Người theo dõi

Thứ Bảy, 11 tháng 11, 2017

NHỮNG VỊ NỮ VƯƠNG CÔNG CHÚA VIỆT


NHỮNG VỊ NỮ VƯƠNG CÔNG CHÚA VIỆT 
Trần Thị Hồng Sương

“… Không phải tình cờ mà phụ nữ đã đạt được đến đỉnh cao tri thức để có thể bày tỏ thân phận con người trong lốc xoáy chiến tranh độc tài xâm chiếm lãnh thổ …”
 

Lịch sử là quá khứ đã chết hẳn song vẫn ghi dấu lên nhân cách và hành động của con người qua dòng sinh mệnh của truyền thống, làm nên bản sắc dân tộc. Nhìn từ góc khác thì có người cho rằng văn hoá là những gì còn lại sau khi đã quên hết. Trải nghiệm của cuộc sống hay qua học hỏi được tiêu hoá chọn lọc đào thải mất dấu trong ý thức nhưng và ghi dấu trong tiềm thức, hình thành niềm tin và quan điểm rất sâu sắc mạnh mẻ nhiều hơn chúng ta từng nghĩ. Đã có thống kê kết luận rõ về những đứa trẻ bất hạnh lớn lên với đòn roi nhục mạ, nếu không tự tử chết như năm bé gái cột tay nhau nhảy xuống sông thì nhân thân cũng dễ phạm tội hơn nhiều lần những trẻ có tuổi thơ ít đau khổ hơn.

Đắm mình trong nền văn minh lúa nước “Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”, trong chiến tranh chống xâm lược phương Bắc là Trung Hoa (“Muốn coi lên núi mà coi, Coi bà quản tượng cưỡi voi bành vàng!”), rồi đến sự đa dạng văn hoá quốc gia khi Đại Việt có thêm cư dân người Chăm Pa và Khmer.


Gây chiến chính là một trong những “sự đồi trụy của quyền lực đàn ông”, chủ đề xuyên suốt của các tác phẩm của hai nhà văn nữ: Herta Müller (Đức gốc Roumania) đoạt giải Nobel 2009 “đã miêu tả phong cảnh của mảnh đất bị tước quyền sở hữu” gây ra nhiều phận người mang nỗi lòng tha hương ít nhiều lạc lõng, và giải Man Booker năm 2009 được trao tặng cho nhà văn Anh Hilary Mantel, với tác phẩm Wolf Hall (Đại sảnh sói)... Không phải tình cờ mà phụ nữ đã đạt được đến đỉnh cao tri thức để có thể bày tỏ thân phận con người trong lốc xoáy chiến tranh độc tài xâm chiếm lãnh thổ. 

Từ điểm nhìn này, bài viết muốn xem lại một bức tranh sơ thảo khi tìm hiểu những phụ nữ Việt Nam từng mang sứ mệnh và ghi dấu ấn vào lịch sử, và đặt lại một vài câu hỏi cho những nhà sử học.

 

*

Hai Bà Trưng: Trang sử Việt Nam được mở đầu năm 40-43 bằng chiến thắng quân xăm lược phương Bắc của Hai Bà Trưng: Trưng Trắc và Trưng Nhị (40-43) và mẹ là Bà Man Thiện theo cổ sử thời này người Việt chưa có họ chứ không phải họ Trưng hay họ Man. Nam Man là tiếng Trung Quốc hay gọi người Việt cổ dần dà chuyển theo đơn âm nên gọi người Việt cổ là “Mán” kiểu Trung Quốc gọi người Việt cổ lạc hậu man rợ. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương. Quân Hán sang đánh và Bà Trưng đã kháng cự. Cuộc kháng chiến chống quân nhà Hán và hai bà đều tử trận song hai bà vẫn kịp trở thành biểu tượng, sừng sững một tượng đài kháng chiến chống ngoại xăm phương Bắc làm nên niềm hảnh diện sâu thẫm trong lòng từng người dân Việt, trường tồn trong dòng sinh mệnh dân tộc thành ngọn lửa truyền thống chống ngoại xâm. 

Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ôi! Có thể gọi là tự vứt bỏ mình vậy.” (Lê Văn Hưu)

Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, vung tay hô một tiếng mà quốc thống nước ta cơ hồ được khôi phục, khí khái anh hùng há chỉ lúc sống dựng nước xưng vương, mà sau khi chết còn có thể chống ngăn tai hoạ. Phàm gặp những việc tai ương hạn lụt, đến cầu đảo không việc gì là không linh ứng. Cả bà Trưng em cũng thế. Vì là đàn bà mà có đức hạnh kẻ sĩ, cái khí hùng dũng trong khoảng trời đất không vì thân chết mà kém đi. Bọn đại trượng phu há chẳng nên nuôi lấy cái khí phách cương trực chính đại ấy ư?”( Ngô sĩ Liên ) 

Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác, chẳng những mặt dày thẹn chết lắm ru!” ( Vua Tự Đức)

Việc những người đàn ông thuộc hàng danh tài sử gia vua chúa đều khen và học tấm gương của Bà Trưng cũng đã đủ để thấy những trang sử Việt này đáng trân trọng dường nào và đáng để lấy làm biểu tượng cho nền văn hoá Việt và xuất hiện chốn công đường. Trong đại sảnh, phòng khách chốn công đường như trước 1975 thường không thiếu bức tranh sơn mài truyền thống cội nguồn dân tộc vẻ cảnh dân quân cùng hai bà Trưng cưỡi voi đi đánh giặc. 

Vậy nên phải đòi lại công bằng và trung thực. Hoàng cung Huế, Văn Miếu, Dinh Độc Lập lẽ ra phải sinh tồn và tiếp nối lịch sử như điện Buckingham ở Anh, chứ sao lại là di tích, hàm ý xoá bỏ một thời kỳ như thể có đối kháng không có thể nào tìm ra khớp nối với lịch sử? 

Tử cấm thành Trung Quốc ghi dấu 300 năm người Hán phải cạo nửa đầu cúi mặt khấu lạy ngoại bang Mãn Châu thống trị bằng bạo lực kinh hoàng nên người Hán có lý do biến nơi đó thành di tích. Nhưng cần tách chủ nghĩa đô hộ, phát xít, Cộng Sản chiến tranh ra khỏi những di chỉ văn hoá không mang nội hàm đó. Văn hoá nghệ thuật văn chương có thể dùng phục vụ chính trị và cũng có thể không có nội hàm chính trị nào. Những thứ không liên quan đến chính trị như một kiến trúc dinh thự lâu đài, một bài nhạc, một bài văn thì không thể phá huỷ vất bỏ. Hiện nay, trong Dinh Độc Lập không còn bóng dáng những bức tranh hoành tráng một thời. Tôi là một trong đoàn sinh viên Dược Khoa dự buổi chiêu đãi của đệ nhất phu nhân VNCH Nguyễn Văn Thiệu và phu nhân Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ tại phòng Đại Yến Dinh Độc Lập, và bức tranh lớn trong phòng Đại Yến (nếu tôi nhớ không lầm, và nếu không do VNCH có thể sử dụng nhiều bức tranh thay đổi) là bức tranh Hai Bà Trưng đánh đuổi nhà Hán. Bức tranh này ở Dinh Độc Lập nay không thấy đâu! Hiện nay thay bằng tranh phong cảnh không có chút ý nghĩa nào. Như vậy mà nói xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc là dân tộc nào? Một điều chắc chắn nhất là không chốn công đường nào ngày nay treo tranh cảnh dân quân cùng hai bà Trưng đánh giặc như công sở VNCH thường treo trước 1975. Với truyền thống và hiểu rõ mưu đồ Trung Quốc với miền Bắc, ông Dương Văn Minh dứt khoát từ chối lời đề nghị của đại sứ Pháp Merillon trong biến cố 30.4.1975 là nhờ Trung Quốc áp lực để Pháp thương lượng buộc CS miền Bắc tuân thủ hiệp định Paris. 

Thứ hai là lá cờ VNCH cờ vàng ba sọc đỏ bằng gỗ trên tường ở phòng Trình uỷ nhiệm thư trong Dinh Độc Lập . Vì sao phải bôi bỏ? Di tích lịch sử mà thay đổi thì còn ý nghĩa gì về lịch sử? Ta có thể nào viết lại lịch sử VN mà bỏ đi thời VNCH không? Buồn thay, một lần nữa lá cờ đỏ sao vàng lại xuất hiện trong phim Nữ điệp báo nói về phong trào Cộng Sản trước Mao Trạch Đông (dù thoáng qua hơn phim Vạn lý trường chinh vài năm trước đây) đang chiếu trên đài Truyền hình VN. Đề nghị, nếu từng vì bất cứ lý do gì nghiệt ngã đến độ phải copy lá cờ dấy binh CS của Trung Quốc thì ngành quân sử, sử học, hoạ sĩ VN lẽ nào tiếp tục yếu kém đến độ không vẽ nổi một lá cờ riêng? CSVN không sợ bị mang tiếng nô lệ văn hoá Tàu đến mất thể diện quốc gia vậy sao? 

Thời VNCH có một cuộc thi rất hào hứng cho giới trẻ, đó là thi viết diễn từ đọc trong Lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng hàng năm. Tôi đã tham dự và bị giải nhì do lời bình luận gây tranh luận trong giới chấm thi được cho là mới mẻ nhưng táo bạo, khó chấp nhận đưa ra công luận đọc trước công chúng! Hồi đó tôi viết: “Nếu nước Pháp tôn vinh Jeanne d’Arc là bậc thánh và cho rằng: “Lòng yêu nước xuất phát từ trái tim phụ nữ!” thì với công nghiệp Hai Bà Trưng vừa thắng quân nhà Hán vừa đưa Việt Nam ra khỏi thời huyền sử mông muội, bước vào thời đại có lịch sử, người Việt có thể kết luận là “Lòng yêu nước và nền văn minh Việt Nam xuất phát từ trái tim và khối óc của những những người phụ nữ!”. Đó là câu đánh giá đến nay ngẫm lại cũng không sai tuy có vẻ nên thêm vào câu “với sự góp công sức và trí tuệ toàn dân” cho tròn ý. 

Với Jeanne D’Arc của thế kỷ 15 (1412-1431) khi Pháp nỗ lực tìm bản sắc của mình sau các cuộc biến động chiến tranh chính trị làm đất nước tan hoang lòng người suy sụp, tìm kiếm một anh hùng chân chính, không có tai tiếng thì Jeanne d’Arc xuất thân từ một làng quê hẻo lánh, một cô thôn nữ thất học nhưng đánh thắng quân Anh xâm chiếm mà thành xuất chúng khi còn chưa quá tuổi thiếu niên đã đáp ứng được các tố chất đó và được phong thánh. Việt Nam đã có anh hùng tài đức vẹn toàn là Hai Bà Trưng từ thế kỷ thứ nhất là rất đáng tự hào! 

Lịch sử Viêt Nam bắt đầu từ Hai Bà Trưng chứ không phải Vua Hùng. Mười tám Vua Hùng là huyền sử nhuốm màu huyền thoại thần thánh kém tính khoa học. Ông Nguyễn Tất Thành có lẽ không muốn biết sử lập quốc Việt Nam do Hai bà Trưng viết những trang sử đầu và công bảo vệ đất nước chống Trung Quốc vào thế kỷ thứ I, hay vì sợ mà ngày nay chỉ nói đến vua Hùng? Nhưng dân VN vốn thông minh và chống xâm lược pghương Bắc ăn sâu tiềm thức nên nói đến các vua Hùng cũng chỉ nói nhiều đến Trọng Thuỷ-Mỵ Châu!

Nữ vương Lý Chiêu Hoàng cho thấy Đại Việt xưa không phân biệt Nam nữ so với hoàng gia Nhật Bổn đến nay 2009 còn không đồng thuận việc có nữ vương. Lý Chiêu Hoàng sinh năm 1218 lên ngôi lúc 7 tuổi 1224. Năm 1225 nhường ngôi cho Trần Cảnh và làm hoàng hậu. Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng lấy nhau 12 năm không con nên Trần Cảnh bị ép lập hoàng hậu khác là cũng là chị gái đang có mang với Trần Liễu. Trần Cảnh không đồng ý nhưng cũng bị ép lập Thuận Thiên làm hoàng hậu. 

Công chúa Mai Hoa là con của vua Lê Anh Tông (1556-1573) và là chị gái của vua Lê Thế Tông (1573-1599). Vua cha bị Trịnh Tùng đuổi bắt và giết chết, lúc 42 tuổi (1573), vua Lê Thế Tông (1573-1599) là con lên ngôi. Vì vua em này lên ngôi lúc 7 tuổi, nên chị là Mai Hoa được cử làm nhiếp chính. Là người có nhiều thế lực nhưng công chúa Mai Hoa cũng nổi tiếng đức độ, thuỳ mị và có lòng bác ái. Công Chúa Mai Hoa là Mẹ bề trên của Tu viện Đức Mẹ Vô Nhiễm đầu tiên tại Việt Nam. Công Chúa Mai Hoa còn được gọi là công chúa Chiêm vì là con bà phi người Chăm Pa, cũng gọi là “Công Chúa Chè” vì có công phát triển nghề trồng chè. 

Ngược dòng cổ sử thời nhà Lý tại vùng thượng du Bắc Việt nhiều nhóm thị tộc Mán Mường và thiểu số khác chiếm cứ và sinh sống trên những vùng miền có tính yết hầu chiến lược. Triều Lý có chính sách chiêu dụ và tạo thêm vây cánh, thắt chặt tình thân thiện với các thị tộc này bằng cách đem gả các công chúa cho các thủ lãnh Châu mục. Vào Năm 1029 vua Lý Thái Tông gả công chúa Bình Dương cho châu mục Lạng Châu (Lạng Sơn) là Thân Thiên Thái, 1036 Vua Lý Thái Tông lại gả công chúa Kim Thành cho châu mục Phong Châu (Phú Thọ, Sơn Tây) là Lê Tông Thuận và gả công chúa Trường Ninh cho châu mục Thượng Oai là Hà Thiện Lãm. Năm 1082, Lý Nhân Tông gả công chúa Khâm Thánh cho Châu mục Vị Long (Tuyên Quang) là Hà Di Khánh, năm 1127 gả công chúa Diên Bình cho thủ lãnh phủ Phú Lương (Thái Nguyên) là Dương Tự Minh, vào năm 1144 chính Dương Tự Minh lại cưới thêm một công chúa Thiều Dung. Như vậy trong suốt triều đại nhà Lý đã có sáu công chúa được gả cho các châu mục có họ Thân, Hà, Dương, Lê. Những họ này là của người Mường, Mán -tức người Việt Nam trên miền cao, vì lý do gì đó sống tách biệt trên rừng hùng cứ một phương và có khả năng quân sự triều đình phải chiêu dụ. Châu mục là Tù trưởng một huyện miền núi. Chính các Châu mục này đã ngăn chặn trấn thủ biên giới phía Bắc. Giáo sư Phan Khoang ghi chú thêm như sau: “Việc này, sử ta đều không chép, có lẽ các sử thần nhà Nguyễn cho là việc không đẹp, nên giấu đi chăng? Nhưng nếu họ quan điểm như vậy thì không đúng. Hôn nhân chính trị, nhiều nước đã dùng, còn ở nước ta thì chính sách đã đem lại ích lợi quan trọng. Đời nhà Lý thường đem công chúa gả cho các tù trưởng các bộ lạc thượng du Bắc Việt, các bộ lạc ấy là những giống dân rất khó kiếm chế. Nhờ đó mà các vùng ấy được yên ổn, dân thượng không xuống cướp phá dân ta, triều đình thu được thuế má, cống phẩm; đất đai ấy, nhân dân ấy lại là một rào dậu kiên cố ở biên giới Hoa Việt để bảo vệ cho miền Trung Châu và kinh đô Thăng Long...”.

Những dòng trên có thể xem là phản biện cho một số quan điểm sử gia thời trước, vì sử thần Ngô Sĩ Liên từng bàn về cuộc hôn nhân của Công chúa Huyền Trân như sau: “Ngày xưa Hán Cao hoàng vì nước Hung-nô thường quấy phá biên giới, mới lấy con gái của dân làm công chúa gả cho thiền vu, kết hôn với người không phải giống nòi, các tiên nho đã từng chê (...).Còn như Nhân Tôn đem con gái gả cho vua nước Chiêm-thành là nghĩa gì ? Nói rằng nhân khi đi chơi mà chót hứa gả, sợ thất tín, thì sao không làm việc đổi mệnh có được không ? Vua giữ ngôi trời mà thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi mệnh thì có khó gì, mà lại đem gả cho người xa không phải giống nòi cho đúng lời hẹn ước, rồi lại dùng mưu gian trá cướp lại về sau, thế thì tin ở đâu ?”.

Đầu năm Ất Dậu (1265), lúc đầu quân Nguyên Mông đánh tới Gia Lâm vây hãm Thành Thăng Long, để giảm nhẹ cơn quốc nạn công chúa An Tư được cống nạp cho Trấn Nam Vương Thoát Hoan con Hốt Tất Liệt.

Sau đó Đại Việt phản công và thắng trận. Bên cạnh chiến thắng của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn còn có sự hy sinh thầm lặng của Công Chúa An Tư nhà Trần, em gái út của Trần Thánh Tông. Số phận vị công chúa này ra sao không rõ. Có tài liệu nói công chúa theo Thoát Hoan về Tàu và có hai người con. 

Công chúa Huyền Trân: Năm 1306, vua Chiêm là Chế Mân lấy công chúa Huyền Trân và đổi lấy hai châu Ô Lý làm quà sính lễ. Tuy là dải đất lớn nhưng là vùng nắng bỏng cháy da, đất cày lên sỏi đá, gió Lào rát mặt khô cằn và mùa mưa thì hứng bão nên đến nay cũng vẫn là vùng nghèo nhất. Đây không phải là vùng đất làm giàu sinh lợi, cần nhận ra sự thật đó. 

Công chúa Ngọc Vạn: Vị vua mới lên ngôi của Chân Lạp là Chey Thettha II cho xây một cung điện tại Oudong, ở đây ông làm lễ thành hôn với một công chúa con vua An Nam. Triều đại Chey-Chetta II công nữ Ngọc Vạn, năm 1920 kết hôn với vua Chân Lạp Chey-Chetta II lên ngôi năm 1623-1657. Sau hai lần giúp vua Chân Lạp đánh quân Xiêm, Đại Việt được tặng vùng đất nay là Biên Hoà Sài Gòn. Bà hoàng hậu rất xinh đẹp và có nhiều đức tính được vua Cao Miên cưng quý vô cùng. Bà đã góp nhiều ý kiến hữu ích vào công việc trị nước của vua Chey Chettha II. Tước hiệu đầy đủ là Somdach Prea Preaccac Vodey Prea Voreac Khsattey. Nhờ ảnh hưởng của hoàng hậu mà vua Cao Miên không phản đối khi bà xin cho nhiều người Việt Nam vào giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình Cao Miên cũng như cho nhiều người Việt Nam lập hãng xưởng và buôn bán gần kinh đô. 

Từ năm 1628 đến 1642, quyền lực tại triều đình Oudong nằm trong tay Hoàng thân Outey, người Việt Nam đến lập nghiệp ở các vùng Gia Định, Bà Rịa, Biên Hoà ngày càng đông. Đất rộng người thưa và người Miên không muốn sống chung với người khác văn hoá nên hễ người Việt đến Người Miên vì không muốn sống chung với người khác văn hoá và mạnh hơn nên hễ người Việt đến sống gần họ thì họ bán đất lánh đi nơi khác. Khi Chey Chatta mất, vùng đất từ Prey Kôr trở ra bắc đến biên giới Chiêm Thành tức là Sài Gòn, Bà Rịa, Biên Hoà ngày nay, đã có nhiều người Việt đến ở và khai thác đất đai.

Vào năm 1631 Công chúa Ngọc Khoa lấy vua Chăm Pa Po Romé, một trong những vị vua được người Chăm hoá thần. 

Trong bài ca Chiêm Thành Ni Danak Po Romé có câu: “Vua Po Romé có ba vợ: hai người giống da sậm và một người Việt Nam, cả ba người đều ghen nhau, cãi vã ồn ào trong cung điện nhà vua”. Theo truyền thuyết Chiêm Thành, bà Ngọc Khoa hay Bia Ut đã dùng sắc đẹp mê hoặc Pô Ro mê, khiến ông chặt bỏ cây “kraik”, biểu tượng thiêng liêng của vương quốc Chiêm Thành, vì vậy sau đó vương quốc nầy sụp đổ. 

Theo gia phả chúa Nguyễn thì năm 1651 triều đình Chăm Pa nội loạn giết chết Vua và một Hoàng Hậu. Chúa Nguyễn phải đưa quân trấn áp. Riêng Công Chúa Ngọc Khoa, đối chiếu nhiều sử liệu thì có thể bà bị nhóm phản loạn hành hình vu khống có âm mưu gây hại cho Chăm Pa. 

Theo tài liệu Chăm Pa, “năm 1653, vua Champa là Po Nraop chuẩn bị lực lượng quân sự của mình để tuyên chiến với chúa Nguyễn, thu phục lại khu vực Phú Yên bị rơi vào tay của Nguyễn vào năm 1611. Trước tình thế này, chúa Nguyễn đã gởi một đoàn quân hùng mạnh sang tấn công Champa, tiến đến sông Phan Rang, bắt được vua Po Nraop và cưỡng bách vua này ngồi trong rọ bằng sắt để đưa về Huế. Không chịu để cho nhà Nguyễn đối xử khinh bạc, Po Nraop tự huỷ mình để nêu cao tinh thần bất khuất”.

Cách đối xử với vua Chăm Pa như thế là khinh bạc như thời đất trời con người còn mông muội. Thật ra sự khinh bạc với Vua tù binh này có lý do đặc biệt, nếu thật sự Công chúa Ngọc Khoa bị nhục hình bức tử của kẻ cướp ngôi phản loạn Po Nraop đã giết chết Vua và một bà hoàng hậu người Êđê sau đó giết công chúa Ngọc Khoa. Nếu thật sự có âm mưu, Công chúa Ngọc Khoa đã lấy vua Po Romé từ năm 1631. Vua Po Romé chết năm 1651, không có việc phải chờ đến 20 năm sau, rồi sau khi chồng bà chết 2 năm Chúa Nguyễn mới tiến đánh Chăm Pa khi Chăm Pa đã lọt vào tay vua phản loạn Po Nraop. Thời công chúa Ngọc Khoa hai nước không có chiến tranh không dính dáng gì về việc Chăm Pa tự ý hay bị buộc nhượng đất đai chuộc mạng 20 năm trước 1611.

Lịch sử cho thấy hai năm sau vua cướp ngôi, lấy cớ đòi lại đất đai có thể Po Nraop đã giết và triều đình Chăm Pa Po Nraop vu khống cho Công chúa Ngọc Khoa để che giấu tội phản loạn. Po Nraop chủ động chuẩn bị tấn công Phú Yên Đại Việt năm 1653 nên chúa Nguyễn mới đem quân tấn công, bắt bỏ rọ là hành động không thích hợp với tù binh là một vị vua nhưng có thể hiểu lòng người cha xót con, lòng các quân tướng người Việt xót thương vị công nương nước Việt bị bức tử nhục hình! Đối chiếu với trường hợp trước kia, công chúa Chiêm là Mai Hoa có mẹ người Chăm Pa được giáo dục theo người Việt và đã làm đến chức vị Nhiếp chính vương. Điều này cho thấy trình độ văn hoá và tính nhân văn của Đại Việt quả là có khoảng cách hình thành lối tư duy khác xa nhau hành xử khác nhau.

Nhà truyền giáo Jésuite Joseph Tissanier, theo như Nguyễn Đố dẫn lời, có thể viết sai vì ông không phải sử gia cũng có thể không biết rõ, nhưng Nguyễn Đố nhất thiết phải biết và đính chính nếu có lòng trong thực. Nếu biết mà còn dựa trên sai lầm tán rộng thành hiềm khích là bôi lọ người khác. 

Tôi hoàn toàn thông cảm nỗi niềm thương tiếc của người Chăm Pa nhìn lại giai đoạn lịch sử đất nước luôn bị chiến tranh dồn ép bởi vì Đại Việt cũng là một nạn nhân của Trung Hoa bị xâm chiếm nhưng cũng thật bàng hoàng khó chấp nhận việc bóp méo lịch sử chỉ để thoá mạ gây ra hiểu lầm nguy hại. Cần hiểu về các vị công nương Việt Nam từng góp sức kiến tạo hoà bình và vào thời đất rộng người thưa nhiều hoang địa, đã mang về cho Việt Nam những vùng đất hoang để khai khẩn lập nghiệp sinh sống trong hoà bình để tôn vinh những người phụ nữ có công với đất nước và kiến tạo hoà bình khu vực. 

Không nên trách Vua nước Việt vì các cuộc hôn nhân chính trị đều mang nhiều nguy cơ trở thành nạn nhân của các tranh chấp luôn luôn xảy ra trong chế độ quân chủ. Đại Việt xưa có thể viện dẫn nhiều lý do không thật để bảo đảm an toàn cho các công nương bị rơi vào thế không còn ai bảo vệ. Theo lịch sử thì công chúa Huyền Trân sau đó vào chùa tu hành làm sư nữ chứ không có cuộc sống nào khác đang chê trách! Có thể do việc Công chúa Huyền Trân về Đại Việt gây bất bình nên đến khi vua Po Romé chết Chúa Nguyễn không đưa Công Chúa Ngọc Khoa về nước và số phận bi thảm đã đổ lên đời nàng Công chúa Việt Nam. 

Cần hiểu ra sao, vì sao một người ít nhiều mang tính chuyên gia lại có cách viết quá sai, gán cho vua Chăm phản loạn tự tử Po Nraop thành Po Romé là chồng Công Chúa Ngọc Khoa để từ đó ám chỉ xa gần đến gán tội giết chồng và đặt cả dấu hỏi lên công chúa Huyền Trân về cái chết của Chế Mân dù sính lễ chỉ là vùng đất cày lên sỏi đá miền Trung đến nay vẫn nghèo và khó sống. Dominique Nguyen, tức là Nguyễn Ðố, dân tộc Chăm gốc làng Minh Mỳ, Bình Thuận, cựu sinh viên Sorbonne (Paris), cộng tác viên thuộc Trung Tâm Lịch Sử và Nền Văn Minh Bán Ðảo Ðông Dương. Dominique Nguyen, viết đăng trên tạp chí Champaka như sau: “Sau ngày kết hôn với vua Po Romé, bà ta đã tiếp tay với vua cha ở Phú Xuân hầu cung cấp tin tức liên quan đến chiến lược quân sự của chồng mình. Nhờ tin này, Chúa Nguyễn xua quân chinh phạt Champa bắt được vua Po Romé và nhốt trong rọ sắt. Vì quá hổ thẹn, Po Romé quyết định chấm dứt cuộc đời của mình bằng cách tự tử mà một người truyền giáo tây phương Jésuite Joseph Tissanier đã kể lại. 

Sau ngày chết của Po Romé, hoàng cung Champa đưa Bia Ut (Ngọc Khoa) ra pháp lý và kết tội tử hình vì tội phản bội tổ quốc bằng cách đạp đầu bà ta vào bùn lầy cho đến khi tắt thở. Sau đó, cung đình Champa ra lệnh tạc tượng bà ta với tư thế đầu chúi xuống đất để hậu thế không quên vụ án này. Theo Nghiêm Thẩm, tượng Bia Ut vẫn còn vào năm 1960 toạ lạc ở cánh đồng Hamu Biuh (Phan Rang) cách đền Po Romé vào khoảng 8 cây số. Bia Ut, tức là Ngọc Khoa, con của Chúa Sãi Vương bị hoàng cung Champa lên án tử hình vì tội làm gián điệp. 

Có chăng Huyền Trân cũng mang thân phận như công chúa Ngọc Khoa, tức là bị Champa lên án vì đã nhận sứ mệnh của triều đình Ðại Việt nhằm ám hại Chế Mân để rồi vua Trân Anh Tôn phải tìm mưu kế đưa Huyền Trân về Thăng Long. Ðây chỉ là giả thuyết của chúng tôi mà thôi...” (Dominique Nguyen, “700 năm cuộc tình Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa : 1306-2006”, Champaka, 06/06/2007)

Người Chăm Pa giải thích là chỉ có các vị hoàng hậu người Chăm Pa mới được phép lên dàn thiêu với chồng và là sự tự nguyện nên trách việc Vua nước Đại Việt đem công chúa Huyền Trân về lại Việt Nam với lý do là sợ phải lên dàn thiêu sau khi Chế Mân chết. Cho nên thời vua Po Romé bà hoàng hậu người Chăm lại không lên dàn hoả, không được thờ với vua Po Romé mà Vua Poromé được thờ cùng người vợ sắc tộc Êđê thì chắc hẳn bà hoàng Êđê này bị vua phản loạn cướp ngôi Po Nraop giết chứ không có thể là tự nguyện lên dàn thiêu vì trái với luật hoàng gia Chăm Pa, đúng như tư liệu còn lại ở Việt Nam. Ông vua cướp ngôi giết vua và hai hoàng hậu xứng đáng vào rọ sát vì là tử tội của hoàng gia, chứ không phải tư cách vua thất trận. 

Các nhà sử học ăn lương nhà nước Việt Nam của chế độ hiện nay nghĩ thế nào về những nghi án lịch sử như thế?

 

*

Việt Nam chia cắt Bắc Nam cả một thế hệ (20-25 năm có thể xem là một thế hệ VN), và miền Bắc trong nền lịch sử chính trị chủ trương chiến tranh bức tử truyền thống chứ không phải là một qua trình xem xét chọn lựa. 

Nhiều phụ nữ miền Bắc lớn tuổi còn lưu giữ phần nào truyền thống gia đình trước 1945. Phụ nữ mang danh cách mạng giai cấp có sự đột biến thành dị thường, hảnh tiến, tự tin mù quáng, tự hào lầm lạc qua hình ảnh các nữ quan toà không biết chữ, thản nhiên chứng kiến giết người để chờ được chia “quả thực“ là giường tủ bàn ghế chén nồi trong CCRĐ. Những phụ nữ này rất khác với tính cách người phụ nữ thường dân Nam bộ và cũng khác phụ nữ miền Nam có danh phận mà điển hình là Nam Phương hoàng hậu khuê danh Nguyễn Hữu Thị Lan và bà Nguyễn Thị Mai Anh phu nhân Tổng thống Thiệu, hai vị một là hoàng hậu và một là đệ nhất phu nhân đều trí tuệ khiêm cung nhân hậu. Riêng bà Ngô Đình Nhu là người phụ nữ thông minh Tây học dám phá lệ, mang tính cách tự tin của phụ nữ Châu Âu hiện đại, át quyền nam giới không e dè, thành thiếu cẩn trọng giữa xã hội còn nặng nam quyền và trong chính trường miền Nam phức tạp luôn bị bóp méo. Bà Nhu bị ghét nhưng khó thể bị chê nếu quy chiếu với tiêu chí của những người phụ nữ hiện đại, dù chưa sánh bằng nhưng giống tính cách tự tin dấn thân vào chính trường của một Hillary Clinton! Thời gian chứng minh những gì mà chính trị gia báo chí miền Nam và phong trào phản chiến trong ngoài nước trước 1975 nói về bà mới là thiển cận và nhiều việc là vu khống.

Ngày nay khi người dân miền Bắc có khuynh hướng tìm về truyền thống xưa nhưng gắn kết vào khớp nối lịch sử văn hoá xa xưa còn thấm đẫm sắc màu dị đoan hủ tục chứ không phải là tính hiện đại của thế kỷ công dân trong khoa học và luật pháp nên cũng không có tác dụng tích cực qua các lễ hội màu mè loè loẹt đồng bóng. Tuy nhiên việc hiện nay có quan tâm bảo tồn khôi phục trùng tu đền các danh nhân là việc làm đáng hoan nghênh, ví như đền Hai Bà Trưng ở tương truyền có từ thế kỷ XII [1].

Việt Nam mơ ước tiếp cận văn minh qua phong trào Đông Du và Tây học. May mắn thay sau 1955-1975 đã từ quân chủ chuyển sang dân chủ là chế độ VNCH. Mỹ giúp nhẹ nhàng gỡ tay đô hộ Pháp không tốn một chút máu xương. Ông hoàng Bảo Đại với tầm cao tri thức và cùng hoàng gia giàu lòng yêu nước đã giúp Việt Nam một bước chuyển biến rõ nét. 

Nhiều người nhận ra vai trò khá lớn của phụ nữ trong gia đình Việt Nam hiện tại đã nói đùa: “Ở Việt Nam còn chế độ mẫu hệ ngoại trừ việc con không theo họ mẹ!”. [2] Thật ra phụ nữ miền Nam đã từng ít bị phong kiến hủ tục bủa vây so với miền Bắc miền Trung là thủ đô của chế độ phong kiến và so với Trung Quốc mà thôi. Ở VN đến nay tuy không bạc đãi con gái song không muốn gia đình thiếu con trai. Con trai vẫn được hưởng gia tài nhiều hơn và có trách nhiệm thờ tự trong gia đình. 

Chính bạo lực chiến tranh hình thành chế độ phong kiến mà tâm lý phụ nữ không tương thích nên bị đẩy xuống hàng thứ yếu mở ra lối sống trọng nam khinh nữ. Nhưng không có nước nào mà phụ nữ luôn có vai trò trong chiến tranh như suốt dọc dài lịch sử đất nước Việt Nam.

Trần Thị Hồng Sương
16.10.2009

© Thông Luận 2009

[1] Nhân vớt được tượng Hai Bà, vua Lý Anh Tông cho lập đền thờ Hai Bà ở bãi Đồng Nhân, trên bờ sông Hồng, khi đó thuộc phường Bố Cái.

[2] So sánh với một câu nhận định tinh tế hơn câu nói đùa nhuốm mùi cay đắng về thang ưu tiên trong xã hội Mỹ: “Thứ nhất trẻ con, thứ hai người già thứ ba phụ nữ thứ tư chó mèo, thứ năm đàn ông!”


http://e-cadao.com/Nhanvatnu/nhungvinuvuongcongchuaviet.htm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét