thể là “xa xôi”. Như vậy “Bắc Hải” có
thể hiểu là vùng biển xa xăm.[28] Nghĩa
thứ hai mà ta có thể giải thích là Đội Bắc Hải kiêm trách cả vùng biển miền Bắc
lẫn những đảo ở phía Nam .
Vì quyển Phủ Biên tạp lụccó ghi rằng Đội Bắc Hải hoạt động ở “…
vùng Biển Bắc, những đảo Côn Lôn, Cù Lao, vùng Hà Tiên và Cồn Tự…”.[29] Nếu
theo giả thuyết trên thì ta phải hiểu là hai Đội Hoàng Sa và Bắc Hải bổ túc cho
nhau chứ không có sự phân chia vùng hoạt động giữa hai Đội. Theo như ghi chép
trong Phủ Biên tạp lục thì
sự phân chia giữa hai Đội là ở sản vật được khai thác: Đội Bắc Hải gần như chỉ
thu thập các hải sản, còn Đội Hoàng Sa thu thập cả các hoá vật, vàng, bạc,… do
tàu đắm để lại. Thêm một nhận xét nữa là: Trường Sa nằm ở gần đảo Côn Lôn nên
không lẽ thời đó, Đội Bắc Hải hoặc dân đánh cá Việt Nam từ trước nữa đã khám
phá và khai thác đảo Côn Lôn mà lại không hề biết đến đảo Trường Sa. Nhất là
tàu thuyền của Việt Nam
thời đó là một lực lượng hùng mạnh khiến nhiều nhà thám hiểm phương Tây phải
xác nhận điều đó. Thí dụ, ông Gentil de la Barbinais đã viết trong quyển Nouveau
voyage autour du monde (xuất
bản vào năm 1738) như sau: “Quoique jusqu’ici les Cochinchinois, aient attaqué
ou se soient défendus par terre, les emplois de I’armée navale sont plus
recherchés, comme étant les plus honorifiques. Le Roi de Cochinchine entretient
150 galères. À la dernière revue des galères, qui se fit en 1678, il y avait
131 galères…”[30] (Có
thể dịch là: “Mặc dù dân Việt Nam
đến bây giờ vẫn tấn công hoặc phòng thủ trên đất liền, việc sử dụng lực lượng
hải quân của họ tinh vi hơn, và có thể nói là xuất sắc nhất. Vua Việt Nam có 150
chiến thuyền. Nhân cuộc biểu trương chiến thuyền gần nhất, được tổ chức vào năm
1678, có tới 131 chiến thuyền…”).
1.3. Chủ quyền lịch sử viện dẫn bởi Trung Quốc
Trung
Quốc cũng viện dẫn quyền khám phá và sự hành xử chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
1.3.1.
Quyền khám phá
Trung
Quốc đã khẳng định rằng mình đã khám phá ra hai quần đảo tranh chấp từ đời nhà
Hán, năm 206 trước Công nguyên. Tuy nhiên, có tác giả Trung Hoa lại xác định là
những tài liệu sớm nhất ghi chép sinh hoạt của người Trung Hoa trên những đảo
này, thuộc đời nhà Tống (thế kỷ XIII).[31] Trung
Quốc đã viện dẫn nhiều đoạn trích từ sách sử địa của mình. Nhưng thực tế cho
thấy các đoạn do Trung Quốc đưa ra, chỉ tả hai quần đảo như những gì nằm trong
lộ trình đi ngang Biển Đông mà thôi. Ngoài ra, các đoạn được viện dẫn trước thế
kỷ XIII cũng không nói đến đảo nào, mà chỉ nói đến biển Nam Hải. Những đoạn
sách viết từ thế kỷ XIII mới bắt đầu nêu tên đảo, nhưng không có đoạn nào nói
tới Xisha và Nansha. Nhiều điểm từ những đoạn được nêu ra, còn cho thấy rõ ràng
Wanlishitang (Vạn Lý Thạch Sành) mà Trung Quốc nói là Nansha thực tế không phải
là Nansha mà là đảo khác.
a) Sách
sử trước thế kỷ XIII·
Quyển Dị
vật chí thời Hán (Yi Wu
Zhi), viết như sau:[32]
“Có
những đảo nhỏ, cồn cát, đá ngầm, và băng cát tại Nam Hải, nơi đó nước cạn và
đầy đá nam châm…”. Những câu tả này rất mơ hồ, chỉ viết “có những đảo nhỏ”, mà
không nói rõ đảo nào.
·
Quyển Zuo Zhuan viết
từ thời Xuân Thu, ghi như sau:[33]
“Triều
đại vẻ vang của nhà Chu trấn an dân man di để
viễn chinh vùng Nam Hải (đảo) để làm sở hữu của Trung Hoa…”
Chữ
“đảo” là do tác giả Jian-Ming Shen thêm vào trong dấu ngoặc để ám chỉ rằng “Nam
Hải” có nghĩa là “những đảo ở vùng Nam Hải”. Bản văn bằng tiếng Trung Hoa chỉ
ghi “Nam Hải” chứ không phải “NamHaidao”.
b ) Sách
sử từ thế kỷ XIII
·
Quyển Chư Phiên Chí (thế
kỷ XIII) có ghi rằng: “Phía Đông Hải Nam là Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Thạch
Đường, và ngoài nữa là đại dương vô tận…”[34]
·
Quyển Hải Lục (On
the Sea), tác giả Hoàng Chung, xuất bản đời Minh, ghi rằng: “Vạn Lý Trường Sa
nằm ở Đông Nam của Vạn Lý Thạch Đường…”.[35]
· Ngay
cả những tài liệu sử thế kỷ XIX của Trung Hoa, đồng thời với sự chiếm hữu và
hành xử chủ quyền của các vua nhà Nguyễn tại Việt Nam, cũng chỉ tả những đảo
này như những gì tình cờ thấy, nằm trên lộ trình xuyên Biển Đông của các thuyền
Trung Hoa. Hơn thế nữa, có tài liệu còn mặc nhiên công nhận sự liên hệ của các
quần đảo đối với Việt Nam ,
nếu không muốn nói rằng nó công nhận những quần đảo này là biên phòng của An
Nam. Thí dụ quyển Hải Lụccủa Vương Bỉnh Nam (1820-1842)
viết:
“Lộ trình phía ngoài được nối liền với lộ trình phía trong bởi Vạn Lý Trường Sa nằm giữa biển. Chiều dài của quần đảo khoảng vài chục ngàn dặm. Nó là bức màn phòng thủ phía ngoài của An Nam”.[36]
Từ đó, ta có những nhận xét sau đây về những chứng cớ lịch sử về quyền khám phá của Trung Quốc:
Không có một quyển sách sử nào nói đến hai cái tên Xisha (Tây Sa) và Nansha (Nam Sa), và không có một quyển sách nào nói đến chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo này.[37] Những sách sử địa của Trung Quốc nhắc đến rất nhiều tên, nào là Qianli Chang sha, Wanlishitang, Quianlishitang, Jiuruluozhou, Qizhouyang, Zizhousan. Và bây giờ Trung Quốc nói rằng tất cả những tên đó đều ám chỉ Xisha và Nansha. Vì vậy, muốn xét đến những chứng cớ lịch sử này, thiết tưởng cần phải có những chuyên viên để nghiên cứu tại chỗ và khẳng định các tên này có đúng là Xisha và Nansha mà Trung Quốc nói tới hay không.
“Lộ trình phía ngoài được nối liền với lộ trình phía trong bởi Vạn Lý Trường Sa nằm giữa biển. Chiều dài của quần đảo khoảng vài chục ngàn dặm. Nó là bức màn phòng thủ phía ngoài của An Nam”.[36]
Từ đó, ta có những nhận xét sau đây về những chứng cớ lịch sử về quyền khám phá của Trung Quốc:
Không có một quyển sách sử nào nói đến hai cái tên Xisha (Tây Sa) và Nansha (Nam Sa), và không có một quyển sách nào nói đến chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo này.[37] Những sách sử địa của Trung Quốc nhắc đến rất nhiều tên, nào là Qianli Chang sha, Wanlishitang, Quianlishitang, Jiuruluozhou, Qizhouyang, Zizhousan. Và bây giờ Trung Quốc nói rằng tất cả những tên đó đều ám chỉ Xisha và Nansha. Vì vậy, muốn xét đến những chứng cớ lịch sử này, thiết tưởng cần phải có những chuyên viên để nghiên cứu tại chỗ và khẳng định các tên này có đúng là Xisha và Nansha mà Trung Quốc nói tới hay không.
1.3.2
Hành xử chủ quyền
Những dữ
kiện mà Trung Quốc và các tác giả Trung Hoa đưa ra để chứng minh mình hành xử chủ
quyền trên hai quần đảo gồm có: những cuộc thanh tra, những cuộc viễn chinh, và
những di vật đào bới được từ các đảo.
Thanh
tra và viễn chinh
Phần lớn
những bài viết về thanh tra và viễn chinh là sự khẳng định nhưng không có đoạn
sử nào được viện dẫn để chứng minh điều này.
*Trước
nhà Nguyên
Đoạn sau
đây được trích, không phải từ sách sử nào cả, mà từ kết luận của một viên chức
chính quyền Trung Quốc, giáo sư Wang Hengjie thuộc Trung tâm chuyên về các sắc
tộc thiểu số, vào năm 1991, dựa trên những di tích được đào bới trên đảo Xisha
để kết luận rằng nhà Chu đã có những cuộc viễn chinh trên quần đảo này:
“Chính
quyền nhà Chu thuộc thời Xuân Thu không những chinh phục những “dân man rợ” ở
phía Nam ,
mà cũng tổ chức những cuộc viễn chinh trên những đảo của biển Nam Hải để chiếm
làm đất Trung Hoa…”.[38]
Đây chỉ
là một kết luận của một viên chức nhà nước vào năm 1991, chứ không phải từ sách
sử khách quan. Nếu đã có những cuộc viễn chinh, và những hoạt động khác thì tại
sao lại không được ghi trong sách sử của Trung Hoa – tương đương với những ghi
chú trong sách sử của Việt Nam ?
Trung Hoa vẫn tự hào là xứ văn minh và các dân tộc khác là “man di” mà tại sao
không biết ghi những hoạt động của nhà nước vào sách sử của mình, nếu những
hoạt động đó có thực? Tác giả Shen viết rằng trong quyển Hậu Hán thư có ghi: Chen Mao được bổ nhiệm làm
quan Thái thú ở tỉnh Giao Chỉ (Jiaozchi) đã có những cuộc tuần tiễu và “thám
thính trên (các đảo của) biển Nam Hải”. Và ông ta đã ghi trong dấu ngoặc chữ
viết bằng tiếng Trung là “xing bu Zhanghai”.[39] Đoạn
này cho thấy không có chỗ nào nói đến Xisha và Nansha cả. Hơn nữa, chữ “đảo” là
do tác giả thêm vào trong dấu ngoặc, chứ bản viết tiếng Trung mà ông ta chêm
trong ngoặc kép (xing bu Zhanghai) không có chữ “đảo”, mà chỉ là thám thính
Zhanghai, tức là Nam Hải, mà thôi. Tác giả Shen cũng viết rằng quyển Nam
châu dị vật chí (Nanzhou
Yiwu Zhi) kể những thuỷ thủ nhà Hán đi viễn chinh từ bán đảo Malaixia trở về
Trung Hoa. Rồi ông trích câu trong Nam châu dị vật chí: “đi thuyền về
phía Đông Bắc, người ta gặp rất nhiều đảo nhỏ, đá ngầm, bãi cát ngầm, trở nên
rõ rệt tại biển Nam Hải, nơi đây nước cạn và có nhiều đá nam châm”.[40] Như
vậy, trong Nam
Châu dị vật chíkhông có chỗ nào nói đến viễn chinh trên đảo Xisha và
Nansha, hoặc tuần hành quanh đảo này, mà chỉ nói chung chung là họ đi thuyền
qua Biển Đông mà thôi, hoặc viễn chinh tại các vùng như Malaxia, Bornéo.
Chỗ
khác, tác giả Shen viết là chính quyền địa phương dưới triều đại nhà Tấn đã
hành xử chủ quyền trên đảo Xisha và Nansha bằng cách gửi tàu đi tuần tiễu trên
vùng biển quanh đó. Để chứng minh điều này, tác giả viện dẫn quyển Quảng
Đông tổng chí (General
Record of Quangdong) do Hao Yu-lin viết, có ghi là quan phụ trách những vấn đề
biển Nam Hải thời đó, có đi tuần tiễu và thám thính tại biển Nam Hải (xing bu
ru hai).[41] Ở
đây cũng như trên, tác giả Shen không trích thẳng đoạn nào trong quyểnQuảng
Đông tổng chí ghi lại sự
kiện trên, nên chúng ta không biết chính thức đoạn đó viết như thế nào.
Chỉ 4
chữ tiếng Trung được ghi trong dấu ngoặc là “xing bu ru hai”. Nếu đây là nguyên
văn trong sách sử, thì nó chỉ nói đến thám thính trên biển Nam Hải (nếu thật
tình là biển Nam Hải, vì chúng ta không biết đây có phải là biển Nam Hải không
hay là biển khác). Dù sự kiện đi tuần tiễu thám thính có thật đi chăng nữa thì
nó chỉ tổng quát tại biển mà Trung Quốc nói là biển Nam Hải, chứ không nói là
tuần tiễu quanh hai đảo Xisha và Nansha. Mà nếu sự thật là biển Nam Hải, thì nó
rộng mênh mông làm sao mà biết được họ có tuần tiễu quanh hai quần đảo Xisha và
Nansha hay không. Và nếu có, có phải là tuần tiễu để thanh tra đảo với tư cách
là chủ của đảo hay chỉ là tuần tiễu vùng biển nói chung? Nguyên văn quyển sách
mà tác giả Shen nói có thực sự viết đó là những cuộc tuần tiễu hay chỉ là đi
thuyền ngang qua đó mà thôi?
Chỗ
khác, tác giả Shen khẳng định là hai đảo được đặt dưới quyền quản trị của huyện
Qiongzhou (là Hải Nam bây giờ), nhưng không viện dẫn chứng cớ lịch sử nào cả,
mà footnote chỉ ghi
là tài liệu của một cơ quan chính quyền của Trung Quốc năm 1992.[42] Vả
lại, nếu Trung Hoa thời đó có sáp nhập hai quần đảo và đảo Hải Nam đi
nữa, thì sự sáp nhập không cũng không đủ để tạo nên chủ quyền theo tiêu chuẩn
của luật quốc tế. Trung Quốc cũng cho rằng những di vật tìm thấy trên các
đảo chứng minh rằng dân Trung Hoa đã sống ở đó. Những di tích lịch sử đào được
trên đảo Xisha như bình, đồ gốm, và các di vật khác từ những năm 420 cho đến
thời nhà Thanh, cho thấy từ thế kỷ thứ V, dân Trung Hoa đã sinh sống làm ăn
trên các đảo vùng biển Nam Hải.[43] Từ
đó Trung Quốc lập luận rằng vì dân Trung Quốc sinh sống ở đó, nên Trung Quốc có
chủ quyền. Tuy nhiên, luật quốc tế không chấp nhận chủ quyền trên một lãnh thổ
được thụ đắc vì có dân sống trên đảo. Trên đảo có rất nhiều loại dân sinh sống
tuỳ theo mùa, kể cả dân Việt Nam
chứ không phải chỉ có dân Trung Hoa và tư nhân không có quyền chiếm hữu lãnh
thổ.
*
Từ thời nhà Nguyên đến nay
Trung
Quốc viện dẫn rằng Trung Quốc gửi một nhà chiêm tinh học đến đảo để tham quan
và lấy kích thước đảo.[44]
- Những
cuộc viễn chinh được viện dẫn cho thời kỳ này thực ra là viễn chinh đến những
vùng khác như vùng Java chứ không phải tại Xisha hoặc Nansha.
- Đoạn
được viện dẫn để chứng minh cho những cuộc tuần tiễu và viễn chinh trên đảo
Xisha và Nansha, trích từ quyển Nguyên Sử (Yuan Shi) như sau:
“…
thuyền đi qua Qizhou Yang và Wanlishitang, ngang Jiaozhi (Giao Chỉ) và
Zhangcheng (Quy Nhơn),… họ đổ bộ lên những đảo như Hundun Dayang, đảo Ganlan,
Jialimada, và Julan, họ đóng ở đó và chặt cây để làm những thuyền nhỏ…”
Tác giả
giải thích Qizhou Yang và Wanlishitang là Xisha và Nansha, còn Jialimada là
Bornéo hiện nay[45]. Tuy nhiên, điểm này mâu thuẫn với đoạn
trích trong quyển Hải Lục: “Vạn Lý Trường Sa nằm ở Đông Nam của Vạn Lý
Thạch Đường”.[46] Dựa
vào câu trích dẫn trên trong quyển Hải Lục, nếu chấp nhận hai cái tên này ám
chỉ Nansha và Xisha, thì Vạn Lý Trường Sa phải là Nansha, còn Vạn Lý Thạch
Đường phải là Xisha. Thế nhưng, quyển Nguyên Sử nói trên thì lại được diễn giải Vạn Lý
Thạch Đường (Wanlishitang) tức là Nansha, và Qizhou Yang tức là Xisha. Rút cuộc
người đọc không biết đâu là Nansha, đâu là Xisha nữa. Nếu ráp hai câu trích dẫn
trên với câu trong quyển Chu Phan Chí đã được nêu ở đoạn trên: “Phía Đông Hải
Nam là Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Thạch Đường”, thì Vạn Lý Thạch Đường có thể
là Macclesfield Bank. Tác giả Marwyn Samuels cũng khẳng định như vậy (xem sách
của Marwyn Samuels, tr. 18 và 19, Reference Note 31). Một điểm khác có thể
chứng minh Wanlishitang thực ra là Macclesfield Bank là câu trích trên của
quyển Nguyên Sử: “… thuyền đi qua Qizhou Yang và Wanlishitang,
ngang Jiaozhi (Giao Chỉ) và Zhangcheng (Quy Nhơn),…”. Nếu theo thứ tự trước sau
trong lộ trình thì Wanlishitang không thể là Nansha, mà là Macclesfield Bank vì
thuyền không thể đi ngang Nansha trước khi đi ngang qua Giao Chỉ được. Hơn nữa,
đoạn này cho thấy thuyền chỉ đi qua Quizhou Yang và Wanlishitang, chứ không có
chỗ nào nói là tuần tiễu trên hai đảo Xisha và Nansha (nếu chấp nhận Qizhou
Yang và Wanlishitang là Xisha và Nansha).[47] Một
đoạn khác được viện dẫn từ quyển Đảo Di Chí Lược (Abridged Records of Islands and
Barbarians) của Wang DaYuan mà tác giả giới thiệu là một nhà hàng hải nổi tiếng
thời Nguyên: “Gốc của Shitang bắt nguồn từ Chaozhou. Nó ngoằn ngoèo như
một con rắn dài nằm trên biển, vắt ngang biển tới gần nhiều nước; nó được gọi
theo lối bình dân là: Wanlishitang. Theo sự ước đoán của tôi, nó dưới 10.000
lý… Ta có thể nhận định được những nhánh của nó. Một nhánh vươn tới vùng Java,
một nhánh Boni và Gulidimen, và một nhánh vươn tới phía tây của biển về phía Kunlun … Muốn an toàn thì nên tránh nó, vì đến gần rất
nguy hiểm.”[48] Cả
đoạn này cũng thế, không thấy nói là quân của Trung Hoa đi tuần tiễu quanh đảo
hoặc đi viễn chinh đổ bộ lên đảo. Ngược lại, quần đảo được tả như là một con
quái vật, có phần ghê gớm và đáng sợ, đáng tránh xa là đằng khác. Nếu tả một
lãnh thổ mà mình xem như sở hữu của mình thì không bao giờ văn lại xa lạ như
vậy cả. Trung Quốc cũng lập luận rằng dưới thời Minh, thế kỷ XV, nhà thám
hiểm Cheng Ho (Trịnh Hoà) đã đi xuyên Biển Đông 7 lần, và khi trở về đã đưa
Hoàng Sa và Trường Sa vào bản đồ.[49]
Tuy
nhiên, những chuyến đi này hoàn toàn không hề có sự chiếm hữu hai quần đảo nói
trên.[50]Những chuyến đi này không phải là viễn chinh
để chiếm hữu đất mà nhằm thám hiểm biển để biết địa hải, tìm mối giao thương,
và phô trương lực lượng với các quốc gia trong vùng, chư hầu của Trung Hoa.[51]
Tác giả
Samuels kết luận rằng ngay trong thời ấy các đảo vẫn không được Trung Hoa chú ý
tới.[52]
Để kết
luận cho đoạn “chủ quyền lịch sử của Trung Quốc”, chúng ta có thể nói rằng
những đoạn viết trước thế kỷ XIII chỉ chứng minh được việc các thuyền của Trung
Hoa có đi lại trên biển Nam Hải. Những tại liệu này không nói đến một tên đảo
nào trong hai quần đảo cả. Những tài liệu đầu tiên nêu tên đảo là những tài
liệu cuối đời nhà Nguyên và dưới đời nhà Tống (thế kỷ XIII). Tuy nhiên những
tài liệu này nêu tên Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Thạch Đường – không biết có
phải là Xisha và Nansha hay không, nhất là Vạn Lý Thạch Đường – được tả nằm ở
phía đông đảo Hải Nam, thì chắc chắn không phải là Nansha, mà có thể là
Macclesfield Bank. Dù sao, những tài liệu này cũng chỉ chứng minh các thuyền
của Trung Hoa có đi ngang và tình cờ thấy các đảo này trên lộ trình xuyên Biển
Đông. Không có chữ nào cho thấy rằng Trung Hoa đã cho tàu đi tuần tiễu quanh
các đảo đó với tư cách là chủ của đảo, để bảo vệ đảo, như là biên giới của
mình. Cũng không có câu nào chứng minh rằng Trung Hoa đã tổ chức những cuộc
viễn chinh trên hai quần đảo Xisha và Nansha, mà chỉ nói đến đi trấn an Giao
Chỉ, viễn chinh ở Malaixia, Bornéo, Java. Theo luật quốc tế cổ điển thì
chỉ nhìn thấy đảo không cần đổ bộ lên là được chủ quyền trên quyền khám phá.
Tuy nhiên, tiêu chuẩn này áp dụng cho các quốc gia phương Tây ngày xưa ra đi để
khám phá, để tìm đất mới. Còn Trung Quốc chỉ đi ngang, tình cờ thấy, sau đó
không hề chiếm hữu, không hề xem đảo như là của mình, để rồi mấy thế kỷ sau,
khi quốc gia khác chiếm, mới cho rằng mình đã khám phá. Trường hợp như vậy cũng
phải đặt câu hỏi là chỉ tình cờ trông thấy, không hề có ý định chiếm đất thì có
thực sự là quyền khám phá theo nghĩa pháp lý hay không? Có thể nại quyền khám
phá hay không khi thiếu yếu tố tinh thần là ý chí muốn tìm thấy đất mới và xem
nó thuộc quyền sở hữu của mỉnh? Trường hợp Trung Hoa là “biết” chứ không phải
khám phá.[53] Đặt
giả thuyết là Trung Hoa có quyền khám phá, thì quyền khám phá này mới là quyền
ban đầu, quyền phôi thai (inchoate title), bởi vì sau đó Trung Hoa
không hề chiếm hữu đảo, dù là chiếm hữu tượng trưng, không hề đổ bộ lên đảo, và
không hề hành xử chủ quyền. Nói chung là không hề xem đảo như là của mình. Toà
án quốc tế đã phán quyết nhiều lần rằng quyền khám phá phải được hoàn tất bởi
sự chiếm hữu, trong một thời gian tương đối, thì mới có hiệu lực.[54] Giáo
sư Marwyn Samuels đã phân tích thái độ của Trung Hoa thời đó. Ông cho rằng
chính sách của Trung Hoa cuối thời nhà Minh và thời nhà Thanh, không quan tâm
đến vùng biển ngoài khơi mà chỉ chú tâm đến việc trấn giữ biên cương nội địa,
vùng SinKiang (Tân Cương), Mông Cổ và biên giới phía bắc, nên lực lượng hải
quân rất kém.[55] Dưới
thời nhà Nguyên, là thời lực lượng hải quân hùng mạnh (thế kỷ XIV), Trung Hoa
cũng vẫn không quan tâm đến những đảo ngoài khơi biển Đông, và không có ý định
chiếm hữu chúng.[56] Ngược
lại, các thuyền bè còn sợ chúng và tránh không dám đến gần vì sợ đá ngầm và
nước cạn đã từng làm đắm bao nhiêu tàu của các nước khác. Các thuỷ thủ Trung
Hoa thời đó đã có câu tục ngữ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác: “Trên
đường đi ra thì sợ Thất Châu (tức là Thất Châu Dương mà Trung Quốc bây giờ cho
là Xisha), trên đường đi về thì hãi Côn Lôn.”[57]
Với tâm
lý thời đó như vậy làm sao Trung Hoa có thể xem đảo như sở hữu chủ nhằm viễn
chinh và tuần tiễu quanh đảo nhằm bảo vệ đảo được? Điều này được kiểm chứng bởi
những thái độ im lặng không phản đối sự hành xử chủ quyền của Việt Nam, mặc dù
Trung Hoa biết đến những hoạt động của Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải. Nó cũng
được kiểm chứng bởi vụ đắm tàu La Bellona và Imeji Maru (xem mục I của bài
này). Tất cả những dữ kiện trên cho thấy Trung Hoa không những không hành xử
chủ quyền, không xem những quần đảo như của Trung Hoa, mà lại còn minh thị và
mặc thị công nhận chủ quyền của Việt Nam.
2.Hiệp
ước 1887 Trung Hoa
ngày xưa đã viện dẫn Hiệp ước Pháp – Thanh ký năm 1887 để khẳng định rằng Hoàng
Sa và Trường Sa thuộc về mình. Sau này, phát ngôn viên của Trung Quốc và các
tác giả Trung Quốc đều nhiều lần dùng Hiệp ước này để khẳng định Hoàng Sa thuộc
về Trung Quốc. Thực sự, Hiệp ước này không phải là hiệp ước phân chia những đảo
ở ngoài xa khơi (high sea) giữa toàn bộ nước Việt Nam và Trung Hoa mà chỉ ấn định biên giới giữa
miền Bắc Việt Nam
và Trung Hoa. Ngày nay, trong những cuộc đàm phán, Trung Quốc không nhắc đến
Hiệp ước này nữa. Nhưng cho đến hiện tại, không ít các tác giả mà phần lớn là
những tác giả Trung Hoa sống ở nước ngoài viết về vấn đề này, vẫn viện dẫn Hiệp
ước 1887 như một trong những lý lẽ chính để chứng minh là hai quần đảo thuộc về
Trung Quốc. Và một số các tác giả phương Tây, có lẽ vì ảnh hưởng dây chuyền,
dùng những bài viết trên, nên cũng kết luận là Hiệp ước này trao cho Trung Hoa
chủ quyền trên các đảo tranh chấp.[58] Vì
vậy, thiết tưởng cũng nên làm sáng tỏ sự lầm lẫn này, vì ảnh hưởng dây chuyền
của nó trong dư luận thế giới.
Một số
tác giả trên đã trích đoạn sau đây của Hiệp ước để khẳng định chủ quyền của
Trung Quốc. “Từ Quảng Đông, những điểm tranh chấp nằm từ phía đông đến phía tây
bắc của Móng Cái, ngoài biên giới đã được hai phái bộ xác định, có thể coi là
thuộc về Trung Quốc. Những hòn đảo nằm ở phía đông dọc đường kinh tuyến đông
105°43’ của Paris ,
có nghĩa là trục bắc-nam đi qua điểm phía đông của đảo Tch’a Kou hay Ouan-Chan
(Trà Cổ) và làm thành đường biên giới, cũng thuộc về Trung Quốc. Các đảo Go-tho
và các đảo khác nằm phía tây của đường kinh tuyến thuộc về An Nam.” Các tác giả
trên lý luận rằng vì Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở phía đông kinh tuyến Paris 105°43’ nên thuộc
về Trung Quốc.[59]
Có tác
giả cho rằng phải giải thích Hiệp ước theo sát nghĩa lời văn trong Hiệp ước.[60] Thực
ra, nếu giải thích sát nghĩa, thì phải hiểu Hiệp ước 1887 là một hiệp ước phân
chia biên giới giữa miền Bắc Việt Nam và Trung Hoa mà thôi, chứ không phải chia
các đảo ở ngoài xa khơi (high sea, haute mer),không thuộc vùng biển
của miền Bắc Việt Nam. Chỉ cần nhìn tên của Hiệp ước cũng đủ để thấy điều đó.
Tên Hiệp ước là “Convention relative à la delimitation de la frontière
entre la Chine et le
Tonkin .”[61] Hơn
nữa, Công ước Vienne về điều ước quốc tế có ấn định rằng một hiệp ước phải được
giải thích sát nghĩa những từ được dùng trong hiệp ước, nhưng nếu phương pháp
này đưa đến một sự “vô lý hay ngu xuẩn”, thì có thể dùng những tài liệu hoặc
hiệp ước khác, có liên quan đến hiệp ước này, hoặc tìm hiểu mục đích của hiệp
ước để giải thích những điểm không rõ rệt.[62] Dựa
vào những điều khoản trên của Công ước Vienne, chúng ta có thể xét Hiệp ước
1887 theo ba phương pháp: 1) xét sát nghĩa lời văn của Hiệp ước, 2) xét toàn
thể bản Hiệp ước, và 3) tìm hiểu mục đích của Hiệp ước.
2.1. Xét sát nghĩa lời văn bản Hiệp ước
Việc này
thật ra rất đơn giản trong trường hợp Hiệp ước 1887, như đã nói trên, chỉ cần
nhìn tên của Hiệp ước trên bản chính bằng tiếng Pháp, cũng đủ thấy Hiệp ước này
chỉ liên quan đến biên giới giữa miền Bắc Việt Nam và Trung Hoa. Tiếng Pháp
“Tonkin” là miền Bắc Việt Nam .
Trong thời thuộc địa, Pháp đã chia Việt Nam ra làm ba kỳ: miền Bắc gọi là
Tonkin, miền Trung gọi là An Nam hoặc vẫn giữ tên của cả nước Việt Nam, và miền
Nam gọi là Cochinchine. Các tác giả nêu trên tưởng rằng Tonkin là toàn thể nước
Việt Nam . Chữ
“frontière” dùng
trong Điều 2 của Hiệp ước cho thấy rõ ràng là kinh tuyến Paris 105°43’ là biên
giới biển, nhưng chỉ là biên giới biển thuộc miền Bắc Việt Nam (Tonkin), chứ
không phải là đường phân chia các đảo ngoài khơi xa, ngang với miền Trung Việt
Nam và miền Nam Việt Nam. Hiệp ước đã ấn định rõ chiều hướng của biên giới đó
là hướng bắc nam, và nó kéo ngang góc đông của đảo Trà Cổ. Và vì đây là biên
giới giữa Tonkin và Trung Hoa nên phải hiểu biên giới này chấm dứt ở điểm nào
ngang với ranh giới mà trước kia Pháp đã ấn định giữa Tonkin và Annam (tức là
ranh giới giữa miền Bắc Việt Nam và miền Trung Việt Nam). Việc ấn định
biên giới giữa miền Bắc Việt Nam
và Trung Hoa cũng dễ hiểu nếu nhìn vào cách Pháp chia và quản trị nước Việt Nam thời đó.
Nhằm thực hiện chính sách “chia để trị”, Pháp đã chia Việt Nam thành ba kỳ
với ba chế độ cai trị khác nhau. Miền Bắc theo chế độ bảo hộ, miền Trung – vì
hệ thống vua và triều đình Huế vẫn còn (dù chỉ là tượng trưng) – nên theo chế
độ tự trị, và miền Nam
thì theo chế độ thuộc địa. Ba miền được xem gần như ba xứ riêng biệt. Vì vậy,
vấn đề ấn định biên giới chỉ là giữa Tonkin (miền Bắc) và Trung Hoa mà thôi,
chứ không phải miền Trung hoặc miền Nam, là chuyện dễ hiểu đối với chính sách
thuộc địa của Pháp thời đó. Nói tóm lại, dùng phương pháp giải thích sát nghĩa
cho thấy hai chữ “Tonkin” và “frontière” chỉ rõ đây là biên
giới giữa miền Bắc Việt Nam và Trung Hoa. Nó bao gồm biên giới đất và biên giới
biển tức là vùng Vịnh Bắc Bộ.[63]
2.2. Xét toàn bộ bản Hiệp ước
Toàn bộ
bản Hiệp ước không có chỗ nào nói đến Hoàng Sa và Trường Sa. Toàn văn bản Hiệp
ước nói đến việc kẻ biên giới giữa miền Bắc Việt Nam và Trung Hoa, và ấn định
những điểm mà Uỷ ban kẻ biên giới của hai bên Pháp-Thanh không đồng ý với nhau
được, đó là hai đoạn biên giới Vân Nam và Quảng Đông.
Các tác
giả nói trên chỉ viện dẫn đoạn liên quan tới đoạn biên giới Quảng Đông. Tuy
nhiên, trước đó, Hiệp ước có nói: “Những điểm mà Uỷ ban hai bên không đồng ý
với nhau được, và những điều chỉnh được dự trù ở Điều 3 của Hiệp ước 9-6-1885
được ấn định như sau: ở Quảng Đông, những điểm tranh chấp…”.
Sau đoạn
nói đến biên giới Quảng Đông, tới đoạn ấn định biên giới Vân Nam : “Trên vùng biên giới Vân Nam , đường biên
giới được ấn định như sau:…”[64] Nếu
theo sự giải thích của Trung Hoa, là tất cả những đảo nào nằm ở phía đông của
kinh tuyến Paris 105°43’ thuộc về Trung Hoa, thì không những Hoàng Sa, Trường
Sa, mà tất cả các đảo ven bờ biển Việt Nam nằm ở phía đông của kinh tuyến Paris
105°43’ đều thuộc về Trung Quốc. Sự giải thích đưa đến một kết luận “vô lý hoặc
ngu xuẩn” (absurd or unreasonable) theo đúng như danh từ mà Công ước Vienne dùng. Do đó, chúng ta có thể tìm hiểu mục đích của
Hiệp ước 1887 bằng cách xét các tài liệu và các hiệp ước liên quan đến Hiệp ước
1887.
2.3. Mục đích của Hiệp ước 1887
Nếu đọc
bản báo cáo của ông Dureau de Vaulcomte gửi cho Bộ Ngoại giao Pháp giải thích
Hiệp ước 1887, chúng ta càng thấy rõ hơn mục đích của Hiệp ước là kẻ hai đoạn
tranh chấp của biên giới miền Bắc Việt Nam và Trung Hoa.[65] Hiệp
ước 1887 được ký thể theo Điều 3 của Hiệp ước 1885 là một hiệp ước hữu nghị
nhằm chấm dứt sự xung đột giữa hai bên Pháp – Thanh. Sau khi Pháp đưa quân đến
Việt Nam thì ba Tổng đốc:
Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam
cho quân vượt biên giới giữa Bắc Việt Nam và Trung Hoa. Vì vậy, để chấm
dứt tình trạng này và vãn hồi lại biên giới cũ, Pháp đã thoả thuận với Trung
Hoa ở Điều 3 của Hiệp ước 1885, là hai bên sẽ lập một Uỷ ban kẻ biên giới gồm
chuyên viên của cả hai bên để kẻ lại biên giới. Hiệp ước 1885 cũng ấn định là
nếu có điểm bất đồng giữa chuyên viên của hai bên về bất cứ điểm nào liên quan
đến việc kẻ biên giới thì Uỷ ban này sẽ chuyển vấn đề sang cho chính quyền hai
bên xét xử.[66] Biên
giới được kẻ chia ra làm ba đoạn: đoạn biên giới Quảng Tây, đoạn biên giới
Quảng Đông, và đoạn biên giới Vân Nam . Việc ấn định đoạn Quảng Tây
không gặp rắc rối gì, nhưng hai bên không thoả thuận được trong việc kẻ hai
đoạn biên giới Quảng Đông và Vân Nam . Từ đó mới có Hiệp ước 1887 do
hai chính quyền ký để giải quyết hai đoạn biên giới trên. Tại Quảng Đông, sự bất
đồng liên quan đến vùng Paklung (Bạch Long) và những đảo quanh đó. Vì có quân
thổ phỉ từ Trung Hoa sang tập trung ở vùng này, nên Pháp đã đưa quân đến chiếm
đóng. Trung Hoa phản đối, đòi vùng này là vùng của Trung Hoa. Do đó, mới xảy ra
sự tranh chấp.[67] Như
vậy, sự tranh chấp không liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa. Lúc đó, Trung Hoa
chưa để ý đến hai quần đảo này, và Pháp cũng chưa biết rằng Việt Nam đã có chủ
quyền trên hai quần đảo đó. Vì thế lúc đó chưa hề có tranh chấp trên hai quần
đảo này. Cho nên, Pháp và Trung Hoa khi ký kết Hiệp ước 1887 không hề nghĩ đến
hai quần đảo này. Tóm lại, mục đích của Hiệp ước 1887 là kẻ hai đoạn biên giới
Quảng Đông và Vân Nam; và đường biên giới kẻ theo Điều 2 của Hiệp ước 1887 chỉ
giới hạn ở biên giới miền Bắc Việt Nam và Vịnh Bắc Bộ mà thôi. Trung Quốc
một mặt nói rằng Hiệp ước 1887 áp dụng cho Hoàng Sa và Trường Sa, là những đảo
nằm ngoài khơi xa, nhưng mặt khác, khi bàn về biên giới vùng Bắc Bộ thì Trung
Quốc lại khẳng định rằng Hiệp ước này chỉ phân chia “những đảo ở vùng Bắc Bộ”,
chứ không phải là biên giới biển. Ngày 12 tháng 5 năm 1973, Thứ trưởng Bộ Ngoại
giao Trung Quốc Hàn Niệm Long (Han Nian Long) đã tuyên bố điều nói trên. Như
vậy, Trung Quốc tự mâu thuẫn.[68]
3. Những lời tuyên bố của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Trung
Quốc nói rằng Việt Nam
đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa vì những dữ kiện
sau đây:
· Ngày
15 tháng 6 năm 1956, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
nói rằng “theo những tài liệu của Việt Nam, trên phương diện lịch sử, Xisha và
Nansha thuộc lãnh thổ của Trung Quốc.”
· Ngày
14 thágn 9 năm 1958, trong bối cảnh của thời kỳ chiến tranh lạnh, khi Mỹ bắt
đầu can thiệp vào Việt Nam ,
tuyên chiến với Trung Quốc, và hạm đội Mỹ đi lại tuần tiễu trên eo biển Đài Loan,
Trung Quốc bèn tuyên bố lãnh hải của mình là 12 dặm. Nhân dịp này, Thủ tướng
Phạm Văn Đồng gửi bức công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai nguyên văn như sau:
“Thưa
đồng chí Tổng lý
Chúng
tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ
nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho
các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng”.[69] ·
Ngày 9 tháng 5 năm 1965, nhân lúc Mỹ leo thang chiến tranh tại Việt Nam và ấn
định những vùng chiến thuật, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tuyên bố Xisha thuộc
chủ quyền của Trung Quốc. Những lời tuyên bố trên không có hiệu lực vì
trước năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không quản lý những đảo này. Lúc đó,
những đảo này nằm dưới sự quản lý của Việt Nam Cộng hoà; mà các chính phủ Việt
Nam Cộng hoà luôn luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo. Còn
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam cũng không tuyên bố điều gì có
thể làm hại đến chủ quyền này cả. Tác giả Monique Chemillier-Gendreau đã viết
như sau: “Dans ce contexte, les declarations ou prise de position éventuelles
des autorités du Nord Vietnam
sont sans consequences sur le titre de souveraineté. Il ne s’agit pas du
gouvernement territorialement competent à l’égard des archipels. On ne peut
renoncer à ce sur quoi on n’a pas d’autorité…”[70] (Có
thể dịch là: “Trong những điều kiện này, những lời tuyên bố hoặc lập trường nào
đó của chính quyền miền Bắc Việt Nam không có hiệu lực gì đối với
chủ quyền. Đây không phải là chính quyền có thẩm quyền trên quần đảo này. Người
ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không kiểm soát được…”). Một lý lẽ
thứ hai nữa là đứng trên phương diện thuần pháp lý, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa lúc đó không phải là một quốc gia trong cuộc tranh chấp. Trước năm 1975,
các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng
hoà và Philippin. Như vậy, những lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem
như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp.
Nếu đặt giả thuyết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một thì dựa trên luật quốc tế, những lời tuyên bố đó cũng không có hiệu lực. Tuy nhiên, có tác giả đã nêu thuyết “estoppel” để khẳng định những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam, và Việt Nam bây giờ không có quyền nói ngược lại.[71]Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết “estoppel”. Điều 38 Quy chế Toà án Quốc tế không liệt kê những lời tuyên bố đơn phương trong danh sách những nguồn gốc của luật pháp quốc tế. Estoppel là một nguyên tắc theo đó một quốc gia không có quyền nói hoặc hoạt động ngược lại với những gì mình đã nói hoặc hoạt động trước kia. Câu tục ngữ thường dùng để định nghĩa nó là “one cannot at the same time blow hot and cold.”[72] Nhưng thuyết estoppel không có nghĩa là cứ tuyên bố một điều gì đó thì quốc gia tuyên bố phải bị ràng buộc bởi lời tuyên bố đó. Thuyết estoppel bắt nguồn từ hệ thống luật quốc nội của Anh, được thâu nhập vào luật quốc tế. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác.[73] Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính:
Nếu đặt giả thuyết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một thì dựa trên luật quốc tế, những lời tuyên bố đó cũng không có hiệu lực. Tuy nhiên, có tác giả đã nêu thuyết “estoppel” để khẳng định những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam, và Việt Nam bây giờ không có quyền nói ngược lại.[71]Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết “estoppel”. Điều 38 Quy chế Toà án Quốc tế không liệt kê những lời tuyên bố đơn phương trong danh sách những nguồn gốc của luật pháp quốc tế. Estoppel là một nguyên tắc theo đó một quốc gia không có quyền nói hoặc hoạt động ngược lại với những gì mình đã nói hoặc hoạt động trước kia. Câu tục ngữ thường dùng để định nghĩa nó là “one cannot at the same time blow hot and cold.”[72] Nhưng thuyết estoppel không có nghĩa là cứ tuyên bố một điều gì đó thì quốc gia tuyên bố phải bị ràng buộc bởi lời tuyên bố đó. Thuyết estoppel bắt nguồn từ hệ thống luật quốc nội của Anh, được thâu nhập vào luật quốc tế. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác.[73] Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính:
1. Lời
tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia
phát biểu, và phải được phát biểu một cách minh bạch (clair et non
equivoque).[74]
2. Quốc
gia nại “estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố
hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt
động. Yếu tố này trong luật quốc nội Anh-Mỹ gọi là “reliance”.
3. Quốc
gia nại “estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc
gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời
tuyên bố đó.[75]
4. Nhiều
bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách
liên tục và trường kỳ. Thí dụ: bản án “Phân định biển trong vùng Vịnh Maine ”, bản án “Những hoạt động quân sự và bán quân sự
tại Nicaragua ”,
bản án “Ngôi đền Preah Vihear”,…[76]
Ngoài
ra, nếu lời tuyên bố đơn phương có tính chất một lời hứa, nghĩa là quốc gia
tuyên bố mình sẽ làm hoặc không làm một việc gì, thì quốc gia phải thực sự có ý
định muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó, thực sự muốn thi hành lời hứa đó.[77] Thuyết
estoppel với những điều kiện trên đã được án lệ quốc tế áp dụng rất nhiều.
Trong bản án “Thềm lục địa vùng Biển Bắc” giữa Cộng hòa Liên bang Đức và Đan
Mạch/Hà Lan, Toà án quốc tế đã phán quyết rằng estoppel không áp dụng cho Cộng
hòa Liên bang Đức, mặc dù quốc gia này đã có những lời tuyên bố trong quá khứ
nhằm công nhận nội dung của Công ước Genève 1958 về thềm lục địa, vì Đan Mạch
và Hà Lan đã không bị thiệt hại khi dựa vào những lời tuyên bố đó. Trong bản án
“Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua ”
giữa Nicaragua
và Mỹ, Toà đã phán quyết như sau: “… ‘Estoppel’ có thể được suy diễn từ một
thái độ, những lời tuyên bố của một quốc gia, nhằm chấp nhận một tình trạng nào
đó; thái độ hoặc lời tuyên bố không những phải được phát biểu một cách rõ rệt
và liên tục, mà còn phải khiến cho một hoặc nhiều quốc gia khác dựa vào đó mà
thay đổi hoạt động, và do đó phải chịu thiệt hại”.[78] Áp
dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2/ và 3/ đã nêu ở trên. Năm 1956,
năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ
vì dựa vào lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Và Trung Quốc cũng không
thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên
bố đó. Lúc đó hai dân tộc Việt Nam
và Trung Hoa rất thân thiện, “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Những
lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn do tình hữu nghị Hoa-Việt.[79] Hơn
nữa, lời văn của bản tuyên bố không hề nói rõ ràng minh bạch là công nhận chủ
quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa. Bức công hàm chỉ nói: “Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy (quyết định ấn định lãnh hải 12
dặm của Trung Quốc), và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm
triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc…”. Lời tuyên bố của Thủ
tướng Phạm Văn Đồng cũng có thể hiểu là một lời hứa đơn phương, một lời tuyên
bố ý định sẽ làm một việc gì (declaration d’intention). Thật vậy, đây
là một lời hứa sẽ tôn trọng quyết định của Trung Quốc trong việc ấn định lãnh
hải của Trung Quốc, và một lời hứa sẽ ra lệnh cho cơ quan công quyền của mình
tôn trọng lãnh hải đó của Trung Quốc. Một lời hứa thì lại càng khó ràng buộc
quốc gia đã hứa. Toà án Quốc tế đã ra thêm một điều kiện nữa để ràng buộc một
lời hứa: đó là ý chí thực sự của
một quốc gia đã hứa. Nghĩa là quốc gia đó có thực sự muốn bị ràng buộc bởi lời
hứa của mình hay không. Để xác định yếu tố “ý chí” (intention de se lier),
Toà xét tất cả những dữ kiện xung quanh lời tuyên bố đó, xem nó đã được phát
biểu trong bối cảnh, trong những điều kiện nào (circonstances). Hơn
nữa, nếu thấy quốc gia đó có thể tự ràng buộc mình bằng cách ký thoả ước với
quốc gia kia, thì lời tuyên bố đó là thừa, và Toà sẽ kết luận là quốc gia phát
biểu không thực tình có ý muốn bị ràng buộc khi phát biểu lời tuyên bố đó. Vì
vậy, lời tuyên bố đó không có tính chất ràng buộc. Trong bản án “Những cuộc thí
nghiệm nguyên tử” giữa Úc/Tân Tây Lan và Pháp, Pháp đã tuyên bố là sẽ ngừng thí
nghiệm nguyên tử. Toà án đã phán quyết rằng Pháp bị ràng buộc bởi lời hứa vì
Pháp thực sự có ý muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó.[80]
Trong
trường hợp Việt Nam, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi tuyên bố sẽ tôn trọng lãnh
hải của Trung Quốc, không hề có ý định nói đến vấn đề chủ quyền trên Hoàng Sa
và Trường Sa. Ông đã phát biểu những lời tuyên bố trên trong tình trạng khẩn
trương, chiến tranh với Mỹ bắt đầu leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ hoạt động trên
eo biển Đài Loan và đe doạ Trung Quốc. Ông đã phải lập tức lên tiếng để ủng hộ
Trung Quốc nhằm gây một lực lượng chống đối lại với mối đe doạ của Mỹ.[81] Lời
tuyên bố năm 1965 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng như vậy. Động
lực của lời tuyên bố đó là tình trạng khẩn trương, nguy ngập ở Việt Nam . Đây là
những lời tuyên bố có tính chính trị, chứ không phải pháp lý.
Nếu xét
yếu tố liên tục và trường kỳ thì ba lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
cũng không hội đủ tiêu chuẩn này. Estoppel chỉ đặt ra nếu chấp nhận giả thuyết
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một; và cả
Pháp trong thời kỳ thuộc địa, và Việt Nam Cộng hoà trước năm 1975 cũng là một
đối với Việt Nam hiện thời. Nếu xem như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc
gia riêng biệt với Việt Nam hiện thời, thì estoppel không áp dụng, vì như đã
nói ở trên, lời tuyên bố sẽ được xem như lời tuyên bố của một quốc gia không có
quyền kiểm soát trên lãnh thổ tranh chấp. Như vậy, nếu xem Việt Nam nói chung
như một chủ thể duy nhất từ xưa đến nay, thì ba lời tuyên bố của Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa chỉ là một sự phát biểu có ý nghĩa chính trị trong đoản kỳ thời
chiến, so với lập trường và thái độ của Việt Nam nói chung từ thế kỷ XVII đến
nay. Tóm lại, những lời tuyên bố mà chúng ta đang phân tích thiếu nhiều
yếu tố để có thể áp dụng thuyết estoppel. Yếu tố “reliance” (tức là quốc gia
kia có dựa vào lời tuyên bố của quốc gia này mà bị thiệt hại), và yếu tố “ý
chí” (tức là quốc gia phát biểu lời hứa có ý muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó)
rất quan trọng. Không có “reliance” để giới hạn sự áp dụng của estoppel thì các
quốc gia sẽ bị cản trở trong việc hoạch định chính sách ngoại giao. Các quốc
gia sẽ phải tự ép buộc cố thủ trong những chính sách ngoại giao lỗi thời.[82] Khi
điều kiện chung quanh thay đổi, chính sách ngoại giao của quốc gia kia thay
đổi, thì chính sách ngoại giao của quốc gia này cũng phải thay đổi. Các quốc
gia đổi bạn thành thù và đổi thù thành bạn là chuyện thường. Còn những lời hứa
đơn phương trong đó quốc gia không thật tình có ý muốn bị ràng buộc, thì nó
chẳng khác gì những lời hứa vô tội vạ, những lời hứa suông của các chính khách,
các ứng cử viên trong cuộc tranh cử.[83] Trong
môi trường quốc tế, nguyên tắc “chủ quyền quốc gia” (état souverain)
rất quan trọng. Ngoại trừ tục lệ quốc tế và những điều luật của Jus
Congens, không có luật nào ràng buộc quốc gia ngoài ý muốn của mình, khi
mà quốc gia này không gây thiệt hại cho quốc gia nào khác. Vì vậy ý chí của
quốc gia đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định tính chất ràng buộc
của một lời hứa đơn phương.
III.
KẾT LUẬN
Những
phân tích trên cho thấy lý lẽ của Việt Nam mạnh hơn của Trung Quốc, vì Việt Nam
đã sử dụng hai quần đảo liên tục trong ba thế kỷ, sử dụng một cách hoà bình
không có sự phản đối của bất cứ một quốc gia nào, kể cả Trung Quốc. Không những
thế, sách sử của Trung Quốc lại còn công nhận rằng những quần đảo đó là vòng
đai phòng thủ của Việt Nam, và qua thái độ của họ trong thời gian đó thì Trung
Quốc cũng đã mặc thị công nhận chủ quyền của Việt Nam trên những quần đảo này.
Nếu cho rằng Chúa Nguyễn đã khai thác các đảo từ đầu thế kỷ XVII, sau gần 100
năm, chủ quyền lịch sử của Việt Nam đã hoàn tất. Chủ quyền lịch sử đó lại được
củng cố thêm qua sự chiếm hữu của vua Gia Long và Minh Mạng. Đồng thời, chủ
quyền vẫn được hành xử liên tục qua sự khai thác và quản trị của hai Đội Hoàng
Sa và Bắc Hải, là những bộ phận của nhà nước.
Phía
Trung Quốc cũng đã đưa ra những tài liệu để chứng minh rằng mình đã khám phá và
hành xử chủ quyền trước tiên. Tuy nhiên, những tài liệu này chỉ cho thấy những
thuyền bè của Trung Quốc thời đó đã lui tới Biển Đông, và trong lộ trình, họ
tình cờ thấy những đảo mang nhiều tên khác nhau, nhưng không có đảo nào tên là
Xisha hay Nansha. Nếu đặt giả thuyết là Trung Quốc đã khám phá ra những đảo
này, thì Trung Quốc đã không hành xử chủ quyền trên đó. Sự hiện diện của những
người đánh cá không đủ để gọi rằng đó là hành xử chủ quyền của nhà nước. Do đó,
chủ quyền lịch sử mà Trung Quốc khẳng định mình có, rất yếu. Phần lớn các tác
giả luật gia chuyên về luật quốc tế, trừ những tác giả Trung Hoa, đều công nhận
điều này.[84] So
sánh chủ quyền lịch sử viện dẫn bởi hai bên, chúng ta có thể kết luận rằng giữa
Việt Nam và Trung Quốc thì Việt
Nam
mới là quốc gia có chủ quyền lịch sử trên hai quần đảo. Phân tích còn cho thấy
chủ quyền lịch sử của Việt Nam
đã được hoàn tất từ thế kỷ XVII, dưới thời Chúa Nguyễn.
Hiệp ước
Pháp-Thanh 1887 không trao chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
cho Trung Quốc vì Hiệp ước này chỉ là hiệp ước ấn định biên giới giữa miền Bắc
Việt Nam và Trung Hoa. Do đó, nó chỉ ấn định phần biên giới ở Vân Nam, Quảng
Đông và Vịnh Bắc Bộ. Những lời tuyên bố trước đây của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
về hai quần đảo này không có hiệu lực vì trước năm 1975 hai quần đảo này không
thuộc quyền kiểm soát của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà thuộc quyền kiểm soát
của Việt Nam Cộng hoà. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó không phải là quốc gia
tranh chấp, nên những lời tuyên bố này chỉ là những lời tuyên bố của một quốc
gia thứ ba không liên can. Hơn nữa, lúc đó nếu không chấp nhận rằng Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia thứ ba, thì “estoppel” cũng không áp dụng
trong những trường hợp này, vì Trung Quốc đã không bị thiệt hại gì, và Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa cũng không hưởng lợi gì qua những lời tuyên bố đó. Lời tuyên
bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ là một lời hứa bị tác động bởi hoàn cảnh
chiến tranh. Cuối cùng, nếu xem ba lời tuyên bố này như là của Việt Nam nói
chung, thì nó thiếu tính liên tục và trường kỳ để có thể làm mất đi chủ quyền
của Việt Nam, với tư cách là một chủ thể duy nhất, đã hành xử và khẳng định
quyết liệt từ hơn ba thế kỷ nay. Trên thực tế thì hiện nay, Trung Quốc đã kiểm
soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc đã cho xây cất nhiều công trình nhằm
củng cố sự chiếm hữu bất hợp pháp. Một sự chiếm hữu bất hợp pháp, với thời
gian, nếu không có sự phản đối từ quốc gia kia, và nếu có sự thừa nhận của các
quốc gia thứ ba, sẽ tạo nên chủ quyền cho quốc gia chiếm hữu. Vì thời gian với
sự công nhận sẽ “tẩy xoá tội lỗi”.[85] Trong
hoàn cảnh hiện tại, muốn bảo đảm cho sự chiếm hữu của Trung Quốc không thể tạo
ra chủ quyền được, thì Việt Nam phải thường xuyên lên tiếng phản đối và khẳng
định chủ quyền đối với Hoàng Sa (và cả Trường Sa nữa). Việt Nam cũng nên
công khai đề nghị Trung Quốc đưa vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa ra trước Toà án
Quốc tế. Nếu Trung Quốc thật tình tin tưởng rằng mình có căn bản pháp lý vững
chắc để khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo này, thì Trung Quốc không có lý
do gì để từ chối một giải pháp pháp lý. Còn Trường Sa thì hiện nay đang bị 6
quốc gia và vùng lãnh thổ chiếm giữ là: Philippin, Việt Nam , Đài Loan,
Trung Quốc, Malaxia và Brunây. Quốc gia nào cũng đòi chủ quyền của mình trên
hết cả quần đảo hoặc một số đảo. Đến nay, vấn đề vẫn chưa giải quyết được mà
còn trầm trọng thêm.
Năm
1988, Trung Quốc lần đầu tiên ra đánh chiếm một số đảo ở Trường Sa, tàu của
Việt Nam bị đánh đắm, nhưng Trung Quốc chặn không cho tàu của Hội Chữ thập đỏ
đến cứu. Đây là một sự vi phạm những điều luật cơ bản nhất của chiến tranh. Như
vậy, có thể suy đoán Trung Quốc sẽ không ngần ngại gì mà không tiếp tục sử dụng
vũ lực. Từ đó đến nay, lâu lâu, Trung Quốc lại chiếm thêm vài đảo ở quần đảo
Trường Sa. Trung Quốc một mặt vẫn hô hào tôn trọng luật quốc tế, và đề nghị
thương thuyết song phương, nhưng lời nói của Trung Quốc không đi đôi với việc
làm.[86] Vì
vậy, không thể dựa vào những lời nói của Trung Quốc để kết luận rằng Trung Quốc
sẽ ngừng không dùng vũ lực. Viễn tưởng Trung Quốc dùng biện pháp vũ lực để thôn
tính hết các đảo tại quần đảo Trường Sa càng dễ xảy ra hơn, khi mà Mỹ và Nga đã
rút khỏi Biển Đông, để lại một khoảng trống chính trị và quân sự tại vùng này,
khiến cho Trung Quốc hiện nay là một quốc gia bá chủ ở Biển Đông.[87] Điều
này rất đáng lo ngại. Trung Quốc nắm hết cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
là nắm hết Biển Đông, mà Biển Đông là con đường giao thông quan trọng của các
thuyền bè Nga, Mỹ, Nhật Bản và các quốc gia khác trên thế giới.[88]
Một giải
pháp thương thuyết song phương giữa Trung Quốc và các quốc gia và lãnh thổ
tranh chấp khó thực hiện được một cách công bằng, vì sức mạnh để thương thuyết
giữa hai bên không bằng nhau, nó chênh lệch và mạnh dĩ nhiên là Trung Quốc.
Cũng vì vậy mà Trung Quốc cho đến nay chỉ chấp nhận thương thuyết song phương.
Trung Quốc muốn thương thuyết song phương để buộc quốc gia đối phương phải
thương thuyết theo chiều mà Trung Quốc muốn. Nếu không Trung Quốc sẽ sử dụng vũ
lực.[89] Đây
chỉ là một chiến thuật để Trung Quốc tranh thủ thời gian để củng cố thêm thế
của mình đối với hai quần đảo. Thời gian càng kéo dài thì càng có lợi cho Trung
Quốc. Giải pháp khai thác chung mà Trung Quốc đề nghị không thể thực hiện
được khi mà vấn đề chủ quyền chưa được giải quyết. Như vậy, thời gian càng kéo
dài thì lại càng củng cố được những sự chiếm hữu bất hợp pháp, và quốc gia nào
có chủ quyền pháp lý vững vàng sẽ bị thiệt thòi. Giải pháp đưa ra Toà án Quốc
tế hoặc Trọng tài Quốc tế có lẽ công bằng nhất, nhưng Trung Hoa ngày xưa đã hơn
một lần phủ nhận giải pháp này, khi Pháp đề nghị vào năm 1932 và năm 1947. Đối
với Trung Quốc bây giờ thì lại càng khó hơn nữa. Giải pháp hiện thời, thực tiễn
nhất là đem ra khối ASEAN hoặc Liên hợp quốc để giải quyết. Liên hợp quốc là
giải pháp có thể hữu hiệu hơn, vì đem ra cơ quan này có tính cách khoáng đại,
cho phép Mỹ, Nga, Nhật Bản và các quốc gia khác tham dự vào. Hơn nữa, trường
hợp Liên hợp quốc không giải quyết được, hoặc nếu có vấn đề trong việc giải
quyết, Liên hợp quốc vẫn có quyền đem vấn đề ra Toà án quốc tế và yêu cầu Toà
cho ý kiến (avis consultatif) mà không cần sự đồng ý của bất cứ quốc
gia nào. “Thủ tục cho ý kiến” của Toà án Quốc tế không có hiệu lực quyết định
như một bản án thực sự, nhưng nó vẫn có một tác động mạnh mẽ trong dư luận thế
giới. Vụ tranh chấp vùng Tây Sahara đã được Toà cho ý kiến trong những hoàn
cảnh như trên (nghĩa là thể theo yêu cầu của Liên hợp quốc).[90] Cuộc
tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cần phải giải quyết càng sớm càng
tốt. Để càng lâu, nó càng đe dọa hòa bình ở Đông Nam Á và có thể là hoà bình
thế giới.
* Tham
luận đọc tại Hội Thảo Hè “Vấn
Đề Tranh Chấp Biển Đông” tại
New York City ,
ngày 15-16 tháng 8, 1998.
[1]Tiến sĩ Luật, Đại học Sorbonne.
[2] Lê
Quý Đôn: Phủ biên tạp lục. Trích từ Võ Long Tê, Les archipels de Hoang Sa et de
Truong Sa selon les anciens ouvrages viêtnamiens d’histoire et de geographie,
Sài Gòn, 1974, tr. 62.
[3] Eveil
economique de l’Indochine, no. 741.
[4] Nguyễn
Quốc Định: Droit International Public, LIbrarie Générale de Droit et de
Jurisprudence, Paris ,
1975. tr. 401-402.
[5] Robert
Jennings: The acquisition of territory in international law (New
York, 1963), viện dẫn Charles de Visscher. Luật gia Charles de Visscher viết
như sau về phương pháp consolidation:
“… Le long usage établi, qui en est le fondement, ne fait que traduire un ensemble d’interêts et de relations qui tendent par eux meme à rattacher un territoire ou un espace maritime à un état determine… elle peut être repute acquise… par une absence d’opposition suffisemment prolongée…”, xem Jennings, tr. 25, lưu ý 2.
“… Le long usage établi, qui en est le fondement, ne fait que traduire un ensemble d’interêts et de relations qui tendent par eux meme à rattacher un territoire ou un espace maritime à un état determine… elle peut être repute acquise… par une absence d’opposition suffisemment prolongée…”, xem Jennings, tr. 25, lưu ý 2.
[6] Võ
Long Tê, Kes archipels de Hoàng Sa et de Trường Sa selon les anciens
ouvrages viêtnamiens d’histoire et de geographie, Sài
Gòn, 1974, tr. 39 và 40.
[7] Sđd.,
tr. 34-35.
[8] Sđd.
tr. 48.
[9] Lê
Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, 1776. Vụ
Thông tin và Báo chí Bộ Ngoại giao Việt Nam viện dẫn: Chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Hà
Nội, 1979, tr. 13.
[10] Sđd,
tr. 14-15.
[11] Quần
đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, bộ phận lãnh thổ của Việt Nam, Nxb. Sự
thật, Hà Nội, 1982, tr. 13 và 14.
[12] Võ
Long Tê, Sđd, tr. 69.
[13] M.A.
Dubois de Jancigny: Thế giới, lịch sử và sự mô tả các dân tộc, các tôn
giáo của họ, Ceylan, (1830). Võ Long Tê viện dẫn, Sđd, tr. 168.
[14] J.
B. Chaigneau (1769-1825): Notice sur la Cochinchine, 1820. Võ Long Tê viện dẫn,
Sđd, tr. 168.
[15] Vụ
Thông tin và Báo chí Bộ Ngoại giao, Sđd, tr. 21.
[16] Võ
Long Tê, Sđd, tr. 100.
[17] Vụ
Thông tin và Báo chí Bộ Ngoại giao, Sđd, tr. 21.
[18] Sđd,
tr. 25.
[19] Gutzlaff: Geography
of the Cochinchinese Empire in Journal of the Geographical Society of London , 1849,
tập XIX. Viện dẫn bởi Nhà xuất bản Sự thật, Sđd, tr. 16, Gutzlaff viết như sau:
“Chính phủ An Nam thấy đặt một hạn ngạch thuế thì có thể thu được nhiều lợi bèn
lập những trưng thuyền và một trại quân nhỏ ở chỗ này (tức quần đảo Paracel, mà
tác giả gọi là KatVang) để thu thuế mà mọi người tới đây đều phải nộp…”
[20] Vụ
án Clipperton: Recueil des Sentences Arbitrales, tập II.
[21] Teh-Kuang
Chang: China ’s claim of
sovereignty over Spratley and Paracel Islands : a historical and legal perspective, Case
Western Reserve Journal of International Law, vol.
23 (1991), p. 418.
[22] Jian-Ming
Shen: International law rules and historical evidence supporting China’s title
to the South China Sea islands, Hastings International and Comparative
Law Review, vol. 21 (1997), p. 22 & 23.
[23] Vụ
án đảo Palmas: Receuil des Sentences Arbitrales, tập II, tr.
859-860.
[24] Monique
Chemillier-Gendreau: La souveraineté sur les Paracels et Spratleys. L’Harmatan,
Paris , 1996, p.
71.
[25] Võ
Long Tê, Sđd, tr. 111.
[26] Sđd,
tr. 110.
[27] Gendreau,
Sđd, tr. 21, 23.
[28] Võ
Long Tê, Sđd, tr. 134.
[29] Võ
Long Tê, Sđd, tr. 61.
[30] Sđd,
tr. 157.
[31] Tao
Cheng: The dispute over the South China
Sea Islands , Texas
International Law Journal, vol. 10 (1975), p. 272.
[32] Jian-Ming
Shen, Sđd, tr. 18.
[33] Sđd,
tr. 17.
[34] Elizabeth
van Wie Davis : China
and the Law of the Sea Convention, Follow the Sea, New York , 1995, p. 154.
Cũng xem Marwyn
Samuels: Contest for the South China Sea, New
York/London, 1982, tr. 16. Và Shen, Sđd, tr. 21.
[35] Van
Wie Davis, Sđd.
Cũng xem Shen, Sđd, tr.
31.
Cũng xem Hungdah Chiu &
Choon-ho Park: Legal status of the Paracels and Spratly Islands, Ocean
Development and International Law Journal, tập
3 (1975), tr. 43.
[36] Samuels, Sđd, note
31, tr. 38.
[37] Lưu
Văn Lợi: Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1995, tr. 10.
[38] Shen, Sđd, tr.
15.
[39] Sđd, tr.
18.
[40] Sđd, tr.
19.
[41] Sđd, tr.
20.
[42] Sđd, tr.
21.
[43] Sđd, tr.
20 và 21. Cũng xem Teh Kuang Chang, Sđd, tr.
400, và Hungdah Chiu, Sđd, lưu ý 32, tr. 463 và
465.
[44] Shen, Sđd, tr.
27.
[45] Sđd.
[46] Xem
chú thích 2 ở trang 361, Chiu, Sđd, lưu
ý 32.
[47] “…
guo Qizhou Yang, Wanlishitang…”. Chữ “guo” của tiếng Trung, nghĩa là “qua” của
tiếng Việt.
[48] Shen, Sđd, tr.
28.
[49] Hungdah, Sđd, tr.
463.
[50] Lưu
Văn Lợi, Sđd, tr. 17.
[51] Samuels, Sđd, tr.
21 và 22.
[52] Sđd, tr.
23.
[53] Gendreau, Sđd, tr. 57 và 58. Cũng xem Lưu Văn
Lợi, Sđd, tr. 14.
[54] Vụ
án đảo Palmas, Sđd, tr. 846. “Inchoate title
must be completed within a reasonable time by effective occupation of the
region…”.
[55] Samuels, Sđd, tr.
30-31, 42.
[56] Sđd, tr.
20.
[57] Sđd, tr.
17 và 21.
[58] Ít
ra các tác giả sau đây đã viện dẫn Hiệp ước 1887:
- Hungdah, Sđd, tr.
464 và 467.
- Shen, Sđd, tr.
119.
- Tao Cheng, Sđd, tr.
274.
- John Chao: South China Sea:
boundary problems relating to the Nansha and Xisha Islands, Chinese Yearbook of
International Law, tập 9 (1989-1990): tr. 119 và tiếp theo.
- Steve Kuan Tsy Yu, Who owns
the Paracel and Spratlys? An evaluation of the nature and legal basis of the conflicting
territorial claims, Chinese Yearbook of International Law, vol.
9 (1989-1990): p. 5, 7 and 8.
- Choon-ho
Park , The South
China Sea dispute: Who owns the islands and the natural resources?Ocean
Development and International Law Journal, vol.
5 (1978): p. 34.
- Marwyn Samuels, Sđd, tr.
52-53.
- Brian Murphy, Dangerous
ground: the Spratly Islands and international law, Ocean and Coastal
Law Journal, vol. 1 (1994), p. 201.
- Elizabeth van De Wie, Sđd, tr.
52-53.
- Michael Bennet, The PRC and
the use of international law in the Spratly Islands dispute, Stanford
Journal of International Law, vol. 28 (1992), p. 446.
[59] Hungdah, Sđd, tr.
464.
[60] Shen, supra, tr.
120.
[61] Receuil
des Traités de la France, Tome 17 (1886- 1887). Duran
& Pedone (Paris), 1891, p. 387.
[62] Convention
de Vienne sur le Droit des Traités, 1969,
Art. 32.
[63] Có
tác giả đã cho rằng Hiệp ước 1887 không ấn định biên giới biển, xem Elizabeth
van De Wie,Sđd, tr. 156. Tuy nhiên, nếu
theo sát nghĩa lời văn của Điều 2 của bản Hiệp ước (tức là hiểu những từ theo
nghĩa thông thường của chúng) thì rõ ràng là kinh tuyến Paris
105°43’ là biên giới biển giữa miền Bắc Việt Nam và Trung Hoa. “Les Iles
qui sont à l’est du meridien de Paris 105°43’, … c’est à dire de la ligne
Nord-Sud passant par le point oriental de l’èle de Tra Co, et formant la frontière…”
[64] Receuil
des Traités, Sđd, tr. 387 và 388.
[65] Sđd, Rapport
Vaulcomte, tr. 187.
[66] Traité
de Paix, d’Amitié et de Commerce conclu à Tien-Tsin le 9/6/1885 entre la France et la
Chine, trong Receuil des Traités de la France, Tome
16, tr. 496.
[67] Rapport
Vaulcomte, Sđd, tr. 189-191.
[68] Shen, Sđd, tr.
123.
[69] Lưu
Văn Lợi, Sđd, tr. 105.
[70] Gendreau, Sđd, tr.
123.
[71] Shen, Sđd, tr.
57.
[72] Charles
Vallée: Quelqques observations sur l’estoppel en Droit des gens, Revue
Générale de Droit International Publie (1973), p.
951, note 7.
[73] D.
W. Bowett: Estoppel before International Tribunals and its relation to
acquiescence, Bristish Yearbook of International Law, vol.
33 (1957), p. 177.
[74] Antoine
Martin: L’Estoppel en droit international public Précédé d’un apercu de la
théorie de l’estoppel en droit anglais, Revue Générale de Droit
International Publie, vol. 32 (1979), p. 274.
[75] Sđd, tr.
286-300.
[76] Délimitation
de la frontière maritime dans la region du Golfe de Maine, Cour
Internationale de Justice Receuil, 1984, p. 309-310.
- Activités militaires et
para-militaires au Ncarague et contre celui-ci, Cour Internationale de
Justice Receuil,1984. p. 414-415.
- Affaire du Temple Préah
Vihear, Cour Internationale de Justice Receuil, 1962, p. 22-23, 32.
[77] Brigitte
Bollecker-Stern: L’Affaire des essays nucléaires francais devant la Cour
Internationale de Justice, Annuaire Francais de Droit International (1974),
p. 329. Cũng xem Megan Wagner: Jurisdiction by Estoppel in the International
Court of Justice, California Law Review, vol. 74, p. 1792.
[78] Cour
Internationale de Justice Receuil 1984,
Sđd, p. 414.
[79] Lưu
Văn Lợi, Sđd, tr. 75.
[80] Cour
Internationale de Justice Receuil, 1974, tr. 267 và 269.
[81] Lưu
Văn Lợi, Sđd, tr. 104-110.
[82] Megan
Wagner, Sđd, lưu ý 64, tr. 1780.
[83] Bollecker
– Stern, Sđd, tr. 331.
[84] Trong
các tác giả phương Tây khẳng định lý lẽ chủ quyền lịch sử của Trung Quốc rất
yếu, có ít nhất các tác giả sau:
- Bennett, Sđd, tr.
446;
- Murphy, Sđd, tr.
201;
- Roque Jr., Sđd, tr.
203;
- Chemillier –
Gendreau, Sđd, tr. 66;
- Jean Pierre Ferrieer, xem
tiếp, tr. 182;
- Samuels, Sđd, tr.
40. Giáo sư Samuels không bàn đến vấn đề chủ quyền, nhưng phân tích lịch sử sự
liên hệ của Trung Hoa đối với biển Đông và các đảo; ông viết rằng cho đến thế
kỷ XIX không có bằng chứng nào rằng nhà Thanh đã chiếm hữu những đảo này làm sở
hữu của mình: “By the mid-19th Century,
the literari cognitive map of the South China Sea had become more elaborate,
but still barely touched upon the islands of the sea… There is no evidence here
that the Ching State had in any sense absorbed the
islands into the imperial domain.”
[85] Jean
Pierre Ferrier: Le conflit des iles Paracels et le problème de la souveraineté
sur les iles inhabités, Annuảie Francais de Droit International (1975),
p. 178: “… quoi qu’il en soit la conquête militaire des iles par la Chine ne
peut résoudre le problème juridique: pour qu’une telle occupation, ellegale
dans son principe, puisse avoir des effets juridiques, il faut que la
reconnaissance par les autres états intervienne et ‘purge juridiquement de ses
vices’ l’annexion ainsi réalisée.”
[86] Mark
Valencia: China
and the South China Sea disputes, Oxford
University Press, London , 1995, p.7
[87] Bennett, Sđd, tr.
427.
[88] Jeannette
Greenfield: China ’s
practice in the Law of the Sea, Clarendon
Press, Oxford ,
1992, p. 13.
[89] Mark
Valencia, Sđd, tr. 6 và 7. Cũng xem
Murphy, Sđd, tr. 209 và 210.
[90] Vụ
Sahara Occidental, xem Avis Consultatif, Cour Internationale de
Justice Receuil, 1975, tr. 21 tới 28. Trong những trang này, Toà nói
về thẩm quyền cho ý kiến của mình thể theo Điều 65, Đoạn 1 trong Quy chế của
Toà.
http://www.lyhocdongphuong.org.vn/van-hien-lac-viet/chi-tiet/chu-quyen-cua-viet-nam-tren-hai-quan-dao-hoang-sa-va-truong-sa-2735/
Bài viết khá công phu với nhiều dẫn chứng những tư liệu xác đáng. Nhưng lập luận thì gần như công nhận sự hiện diện "hợp pháp" của Tàu Khựa ở HS-TS. Thật đáng buồn. NHưng dù sao cũng cho người đọc những nhận thức tích cực khác.
Trả lờiXóa