Người theo dõi

Thứ Năm, 24 tháng 3, 2016

Vận Nước Ý Dân Nam Quốc Sơn Hà -

Vận Nước Ý Dân Nam Quốc Sơn Hà -
Lời Kêu Gọi Thứ  3
http://vietnamdefence.info/vannuocydannamquocsonha_3.htm
Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc
I. Dẫn Nhập:
Năm 981, khi nhà Tống đang mưu toan xâm lăng nước Ðại Cồ Việt, vua Lê Ðại Hành đã thường xuyên thỉnh ý Thiền sư Pháp Thuận về vận nước Nam sẽ như thế nào.
Ngài Pháp Thuận đáp rằng:
Vận nước như dây cuốn
Trời Nam mở thái bình
Nhàn nhã nơi cung gấm
Cõi cõi hết đao binh

Ý nói vận nước dài hay ngắn là tùy thuộc theo lòng dân có đoàn kết hay không, thiền sư Pháp Thuận đã ví sự đoàn kết này như là bó dây cuộn lại (ngày nay ta dùng hình ảnh bó đũa), có đoàn kết thì chắc chắn quân dân ta sẽ chiến thắng giặc ngoại xâm và nước Nam được hưởng thái bình. Nhàn nhã đây ý nói bậc làm vua hay những người lãnh đạo phải có tài có đức thật sự thì các nơi mới hết nạn chiến tranh. Một ý nghĩa khác của nhàn nhã là người lãnh đạo chính trị không xem nặng tổ chức riêng hay dòng họ của mình; chỉ một lòng phụng sự đất nước và dân tộc.
Vua Lê còn nhờ ngài Khuông Việt thái sư cầu nguyện đức Tỳ Sa Môn Thiên Vương (là một vị thần hộ trì ngôi Tam Bảo) tại núi Vệ Linh, ở đền do ngài đã dựng lên, gia hộ cho quân dân nước Ðại Cồ Việt được chiến thắng quân nhà Tống do Hầu Nhân Bảo dẫn đầu sang xâm lăng nước ta.
Một hôm vua nằm chiêm bao và trông thấy hai vị tướng Trương Hạo Trương Hát là danh tướng của Triệu Việt Vương. Triệu vương bị Nam Ðế đánh bại, nhiều lần ông mời hai vị tướng này ra cộng tác nhưng họ đều từ chối, cuối cùng đã lấy cái chết để giữ tròn chữ trung với Triệu Việt Vương. Sau khi hai ông chết được phong làm thần và thấy nước Nam sắp bị kẻ thù xâm lăng liền thị hiện để tiếp cứu. Sáng hôm sau vua Lê thuật lại cho mọi người trong triều được biết, đồng thời lập đàn tràng cung thỉnh và khấn rằng: "Thần nhân có thể giúp ta thành được công nghiệp này thì việc phong thưởng và cúng đơm muôn đời sẽ không hết". Cũng trong đêm ấy vua lại nằm mơ thấy hai vị ấy hiện về để bái tạ. Một vị từ phía nam Bình Giang tới, vị khác từ sông Như Nguyệt xuống, cả hai đều nhắm hướng trại đóng binh của quân Tống mà tiến đánh.
Ngày 23 tháng 10, vào lúc canh ba, khi trời tối mịt, gió lớn lửa dồn nổ ra, quân Tống tan vỡ. Thần tàng hình  trên không trung, cất tiếng ngâm:
Non sông nước Nam, vua nước Nam ở
Điều ấy đã định rõ trong sách trời.  
Nếu như giặc Bắc sang xâm lược,
Thì sẽ bị lưỡi gươm sắc chém tan như chẻ tre (Dịch ý)
nguyên âm
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư !
Quân Tống nghe thế hoảng sợ chen nhau bỏ chạy tứ tán, và quân dân Ðại Cồ Việt đã chiến thắng một cách vẻ vang.
Qua đó cho ta thấy rằng bài thơ bốn câu được xem là Tuyên Ngôn Ðộc Lập đầu tiên của một nước Ðại Cồ Việt thực sự tự do đã tuyên bố ngay từ năm 981 khi vua Lê Ðại Hành chiến thắng quân xâm lăng nhà Tống, chứ không phải năm 1076 khi Lý Thường Kiệt cùng quân dân  Đại Việt đánh bại nhà Tống trên chiến tuyến Như Nguyệt. Nguồn gốc của bài thơ Thần được ghi trong Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp (biên soạn cuối thế kỷ XIV), Vũ Quỳnh và Kiều Phú (biên soạn cuối thế kỷ XV) v.v... Ngoài ra còn được Việt sử diễn âm cũng như Thiên nam ngữ lục diễn đạt lại vào thế kỷ 16 và 17.
Sử gia Ngô Sĩ Liên khi biên soạn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (gọi tắt là Toàn Thư) gần cuối thế kỷ 15 đã đem bài thơ sông núi (bài thơ thần) trong truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt (thuộc Lĩnh Nam Chích Quái) vào Toàn Thư và gắn cho chiến trận trên sông Như Nguyệt năm 1076 do Thái úy Lý Thường Kiệt chỉ huy. Ngụ ý của ông cho thấy là nhờ bài thơ thần này đã có tác động rất lớn đến tinh thần chiến đấu của binh sĩ và nhà Lý mới chiến thắng được quân xâm lược nhà Tống.
Sự thực là nhà Lý cũng như Thái úy Lý Thường Kiệt đã chuẩn bị cuộc chiến chống quân Tống một cách cẩn thận và kỹ lưỡng do đó đã tạo nên chiến thắng lẫy lừng bên bờ sông Như Nguyệt năm 1076 là điều đương nhiên. Tuy nhiên nền tảng của chiến thắng này đã được xây dựng từ chiến thắng quân Tống năm 981 thời vua Lê Đại Hành.
II. Vận Nước Ý Dân Nam Quốc Sơn Hà năm 981:
Quả thực nền tảng của chiến thắng năm 1076 của Lý Thường Kiệt đã được xây dựng từ năm 981. Khi hai bài thơ Vận Nước và Nam Quốc (hay còn gọi là bài thơ thần) đều xuất hiện trước sau trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 981 dưới thời vua Lê Đại Hành. Cả hai đều có chung nguồn gốc và tác giả. Nguồn gốc và tác giả đó không ai khác hơn ngài Pháp Thuận thiền sư.
Khi vua Lê Đại Hành mới lên làm vua, theo Thuyền Uyển Tập Anh ghi Pháp Thuận thiền sư đã là người giúp đỡ rất tích cực. Do đó vua Lê đã hết lòng tin tưởng giao cho ngài phụ trách về mặt ngoại giao cho triều đình. Phụ trách ngoại giao như vậy chẳng khác nào một vị bí thư của nhà vua. Nếu không phải là một vị chơn tu đạo cao đức trọng, cũng như kiến thức uyên thâm làm sao vua Lê Đại Hành có thể tin tưởng giao trọng trách này được. Toàn Thư có nhắc đến vào mùa thu năm Canh Thìn (980) vua Lê có đưa một phái bộ ngoại giao sang Tống gồm nha hiệu Giang Cự Vọng và Vương Thiệu Tộ. Nội dung văn kiện ngoại giao mà phái đoàn này mang theo nhằm "hoãn binh nhà Tống". Người soạn văn kiện này cũng chính là Pháp Thuận thiền sư.
Song song, để chuẩn bị đất nước đi vào cuộc chiến đối phó với sự xâm lăng nhà Tống đã gần kề. Vua Lê Đại Hành đã cùng với Pháp Thuận thiền sư chuẩn bị về nhiều mặt khác nhau cho đất nước từ quân sự, chính trị cho đến văn hóa tư tưởng (phần dẫn nhập đã trình bày). Những biện pháp đó nhằm huy động tối đa nội lực dân tộc để đối đầu với thế lực xâm lăng hung hãn của nhà Tống do Triệu Khuông Nghĩa chủ trương.
Về mặt văn hóa tư tưởng cũng như nghệ thuật lãnh đạo đất nước, ngài Pháp Thuận đã thường nhắc nhở vua Lê qua bài thơ vận nước :
Nguyên âm:
Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh
Nghĩa:
Vận nước như dây cuốn
Trời Nam mở thái bình
Nhàn nhã nơi cung gấm
Cõi cõi hết đao binh
Vận nước có vững chắc hay không, là do người lãnh đạo anh minh, nhân nghĩa, đó là những điểm tinh yếu mà bài thơ Vận Nước muốn nêu lên. Khi vận nước có vững chắc thì đất nước mới giữ gìn được sự độc lập tự chủ. Và đây là lý do tiếp theo để tạo điều kiện cho Bài thơ sông núi nước Nam (hay Bài thơ thần) xuất hiện trên chiến tuyến sông Đồ Lỗ (Toàn Thư gọi là sông Chi Lăng, Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sỹ gọi là sông Bạch Đằng) nơi quân dân Đại Cồ Việt dưới sự chỉ huy của vua Lê Đại Hành cùng tướng quân Phạm Cự Lượng đánh bại quân Tống của Hầu Nhân Bảo. Bài thơ Sông núi (hay bài thơ thần) đã khẳng định vị thế độc lập tự chủ của nước Đại Cồ Việt đối với nước Tầu phương Bắc của nhà Tống.
Dưới đây là truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt được ghi lại trong Lĩnh Nam Chích Quái của các tác giả Trần Thế Pháp, Vũ Quỳnh và Kiều Phú biên soạn...(và còn một vài tác giả khác đã hiệu đính cho quyển sách này thêm phong phú ở một số thời gian sau). Lĩnh Nam Chích Quái là quyển sách sưu tập, biên soạn những thần tích kỳ lạ của nước Nam và những thần tích đó đã ảnh hưởng rất lớn đối với vận mạng dân tộc trong thời gian hàng ngàn năm.
Năm Thiên Phúc nguyên niên đời Lê Đại Hành, Tống Thái Tổ sai bọn tướng quân Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng cất quân sang xâm lược nam phương. Lê Đại Hành và tướng quân Phạm Cự Lượng kéo quân tới sông Đồ Lỗ cự địch, hai bên đối đá. Đại Hành mộng thấy hai thần nhân ở trên sông vái mà nói rằng: "Anh em thần, một tên là Trướng Hống, một tên là Trương Hát, xưa kia theo Triệu Việt Vương cầm quân chinh phạt nghịch tặc mà lấy được thiên hạ. Về sau Triệu Việt Vương mất nước, Lý Nam Đế triệu hai anh em thần. Bọn thần vì nghĩa không thể theo được, uống thuốc độc mà tự tử. Thượng đế thương anh em thần có công lại trung nghĩa một lòng, mới phong làm quan tướng trong hàng các thần linh, thống lĩnh quỉ binh.
Nay quân Tống phạm cõi, làm khổ sinh linh nước ta, cho nên anh em thần đến yết kiến, xin nguyện cùng nhà vua đánh giặc này để cứu sinh linh". Vua giật mình tỉnh dậy, mừng rỡ mà bảo cận thần rằng: "Có thần nhân giúp ta rồi vậy". Bèn lập tức đốt hương ở trước thuyền ngự mà khấn rằng: "Nếu thần nhân có thể giúp ta làm nên công nghiệp này, thì xin bao phong huyết thực muôn đời". Đoạn giết súc vật tế lễ, hóa mũ áo, voi ngựa, tiền giấy.
Đêm ấy Đại Hành mộng thấy hai thần nhân mặc mũ áo vua ban đến bái tạ. Đêm sau lại thấy một người dẫn đoàn quỉ áo trắng, tự phía nam sông Bình Giang mà tới, một người dẫn bọn quỉ áo đỏ từ phía bắc sông Như Nguyệt mà lại, cùng xông vào trại giặc mà đánh. Canh ba đêm ba mươi tháng mười, trời tối đen, mưa to gió lớn đùng đùng. Quân Tống kinh hoàng.
Thần nhân tàng hình ở trên không, lớn tiếng ngâm rằng:
Non sông nước Nam, vua nước Nam ở
Điều ấy đã định rõ trong sách trời.  
Nếu như giặc Bắc sang xâm lược,
Thì sẽ bị lưỡi gươm sắc chém tan như chẻ tre (Dịch ý)
Nguyên văn
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư !
Quân Tống nghe thấy, xéo đạp vào nhau mà chạy tan, lầm giết lẫn nhau, ai lo chạy thoát thân người ấy, bị bắt không biết bao nhiêu mà kể. Quân Tống đại bại mà về. Đại Hành trở về ăn mừng, phong thưởng công thần, truy phong cho hai vị thần nhân, một là Tinh mẫn đại vương lập miếu thờ ở tại ngã ba sông Long Nhãn, sai dân ở Long Nhãn, sông Bình Giang phụng thờ, một là Khước mẫn đại vương lập miếu ở ngã ba sông Như Nguyệt, sai dân ở bờ sông Như Nguyệt phụng thờ, hưởng huyết thực đời đời, nay vẫn còn là phúc thần.
Bài thơ Sông Núi Nước Nam (hay bài thơ thần) xuất hiện lần đầu tiên trong Lĩnh Nam Chích Quái được biên soạn vào cuối thế kỷ 14, rồi cuối thế kỷ 15. Là một tác phẩm văn hóa trác tuyệt bằng tiếng nôm, cổ xưa nhất, đáng tin cậy nhất khi đề cập đến bài thơ thần trong truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt. Và bài thơ Thần được xác định lại trong các tác phẩm Việt sử diễn âm và Thiên nam ngữ lục được soạn vào cuối thế kỷ 16 và 17.
Còn một điểm rất quan trọng được Lĩnh Nam Chích Quái nêu ra, đó là sau khi chiến thắng quân Tống năm 981, vua Lê Đại Hành đã cho người xây miếu thờ Khước Mẫn đại vương ở sông Như Nguyệt và Tinh Mẫn đại vương ở sông Long Nhãn. Do đó truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt ghi chép trong Lĩnh Nam Chích Quái đã minh chứng một điều, bài thơ sông núi (hay bài thơ thần) đã xuất hiện từ năm 981.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên soạn vào gần cuối thế kỷ 15 (năm 1479), được khắc in toàn bộ và công bố lần đầu tiên vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hoà thứ 18, triều Lê Hy Tông năm 1697, dịch giả Viện khoa học xã hội Việt Nam, xuất bản năm 1993 ghi sự xuất hiện của bài thơ thần Sông núi nước Nam như sau (Bản Kỷ - Quyển III - Nhân Tông Hoàng Đế trang 110):
...Một đêm quân sĩ nghe trong đền Trương tướng quân có tiếng đọc to rằng :
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư !
(ngưng trích)
Không có dòng chữ nào ghi Lý Thường Kiệt là tác giả của bài thơ này cả. Nếu năm 981 vua Lê không cho xây miếu thờ Khước Mẫn đại vương (hay Trương tướng quân) ở sông Như Nguyệt, thì làm sao có đền của Trương tướng quân và tiếng đọc to phát xuất từ đền ấy năm 1076 cho được.
Những bản khác của Lĩnh Nam Chích Quái như Tục Loại của Đoàn Vĩnh Phúc soạn năm Quang Bảo thứ nhất (dương lịch 1500); Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập do Gia Cát Thị ghi vào năm Cảnh Hưng Giáp Ngọ (dương lịch 1774) cũng biên như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư về xuất xứ của bài thơ thần.
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục do Quốc Sử Quán Triều Nguyễn soạn vào các năm 1856-1881, dịch giả Viện Sử Học Hà Nội 1957-1960, nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội xuất bản năm 1998 ghi: "...Kịp khi Ung Châu và Liêm Châu bị phá, An Thạch hay tin, giận lắm, bèn dùng Quách Quỳ làm Chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm Phó sứ, cầm đầu chín tướng quân, ước hẹn các nước Chiêm Thành và Chân Lạp cùng sang lấn cướp. Nhà vua sai Thường Kiệt đem quân đón đánh, đến sông Như Nguyệt, đánh nhau kịch liệt, Thường Kiệt cả phá được địch" (Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển III - trang 141). Không một dòng chữ nhắc đến bài thơ thần.
Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca, trang 127, truyện 5 - Lý Thường Kiệt bại Chiêm phá Tống...như trì thiên binh (13). Chú thích 13. Trì thiên-binh: rong-ruổi quân nhà trời. Tục truyền rằng khi đóng quân bên bờ sông Như-nguyệt để chống với quân nhà Tống (Tầu), Lý-thường-Kiệt đang đêm nghe thấy trong đền thờ Trương-Hát (xem câu 515-516) có tiếng ngâm thơ: "
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư !
(nghĩa là: đất nước Nam, thì vua nước Nam ở, 
phần đất đã định rõ ràng trong sách trời. 
Cớ sao giặc kia lại đến xâm phạm, 
chúng bay rồi phải chịu thua).
Quân sĩ biết có bài thơ ấy đều nức lòng đánh giặc, sau quân Tống thua. Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca do Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái biên soạn năm 1870, học giả Hoàng Xuân Hãn đề tựa và dẫn tháng chạp năm 1956 tại Paris do nhà xuất bản Trường Thi xuất bản.
(ngưng trích) 
Không có dòng chữ nào nhắc đến Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ thần cả.
Việt Sử Toàn Thư  của Sử gia Phạm Văn Sơn ở trang 149 ghi:
... Để phấn khởi tinh thần quân đội, Lý Thường Kiệt đã áp dụng một thuật tâm lý, là làm bốn câu thơ, cho người lén vào đền Trương Hát ở bên sông thét ra:
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư !
(ngưng trích)
Như thế Việt Sử Toàn Thư của Sử gia Phạm Văn Sơn ghi là 4 câu thơ trên là "Lý Thường Kiệt đã áp dụng một thuật tâm lý, là làm bốn câu thơ".
Việt Điện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên viết năm 1329 đời vua Trần Hiến Tông truyện Thái úy Trung phụ dũng vũ uy thắng công Lý Thường Kiệt, không có một đoạn nào nhắc đến bài thơ sông núi nước Nam (bài thơ thần). Về chiến trường trên sông Như Nguyệt, Lý Tế Xuyên ghi : "...Nhà Tống sai tướng đem quân sang báo thù...Ông (Lý Thường Kiệt) cố sức đắp thành trên sông Như Nguyệt để chống giữ, rồi phản công lấy lại được Vũ-bình-nguyên... v.v... (ngưng trích)". Vỏn vẹn chỉ có thế.
Ở truyện Khước địch thiện hựu, trợ thuận đại vương Uy địch dũng cảm, hiển thắng đại vương (Việt Điện U Linh Tập), có đoạn viết: "...Đến thời vua Lý Nhân Tông (1072-1127) quân Tống sang lấn, tiến vào trong cõi. Vua sai Thái úy Lý Thường Kiệt lập trại ở ven sông để chống giữ. Một đêm, quân sĩ nghe trong đền có tiếng Thần ngâm thơ:
Nam quốc sơn hà nam đế cư,
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Tác giả Lý Tế Xuyên có chú thích về bài thơ thần như sau: Theo quyển Thiên Nam vân lục liệt truyện A. 1442 T.V.K.H, tờ 57 và 58 chép, thì : khi vua Lê Đại Hành đi đánh giặc Tống, mộng thấy hai anh em ông Trương đến kể tên họ và nói : trước cùng thờ vua Ngô, sau nhà Ngô mất, Đinh Tiên Hoàng cố triệu ra làm quan, hai anh em không chịu, cùng uống thuốc độc chết, rồi được thượng đế thương, cho làm thần. Hai anh em hiển linh giúp vua Lê Đại Hành, ngâm một bài thơ như trên, quân Tống liền thua chạy.
Chép như vậy có lẽ không đúng bằng quyển này, vì theo sử và các sách Địa dư chí thì bài thơ nầy ở miếu thần ngâm lên, vào thời vua Lý Nhân Tông khi quân Tống sang lấn ta. (ngưng trích).

Tác giả Lý Tế Xuyên viết "không đúng bằng quyển này" quyển này là quyển nào, tác giả không nói rõ.
Sử gia Ngô Sĩ Liên và Thủ đại tạng thư hỏa chinh chưởng Trung phẩm phụng ngự, An tiêm lộ chuyển vận sứ Lý Tế Xuyên ghi thời điểm xuất hiện của bài thơ thần là vào năm 1076 và địa điểm là bên bờ sông Như Nguyệt từ đền của Trương Hát tướng quân. Điểm đáng chú ý là cả hai không nêu ai là tác giả; Tác giả Lý Tế Xuyên ghi ở phần chú thích hai vị tướng quân Trương Hống Trương Hát giúp vua Lê Đại Hành đánh quân Tống và ngâm bài thơ Thần. Nhưng tác giả lại biên vào phần chính của quyển Việt Điện U Linh rằng bài thơ Thần xuất hiện vào năm 1076, nhưng cũng không biên đền thờ của Trương tướng quân ở sông Như Nguyệt xuất hiện từ năm nào.
Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp có ghi đền thờ của Trương tướng quân ở sông Như Nguyệt được Vua Lê cho dựng lên sau chiến thắng năm 981.
Sử gia Phạm Văn Sơn trong Việt Sử Toàn Thư trang 149 ghi "Lý Thường Kiệt đã áp dụng một thuật tâm lý, là làm bốn câu thơ". Bài thơ thần xuất hiện cùng địa điểm, cùng thời gian, đồng thời nêu luôn tên tác giả.
Hai vị sử gia Ngô Sĩ Liên và Lý Tế Xuyên chưa từng nêu lên bối cảnh vì sao bài thơ sông núi (bài thơ thần) xuất hiện. Riêng sử gia Phạm Văn Sơn nêu lên lý do là "để phấn khởi tinh thần quân đội".
Đối với chúng tôi đã không có sức thuyết phục cũng như độ tin cậy cao.
Qua những tài liệu lịch sử từ Lĩnh Nam Chích Quái xuất hiện gần cuối thế kỷ 15, đến Việt sử diễn âm và Thiên nam ngữ lục được soạn vào cuối thế kỷ 16 và 17 đã là những chứng cứ hùng hồn nhất, tin cậy về bài thơ sông núi nước Nam (bài thơ thần). Do đó đã cho phép chúng tôi nhận thấy giữa bài thơ Vận Nước và bài thơ Sông núi nước Nam, trước sau có sự gắn kết chặt chẻ nêu lên ý nghĩa Vận Nước Ý Dân Nam Quốc Sơn Hà một cách cụ thể và rõ rệt nhất.
Dưới đây là một phần trích khác trong Việt Sử Tiêu Án nói lên tài năng tuyệt vời của ngài Pháp Thuận thiền sư.
... Năm Thiên Phúc thứ bảy (986) nhà Tống sai Lý Giác sang nước ta, đến chùa Sách Giang, vua Lê mật sai thiền sư Pháp Thuận giả trang làm quan coi bến đò để theo dõi đương sự. Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sỹ ghi ngài Pháp Thuận là Thuận Giả.
Lý Giác là người giỏi văn chương, tình cờ thấy hai con ngỗng bơi trên mặt nước, ứng khẩu rằng:
"Nga nga song song nga nga,
ngưỡng diện hướng thiên nhai"
(hai con ngỗng
ngước lên trông chỗ trời xa) 
Việt Sử Tiêu Án.
Ngài Pháp Thuận cầm mái chèo đối lại hai câu thơ trên như sau:
"Bạch mao phô lục thủy,
hồng trạo bãi thanh ba"
(lông trắng trên nước biếc, 
chân đỏ bơi trên làn sóng xanh). Việt Sử Tiêu Án
Sứ giả Lý Giác rất khâm phục tài của vị quan coi bến đò, nên khi tới sứ quán đưa bài thơ rằng:
"Hạnh ngộ minh thi tán uẩn du,
nhất thân lưỡng độ khứ Giao Châu,
Đông Đô tái biệt tâm vưu luyến,
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu.
Mã đạp yên vân xuyên lãng mạch,
xa từ thanh chướng phiếm trường lưu.
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiến,
khê đàm ba tĩnh kiếm thiềm thu". 
(May gặp Minh thì giúp trước sâu,
Một mình hai độ đến Giao Châu,
Đông Đô từ biệt lòng vàng mến,
Nam Việt xa xôi ngóng chưa thôi,
Ngựa đạp mây mờ xuyên đá gợn,
Xe từ non biếc phóng thuyền theo,
Ngoài trời còn trời nên xét thấu,
Khe đầm sóng lặng thấy trăng thu).
Ngài Pháp Thuận đưa bài thơ ấy, Khuông Việt thái sư bảo: "Ý của bài thơ này tôn vua nước Nam cũng như vua Trung Quốc", vua Lê Đại Hành ngợi khen bài thơ, xuống chiếu cho ngài Khuông Việt làm khúc hát tiễn Lý Giác rằng:
"Tường phong hảo, cẩm phàm trương, rao vọng thần tiên phục đế hương. Vạn trùng sơn thủy thiệp xương lãng. Cửu thiên quy lộ trường, tình thảm thiết, đối ly trường, phan luyến sứ tinh lang. Nguyện tương thâm ý vị biên phương, phân minh tấn ngã hoàng".
(Gió lành tốt, buồm gấm giương, xa ngó thần tiên về đế hương, muôn trùng non nước vượt sóng xanh, đường về muôn dặm xa, chén ly biệt, tình vấn vương, quyến luyến sứ tinh lang. Muốn vì biên cảnh dãi tâm tràng tâu rõ với Ngô hoàng). Việt Sử Tiêu Án
Do đó, kính xin chư quý độc giả bốn phương cũng như những nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam, chúng tôi mạn phép trả bài thơ sông núi nước Nam lại cho ngài Pháp Thuận thiền sư của năm 981 thay vì năm 1076 mà từ bấy lâu nay vẫn thường đề cập.
...
III. Vận Nước Ý Dân Nam Quốc Sơn Hà Năm 1010:
Vận Nước Ý Dân Nam Quốc Sơn Hà đã được vua Lê Đại Hành cùng ngài Pháp Thuận thiền sư sắp xếp một cách chu đáo, và cho xuất hiện trước sau một cách cẩn thận. Do đó đã là nền tảng vững chắc cho độc lập tự chủ của tộc bách Việt. Cho dù vua Lê Đại Hành chỉ trị vì được 24 năm và băng hà vào năm 1005, nhưng với nền tảng vững chắc này đã mở ra một thời đại huy hoàng cho lịch sử tộc Việt. Đồng thời đã mở đường cho một nhân vật lớn của lịch sử Việt Nam xuất hiện để tiếp nối di chí của nhà tiền Lê.
Như trên đã nêu sau khi vua Lê Đại Hành băng hà, trong nước xảy ra nhiều biến loạn, vì nhà vua theo triều trước (triều Đinh), phế trưởng lập ấu. Điều này khiến các vị hoàng tử tranh giành ngôi vị, tàn sát lẫn nhau, đưa đến kết quả Lê Long Đĩnh (hay Lê Ngọa Triều) lên làm vua sau khi giết vua Lê Trung Tông.
Khi vua Lê Trung Tông bị giết chết, triều đình bị xáo trộn, mọi người hoảng sợ bỏ chạy, chỉ còn Điện tiền quan Lý Công Uẩn ở lại ôm xác vua mà khóc. Lê Ngọa Triều vì muốn lấy lòng quan viên trong triều nên đã phong cho Lý Công Uẩn là Tứ xương quân phó chỉ huy sứ.
Trong bốn năm trị vì của Lê Ngọa Triều, nhà vua này chỉ lo hoang dâm tửu sắc lại tàn bạo độc ác, đã khiến đất nước bi đát, nhân dân lầm than. Do đó ảnh hưởng trầm trọng đến vận mạng đất nước khiến nhà Tống lăm le muốn trở lại xâm chiếm nước ta, nhưng họ vẫn còn chờ cơ hội tốt hơn. Và điều này là động lực xảy ra cuộc chính biến năm 1009 để nhà Lý thay thế nhà Tiền Lê cai trị xứ sở đối phó với ngoại xâm. Một trong những người chủ trương cuộc chính biến đó, không ai khác hơn là Vạn Hạnh thiền sư. Cũng nên biết thêm là thời vua Lê Đại Hành, Vạn Hạnh thiền sư là vị cố vấn quân sự cho nhà vua.
Do nhận thấy Lê Ngọa Triều đã không còn là mẫu người lãnh đạo lý tưởng của đất nước, một tiêu chuẩn mà Pháp Thuận thiền sư đưa ra trong bài thơ Vận Nước "...nhàn nhã trên điện các, cõi cõi hết đao binh" thực tế chỉ thấy ông vua này biểu hiện "...hung bạo trên điện các, cõi cõi khởi đao binh". Một trong những hành động hung bạo đó là Lê Ngọa Triều ngang nhiên róc mía trên đầu Tăng thống Quách Mão (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư gọi là sư Quách Ngang), làm bộ như lỡ tay làm đầu ngài Quách Mão bị thương chảy máu rồi cả cười. Hơn nữa sau hai năm cầm quyền Lê Ngọa Triều lại đổi tất cả vương phục của triều đình cũng như tăng đạo Đại Cồ Việt giống như triều đình nhà Tống.
Lý tưởng quân tử và lý tưởng bồ tát đã được lồng vào hai bài thơ Vận Nước Ý Dân và Nam Quốc Sơn Hà qua đó nêu bật đức tính cần phải có của một người lãnh đạo chính trị tài đức song toàn cho dân tộc. Đến ngày hôm nay, năm 2010, đức tính này vẫn còn có giá trị một cách tuyệt đối.
Lý tưởng quân tử được thầy Mạnh Tử định nghĩa như sau: Phú quý bất năng dâm. Khi người quân tử được giàu sang thì không nên say mê danh vọng, địa vị, sắc đẹp, bài bạc, hút sách ở cuộc đời; Bần cùng bất năng di. Người quân tử cho dù gặp nhiều khó khăn trở ngại hay bần cùng trong lý tưởng hay trên cuộc đời cũng không nên nản chí mà bỏ đi lý tưởng mình đã và đang theo đuổi; Uy vũ bất năng khuất. Người quân tử không bao giờ bị khuất phục bởi sức mạnh, cường quyền.
Lý tưởng bồ tát là lòng Nhân bao trùm trời đất. Cũng như thà bỏ mình chứ không bỏ hạnh. Đó là những điều tinh yếu được kết tập trong quyển Lục Độ Tập Kinh của bồ tát Khương Tăng Hội. Nhờ đâu có sự kết tập để tạo nên lòng nhân bao trủm trời đất đó? Chính là nhờ nền tảng tư tưởng thời vua Hùng là hai nền văn minh Đông Sơn, Lạch Trường kết hợp với tư tưởng Phật giáo mà hình thành nên. Chính nhờ lòng Nhân này, dân tộc Việt, văn hóa Việt mới còn hiện diện cho đến ngày hôm nay (thế kỷ thứ 21).
Lý tưởng quân tử và lý tưởng bồ tát đã là nền móng vững chắc để hình thành nền Tam giáo đồng nguyên tức là Phật giáo, Khổng giáo và Nho giáo. Mà người có công lớn nhất để thể hiện tư tưởng này thành một thực tế, người đó không ai khác hơn là Điện Tiền Chỉ Huy Sứ Lý Công Uẩn.
Do những sự kiện nêu trên, cuộc chính biến năm 1009 đương nhiên phải xảy ra và đã đưa Điện Tiền Chỉ Huy Sứ Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế.
Để tạo động lực và lý cớ chính đáng cho cuộc chính biến này, ngài Vạn Hạnh thiền sư đã chủ động sáng tác bài thơ nói về vận hạn của các triều Tiền Lê, Lý, Trần cũng như Hậu Lê. Bài thơ này là một bài sấm được Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cũng như Việt Sử Tiêu Án nhận định như sau: "Xét một sơn sét đánh thành văn chỉ 40 chữ, mà khoảnh 1100 năm, sự phế hưng của các đời, tên họ đều bao gồm gần hết. Trời có nói gì đâu. Đó là bởi Vạn Hạnh giỏi việc xét đoán, nhân sét đánh cây bông gạo, thác văn vào đấy, để tỏ ra thần dị...".
Nguyên âm:
Thụ căn diễu diễu
Mộc biểu thanh thanh
Hòa đao mộc lạc
Thập bát tử thành 
Đông a nhập địa
Dị mộc tái sinh
Chấn cung hiện nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình
Nghĩa:
Gốc cây công thẳm
Ngọn cây xanh xanh
Hòa đao mộc rụng
Thập bát tử thành
Thời Trần giặc đến
Họ Lê tái sinh
Cung chấn trời hiện
Cung đoài sao chênh 
Khoảng sáu bảy ngày 
Thiên hạ thái bình
Ngài Vạn Hạnh thiền sư đã đem ý nghĩa bài sấm này bàn với Điện tiền thị vệ Lý Công Uẩn về việc lòng dân ý trời nhà tiền Lê phải ra đi, nhường chỗ cho nhà Lý lên tiếp nối di chí Vận Nước Ý Dân Nam Quốc Sơn Hà; đồng thời Đào Cam Mộc cũng đã khuyên Công Uẩn: "Hồi trước đức vua tối tăm bạc ác, trời chán ghét ngài mà con ngài thì còn nhỏ tuổi chưa thể đảm đương buổi đa nạn này, dân chúng đang khao khát chân chúa ra đời như đại hạn mong mưa. Vậy Thân vệ nên thừa cơ hội cương quyết theo dấu vua Thang, vua Võ. Xem việc của họ Lê (chỉ việc vua Lê Đại Hành chấm dứt nhà Đinh) trước đây cũng là chính đáng, thuận lòng trời và lòng dân, sao lại khư khư giữ cái tiết mọn? ..."
Ngày hôm sau, Đào Cam Mộc lại nói: "Lời sấm trên cây bông gạo đã rõ, người trong nước ai cũng tin họ Lý sẽ chổi dậy, việc đổi họa ra phúc cho đất nước chỉ ở đầu hôm sớm mai, Thân Vệ còn ngại ngùng gì nữa?"
Thực ra việc lên ngôi vua của Điện tiền thị vệ Lý Công Uẩn đã được chuẩn bị trước đó trên cả trăm năm, từ các vị thiền sư La Quí, Định Không. Quan điểm của các ngài là vùng đất Cổ Pháp trong tương lai sẽ sản sinh bậc đế vương của nước Việt. Người có trách nhiệm tiếp nối và trực tiếp để hoàn thành sứ mạng đối với dân tộc và Phật giáo đó là Vạn Hạnh thiền sư.
Thế rồi cuộc chính biến đã xảy ra như những người chủ trương mong đợi. Mùa đông tháng 10 ngày tân Hợi năm 1009, vua Lê Ngọc Triều băng hà. Điện tiền thị vệ Lý Công Uẩn chính thức nhận trách nhiệm trước lịch sử dân tộc, bước lên ngai vua xưng là Lý Thái Tổ vào ngày Ất mão (ba ngày sau khi vua Lê Ngọc Triều giá băng), nhằm ngày 2 tháng 11 năm Kỷ Dậu, tức ngày 21 tháng 11 năm 1009.
Năm 1010 vua Lý Thái Tổ lấy niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất.
Tiểu sử Lý Công Uẩn được các quyển sử xưa ghi như ngài họ Lý, tên húy là Công Uẩn, người châu Cổ Pháp Bắc Giang, thân mẫu họ Phạm, đi chơi chùa Tiêu Sơn mộng cùng người thần kết hợp rồi hoài thai. Đức vua sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất, niên hiệu Thái Bình năm thứ 5 [974] thời Đinh. Ngài được nhà sư Lý Khánh Vân chùa Cổ Pháp nuôi dưỡng và giáo dục từ lúc 3 tuổi, do đó mới đổi là họ Lý. Sau đó theo học với thiền sư Vạn Hạnh, rồi thiền sư Đa Bảo. Khi trưởng thành, làm quan triều nhà Lê thăng đến chức Điện tiền chỉ huy sứ.
Vua Lý Thái Tổ nhận thấy thành Hoa Lư chật hẹp không đủ nơi để điều hành một triều đình cũng như phong thổ không thuận tiện cho việc phát triển đất nước, nên quyết định dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La. Ngoài ra nhà vua còn đích tay viết bản Thiên đô chiếu. Trong đó nhận xét phong thủy thành Đại La là nơi vùng đất ở giữa, vùng đất linh thiêng sản sinh ra nhân tài hào kiệt.
Vào tháng 7 mùa thu năm 1010, vua Lý Thái Tổ dùng thuyền để dời đô từ thành Hoa Lư ra thành Đại La, thuyền dừng dưới bờ thành, bổng có rồng vàng (Toàn Thư) hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long.
Một trong những nền tảng tư tưởng quan trọng cho việc nhà Lý xây dựng và củng cố đất nước, đó là bài chiếu thiên đô do chính Lý Thái Tổ ngự soạn. Đây là một văn bản tiếp nối hai bài thơ Vận nước ý dân và Nam quốc sơn hà. Bài chiếu thiên đô này có ý nghĩa rất sâu xa, đã ảnh hưởng đến vận mạng đất nước cả ngàn năm nay.
Sau khi lên ngôi cửu ngũ, vua Lý Thái Tổ đã thực hiện hàng loạt cải cách quan trọng cho đất nước sau nhiều năm đau thương thống khổ dưới triều vua Lê Ngọa Triều.
Việc làm đầu tiên của ngài là phóng thích các loài chim muông thú vật và còn công bố trong dân nếu ai có sự gì oan ức muốn kiện tụng thì đến thẳng hoàng cung đưa đơn và đích thân nhà vua sẽ giải quyết.
Một năm sau, 1011 vua Lý Thái Tổ ban lịnh đại xá trong toàn quốc, đồng thời cấp phát quần áo thuốc men và cho về quê cũ làm ăn sinh sống những người đã bị Lê Ngọa Triều bắt giữ. Song song ông đã xóa nợ thuế trong 3 năm cho cả nước. Và 3 năm sau, vua lại xuống chiếu miễn thuế ruộng cho người dân. Năm 1014 trong lúc mở hội La Hán ở Long Trì, vua Thái Tổ đã xuống chiếu tha tội cho những người bị đày và bị tội đồng thời tha phân nữa thuế cho cả nước. Năm 1017 tha thuế ruộng cho nông dân, năm 1018 tha phân nữa thuế ruộng cho cả nước. Nhất là những năm mất mùa, hạn hán, đói kém đều được triều đình chú ý giúp đỡ hoặc mở kho phân phát tiền gạo cho dân v.v…
Vua Lý Thái Tổ đặt nặng vấn đề giáo dục, nên sau khi dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, ngài đã cho xây tám ngôi chùa ở phủ Thiên Đức, đồng thời trùng tu nhiều chùa khác ở các lộ và độ hơn ngàn người xuất gia làm tăng sĩ ở kinh thành.
Vua Lý Thái Tổ chưa xây tông miếu, nhưng dựng chùa cốt để làm nơi đào tạo nhân tài cho xứ sở. Ở đây cho chúng ta thấy tấm lòng vị tha vô ngã của ngài chỉ nghĩ đến tương lai đất nước hơn là chăm lo cho dòng họ của mình.
Ngài độ cho người cho xuất gia đầu Phật, không phải chỉ một lần vào năm 1010, mà còn nhiều lần khác. Năm 1014 chuẩn y lập đàn truyền giới theo yêu cầu của Hữu nhai tăng thống Thẩm Văn Uyển; Năm 1016 cấp độ điệp cho hơn 1000 người làm tăng ở kinh thành; Năm 1019 xuống chiếu cấp độ điệp cho người dân trong nước được xuất gia làm tăng.
Vua Lý Thái Tổ khi lên ngôi vua đã ban bố nhân nghĩa đến cả nước. Ngay cả những loài chim muông thú vật cũng được lợi ích; Ngài còn đặt nền tảng lâu dài cho giáo dục qua việc xây cũng như trùng tu nhiều chùa chiền là trung tâm văn hóa, giáo dục vào thời đó. Song song ngài độ người xuất gia đã có lợi ích lớn về mặt kinh tế và xã hội. Một mặt hạn chế đà tăng trưởng dân số mặt khác bớt đi những tiêu cực ở một xã hội trong buổi giao thời, đồng thời đã cung ứng đầy đủ nhân tài phục vụ đất nước.
Các chính sách nhân nghĩa, văn hóa, giáo dục, kinh tế đã xây dựng một nền tảng vững chắc cho nhà Lý và nhà Lý đã tồn tại trong tự chủ, hùng cường và giàu mạnh trong hơn hai thế kỷ (216 năm).
Bây giờ chúng ta cùng nhau xem vận nước ý dân của Thăng Long ngàn năm sau mà tên gọi là Hà Nội. Từ đó có thể rút được kinh nghiệm nào cho dân tộc trong thời gian sắp tới. Là thời gian quan trọng quyết định cho sự sinh tồn của nòi giống.
IV. Vận Nước Ý Dân Nam Quốc Sơn Hà Năm 2010:
Một sử gia Phật giáo viết như sau khi nhận định về đường lối cai trị của vua Lý Thái Tổ : "Như vậy, từ một đường lối kinh tế đúng đắn, hợp qui luật, đời sống của người dân được cải thiện...tiền đề cho sự phát triển huy hoàng của một quốc gia Đại Việt với những chiến công đánh Tống bình Chiêm lẫy lừng, với một nền văn học, mà một ngàn năm sau khi đọc lên, ta vẫn còn cảm thấy bồi hồi" (ngưng trích - trang 604 LSPGVN tập 2).
Nhưng với thực tại của Thăng-Long ngàn năm sau dưới sự cai trị độc tài, sắt máu của đảng Cộng sản Việt Nam, người dân Việt Nam chỉ thấy là sau nhiều trận bão bùng mới nhất đã phủ xuống xã hội đất nước Việt Nam, từ những vụ Dương Ngọc Sỹ, bauxit Tây Nguyên, tham nhũng PMU 18, đến vụ 18 tỉnh cho thuê rừng đầu nguồn trong 50 năm, cho thuê biển dài hạn; Hoàng Sa, Trường Sa, Thác bản Dốc, Núi Đất, Bãi Tục Lãm, Vịnh Bắc Bộ, Ải Nam Quan, đảo Bạch Long Vĩ dần dần được nhượng vào tay Tầu cộng; rồi dự án đường sắt cao tốc (nay đang chuẩn bị tái khởi động bởi Nguyễn tấn Dũng!), chủ tịch tỉnh Hà Giang Nguyễn Trường Tô cùng với hiệu trưởng đảng viên Sầm Đức Xương cưỡng dâm nữ sinh vị thành niên; Tô Huy Rứa trưởng ban tuyên giáo trung ương đảng cộng sản Việt Nam ra lịnh: "yêu cầu báo chí không được đăng tải thông tin về vụ việc liên quan đến Nguyễn Trường Tô"; vụ bê bối Vinashin… đến những vụ án như sinh viên Vũ Kim Anh cắt cổ người tình cũ là một đại gia cựu cán bộ công an mà theo báo chí thuật lại thì vụ án nầy có liên qua đến cháu nội Tổng bí thư Nông Đức Mạnh tức là cháu cố của Hồ Chí Minh; vụ án sinh viên Nguyễn Đức Nghĩa cắt cổ (cũng là) người yêu cũ để cưỡng đoạt tài sản;
Một hiện tượng mới nổi lên, nhiều đảng viên cộng sản cao cấp xài bằng tiến sĩ giả trở xuống; công an nhân dân cũng không thiếu phần khi bắn hoặc đánh chết người ở Thanh Hóa, Cồn Dầu, Bắc Giang; rồi đại hội nhà văn nghe sao lạc lỏng; tướng công an Vũ Hải Triều dỏng dạc khoe rằng “Cơ quan an ninh đã huy động bộ máy kỹ thuật trong mấy tháng qua phá sập được 300 mạng và blogger có nội dung xấu”; bộ phim Lạc đường tới Thăng-Long, Lý Công Uẩn đường tới Thăng Long hoàn toàn mất gốc do đạo diễn Tầu thực hiện; vụ loạn tướng Nguyễn chí Vịnh thao túng Tổng cục 2 tình báo quân sự Việt cộng và tình hình nội bộ Việt Nam để phục vụ cho Cục tình báo Hoa Nam của tầu cộng; Công an cộng sản Việt Nam đàn áp ngược đãi chư Tăng Ni Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ở thừa Thiên Huế; Tàu chiến của Tầu cộng vi phạm lãnh hải Việt Nam từ Bắc chí Nam bắn giết, bắt cóc ngư phủ Việt Nam trước sự bất lực, thờ ơ của Hải quân nhân dân; Chưa nói đến vụ các cơ quan công quyền và công an nhân an Việt Nam cộng sản cấu kết với băng đảng tội phạm quốc tế buôn bán phụ nữ và trẻ em Việt Nam để phục vụ tình dục cho các xứ lân bang như Lào, Thái, Miên (ở xứ này có động điếm con nít), Hương Cảng, Macau, Đài Loan, Hàn quốc. Liên hiệp Quốc vẫn thường xuyên cảnh báo Việt Nam về hành động này, nhưng vẫn vô hiệu.
Đất nước èo uột, mất sĩ diện, dân chúng lầm than, không nhân phẩm, nghèo nhân quyền, đảng cộng sản Việt Nam lại chi hơn 4 tỷ Mỹ kim để làm một cuộc lễ gọi là "kỷ niệm Thăng-Long 1000 năm tuổi" và cử hành đúng vào ngày 01/10/2010 ngày thành lập nước Tầu cộng sản và kết thúc 10/10/2010 là ngày quốc khánh Đài Loan, đây là một sự hợp thức hóa tình trạng Bắc thuộc đã có từ lâu kể từ khi đảng Cộng sản Việt Nam còn mang tên Đảng Cộng sản Đông Dương.
Trần Ích Tắc, Trần Kiện, Lê Chiêu Thống là những thành phần bán nước cầu vinh, nhưng họ còn một chút tự trọng đó là chưa nhượng một tấc đất của tổ tiên cho giặc Tầu. Ngày nay đảng Cộng sản Việt Nam đã không còn một chút gì tự trọng và liêm sĩ khi họ bán nước cầu vinh để giữ ngai vàng chế độ và nhượng từng tấc đất giang sơn của tổ tiên để lại cho Tầu cộng phương Bắc.
Trên trang báo điện tử, tuanvietnam.net phổ biến một thông tin đặc biệt, theo giáo sư Phan Huy Lê: "Thông tin Hoàng thành Thăng Long vừa được công nhận là Di sản Văn hóa thế giới là một thành công lớn và là một tặng phẩm có giá trị và ý nghĩa lớn lao cho Đại lễ Nghìn năm Thăng Long-Hà Nội". Thật là vinh hạnh và danh dự, nhưng điều đó dân tộc Việt Nam đâu có hưởng được. Do vì Thăng Long sắp sửa được bàn giao cho đảng cộng sản Trung hoa rồi còn gì. Đồng thời có nhiều nguồn tin cho biết Thăng-Long xưa Hà Nội nay có thể đổi tên là thành phố Mao Trạch Đông, như csvn đã từng đổi tên thủ đô Sài Gòn của Việt Nam Cộng Hòa sang thành phố Hồ chí Minh.
Trên trang nhà chinhphu.vn nói: "Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội là sự kiện trọng đại trong lịch sử nước nhà, thể hiện tình cảm, đạo lý uống nước nhớ nguồn, tôn vinh các giá trị truyền thống lịch sử và cách mạng của dân tộc, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phấn đấu xây dựng đất nước theo định hướng XHCN dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Thực chất lại không phải như lời của đảng Cộng sản Việt Nam đã nói.
Tiến trình chuẩn bị dư luận để đưa Việt Nam trở thành quận huyện nội thuộc của Tầu cộng đã được chuẩn bị từ một thời gian rất lâu và trải qua nhiều giai đoạn.
Sau khi đã mượn binh lính, quân trang, quân cụ của Tầu cộng nói riêng và khối cộng sản quốc tế nói chung (đứng đầu là Nga Xô Viết để xâm chiếm toàn bộ nước Việt Nam cũng như tiêu diệt tinh anh của tộc Việt từ năm 1930 đến năm 1975), đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục tiến trình Hán hóa tộc Việt bằng nhiều hình thức...
Chúng tôi xin nêu lên những sự kiện mới nhất:
Họ đã định hướng cho một số trí thức Việt Nam, dần dần phủ nhận chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường, như Tiến sĩ Vũ Quang Việt, thành viên Ban Tổ chức “Hội thảo Biển đông” trong ngày 29/07/2010 tại Philadelphia-Hoa Kỳ, trả lời phỏng vấn của đài bbc.com như sau: "Chẳng hạn, theo nghiên cứu của tôi, không thể nói chắc chắn rằng Hoàng Sa và Trường sa là của Việt Nam. Cho tới bây giờ chưa tìm thấy chứng cứ tài liệu nào trong lịch sử Việt Nam rõ ràng để nói rằng Trường Sa là của Việt Nam".
Nhà báo Trần Đông Đức trao đổi tin tức về “Hội thảo Biển đông” với nguoi-viet.com cho biết ông Vũ Quang Việt là một chuyên gia kinh tế có nhiều liên lạc với trong nước và được coi như là nhân vật uy tín với chính phủ Việt Nam hiện nay. .. ông Vũ Quang Việt qua Mỹ từ thời trước 1975 nhưng hiện có quốc tịch Việt Nam (CHXHCNVN) cho nên ông ta là chuyên gia có sức ảnh hưởng đến các chính sách như công dân Việt Nam ở nước ngoài... đây là định hướng muốn hạ nhiệt bớt tinh thần dân tộc để Việt Nam có không gian đàm phán với Trung Quốc về vấn đề biển đảo. Những cuộc hội thảo như thế này ở Mỹ được sự hậu thuẫn từ bộ ngoại giao Việt Nam Cộng sản. Điều đáng nói ông Vũ Quang Việt không phải là một sử gia hay một nhà khảo cứu chuyên môn về Hoàng Sa và Trường Sa. 
1/ Tiến sĩ Vũ Quang Việt đã quên một sự kiện rất quan trọng xác nhận chủ quyền của Việt Nam, đó là trận hải chiến Hoàng Sa hồi thế kỷ trước (thế kỷ 20) giữa các chiến sĩ Hải quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, những hậu duệ của Hoàng đế Trần Nhân Tông, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, đã chiến đấu ngang ngửa với kẻ thù với phương Bắc khi chúng có mưu đồ lấn chiếm hải đảo của Việt Nam. Hơn 50 chiến sĩ hải quân can trường đã ở lại vùng biển sâu, ghi dấu trận hải chiến lẫy lừng thứ hai (năm 1974) của tộc Việt đụng độ với giặc Tầu phương Bắc, sau trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng năm 1288.
Sau ngày 30/04/1975, năm 1988, 64 người lính Hải quân cộng sản Việt Nam đã bị Hải quân Cộng sản Tầu hạ sát khi họ nhất quyết giữ đảo Trường Sa.
Nếu Việt Nam không có chủ quyền, tại sao những người lính nêu trên phải bỏ mình để bảo vệ Hoàng sa, Trường Sa như vậy?
Đồng thời còn rất nhiều văn kiện lịch sử chứng minh Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.
2/ Lập luận nguy hiểm của một trí thức như ông tiến sĩ Vũ Quang Việt cũng giống như lập luận ngược đời của bà Đỗ Ngọc Bích tác giả bài viết "Một cách nhìn khác về tinh thần dân tộc" đã phủ nhận nguồn gốc độc lập của tộc Bách Việt với Hán tộc. Người Việt khắp nơi đã phản ứng mạnh mẽ với tác giả Đỗ Ngọc Bích cũng như đài BBC Luân Đôn, khiến đài này đã cách chức một biên tập viên Việt ngữ và trưởng ban Việt ngữ là Nguyễn Giang bị khiển trách nặng nề.
3/ Tại Lễ Hội Âm Thực Thế Giới 2010 ở Vũng Tàu người ta ghi nhận có thêm 1 ngôi sao trên cờ Trung Quốc. Nghĩa là 6 ngôi sao, 5 ngôi sao nhỏ bao quanh một ngôi sao lớn. Tại lễ hội này cờ của Trung hoa cộng sản có thêm 1 ngôi sao cùng với 4 ngôi sao nhỏ đã có trước đây bao quanh 1 ngôi sao lớn bên trong. Ngôi sao thứ sáu là ngôi sao vàng, là của đảng cộng sản Việt Nam. Trước đây, cờ của Trung hoa cộng sản chỉ có 5 ngôi sao  (1 ngôi lớn bên trong tượng trưng cho Hán tộc, 4 ngôi sao bao quanh tượng trưng các dân tộc bị trị như Hồi, Mãn, Tạng và Mông).

Cờ Tầu cộng ở lễ hội ẩm thực thế giới 2010 Vũng Tàu có thêm 1 ngôi sao. Ngôi sao lớn ở góc trái tượng trưng cho Hán tộc, 5 ngôi sao bao quanh là Hồi tộc, Mãn tộc, Tạng Tộc, Mông tộc và cuối cùng là...Việt cộng

Cờ Tầu cộng trên Wikipedia.org, chỉ có ngôi sao lớn ở góc trái là Hán tộc, 4 ngôi sao bao quanh là Hồi tộc, Mãn tộc, Tạng Tộc, Mông tộc
4/ Tế Mã Viện: 
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức nhiều nghệ sĩ từ Việt Nam qua dự lễ tế Mã Viện từ năm 2008, và tham gia cúng vái kẻ đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng khiến cộng đồng mạng giận dữ và lên án dữ dội vào lúc đó.
Hình ảnh lễ tế Mã Viện được đưa trên phần diễn đàn (forum) của trang web hongdou.gxnews.com.cn ca ngợi Phục Ba Tướng Quân Mã Viện và chú trọng nhiều vào phái đoàn mà họ gọi là những “Việt phương sư phụ” (bậc thầy từ xứ Việt) đến trình diễn văn nghệ và cùng tham gia cúng tế

Một số hình ảnh, cho thấy các nghệ sĩ Việt Nam dự lễ tế Mã Viện khiến cộng đồng mạng giận dữ và lên án dữ dội (hình -hongdou.gxnews.com.cn)
5/ Bộ phim "Lý Công Uẩn - đường tới thăng long" do đạo diễn Tầu thực hiện.
Từ y phục cho đến cảnh trí, từ áo mão cho đến cách búi tóc, hình ảnh tỏa ra cho chúng ta thấy: Đây là một phim của Tầu; chẳng khác gì những phim lịch sử kiếm hiệp mà họ vẫn thường sản xuất mà đông đảo người Việt Nam thường xem.
Tất cả diễn viên đều là người Tàu, chỉ trừ cô gái và chiếc áo tứ thân.
Bộ phim đã được đảng Cộng sản Việt Nam giao cho "Công ty Cổ phần Truyền thông Trường Thành”.
Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh phản ảnh:
"Thật không thể được! Nếu tôi là Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch, tôi sẽ cấm chiếu bộ phim này trên toàn cõi Việt Nam, bất kể trên truyền hình hay rạp".

Một cảnh trong phim giống như những bộ phim cổ trang kiếm hiệp của Tầu
6/ Lễ mừng quốc khánh nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa ngày 1 tháng 10 Năm 2010 dưới tiêu đề "Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội"
Thành Thăng-Long của ngàn năm trước, nay là thành phố Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam Cộng Sản. Hiện nay đảng Cộng sản Việt Nam đang tưng bừng chuẩn bị "Đại lễ Kỷ niệm ngàn năm Thăng-Long" vào ngày 01/10/2010 kết thúc ngày 10/10/2010. Tổng số kinh phí cho buổi lễ là 94 ngàn tỷ Đồng Việt Nam (theo VNExpress) xấp xỉ khoảng 4,5 tỷ Mỹ kim  (1 tỷ Đồng # 50.000 $).
Thành Thăng Long hay Thành Rồng Bay Lên được thành lập cách đây một ngàn năm (1000 năm), lễ kỷ niệm lập Thành đã qua. Ngày kỷ niệm đúng theo sách sử như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục ghi là vào tháng 7 năm 1010, thành Thăng Long được Đức vua Lý Thái Tổ thành lập khi thuyền dừng dưới bờ thành Đại La, bổng có rồng vàng (Toàn Thư) hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long.
Thành Thăng Long xưa, tên gọi ngày nay (năm 2010) là Hà Nội do đảng Cộng sản Việt Nam cai trị đã không tổ chức đúng thời điểm như lịch sử đã ghi. Đó là vào tháng 7 năm 2010 (nhằm ngày 10/08/2010 dương lịch), hoặc vào tháng 12 khi hoàn tất cung Thúy Hoa. Đảng Cộng sản Việt Nam lại chọn ngày 1/10/2010 là ngày khai mạc đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội. Và ngày 10/10/2010 là ngày bế mạc. Ngày 1/10/2010 là quốc khánh của Tầu cộng, còn 10/10/2010 là quốc khánh của Đài Loan. Đầu cũng là Tầu và cuối cũng là Tầu. Sự lựa chọn có mục đích chính trị đen tối như thế đã không có chỗ đứng cho Thăng Long của Đại Cồ Việt khi xưa.
Năm nay, 2010 là kỷ niệm đúng 1000 năm thành Thăng Long xưa, với ngày hôm nay tên gọi là Hà Nội. Từ tháng 7 mùa thu năm 1010 đến tháng 7 mùa thu năm 2010, thành lập được 1000 năm. Nếu tính theo dương lịch năm 2010, tháng 7 mùa thu của năm nay bắt đầu vào ngày 10/08/2010 dương lịch. Do đó lễ lớn kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội phải là ngày 10/08/2010 chứ không phải 1/10/2010 như Nguyễn Tấn Dũng Thủ tướng Việt Nam Cộng sản đã ấn định và Nguyễn Sinh Hùng phó thủ tướng thường trực chính phủ làm Trưởng ban chỉ đạo quốc gia lễ lớn kỷ niệm Thăng Long - Hà Nội 1000 năm tuổi. Buổi lễ khai mạc sẽ được tổ chức tại vườn hoa Lý Thái Tổ và đường Đinh Tiên Hoàng cũng như chung quanh khu hồ Hoàn Kiếm và ngày bế mạc là 10/10/2010.
Do đó, lịch sử nước nhà, lịch sử của Thăng Long đã bị hoen ố, có được rửa sạch hay không, và rửa bằng cách nào, câu trả lời dành cho toàn thể người Việt Nam ở trong và ngoài nước.
Những điều nêu trên là thực tế đau lòng của Thăng-Long ngàn năm sau, không rõ vị sử gia Phật giáo nêu trên có bồi hồi hay không?
V. Kết Luận:
Đảng Cộng sản Việt Nam đã hiện nguyên hình là tập đoàn An Nam đô hộ phủ, cánh tay nối dài của Tầu cộng phương Bắc trong tiến trình Hán hóa tộc Việt từ mấy mươi năm qua.
Vận nước ý dân Nam quốc sơn hà 1000 năm trước của thành Thăng-Long huy hoàng rực rở và tự hào biết bao nhiêu; Vận nước ý dân Nam quốc sơn hà 1000 năm sau đen tối tủi nhục, và sẽ mở ra trang  Bắc thuộc mới của dân tộc Việt Nam bắt đầu ngày 01/10/2010.
Nhiều trang nhà, nhật ký điện tử, cũng như cá nhân đã phản đối quyết định của ông Nguyễn Tấn Dũng chọn ngày 1/10/2010 làm lễ hội Thăng Long, thực chất là mừng quốc khánh nước Trung hoa cộng sản và thần phục xưng chư hầu với họ. Trên 50 trang web, hàng ngàn người Việt Nam trong và ngoài nước đã nhận được, đọc được văn bản Kính Mừng Thăng Long 1000 Năm Tuổi Tẩy Chay Quốc Khánh và Thần Phục Xưng Chư Hầu Với Tầu Cộng Ngày 1/10/2010 của đảng Cộng sản Việt Nam Dưới Tiêu Đề " Đại Lễ Khai Mạc Kỷ Niệm 1000 Năm Thăng Long - Hà Nội".
Một Bản Tuyên Cáo Chung của hơn 30 hội đoàn, tổ chức chính trị người Việt hải ngoại được phổ biến ngày 01/09/2010 để tẩy chay quốc khánh Tầu cộng ngày 01/10/2010. Đồng thời có hơn 700 cá nhân khắp nơi trên thế giới ký tên ủng hộ Tuyên cáo và tẩy chay quốc khánh Tầu cộng.
Vua Lê Ngọa Triều bị chết đột ngột khi đã đối xử tàn bạo, độc ác với người dân trong xứ. Đặc biệt ông ta đã ngang nhiên róc mía trên đầu Tăng thống Quách Mão, rồi làm bộ trợt tay dao, khiến đầu của ngài Quách Mão phải chảy máu.
Năm 2010, Cộng sản Việt Nam hành hạ làm chết người dân ở xóm đạo Cồn Dầu; hành hạ, ngược đãi, đánh đập chư Tăng Ni Phật tử ở chùa Giác Minh Đà Nẵng, ngăn cấm không cho chư vị cử hành lễ Vu Lan truyền thống của dân tộc. Hành động đó không khác gì của vua Lê Ngọa Triều ở các năm 1005-1009.
Người xưa có câu: "Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai thì". Làm điều lành hay dữ, rồi sẽ có kết quả, chỉ là đến sớm hay muộn mà thôi.
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức Lễ kỷ niệm thành Thăng-Long 1000 năm tuổi đã có những hành động bất kính với tổ tiên như thế. Trời đất, liệt vị anh linh tổ tiên Bách Việt sẽ không bao giờ tha thứ cho quý vị. Một chế độ chính trị, trước sau cũng sẽ cáo chung, chỉ có dân tộc là tồn tại với lịch sử. Đừng nghĩ rằng Trung hoa Cộng sản sẽ tồn tại vĩnh viễn để bảo vệ cho quý vị. Hãy nhìn chế độ hung bạo như Tần Thủy Hoàng, Thành Cát Tư Hãn, chế độ quốc xã của Adolf Hitler v.v... rồi cũng thành cát bụi. Nhưng tiếng nhơ để lại ngàn đời sau.
Hãy mau tỉnh ngộ, sớm sám hối những tội lỗi mà đảng Cộng sản đã vấy máu của dân tộc Việt Nam từ hơn 50 năm qua bằng những hành động cụ thể.
Hãy noi gương đức vua Lý Thái Tổ ban bố nhân nghĩa cho toàn dân. Đồng thời thực thi việc trao trả Nhân Quyền Cho Người Sống và Linh Quyền Cho Người Chết mà đức Tăng thống Thích Huyền Quang đã kêu gọi khi ngài còn tại thế.
Hãy đọc, nghiền ngẫm và thực hiện di chí của ngài Pháp Thuận thiền sư qua các bài thơ Vận Nước Ý Dân Nam Quốc Sơn Hà để biết cách lãnh đạo đất nước một cách đúng nghĩa.
*/*/*
Kính dâng Đức Vua Lý Thái Tổ Người Đã Khai Sáng Thành Thăng Long và Thành được thiết lập vào tháng 07 năm 1010 đến nay là tháng 07 năm 2010 (nhằm ngày 10/08/2010 Dương lịch) đúng 1000 Năm tuổi.
Nguyện cầu anh linh liệt vị tổ tông của tộc Việt cùng anh linh đức vua Lý Thái Tổ độ trì cho Dân Sinh Quật Khởi - Dân Quyền Trùng Quang để chúng con sớm đánh đuổi thù trong (Việt cộng) giặc ngoài (Tầu cộng) ra khỏi bờ cõi nước Nam.
Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc, Hội Sử-Học Việt-Nam.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét