Người theo dõi

Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2016

LỊCH SỬ VIỆT NAM PHẦN 2 VÀ 3

Lịch Sử Việt Nam Phần 2 
Từ 1955 Đến 1973


Hai Bà Trưng khởi nghĩa năm 40 tây lịch chống quân của thái thú Tô Định
Trúc Lâm Lê An Bình biên khảo; Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc hiệu đính
Sau khi chiếm được miền Bắc năm 1954, cộng sản Việt Nam phóng tay tổ chức tiếp tục chiến dịch cải cách ruộng đất rập theo khuôn mẫu của Tàu cộng. Chiến dịch do Trường Chinh về Hành Thiện để đấu tố cha mẹ của đương sự.
Không khí khủng bố, kinh hoàng bao trùm lên thôn làng ở khắp miền Bắc Việt Nam. Tiếng kêu uất hờn của người dân thấu tận trời xanh. Đa số nạn nhân đều bị tử hình bằng nhiều hình thức khác nhau !!!

Hai trăm ngàn người dân vô tội đã bị giết chết, trong đó khoảng 40 ngàn người là cán bộ đảng viên cộng sản. Mục đích nhằm tiêu diệt những thành phần có thể làm phương hại đến đảng cộng sản sau này. Kể cả cán bộ đảng viên thuộc tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, yêu nước chống thực dân Pháp và quân phiệt Nhật. Chưa kể những thành phần có công với "cách mạng" như bà chủ đất Cát Thành Long ở Vĩnh Yên, người mẹ nuôi của cán bộ và Hồ chí Minh.
Hậu quả của chính sách này đã đưa đến nhiều uất hận trong mọi tầng lớp dân chúng và họ đã nổi loạn ở nhiều nơi ở miền Bắc.Vì tôn thờ chủ nghĩa cộng sản ngoại lai, Hồ chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam đã áp đặt một chế độ tàn bạo, phi dân tộc, phản dân tộc chưa từng có trong lịch sử nước nhà kể từ năm 1954 cho đến nay. Họ đã quên lời dạy của tổ tiên
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân mà thay cường bạo"
Ngày 23 tháng 10 năm 1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý để truất phế vua Bảo Đại.
Nền cộng hòa này chỉ được gọi là Đệ I Cộng Hòa kể từ năm 1967, sau khi nền Đệ II Cộng Hòa được thành hình.
Đến năm 1960 đã có 55 quốc gia công nhận chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Ở miền Namvào 8 giờ sáng ngày 13/02/1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm long trọng khai mạc buổi lễ Hợp Tác của lực lượng kháng chiến Liên Minh của Tướng Trình Minh Thế với chính phủ. Buổi lễ diễn ra thật trang nghiêm, long trọng.
Trung tướng Trình Minh Thế bị ám sát ngay tại mặt trận, khi đang chỉ huy binh sĩ Liên Minh tiểu trừ quân Bình Xuyên ở cầu Tân Thuận. Tướng Thế chết đúng 19 giờ chiều ngày 3 tháng 5 năm 1955 để lại sự bàng hoàng và thương tiếc cho tất cả mọi người.Thủ tướng Ngô Đình Diệm liền truy phong chức Trung Tướng cho người quá cố và hạ lệnh quốc táng.
Trình Minh Thế, đấng anh hùng cứu quốc
Đã tung cờ chính nghĩa giữa non sông.
Cùng hào kiệt đổi trao lời nguyện ước,
Thề hy sinh để cứu vãn giống giòng !
Ngày 26/10/1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm công bố Hiến Ước Tạm Thời tuyên bố Việt Nam là một nước Cộng Hòa, Quốc Trưởng lấy danh hiệu là Tổng Thống.
Ngày 4/3/1956 miền Nam bầu Quốc Hội Lập Hiến; 8/3/1956, công bố kết quả cuộc bầu cử, có 123 vị đắc cử dân biểu. Ngày 15/3/1955, Quốc Hội Lập Hiến khai mạc và soạn thảo hiến pháp của Việt Nam Cộng Hòa.
26/10/1956 Tổng Thống Ngô Đình Diệm công bố Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa đã được Quốc Hội Lập Hiến thông qua. Hiến Pháp mới gồm 10 Thiên và 98 Điều. Điều 1 của Hiến Pháp tuyên bố “Việt Nam là một nước Cộng Hòa, Độc Lập, Thống Nhất, lãnh thổ bất khả phân.” Điều 2 tuyên bố “Chủ quyền thuộc về toàn dân.” Như vậy ngày 26/10/1956 là ngày Việt Nam Cộng Hòa (viết tắt là VNCH) chính thức được thành lập.
Đến đây có thể nói rằng nhà Nguyễn với 13 triều đại (1802-1954) đã thực sự chấm dứt, nhường bước cho chính thể Cộng Hòa. Nhà Nguyễn thất bại do nhiều lý do, trong đó vị vua cuối của triều đại này là Bảo Đại đã sai lầm khi ký sắc luật phóng thích tất cả tù nhân chánh trị ngày 02/05/1945, mà trong đó 90% là cán bộ CS con số cả mấy ngàn người (như Lê Duẫn, Tôn đức Thắng, Phạm Hùng, Lê văn Lương...) điều này đã khiến cộng sản chiếm được thế thượng phong trên chính trường Việt Nam để rồi họ thẳng tay tàn sát các chiến sĩ quốc gia, những thành phần không cộng sản, gieo biết bao tang thương cho tộc Việt trong mấy mươi năm qua.
Kể từ ngày thành lập VNCH, ngày 26/10/1956, uy tín của Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng như của chính thể đã ngày càng lên cao đối với trong và ngoài nước. Trường hợp tiêu biểu số gạo sản xuất năm 1954 là 2.565.540 tấn và năm 1960 là 4.955.000 tấn, tỉ lệ gia tăng đến 93,1%. Về xuất cảng năm 1955 là 2.424.000 tấn; 1960 là 2.995.000 tấn. Nhập cảng 9.212.000 tấn (1955), 8.412.000 tấn (1960).
Liên quan đến vấn đề bầu cử chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã không đồng ý với đề nghị ngày 20/7/55 của cộng sản Bắc Việt về hiệp thương thống nhất đất nước đi đến tổng tuyển cử vì cho rằng chế độ miền Bắc đã không có những điều kiện để bảo đảm tự do cho một cuộc bầu cử bỏ phiếu kín. Chính phủ Mỹ hoàn toàn ủng hộ VNCH trên vấn đề. Nước Anh đã gởi một lá thư nhắc nhở đến Nga Xô rằng: chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không bị ràng buộc gì bởi Hiệp định Genève 1954.
Cuộc bầu cử quy định vào tháng 07/1956 được hoãn lại đến một ngày vô hạn định !
Trong khi miền Nam Việt Nam dốc toàn lực vào việc chấn chỉnh nội trị, phát triển kinh tế, thì miền Bắc Việt Nam do Hồ chí Minh và đảng cộng sản (đảng Lao Động VN lúc bấy giờ) chỉ biết có thanh trừng, đàn áp, tiêu diệt người dân từ cải cách ruộng đất (tiêu diệt nông dân) đến Nhân văn giai phẩm (tiêu diệt trí thức) và chuẩn bị xâm lăng miền Nam qua các đoàn 559 xâm nhập vào miền Nam bằng đường Trường Sơn; đoàn 779 dùng đường biển và đoàn 959 đặc trách hành lang Lào.
Hà Nội chính thức thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam qua nghị quyết đại hội đảng cộng sản Việt Nam (đảng Lao động Việt Nam thời đó) để chính thức hóa việc xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa ngày 20/12/60.
Trận Ấp Bắc xảy ra ngày 02/01/1963 giữa Quân lực Việt Nam Cộng Hòa và Việt cộng đã làm nổi bật một số ưu nhược điểm của cả hai phía tham chiến. Ấp Bắc thuộc xã Tân Phú Trung, huyện Cai Lậy giáp giới huyện Châu-Thành tỉnh Kiến Tường.
Trận Đầm Dơi xảy ra ngày 09/09/1963 khi việt cộng tấn công chi khu Đầm Dơi. Tiểu đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến được tăng phái để giải tỏa Đầm Dơi. Kết quả trận đánh Đại đội 3/TĐ2TQLC bị thiệt hại nặng. Phía vc bị thiệt hại 122 cán binh.
Kể từ đầu thập niên 1960, chính phủ VNCH đã gặp rất nhiều khó khăn từ nội trị đến ngoại giao. Từ đó xảy ra những cuộc đảo chánh của một số đơn vị trong quân đội, cũng như các cuộc xuống đường biểu tình của Phật giáo và kết quả đưa đến là nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam bị lật đổ ngày 01/11/1963. Tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu bị hạ sát ngày 02/11/1963 trên chiếc thiết vận xa M113.
Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập ngày 31/12/1963 tại chùa Xá Lợi Sài Gòn, trong một đại hội quy tụ 10 giáo phái và các hội đoàn Tăng sĩ cũng như Cư sĩ thuộc Nam Tông Bắc Tông Phật Giáo. Một Hiến Chương của Giáo Hội cũng được thông qua.
Tháng 3/1965, Trung đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã đổ bộ vào bãi biển Chu Lai, thị xã Đà Nẳng. Đây là biến cố đánh dấu chiến tranh Việt Nam đang leo thang dần với sự hiện diện của lính Mỹ nói riêng và quân nhân các nước đồng minh nói chung. Tuy nhiên điều này đã làm lu mờ chính nghĩa chiến đấu của Việt Nam Cộng Hòa chống lại sự xâm lăng của Cộng sản Việt Nam ở Hà Nội.
Tháng 9/1965, Sư đoàn 22 Bộ Binh (QLVNCH) do Chuẩn tướng Nguyễn Thanh Sằng làm tư lịnh đã giao tranh dữ dội với sư đoàn 325 việt cộng do Tướng Dương Quốc Chính(tư lịnh ) và tướng Trương Công Ngữ (Chính ủy) tại Bình Định. Kết quả Sư đoàn 325 việt cộng rút lui và để lại chiến trường 2 phần 3 quân số.
Sau năm 1963, sinh hoạt của GHPGVNTN có nhiều khởi sắc. Đặc biệt là Viện Cao Ðẳng Phật Học Huệ Nghiêm được thành lập. Hòa thượng Thích Thiền Tâm được đề cử làm Viện Trưởng kiêm Ðốc Giáo với sự phụ tá của hai vị Thượng Tọa Bửu Huệ và Thanh Từ.
Hòa thượng Thích Thiền Tâm là bậc long tượng của chốn thiền môn. Nhưng tiếc thay ngài đảm nhận trách nhiệm đào tạo Tăng tài cho Giáo Hội nhằm ngay thời kỳ đấu tranh kiên cố của thời Mạt Pháp.Trong số những học tăng đang theo học tại Huệ Nghiêm, không ít vị đã bị lôi cuốn vào những cuộc đấu đá, sách động nhằm tranh giành quyền lực vô bổ. Chủ trương chuyên tâm nghiên cứu Phật học, tuyệt đối không tham gia vào những cuộc tranh chấp thế tục khoác mỹ hiệu bảo vệ đạo pháp của Hòa Thượng bị chống đối và ngài bị chỉ trích là khiếp nhược, cầu an, thiếu tinh thần tương trợ để tăng thêm “sức mạnh” cho Phật Giáo Việt Nam! Ngài đã chọn con đường từ nhiệm và về quy ẩn ở Đại Ninh để chuyên tu Tịnh độ.
Ngài đã an nhiên tọa hóa quy Tây ngay trên bản tọa ngày 21/11/1992 thọ 68 tuổi đời, 48 tuổi đạo, 42 tuổi hạ. Trong lễ khai mộ vào ngày 21/12/1992, đại chúng thấy có một cặp rắn vàng óng bò đến nằm trước mộ một lúc lâu, rồi ngẩng đầu, gật đầu chào ni sư Thanh Nguyệt ba lần trước khi bò mất dạng. Ngài để lại cho đời sau nhiều tác phẩm Tịnh Ðộ trong Ðại Tạng và Tục Tạng, cũng như nhiều tác phẩm Tịnh Ðộ cận đại. Ngài còn được xưng tụng là tối thượng Kim Cang A Xà Lê của Mật tông Việt Nam.
Sau khi GHPGVNTN được thành lập, Hòa thượng Thích Tâm Châu được đề cử vào trách nhiệm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Việt Nam Quốc Tự từ 1964 đến 1967.
Ngày 29/5/1966, Việt Nam Quốc Tự của HT Tâm Châu đã bị Tăng Ni và quần chúng theo Cộng Sản nắm giữ, thao túng, liên tục ngày này qua ngày khác, ra đường Trần Quốc Toản, ngã 6 Sài Gòn - Chợ Lớn biểu tình, đả đảo và đốt hình nộm Tổng Thống Mỹ, Tướng Thiệu Tướng Kỳ. Tại Huế, Đà Nẵng và nhiều nơi khác tại miền Trung, an ninh trật tự bị xáo trộn có nguy cơ gây bất ổn cho chính thể. Nhóm Lập Trường ở Huế ra đời, đòi hỏi bầu Quốc Hội, đòi hỏi ngưng chiến tranh.
Chính phủ VNCH mang quân ra vãn hồi trật tự miền Trung. Thượng Tọa Trí Quang cùng nhóm tranh đấu tại Huế, kêu gọi Phật tử đem bàn thờ Phật ra đường, để ngăn cản bước tiến của Quân Đội Chính Phủ, cho các cán bộ Cộng Sản nằm vùng, trà trộn tẩu thoát.
Phong trào mang bàn thờ Phật ra đường lan tràn khắp nơi và vào cả đến Sài Gòn. Tại Sài Gòn họ đem ảnh Phật ra để trên đống rác. Hòa thượng Tâm Châu liền ra một thông bạch yêu cầu Phật tử không nên đem Phật ra đường.
Thượng Tọa Thiện Hoa Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo đột nhiên ra một thông cáo tán thành việc đem Phật ra đường. Tại Đà Nẵng cũng như một số nơi khác, ngoài việc đem Phật ra đường, còn ghìm súng, nấp sau tượng Phật bắn ra ,khi quân đội tiến vào kiểm soát chùa 3 giờ sáng ngày 23/10/1966.
Tại chùa Ấn Quang một số vị Thượng Tọa đã thành lập Hội Đồng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mới và đề cử Thượng Tọa Thích Thiện Hoa làm Viện Trưởng, đến đây Hòa thượng Tâm Châu xem như bị lật đổ.
Ngày 1/11/1967 ngày thành lập nền Đệ nhị Cộng hòa. Nền Đệ nhị Cộng Hòa được phát sinh từ Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia do các tướng lãnh Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu điều hành trong thời kỳ chuyển tiếp từ nền Đệ nhất và Đệ nhị Cộng Hòa.
Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu được bầu làm tổng thống, với 38% số phiếu.
Đầu năm 1968 việt cộng vi phạm lịnh ngưng bắn và phát động tấn công toàn miền Nam qua chiến dịch tổng công kích-tổng khởi nghĩa. Ngày 30/01/1968 tấn công bằng súng cối vào Trung tâm Huấn luyện Hải-quân Nha-Trang, nhưng không gây thiệt hại đáng kể.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố hủy bỏ lịnh ngưng bắn; Tướng Westmoreland cũng thông báo tương tự như vậy đến quân đội Mỹ ít lâu sau đó. Tính đến ngày 10/02/1968 việt cộng đã tấn công 25 trong số 44 tỉnh thành của VNCH.
Nặng nề nhất là cố đô Huế. Việt cộng tấn công Huế vào sáng mùng hai Tết (31/01/1968), mặt trận Huế kéo dài đến ngày 25/02 xem như chấm dứt khi hai Tiểu đoàn 21 và 39 Biệt động Quân tái chiếm khu Gia Hội. Việt cộng rút đi đã để lại một xứ Huế điêu tàn và tang thương với khoảng 5000 người dân Huế và ngoại quốc bị chôn sống, bị hành quyết tập thể (chặt đầu bằng mã tấu, bắn chết hàng loạt)...Đó là tổng công kích đợt I. Tổng công kích đợt II dự trù vào tháng 04/68, đợt III vào tháng 8/1968, đều bị QLVNCH và Đồng minh đánh bại.
Báo cáo tổn thất của các phe tham chiến tính đến ngày 31/03/1968 của Bộ tổng tham mưu QLVNCH như sau: 
- QLVNCH tử thương 4954, bị thương 15097, mất tích 926
- Đồng minh tử thương 4124, bị thương 19285, mất tích 604
- Việt cộng tử thương 58373, bị thương ?, tù binh 9461
- Dân chúng tử thương 14300, bị thương 24000, tỵ nạn 627000. Việt cộng đã thất bại vì chủ quan do các yếu tố: đánh giá sai tinh thần chiến đấu của QLVNCH cũng như sự đồng tình nổi dậy của dân chúng ủng hộ mặt trận giải phóng miền Nam chống chính phủ VNCH. Khi việt cộng chiếm nơi nào là dân chúng nơi đó bỏ chạy về vùng kiểm soát của chính phủ và Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, và đây cũng là lý do việt cộng trả thù người dân cố đô Huế khi thẳng tay chôn sống hàng ngàn người dân vô tội. Việt cộng thua lớn ở chiến trường Việt Nam nhưng lại thắng lớn ở Hoa thịnh Đốn do ý chí suy nhược của lãnh đạo chính trị nước Mỹ lúc đó và do sự tiếp tay của giới truyền thông bất lương.
Hành quân Cao Miên 1970 nhằm triệt hạ những khu an toàn của việt cộng; cuộc hành quân được chia làm 2 đợt.
Đợt đầu ngày 27/3/70, đợt 2 ngày 28/3. Nhưng đây chỉ là những trận đột kích đánh nhanh rút lẹ. Vào tháng 4/1970, QLVNCH tổ chức thêm hai cuộc hành quân khác ở quy mô lớn hơn. Đó là cuộc hành quân sơ khởi diễn ra ngày 13/4/70 do Trung tướng Đỗ Cao Trí Tư lịnh quân đoàn III chỉ huy tổng quát. Tham gia trong chiến dịch gồm các chiến đoàn 225(1 trung đoàn của sư đoàn 25 bộ binh VNCH); chiến đoàn 318 Thiết kỵ, và chiến đoàn 333 Biệt Động Quân đã càn quét vùng Cánh Thiên Thần. Sau 3 ngày giao tranh với việt cộng, QLVNCH đã tịch thu được một số lượng lớn quân nhu quân cụ, và vc đã để lại chiến trường 700 xác cán binh.
Ngày 20/4 một cuộc hành quân khác được tổ chức với sự tham gia của Lữ đoàn 4 Kỵ binh và ba Tiểu đoàn Biệt Động Quân đã càn quét khu vực Ổ Quạ.
Ngoài ra còn các cuộc hành quân Toàn Thắng 42, 43, 45, Bold Lancer, Cửu Long, Bình Tây. Tổng số thiệt hại của Việt cộng là 11.369; Việt Nam Cộng Hòa và Đồng minh là 976 quân nhân. Số lượng vũ khí tịch thu đủ trang bị cho 74 tiểu đoàn và vũ khí cộng đồng cho 25 Tiểu đoàn.
Trung tướng Đỗ Cao Trí, Tư lịnh quân đoàn III đã tử nạn khi trực thăng của ông phát nổ trên không phận phía Tây Bắc tỉnh Tây Ninh ngày 23/2/1971. Cuộc hành quân này đã đánh dấu sự lớn mạnh vượt bực của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 30/06/70, Nga sô và Trung cộng phản đối cuộc hành quân càn quét các mật khu Việt cộng ở Cao Miên và gia tăng gấp đôi quân viện cho Việt cộng bù lại số lượng bị tịch thu. Năm 1970, phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ dâng cao,tình hình nội bộ nước Mỹ rối rắm đã tạo nhiều bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc hòa đàm tại Paris. Đó là những nguyên nhân dẫn đến cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào. Số 71 là năm, còn số 9 là Quốc lộ 9. Mục đích nhằm tiến đánh Tchépone tiêu hủy hậu cần quan trọng của vc trên đất Lào. Cuộc hành quân khai diễn ngày 8/2/71 do Quân đoàn I đảm trách (Trung tướng Hoàng Xuân Lãm là tư lịnh).
Tham gia chiến dịch gồm Sư đoàn 1 Bộ binh (Tướng Phạm Văn Phú), Sư đoàn Nhảy Dù (Tướng Dư Quốc Đống), Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến (Tướng Lê Nguyên Khang), Liên đoàn 1 Biệt Động Quân, Lữ đoàn 1 Kỵ binh (Đại tá Nguyễn Trọng Luật)cùng các đơn vị yểm trợ khác, quân số khoảng 17 ngàn binh sĩ. Kế hoạch hành quân được Đại tá Trần Đình Thọ trình bày theo những phương hướng tốt nhất cho QLVNCH, nhưng đã bị Tướng Haig và MACV không đồng ý.
Hơn nữa, trong cuộc họp báo ngày 3/2/71, MACV đã vô tình hay cố ý tiết lộ kế hoạch hành quân, thế rồi QLVNCH sau đó đã gánh chịu nhiều thiệt hại nặng nề do việt cộng gây ra. Cuộc hành quân bắt đầu ngày 8/2/71 kéo dài đến ngày 25/3 coi như kết thúc khi các đơn vị QLVNCH rời khỏi đất Lào. Kết quả Mỹ 176 tử trận, Việt Nam Cộng Hòa 1483 binh sĩ tử thương, Việt cộng 13.535 cán binh để xác lại chiến trường.
Việt cộng đã phát động các cuộc tấn công Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 xảy ra trong bối cảnh nước Mỹ sẽ có cuộc bầu cử vào tháng 11/72.
Võ Nguyên Giáp đã mở ra 3 mặt trận từ Quân khu I, II và III. Mặt trận Quảng Trị bắt đầu ngày 30/03/72 khi Việt cộng pháo kích dữ dội các căn cứ của QLVNCH như Carrol, Mai Lộc, Sarge v.v...Kết thúc là cuộc tái chiếm Cổ thành Đinh Công Tráng, khi các chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến đã đánh bật Việt cộng và dựng lá quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa ngày 16/09/72 lúc 12g45. Và tháng 12/72 các Tiểu đoàn 2 và 8 Nhảy Dù đã tiến đánh căn cứ Suzie bị vc chiếm giữ cũng như mở rộng vùng kiểm soát đến tận bờ sông Thạch-Hãn. Mặt trận Quảng Trị đến đây coi như chấm dứt.
Trung tướng Ngô Quang Trưởng tư lịnh quân khu I kiêm tư lịnh chiến trường Trị Thiên đã cùng với các chiến sĩ anh dũng của QLVNCH đập tan huyền thoại về Võ Nguyên Giáp cũng như Quân đội nhân dân của ông ta.
Ngoài ra trong suốt thời gian xảy ra các trận ác chiến giữa QLVNCH và Việt cộng, trên Quốc lộ I kể từ sau ngày 1/5/72 đoàn người chạy loạn từ Quảng Trị dùng tất cả phương tiện để về Huế. Đau đớn thay, đoàn người chạy giặc này là những "mục tiêu di động" cho Việt cộng bắn vào không nương tay. Vị trí đặt súng chỉ các con đường trên dưới 100 thước...Đoạn đường 9 cây số từ La Vang thượng qua Hải Lăng đến giáp Hậu phủ một lớp nhựa mới. Đó là lớp nhựa bằng...thịt người.
Mặt trận An Lộc Bình Long khởi sự rạng sáng ngày 5/4/1972 khi Việt cộng tung 4 Công trường (Sư đoàn) 5,7,9 và Bình Long tấn công quận Lộc Ninh, sau đó là thị xã An Lộc dự định cắt đôi lãnh thổ VNCH.
Mặt trận An Lộc Bình Long khởi sự rạng sáng ngày 5/4/1972 khi Việt cộng tung 4 Công trường (Sư đoàn) 5,7,9 và Bình Long tấn công quận Lộc Ninh, sau đó là thị xã An Lộc dự định cắt đôi lãnh thổ VNCH.
Lực lượng trú phòng gồm Sư đoàn 5 Bộ Binh do Chuẩn tướng Lê Văn Hưng làm tư lịnh; Chiến đoàn 9 gồm Trung đoàn 9 Bộ Binh và 30 chiến xa thuộc Thiết đoàn 5, lực lượng Biệt Động Quân Biên Phòng, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân. Những lực lượng này đã chống cự quyết liệt của quân trú phòng, khiến vc không thể nào tràn ngập An Lộc được. Để trả đủa, vc đã mở trận địa pháo vào thành phố. Mỗi một cây số vuông phải hứng chịu gần 60 ngàn quả đạn, được bắn tập trung từ 10 vị trí trở lên trong 100 ngày vây khốn.
Tầm vóc lớn lao của trận An Lộc đã vượt xa trận Stalingrad, trận Điện Biên Phủ khi xưa. Tất cả phóng viên chiến trường Việt Nam cũng như ngoại quốc đều chú mục vào nơi đây. Cả nước và thế giới yêu chuộng tự do đã hồi hộp theo dõi cuộc chiến này.
Lực lượng tăng viện gồm Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, Sư đoàn 21 Bộ Binh, Trung đoàn 15 của Sư đoàn 9 Bộ binh, Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù đã thành công trong việc bắt tay được với quân trú phòng của Tướng Lê Văn Hưng và giải toả được vòng vây của Việt cộng từ 100 ngày qua đối với thị xã An Lộc. Bỗng chốc một địa danh nhỏ bé nơi xa xôi hẻo lánh lại được vang danh thế giới nhờ sức chiến đấu thần kỳ dũng mãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã giữ vững thành phố này trong suốt 100 ngày dưới cơn mưa pháo của vc.
Cán binh Việt cộng trước khi xuất quân đã nhận được lịnh: "san bằng An Lộc, giết toàn thể lính Mỹ Ngụy, không để sót một người dân". Ngày 15/4/72 hơn 10 ngàn dân chúng An Lộc đã chạy vào khu nhà thờ và nhà thương An Lộc để trú ẩn, hy vọng sẽ không tấn công hai địa điểm này. Nhưng Việt cộng nào có chừa nơi nào! Hai tháng sau kể lại vụ nhà thờ 15/04, người lính Việt Nam Cộng Hòa tử thủ An Lộc vẫn không quên được nỗi kinh hoàng và lòng kinh tởm quân vc khi diễn tả lại cảnh hỗn loạn và thảm khốc của hơn 10 ngàn người dân đạp lên nhau để chạy thoát khi vc tấn công vào. Số thương vong không biết bao nhiêu kể siết...
Mặt trận Tây Nguyên-Kontum mở đầu khi Sư đoàn 320 Việt cộng tấn công căn cứ Delta của Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù; 5/4 Sư đoàn Sao vàng Việt cộng tấn công quận Hoài Nhơn và Tam Quan thuộc tỉnh Bình Định; 7/4 Việt công pháo kích mạnh lên căn cứ Charlie do Tiểu đoàn 11 Dù của Trung tá Nguyễn Đình Bảo trấn giữ. Bộ chỉ huy Lữ đoàn 2 Dù yêu cầu cho TĐ11Dù được hành quân lưu động nhưng không được Bộ tư lịnh quân đoàn II của Tướng Ngô Dzu chấp thuận, do đó đã đưa đến cái chết của Trung tá Tiểu đoàn trưởng khi vc đổ mưa pháo xuống ngày 11/2/72 và tấn công biển người vào căn cứ. Tiểu đoàn 11 Dù dưới quyền của Thiếu tá Lê Văn Mễ Tiểu đoàn phó phải mở đường máu để rút khỏi căn cứ.
Chiến trường Tây Nguyên-Kontum kết thúc vào ngày 26/7/72 khi quận Hoài An được giải tỏa.
Ước lượng thiệt hại cho cả ba mặt trận là QLVNCH tử thương khoảng 50 ngàn binh sĩ; phía cộng quân 100 ngàn cán binh bỏ xác nơi chiến trường. Chưa đến 10 trong tổng số 260 quận lỵ bị Việt cộng chiếm được trong đợt công kích này.
Hiệp định Ba-Lê về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết giữa bốn bên gồm Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam ngày 27/01/1973 tại thủ đô của nước Pháp.
Trong đó điều 3 khoản b nói: "Các lực lượng vũ trang của hai bên miền Nam Việt Nam sẽ ở nguyên vị trí của mình. Ban liên hợp quân sự hai bên nói trong điều 17 sẽ qui định vùng do mỗi bên kiểm soát và những thể thức trú quân". Điều khoản này là chiếc dây thòng lọng mà Hoa Kỳ mà choàng vào cổ của Việt Nam Cộng Hòa.
Trước khi hiệp định Paris có hiệu lực, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã quyết định tái chiếm căn cứ Cửa Việt đã bị quân Việt cộng chiếm từ sau trận mùa hè đỏ lửa 1972. Nơi này có tầm chiến lược quan trọng có thể kiểm soát mọi hoạt động liên quan đến đường biển với thị trấn Đông-Hà. Hành động quân sự này với hy vọng sẽ được Ủy-Ban Giám-Sát và Kiểm-Soát Đình-Chiến hợp thức hóa vào ngày ngưng bắn bắt đầu được thi hành.
Một Lực Lượng Đặc Nhiệm được thành lập do Đại tá Nguyễn Thành Trí, Tư lịnh phó Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến chỉ huy. Các đơn vị tham gia gồm tiểu đoàn 2 và 4, cùng với ba đại đội của tiểu đoàn 5 TQLC. Lữ đoàn 147 TQLC làm nỗ lực chặn đường tiếp viện hướng Tây. Tăng phái cho TQLC có Thiết đoàn 20 cùng ba tiểu đoàn Pháo binh TQLC cũng như các chiến hạm Hoa Kỳ đang hoạt động ngoài khơi Việt Nam.
Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam đã tái chiếm căn cứ Cửa Việt vào lúc 7 giờ 58 phút ngày 28/01/1973 trước giờ hiệp định ngưng bắn có hiệu lực 2 phút. Lợi dụng không có Ủy ban Kiểm Soát và Giám Sát Đình Chiến hiện diện, quân Việt cộng đã phản công dữ dội với một trung đoàn bộ binh có chiến xa yểm trợ đồng thời pháo binh vc từ bờ Bắc phi khu quân sự pháo kích vào các vị trí pháo binh TQLC.
Sau ba ngày chiến đấu, một phần ba chiến xa yểm trợ cho TQLC bị hư hại do trúng pháo vc. Đồng thời phi pháo chỉ đến từ các tiểu đoàn pháo binh TQLC và thiếu hẳn sự yểm trợ về Không quân và hải pháo của Mỹ (các đơn vị Mỹ bị lệ thuộc vào hiệp định nên không thể yểm trợ cho TQLCVN) nên các đơn vị TQLCVN đã rút khỏi căn cứ Cửa Việt sau ba ngày chiếm giữ cam go.
Trúc Lâm Lê An Bình biên khảo; Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc hiệu đính
Lịch sử Việt Nam qua hình ảnh:
Quảng Trị - Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 - DVD 1 - Đại Lộ Kinh Hoàng
Quảng Trị - Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 - DVD 2 - Trận Thư Hùng Nam - Bắc
Quảng Trị - Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 - DVD 3 - Vị Tổng Tư Lệnh
Quảng Trị - Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 - DVD 4 - Người Lính Năm Xưa

Lịch Sử Việt Nam Phần 3 Từ 1973 Đến 2012

Bộ tem Mừng Ngày Quân Lực 19/06 do bưu điện Việt Nam Cộng Hòa phát hành ngày 19/06/1971
Trúc Lâm Lê An Bình biên khảo; Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc hiệu đính
- Lichsuvietnam cận đại ghi ngày hiệp-định Ba-Lê có hiệu lực, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ghi nhận có hơn 1000 vụ vi phạm của Việt cộng. Ngoài ra, trong suốt năm 1973 còn có 5 trận giao tranh lớn xảy ra ở Cửa Việt, Sa Huỳnh, Hồng Ngự, Trung Nghĩa và Tống Lê Chân.
- Trong đó căn cứ Tống Lê Chân bị quân Việt cộng tấn công ngay ngày hiệp định Paris có hiệu lực (28/01/1973), người anh hùng tử thủ là Trung tá Lê Văn Ngôn cùng Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng. Để dứt điểm căn cứ này, quân Việt cộng phải huy động Công trường 9, cùng trung đoàn 271, một Trung đoàn pháo, một Trung đoàn phòng không cũng như một Lữ đoàn xe tăng. Chưa kể quân trừ bị và chận viện. Cuộc chiến dứt điểm bắt đầu từ 05/04/1974 đến 1 giờ sáng ngày 13/04/1974 mới chiếm được đồn.
Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng và Trung tá Lê Văn Ngôn chỉ còn 259 binh sĩ đã chiến đấu đến cùng và phải mở đường máu rút lui.
Căn cứ Tống Lê Chân bị quân Việt cộng tấn công dồn dập trong 512 ngày. Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng và Trung tá Lê Văn Ngôn đã làm sáng danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và xứng đáng là những chiến sĩ chiến đấu cho Hòa bình. Hòa bình của đất nước Việt Nam thân yêu.
Sau khi đem đơn vị về đến An Lộc, Trung tá Lê Văn Ngôn được cử đi học khoá Tham Mưu Trung Cấp được cử về Sư Đoàn 5 Bộ Binh ở trách nhiệm trung đoàn phó. Sau ngày 30/4/1975, Trung tá Ngôn cũng như biết bao chiến sĩ khác, lọt vào tay giặc và bị đưa ra miền Bắc. Một tối mùa thu 1977, ông lặng lẽ qua đời tại liên trại Yên Báy. Nhà văn quân đội Phan Nhật Nam đã đem người đàn em vắn số của mình ra mộ huyệt chôn cất. Lê Văn Ngôn là anh hùng dân tộc trong lichsuvietnam cận đại.
- Mao Trạch Đông chủ tịch nước Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa ra lịnh cho quân đội Trung cộng tấn chiếm Hoàng Sa Trường Sa của Việt Nam Cộng Hòa ngày 17 tháng 1 năm 1974.
- Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 Tháng 1 năm 1974, hạm đội Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa dưới sự chỉ huy của Đại tá Hà Văn Ngạc đã đồng loạt nổ súng vào chiến hạm của Hải quân Tàu cộng khi họ hành động xâm chiếm đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Sau nửa tiếng đồng hồ giao tranh thì hai bên đều  rút lui vì hai bên đều thiệt hại nặng cả. Bên HQVN chiếc Nhật Tảo bị chìm,  tử thương 58 người (đa số thuộc chiến hạm Nhật Tảo và số còn lại thì gồm có hai người nhái trên đảo). Mỗi  chiến hạm có một số bị tử thương. Phía Tầu Cộng cũng  bị thiệt hại nặng nề, một chiếc bị chìm, về nhân mạng có một số sĩ quan cao cấp bị tử thương, thành ra không thể nói bên nào chiến thắng hay chiến bại. Trong lúc đó một lực lượng hùng hậu gồm  17 chiến hạm khác từ Hải Nam đang hướng về hướng Hoàng Sa, trong đó có 13 chiến hạm với bốn chiếc tiềm thủy đỉnh loại tàu ngầm .
Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa có tăng cường thêm hai chiếc nữa tức là sáu chiếc, nhưng khi  hai chiếc sau  đang trên đường tới thì có tin phi cơ phản lực của Trung Cộng  từ đảo Hải Nam đến dội bom. Trong khi đó tầm hoạt động của phi cơ F5 và A37 của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa không thể nào bay tới Hoàng Sa được, để  tránh thiệt hại không cần thiết hạm đội Việt Nam Cộng Hòa phải bắt buộc rút lui.
Quân chủng Hải Quân đã chọn ngày 19/1  hằng năm làm ngày tưởng niệm và vinh danh các chiến sĩ HQ đã hy sinh bảo vệ Tổ quốc đại dương.
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại là Tư Lệnh Hải Quân vùng I Duyên Hải yêu cầu Đệ Thất Hạm Đội  của Hoa Kỳ cứu vớt người trên biển. Khi sự việc xảy ra rồi, không có chiến hạm nào của Mỹ đến cứu vớt.
Trong dòng lichsuvietnam thập niên 70 đã ghi nhận Hải chiến Hoàng sa của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa chống lại quân xâm lược Trung cộng là một trong những trận hải chiến lớn nhất, có tầm vóc lịch sử nhất.
- Khi Tầu cộng xâm lăng Hoàng sa của Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc đã hoàn toàn im lặng không có một phản ứng nào. Họ âm thầm đàm phán về biên giới với Tầu cộng từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1974 nhưng không đạt được một kết quả nào.
- Đến đầu năm 1975, gần hai năm sau Hiệp định ngưng bắn, tình hình Việt Nam ở trong giai đoạn lạ lùng, không hòa cũng không chiến.
Ông Henry A. Kissinger, Cố vấn an ninh của Tổng thống Nixon, tác giả Hiệp định Paris, được lãnh nửa giải hòa bình Nobel đồng thời thăng chức Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ; còn Tổng thống Nixon phải từ chức vì vụ tai tiếng Watergate; ông Gerald Ford cầm đầu khối đa số Hạ viện Mỹ được cử thay thế.
Uy tín Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu ngày càng sa sút, Ngoại trưởng Trần Văn Lắm lãnh chức Chủ tịch Thượng viện.
- Đầu năm 1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã kêu gọi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu theo kiểu quân đội nhà nghèo. Nhưng từ hai năm qua, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã không được cải tổ để thích ứng với tình hình chiến trường mới.
- Các Sư đoàn tổng trừ bị như Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù được cử trấn giữ các vùng đất như binh sĩ sư đoàn Bộ Binh làm mất tính năng động cần thiết khi tình hình chiến trường sôi động.
- Quân khu V của Việt cộng tổ chức chiến dịch H-9 tấn công hai địa điểm Nông-Sơn và Thượng Đức thuộc tỉnh Quảng-Nam. Họ tung vào các Sư đoàn 324B (hay Sư đoàn Điện Biên), 308, và Sao vàng.
Ngày 06/08/1974, Thượng-Đức thất thủ. Tiểu đoàn 79 Biệt Động Quân đã rút khỏi nơi này. Số phận của Tiểu đoàn này cũng giống như tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân khi rời khỏi căn cứ Tống Lê Chân, những binh sĩ anh dũng này đã không được nhắc đến tên tuổi...
Bộ tổng tham mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa gởi Sư đoàn Nhảy Dù ra Quảng-Nam tăng viện, nhưng đã quá trễ.
Các trận đánh ác liệt đã xảy ra giữa Sư Đoàn Nhảy Dù và 3 sư đoàn Việt cộng diễn ra trên các cao điểm 1235 và 1062. Trận đánh khởi sự từ ngày 15 Tháng Tám đến ngày 8 tháng mười một năm 1974. Đây là trận đánh lớn nhất trong quân sử Việt Nam sau khi Hoa Kỳ rút lui, và cũng là một trong những trận hiển hách nhất của QLVNCH. Cuối cùng quân Việt cộng đã phải rút khỏi đồi 1062 trước sức chiến đấu dũng mãnh và gan dạ của các chiến sĩ Nhảy Dù.
Sau khi Hoa Kỳ rút quân, viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hoà như sau:
-Tài khoá 1973 : hai tỷ mốt (2,1 tỷ)
-Tài khoá 1974 : một tỷ tư (1,4 tỷ)
-Tài khoá 1975 : bẩy trăm triệu (0,7 tỷ).
Nghĩa là ngày càng giảm thiểu.
Và  đưa đến hậu quả  là  : Ngân khoản 700 triệu chỉ cung cấp được phân nửa nhu cầu tối thiểu của quân đội VNCH, trong năm 1975 hoạt động quân sự của Việt cộng gia tăng 70% hơn năm trước. Sau khi trừ đi 46 triệu cho USDAO, số tiền còn lại được chia ra như sau:
- Không quân: Cần 414 triệu; nhận 183 triệu – 44% ngân khoản yêu cầu.
- Lục quân: Cần 841 triệu; nhận 458 triệu - 54% ngân khoản yêu cầu.
Như vậy, từ số tiền 1 tỉ 283 triệu của ngân sách quân viện năm 1975, VNCH chỉ được 654 triệu – chỉ bằng 51% ngân khoản cần thiết".
Thực trạng bi thảm của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được ghi nhận vào tháng 02/1975 như sau:
Ðạn -                                 Số ngày tồn kho
Ðạn M-16 (5.56 ly)          -           31
Ðạn phóng lựu 40 ly        -          29
Ðạn súng cối 60 ly           -          27
Ðạn súng cối 81 ly          -            30
Ðạn pháo 105 ly            -             34
Ðạn pháo 155 ly           -              31
Lựu đạn                       -               25
- Trong khi đó, về  phía Việt cộng nhận được số  lượng viện trợ  quân sự  trong giai đoạn 1973-1975: Tổng số 724,512 tấn gồm 75,267 tấn hàng hậu cần, 649,246 tấn vũ khí trang bị kỹ thuật, trong đó Liên Xô: 65,601 tấn, Trung Quốc 620,354 tấn, các nước cộng sản khác : 38,557 tấn.
- Lê Đức Thọ của miền Bắc, người thương thuyết và ký hiệp định Paris với Kissinger chối bỏ phần còn lại của giải Hòa bình Nobel, ông và đảng cộng sản Việt Nam đang chuẩn bị ráo riết cuộc xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa.
- Sau khi ký Hiệp định Paris, Hà Nội cho khởi công xây tuyến đường xa lộ Ðông Trường Sơn hay hành lang 613, song song với đường mòn Hồ Chí Minh nhưng nằm trong địa phận Việt Nam Cộng Hoà từ Ðồng Hới cho tới Lộc Ninh, đến đầu năm 1975 thì công trình hoàn thành dài 1,200 km. Dọc theo Ðông Trường Sơn là hệ thống dẫn dầu từ Quảng Trị qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh. Bắc Việt huy động hàng nghìn xe máy ủi, hàng vạn bộ đội, công nhân, thanh niên xung phong, dân công .. ngày đêm phá núi san đèo, xây cống, lắp đường, dựng cầu.. đường rộng 8 m.. xe vận tải cỡ lớn chạy hai chiều được, ngày đêm chở hàng trăm nghìn tấn đạn dược quân nhu cho chiến trường. Họ đã xử dụng 16 ngàn xe vận tải để chuyên chở binh khí, kỹ thuật, đạn dược, lương thực… chuẩn bị cho chiến trường miền Nam trong hai năm 1973 và 1974. Chiều dài toàn bộ hệ thống chiến lược Trường Sơn tới 1975 là 16 ngàn km gồm 5 hệ thống đường trục dài 5,500 km, 21 đường trục ngang dài 1,020 km, một đường hệ thống dẫn dầu dài 5,000 km.
- Theo một cựu trung tá không quân Việt Nam Cộng Hoà cho biết đường xâm nhập của Việt cộng hiện rõ trên bản đồ nhưng miền Nam không đủ lực lượng để ngăn chặn, đồng thời Hoa Kỳ ngăn cản không cho không quân VNCH đánh phá, họ đe doạ cắt viện trợ nếu không nghe theo. Một số nhà nghiên cứu, giới chức quân sự cho rằng viện trợ quân sự của Nga, Trung Cộng cho miền Bắc năm 1975 gấp 3 hoặc 4 lần năm 1972. Sự thực thì không phải như vậy, số lượng vũ khí đạn dược năm 1975 của CSBV nhiều gấp bội lần năm 1972 vì họ mang vào Nam được nhiều hơn, khối lượng hàng viện trợ vũ khí đạn dược như ta đã thấy trong hai giai đoạn này (1972 và 1975) không thay đổi mấy, coi như tương đương .
Quân Bắc xâm Việt cộng mở chiến dịch tấn công Phước Long làm bàn đạp tấn công thủ đô Sài Gòn. Họ mở hai mũi tấn công vào mặt đông bắc thành phố Tây Ninh với trung đoàn 205; đồng thời tấn công pháo kích đơn vị Địa Phương Quân trấn thủ trên núi Bà Đen; 3 trung đoàn 33, 812, 274 thuộc sư đoàn 6 vc tấn công hai quận Hoài Đức và Tánh Linh thuộc tỉnh Bình Tuy. Đây là các trận đánh hỏa mù để cầm chân những lực lượng tinh nhuệ của quân đoàn III Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 26/12/1974, quân Việt cộng tấn công thị xã Phước Long và phi trường Sông Bé. Đồn trú nơi đây có Tiểu đoàn 2 trung đoàn 7 Sư đoàn 5 Bộ binh, ba đại đội Thám báo của các sư đoàn 5, 18, 25, cùng những đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân quân số vào khoảng 6000 người. Trong khi chiến trường đang căng thẳng, các đơn vị trú phòng tại đây được tăng viện thêm đại đội 1 và 4 thuộc Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù. Hơn sáu ngàn binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa phải chống lại một lực lượng tấn công đông gấp ba lần. Các đơn vị Việt cộng tấn công gồm hai sư đoàn 3 và 7, hai trung đoàn biệt lập, hai trung đoàn pháo và phòng không cùng với một trung đoàn chiến xa, tất cả đặt dưới quyền điều khiển của quân đoàn IV Việt cộng.
Quân lực VNCH tăng cường tối đa các phi vụ yểm trợ cho quân bạn, nhưng sức người có hạn. Nên ngày 9/1/1975, Phước Long thất thủ.
Quân Bắc xâm Việt cộng mở chiến dịch Tây nguyên với mục đích cắt đôi Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 10/3/1975, Việt cộng nổ súng tấn công Ban Mê Thuột với các sư đoàn 320 Điện biên và F10. Trách nhiệm phòng thủ có Đại tá Nguyễn Trọng Luật, tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng BMT và Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lịnh phó sư đoàn 23 bộ binh kiêm Tư lịnh mặt trận Ban Mê Thuột. Quân trú phòng tại chỗ là Trung đoàn 53 thuộc Sư đoàn 23 Bộ binh dưới quyền điều khiển của Trung tá Võ Ân. Cuộc giao tranh đã xảy ra ác liệt ngay tại mặt trận phi trường Phụng Dực. Ngày 11/3/1975, quân Việt cộng được tăng cường quân số lên gấp 10 lần và đó là một ngày giao tranh đẫm máu nhất tại mặt trận phi trường Phụng Dực. Hầm chỉ huy của Đại tá Vũ Thế Quang bị Không quân ném lầm hai trái bom, nên đã mất liên lạc với bộ tư lịnh quân đoàn II từ phút đó.
Ngày 12/3/1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú Tư lịnh quân đoàn II quyết định tăng cường binh sĩ để tái chiếm Ban-Mê-Thuột. Trung đoàn 44 và 45 thuộc Sư đoàn 23 bộ binh đã được một lực lượng trực thăng tới 46 chiếc HUIB và Chinook không vận vào Phước An. Đây là cuộc hành quân trực thăng vận lớn nhất kể từ sau Hiệp định Paris được ký kết vào năm 1973. Ngoài TĐ45BB, còn có sự tăng cường của Liên đoàn 21 Biệt Động Quân. Cuộc tăng viện đang diễn ra tốt đẹp, trong đó tinh thần binh sĩ các cấp lên rất cao, thì đột ngột có lịnh lui binh sau cuộc họp ngày 14/03/1975 giữa Thiếu tướng Phạm Văn Phú cùng Tổng thống Nguyễn văn Thiệu, Đại tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang.
Hậu quả cuộc lui binh trên tỉnh lộ 7b này là Quân đoàn II đã bị xóa sổ, và giải tán. Tướng Phạm Văn Phú bị cách chức rồi tự sát để giữ tròn khí tiết của một vị tướng lãnh vào ngày 30/4/1975.
Ngày 19 tháng 3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư lệnh QĐ I – QK I về Sài Gòn để gặp Tổng thống Thiệu trình bày kế hoạch rút quân của quân đoàn. Cuộc họp bắt đầu 11 giờ, cùng với sự hiện diện của Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Theo ghi nhận của Tướng Viên, kế hoạch của Trung tướng Trưởng rất chu đáo và được tiến hành theo hai phương cách:
- Phương cách thứ nhất: Các lực lượng từ Huế và Chu Lai theo Quốc lộ 1 cùng một lúc rút về Đà Nẵng.
- Phương cách thứ hai: Nếu địch cắt Quốc lộ 1 thì sẽ rút quân về ba nơi: Đà Nẵng, Huế và Chu Lai. Tuy nhiên Huế và Chu Lai chỉ là nơi tập trung tạm thời để sau đó các đơn vị được hải vận về Đà Nẵng. Đà Nẵng sẽ trở thành nơi cố thủ của Sư Đoàn 1 Bộ Binh, SĐ 2 BB, SĐ 3 BB, SĐ Thủy Quân Lục Chiến và 4 Liên đoàn Biệt Động Quân.
Ngoài các đơn vị kể trên còn có Lữ đoàn 1 Nhảy Dù cũng được tăng phái cho Quân Đoàn I với điều kiện không được sử dụng để tung vào chiến trận.
Ngày 20 tháng 3/1975, khi vừa đặt chân xuống Đà Nẵng, Trung tướng Trưởng nhận được một công điện "mật khẩn" của Tổng thống Thiệu do Bộ Tổng Tham Mưu chuyển. Tổng thống Thiệu khuyên Tướng Trưởng tùy nghi ứng phó và làm sao chỉ giữ một mình Đà Nẵng mà thôi vì không thể nào phòng thủ nổi ba thành phố Huế, Đà Nẵng và Chu Lai cùng một lúc được. Đồng thời Lữ đoàn 1 ND được lệnh lên đường về Sài Gòn ngay khuya đêm đó.
Lại một lần nữa, lịnh rút quân đột ngột của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã khiến các đơn vị thiện chiến nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cũng như của Quân khu I như Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Sư đoàn 1 bộ binh, các Liên đoàn Biệt Động Quân, Địa Phương Quân - Nghĩa Quân, Thiết Kỵ, Pháo binh v.v...bị thiệt hại trầm trọng về nhân sự cũng như khí cụ, đưa đến tình trạng bất khiển dụng như Quân đoàn II.
Ngày 08/4/1975, Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu Tư lịnh phó Quân đoàn III bị ám sát ngay tại văn phòng tư lịnh phó. Và đây cũng là ngày mặt trận Xuân Lộc - Long Khánh bùng nổ và kéo dài đến 20/4/1975. Ngày 10/04/1975, Tướng Nguyễn Văn Hiếu được tổng thống VNCH truy thăng Trung tướng. Cố Trung tướng Nguyễn Văn Hiếu bị ám sát khi đang chuẩn bị kế hoạch phản công chống đoàn quân Bắc xâm Việt cộng bằng kỵ binh. Cái chết đột ngột không sớm không muộn khi kế hoạch phản công vừa hình thành hay vì một nguyên do nào khác liên quan đến việc điều tra tham nhũng trong quân đội?
Hơn nữa cái chết đột ngột của Tướng Nguyễn Văn Hiếu làm chúng ta liên tưởng đến việc tử nạn trực thăng của Đại tướng Đỗ Cao Trí ngày 23/02/1971, khi ông từ vùng III đáp trực thăng đi vùng I nhậm chức Tư lịnh quân đoàn hầu cứu vãn cuộc hành quân Lam Sơn 719 đang bị sa lầy.
Hai cái chết vào hai thời điểm nêu trên của hai vị Tướng lãnh tài ba lỗi lạc đã khiến nhiều người trong chúng ta phải thắc mắc: Có phải thế lực nào đó trong bóng tối nhất quyết không muốn Đại tướng Đỗ Cao Trí và Trung tướng Nguyễn Văn Hiếu trở thành cứu tinh của Quân lực và quốc gia Việt Nam Cộng Hòa? Và từ đó đã ra tay hạ sát hai vị Tướng này. Quả tình sự ra đi của hai vị chiến Tướng vừa nêu là một mất mát lớn lao cho tộc Việt.
Trở lại với tình hình chiến sự khi Xuân Lộc là căn cứ quân sự của SĐ18BB do Thiếu tướng Lê Minh Đảo làm tư lịnh bao gồm: Bộ Binh, Thiết Giáp, Pháo Binh và các đơn vị Kỷ Thuật thuộc mọi Binh chủng của QLVNCH. Quân đoàn IV Việt cộng gồm các sư đoàn 6, 7 và 341. Ngoài ra còn tăng cường thêm sư đoàn 325 và Liên đoàn 75 Pháo binh đủ loại.
Trên đường tiến quân về Sài Gòn, quân vc bắt buộc phải đi ngang Xuân Lộc - Long Khánh. Cho nên trận chiến đã diễn ra rất ác liệt giữa quân trú phòng và quân vc ngay từ những giờ phút đầu tiên.
Ngày 12/04/1975 chiến trường Xuân Lộc được tăng cường Lữ đoàn 1 Nhảy Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh.
Mũi tiến công để chiếm Sài Gòn của quân vc đã bị khựng lại nơi đây vì gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của tất cả các đơn vị trú phòng. Bộ tư lịnh hành quân của vc bắt buộc phải thay đổi tư lịnh chiến trường, họ đưa Tướng Trần Văn Trà vào thay Tướng Hoàng Cầm và đưa thêm quân tăng viện.
Quân vc dùng "chiến thuật biển người", "tiền pháo hậu xung" liên tục tấn công và cuối cùng đã tràn ngập tuyến phòng thủ của Chiến đoàn 52 Bộ binh của Đại tá Ngô Kỳ Dũng ngày 15/04/1975. Để chận đứng đà tiến của vc tràn về Sài Gòn và Biên Hòa, Thiếu tướng Lê Minh Đảo đã xin xử dụng bom BLU.82 (Daisy Cutter), một loại bom nổ đặc biệt có sức công phá cực mạnh trong một phạm vi rộng lớn.
Ngày 16/4/75 Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III - Lữ đoàn 3 Kỵ Binh do Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi chỉ huy đã giao tranh dữ dội với vc tại Ngã Ba Dầu Giây.
Qua 12 ngày đêm ác chiến với quân Bắc xâm Việt cộng, Xuân Lộc - Long Khánh vẫn vững vàng trước cơn bảo lửa. Quân đoàn IV vc tham chiến tại mặt trận đã bị thiệt hại nặng nề về sinh mạng, pháo binh, xe tăng, v.v… nên Bộ tư lịnh chiến dịch hồ chí minh đã vội vàng thay đổi kế hoạch tiến chiếm Sài Gòn.
Ngày 20/04/1975, Sư đoàn 18 Bộ binh (QLVNCH) cũng như các đơn vị được lịnh lui binh. Cuộc lui binh đã diễn ra tốt đẹp, với tổn thất của các đơn vị bạn rất giới hạn. Cuộc lui binh này nhằm phòng thủ vòng đai an ninh gần Sài Gòn cũng như phi trường Biên Hòa vì quân vc sau khi không chiếm được Xuân Lộc nên đã rẽ sang con đường khác và theo Quốc lộ 15 tiến vào thủ đô Sài Gòn qua Biên Hòa. Tinh thần của các đơn vị QLVNCH tham chiến còn vững vàng, quân trang, đạn dược còn đầy đủ chứ không thiếu thốn hay bị mất tinh thần mà phải lui binh.
Cùng ngày, Ðại Sứ Mỹ Graham Martin gặp TT Thiệu và yêu cầu ông Thiệu nên từ chức để sớm có thương thuyết với CS bằng chính phủ mới của Dương Văn Minh. Chiều ngày hôm đó thì Phan Rang lọt vào tay Cộng quân và Cộng quân cũng cố tình xua cho dân chúng di tản để làm rối loạn tinh thần dân chúng ở Saigòn.
Ngày 20/04/1975, cũng là ngày phòng tuyến xa của quân đoàn III dưới quyền chỉ huy của Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi bị thất thủ. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang Tư lịnh sư đoàn 6 Không quân bị quân việt cộng bắt trên đường triệt thoái.
Trước khi bị ám sát chết ngày 08/04/1975, Trung tướng Nguyễn Văn Hiếu được Bộ tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đề cử trách nhiệm phòng thủ Phan Rang, nhưng không hiểu vì lý do gì quyết định này lại thay đổi. Đặt giả thuyết, nếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu được trao trách nhiệm phòng thủ Phan Rang một cách thật sự, có lẽ tình hình chiến sự sẽ có nhiều thay đổi thuận lợi hơn cho QLVNCH và đất nước Việt Nam.
Ngày 21/04/1975, Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu từ chức và trao quyền lại cho Phó tổng thống Trần Văn Hương. Mặc dù với số tuổi 71, phó tổng thống Trần Văn Hương đã can đảm đứng ra gánh lấy trọng trách điều hành quốc gia trong cơn bảo lửa.
Từ ngày 1/04/1975 đến ngày 30/04/1975, quân đoàn IV của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam vẫn còn nguyên vẹn và trong tinh thần sẳn sàng chiến đấu.
Tình hình quân sự ngày 28/04/1975 khi Đại tướng Dương Văn Minh nhậm chức Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa như sau:
- Tại các vùng trong và ngoài của thủ đô Sài Gòn, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa còn khoảng trên dưới khoảng 60 ngàn binh sĩ đó là chưa kể còn khoảng trên dưới gần 70 ngàn binh sĩ thuộc quân đoàn IV của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, để đối đầu lại với khoảng 280 ngàn quân Bắc xâm Việt cộng.
- Lực lượng quân sự của Quân đoàn IV do Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam làm Tư lịnh gồm có:
18 Liên đoàn Biệt Động Quân; 5 Thiết đoàn và 17 Chi đoàn Kỵ binh với 493 chiến xa đủ loại; Sư đoàn 4 Không quân đóng ở phi trường Trà Nóc, Cần Thơ với khoảng 100 phi cơ đủ loại; Về bộ binh có các Sư đoàn 7, 9 và 21; Hải quân có 4 Duyên đoàn và 9 Giang đoàn với 600 tàu đủ loại.
Tương quan lực lượng giữa Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và quân Bắc xâm Việt cộng được ghi nhận như sau trong lãnh thổ quân đoàn III:
- Phòng tuyến Bình Dương về hướng Bắc có Sư đoàn 5 Bộ binh đóng ở Lai Khê, bảo vệ Quốc lộ 13 và đối thủ là Sư đoàn 1 Việt cộng.
- Phòng tuyến Biên Hòa về hướng Đông có Sư đoàn 18 Bộ binh của Thiếu tướng Lê Minh Đảo sau khi rút khỏi Xuân Lộc về trấn thủ Long Bình, Biên Hòa; Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi chỉ được lịnh trấn tại Dầu Giây-Hưng Lộc, sau đó là phòng thủ Biên Hòa (chứ không phải Sài Gòn); Lữ đoàn 468 Thủy quân Lục Chiến của Trung Tá Huỳnh Văn Lượm phụ trách đối đầu với các Sư đoàn 2, 304, 325 quân Việt cộng.
- Phòng tuyến Vũng Tàu do Lữ đoàn 1 Nhảy Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh phụ trách đối đầu với Sư đoàn 3 sao vàng Việt cộng.
- Phòng tuyến Long An trấn giữ bởi Sư đoàn 22 Bộ binh đối đầu với các Sư đoàn 8, 24 và 6, trừ bị là các Sư đoàn 7, 9 và 3 Việt cộng; Liên đoàn 6 và 8 Biệt Động Quân đối đầu với các Sư đoàn 8, 5, 262 Việt cộng.
- Phòng tuyến Củ Chi do Sư đoàn 25 Bộ binh của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá trấn đóng ở Củ Chi, nơi đây Sư đoàn đã đối đầu với Sư đoàn 50 Việt cộng; Liên đoàn 9 Biệt Động Quân đối đầu với Sư đoàn 232, 27, 71 của Việt cộng.
Ngoài ra, quân đoàn III VNCH còn có 14 Tiểu đoàn Pháo binh với 376 đại pháo đủ loại; 7 Thiết đoàn Kỵ binh với gần 700 chiến xa đủ loại; Sư đoàn 3 Không quân đóng ở Biên Hòa và Sư đoàn 5 Không quân đóng ở Sài Gòn; Hải quân có 4 Hải đoàn Duyên phòng và 6 Giang đoàn với 700 tàu đủ loại; Các đơn vị Địa Phương Quân Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ cũng như Cảnh Sát Quốc Gia và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù.
Tuy nhiên qua cách bố phòng, chúng ta có thể nhận thấy một điều, hầu hết các đơn vị lớn và thiện chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chỉ đóng ở vòng đai xa thủ đô Sài Gòn, không có một đơn vị tinh nhuệ nào được lịnh trực tiếp bảo vệ thành phố đông dân này (nếu chúng tôi không nhầm). Sài Gòn đã bị bỏ ngỏ từ trước, nhất là khi phòng tuyến Củ Chi của Sư đoàn 25 Bộ binh bị xuyên thủng, quân Bắc xâm Việt cộng đã thâm nhập Sài Gòn một cách dễ dàng.
- Về phía quân Bắc xâm Việt cộng bao gồm các quân đoàn I, II, III, IV tổng cộng 15 sư đoàn bộ binh, ngoài ra còn có 5 Lữ đoàn bộ binh biệt lập, 4 Trung đoàn chiến xa, 6 trung đoàn đặc công.
Kể từ khi quân Bắc xâm Việt cộng phát động cuộc tổng tấn công chiếm thủ đô Sài Gòn ngày 26/04/1975, thì Sư đoàn 25 Bộ binh có căn cứ tại Củ Chi bị thất thủ khi quân đoàn III vc gồm các Sư đoàn 320, 316, 70, 968 tấn công dồn dập, Chuẩn tướng Lý Tòng Bá một Tướng lãnh tài ba lỗi lạc rốt cuộc phải thúc thủ và bị bắt tại mặt trận đêm 29 rạng sáng 30/4/1975 do quyết định sai lầm từ tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lịnh quân đoàn III.
Sư Ðoàn 5 Bộ Binh do Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ làm tư lịnh đóng ở Lai Khê, tình hình không có gì đặc biệt. Nhưng sáng hôm sau khoảng 10 giờ 30, khi nghe Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng cộng sản, Tướng Lê Nguyên Vỹ cho kéo cờ trắng. Sau đó, ông nghiêm trang chào quốc kỳ rồi trở về văn phòng tự sát. Tướng Lê Nguyên Vỹ đền nợ nước đúng ngày 19 tháng 3 năm Ất Mão (Âm Lịch), tức ngày 30 tháng 4 năm 1975 (Dương Lịch).
08 giờ sáng ngày 30/4/75, liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu hoàn toàn bị cắt đứt, Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi quyết định họp các chỉ huy trưởng để tham khảo ý kiến. Tất cả cùng quyết định kéo quân về giải vây thủ đô. Đoàn quân giải vây thủ đô gồm:
Lữ Ðoàn 2 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Lô chỉ huy tiến theo Ðường Sắt phía phải về Saigòn.
Lữ Ðoàn 468 Thủy Quân Lục Chiến của Trung Tá Huỳnh Văn Lượm tiến theo phía trái Ðường Sắt
Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh và Liên Ðoàn 33 Biệt Ðộng Quân tiến theo Xa lộ Biên Hòa về Saigòn.
Chiến Ðoàn 315 của Trung Tá Ðỗ Ðức Thảo tiến về Cầu Bình Triệu.
Chiến Ðoàn 322 của Trung Tá Nguyễn Văn Liên tiến theo sau Chiến Ðoàn 315.
Chiến Ðoàn 318 của Trung Tá Nguyễn Ðức Dương đi phía sau các đơn vị để yểm trợ.
Tuy nhiên khi các chiến xa của Lữ đoàn 3 Kỵ Binh tiến tới gần nhà thờ Fatima, Bình Triệu, thì Tướng Trần Quang Khôi nghe được lịnh buông súng đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh. Đó là ngày 30 tháng 4 năm 1975 lúc 10 giờ 25 phút sáng.
Khi lịnh đầu hàng ban hành, vì không chấp nhận đầu hàng kẻ thù, Trung tá Nguyễn Văn Long (Cảnh Sát Quốc Gia) đã tự sát bằng súng lục lúc 11giờ 30 dưới tượng đài Thủy Quân Lục Chiến phía trước tòa nhà Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa trong ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Thiếu tướng Lê Văn Hưng, Tư lịnh phó quân đoàn IV tự sát vào lúc 20 giờ 45 phút tối ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Thiếu tướng Phạm Văn Phú nguyên Tư lịnh quân đoàn II quân khu II tự tử bằng thuốc độc ngày 29/04/1975 và chết vào trưa ngày 30/04/1975 khi nghe tin Dương Văn Minh đầu hàng Việt cộng.
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam tư lịnh Quân Ðoàn IV Quân khu IV, đã quyết định không đầu hàng Việt cộng và tuẫn tiết vào sáng ngày 01 tháng 5 để bảo vệ khí tiết của một vị tướng lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông tự sát khi mới 48 tuổi.
Chuẩn tướng Trần Văn Hai Tư lịnh Sư đoàn 7 Bộ binh tự sát bằng thuốc độc chiều ngày 30/4/1975.
Ðại tá Hồ Ngọc Cẩn Tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện, chiến đấu đến cùng và bị bắt lúc 11 giờ đêm ngày 1/5/75 khi bộ chỉ huy Tiểu khu thất thủ.
Và còn nhiều, rất nhiều gương trung liệt khác của quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh trong ngày 30/4/1975 vì không chấp nhận đầu hàng quân Bắc xâm Việt cộng. (1)
Một trang sử đã lật qua !
- Sau khi chiếm Sài Gòn quân Bắc xâm Việt cộng đã cướp 16 tấn vàng của Việt Nam Cộng Hòa do phó thủ tướng Nguyễn Văn Hảo trao tay. Rồi đổ cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã đem đi ngoại quốc.
- Ngày 10/05/1975, quân Bắc xâm Việt cộng tập trung Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa trong chính sách "tập trung cải tạo" thực tế là đi tù. Hàng trăm ngàn người đã bị đày ải trong các trại tù từ Nam chí Bắc; trong số đó có những người đã bị chết trong các trại tù do bịnh tật, do sự trả thù, do sự vượt thoát không thành và bị hạ sát. Con số có thể lên đến hàng ngàn, hàng chục ngàn người bị chết trong các trại tù trá hình từ Nam chí Bắc.
- Ngày 14/08/1975 Đại tá Hồ Ngọc Cẩn tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện bị Việt cộng hành quyết.
- Từ ngày 02/09 đến 27/12/1975, Việt cộng hành quyết 7 sĩ quan và viên chức hành chánh của Việt Nam Cộng Hòa ở trại tù Suối Máu, tỉnh Đồng Nai.
- Ngày 18/09/1975 đổi tiền lần thứ nhất.
- Ngày 10/11/1975 chiến dịch đánh tư sản mại bản lần đầu do Nguyễn Hữu Thọ cầm đầu.
- Ngày 22/12/1975 Việt cộng tiến hành thống nhất hai miền Nam Bắc và chính thức khai tử Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (một bình phong, con cờ trong âm mưu thôn tính miền Nam) bằng cách chỉ xử dụng lá cờ đảng sao vàng làm "quốc kỳ" cho nước Việt Nam thống nhất.
- Từ 02/01 đến 13/08/1976, quân chiếm đóng Việt cộng xử tử hình 17 sĩ quan và viên chức hành chánh VNCH ở trại tù Suối Máu, tỉnh Đồng Nai.
- Ngày 12/02/1976, Việt cộng tấn công nhà thờ Vinh Sơn ở Sài Gòn và giết 3 vị linh mục. Một số thành viên của tổ chức Liên Tôn bị bắt, trong đó có Linh mục Quang Minh.
- Ngày 12/03/1976, Trần Văn Phác, bộ trưởng thông tin Việt cộng ra lịnh tịch thu, tiêu hủy "sách báo đồi trụy, phản động" ở miền Nam Việt Nam. Đây là lần thứ ba đạo quân Bắc xâm diệt chủng văn hóa của tộc Việt.
- Ngày 05/06/1976, Trần Trọng Tân, trưởng ban khoa giáo thành ủy Sài Gòn ra thông báo tổ chức các khóa học chánh trị cho giới văn nghệ sĩ miền Nam, và sau đó là những đợt truy lùng bắt bớ văn nghệ sĩ trên toàn miền Nam.
- Từ khi sài Gòn bị thất thủ, hàng ngàn, hàng vạn người dân Việt đã liều mạng bỏ xứ ra đi. Họ dùng đủ mọi phương tiện, bằng tàu bè, bằng đường bộ để vượt thoát ra khỏi chế độ Cộng sản Việt Nam. Do đó đã đưa đến cao trào vượt biển vào năm 1979. Có những người may mắn đến được bến bờ tự do, rồi được định cư ở một nước thứ ba; nhưng có những người vượt biển khác đã để xác thân lại dưới lòng biển sâu; và có những người phụ nữ Việt Nam bị hải tặc Thái Lan cưỡng bức, rồi hoặc giết, hoặc bắt đi đem bán cho các nhà "tiếp khách" ở Vọng Các. Con số nạn nhân vượt biển tìm tự do lên đến khoảng 1 triệu 500 ngàn người. Và con số người đến được bến bờ tự do, không dưới 3 triệu người, định cư rải rác trên thế giới từ Mỹ sang Âu.
- Ngày 26/12/1978, quân Bắc xâm Việt cộng xua 200 ngàn quân xâm lăng Cao Miên.
- Ngày 17/02/1979, Tầu cộng xua hơn 500 ngàn quân tấn công các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam.
...
Thăng Long ngàn xưa huy hoàng rực rở biết bao nhiêu thì Thăng Long ngàn năm sau ê chề nhục nhả không bút mực nào diễn tả được.
Đó là phải kể từ khi đảng Cộng Sản Việt Nam làm chủ Thăng Long năm 1954, họ đã hành xử như một thế lực xâm lăng của ngoại bang từ phương Bắc.
Nói một cách rõ ràng hơn chính đảng Cộng sản Việt Nam đã biến mình thành làm cánh tay nối dài của Trung cộng trong mục tiêu xâm lược, nô lệ hóa dân tộc Việt Nam từng bước một qua nhiều thời kỳ khác nhau.
Từ cải cách ruộng đất 1956 đến tiến hành xâm lược quốc gia Việt Nam Cộng Hòa năm 1975, núi xương sông máu trải dài trên đất nước đã một thời tự hào có nền văn hiến chi bang. Ngoài ra cần phải kể thêm đến hải chiến Hoàng Sa năm 1974 giữa hải quân Việt Nam Cộng Hòa và Trung cộng.
Dòng sử cận đại của tộc Việt đã đề danh không biết bao nhiêu anh hùng, anh thư, chiến sĩ, danh tướng đã hết lòng chiến đấu, hy sinh cho lý tưởng tự do, tự cường của nước nhà. Từ anh hùng Nguyễn Thái Học, Cô Giang, Cô Bắc, đến anh hùng Huỳnh Phú Sổ, anh hùng Ngô Đình Diệm, anh hùng Ngô Đình Nhu cho đến anh hùng Trương Quang Ân, Lưu Trọng Kiệt, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Văn Hiếu, Ngụy Văn Thà, Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Xuân Phúc, Võ Đằng Phương, Trần Văn Hương, Trương Văn Sương, Nguyễn Văn Trại v.v... họ đã là những biểu tượng sáng ngời của nền văn hiến chi bang, một thời là Đại Việt Quốc.
Điều đáng tiếc đối với dân tộc Việt Nam là tài nguyên, vật lực đổ xuống chỉ để cho nhu cầu chiến tranh, cũng như bành trướng chủ nghĩa Cộng sản phục vụ cho sự bành trướng xuống phương nam của quân Trung cộng.
Sau ngày thống nhất đất nước bằng bạo lực vào thời điểm 30/04/1975, đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục đẩy con dân Việt Nam vào những cuộc chiến tranh khác như chiến tranh biên giới Việt Trung 1979, chiến tranh biên giới Cao Miên; cuộc chiến Núi Đất; thảm sát Trường Sa 1988 v.v...
Cỏn phải kể đến biên giới phía Bắc, Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, Bãi Tục Lãm, Vịnh Bắc Bộ, rừng đầu nguồn, Tây Nguyên, Hoàng sa, Trường Sa, đảo Bạch Long Vỹ, tất cả đều được đảng Cộng Sản Việt Nam dâng cho quân Trung cộng để đánh đổi sự tồn tại chính trị của họ.
Người dân Việt không ngồi yên cho đảng Cộng sản thực hiện điều họ mong muốn. Đó là nô lệ hóa dân tộc trở thành quận huyện của Tàu. Những người dân này đã biểu hiện ý chí chống ngoại xâm cũng như quyết tâm đòi dân quyền, nhân quyền cho tộc Việt. Trong đó  tiêu biểu là người tù chính trị xuyên thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu; Linh mục tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Lý, Hòa thượng Thích Quảng Độ, tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, ông Vi Đức Hồi, ông Nguyễn Văn Bảy, ông Nguyễn Văn Lía, cô Đỗ thị Minh Hạnh, Đặng Phương Nghiêm, Trần Huỳnh Duy Thức, Điếu cày Nguyễn Văn Hải, Bùi thị Minh Hằng, anh ba Sài Gòn, Tạ Phong Tần v.v...cho dù thân họ nằm trong nhà tù nhỏ xã hội chủ nghĩa, nhưng tâm hồn, ý chí họ phóng khoáng, cao thượng luôn giữ vững tấm lòng son sắt đối với dân, với nước, bất chấp gian lao, khổ sở, cũng như những sự hành hạ về thể xác và tinh thần mà nhà đương cuộc đã dành cho. Ý chí đấu tranh bất khuất của họ đã làm dư luận quốc nội và quốc tế quan tâm sâu sắc, và những định chế quốc tế, cho đến các tổ chức phi chánh phủ đồng loạt lên tiếng đòi nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam phải trả tự do ngay lập tức cho những người chiến sĩ quả cảm này.
Liên quan đến cuộc họp ở Thành Đô (Tứ Xuyên), Trung cộng đầu tháng 9/1990 giữa lãnh đạo cộng sản Việt Nam và Cộng sản Tàu, theo Nguyễn Cơ Thạch bộ trưởng ngoại giao đã nhận định rằng: “một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu!”. Một lời than áo não. Lời cảnh báo đó, đến ngày hôm nay vẫn còn có giá trị.
Năm 2010 kỷ niệm một ngàn năm thành Thăng Long được thành lập, thay vì tổ chức sự kiện này trong niềm tự hào dân tộc để phát huy, chấn hưng dân khí, đảng Cộng sản Việt Nam lại hành động một cách khác (2).
Họ tổ chức thật rình rang, tốn kém lễ lộc này để mừng quốc khánh Trung cộng ngày 01/10 nhưng lồng dưới tiêu đề kỷ niệm đại lễ ngàn năm Thăng Long. Đây là một sự đánh tráo lịch sử, làm nhục cho lịch sử dân tộc. Hành động này đã hoàn toàn làm mất đi ý nghĩa thiêng liêng của lễ kỷ niệm ngàn năm.
Dư luận trong, ngoài nước đã phản ứng rất dữ dội sự đánh tráo lịch sử, làm nhục tổ tiên của đảng Cộng sản Việt Nam vào lúc đó.
Tháng 05/2011, xảy ra sự kiện tàu hải giám Trung cộng cắt dây thép tàu Bình Minh của Việt Nam cộng sản. Đứng trước sự kiện khiêu khích này nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam phản ứng rất yếu ớt, nhu nhược.
Thế nhưng người dân Việt Nam ở trong và ngoài nước đã bất chấp sự nhu nhược, hèn hạ của nhà cầm quyền hiện tại, họ đồng loạt tổ chức biểu tình phản đối hành động xâm lấn của Trung cộng; đặc biệt người Việt hải ngoại còn nêu bật thủ phạm bán nước là nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam và tố giác hành động xâm lược của quân Trung cộng trước công luận quốc tế.
Ngày 11/10/2011, ông Nguyễn phú Trọng, Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam đã cùng với Hồ cẩm Đào, chủ tịch nước Trung cộng chứng kiến lễ ký thỏa hiệp Việt Nam - Trung Cộng liên quan đến các vấn đề tranh chấp biển Đông (3).
Ngày 24/12/2011, Hội Nghiên Cứu Sử Học Việt Nam tại Âu Châu đã ra Tuyên Cáo Chống Nội Thuộc Nước Tàu Lần Thứ 7 (4)
Vào ngày 5 tháng 1 năm 2012 nhà cầm quyền huyện Tiên Lãng, Hải Phòng, đã điều động công an đến cướp đất của ông Đoàn Văn Vươn. (5)
Trong khi vụ cướp đất Tiên Lãng đang ầm ĩ cả trong lẫn ngoài nước, ngày 19/01/2012, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ đã mời bà Trần Ngọc Sương - nguyên giám đốc Nông trường sông Hậu và những người liên quan đến vụ án Nông trường sông Hậu đến tòa để nghe phán quyết đình chỉ vụ án.
Phóng viên Việt Hà của đài RFA cho biết vào rạng sáng ngày 24/04/2012, nhà cầm quyền tỉnh Hưng yên đã huy động 3000 công an, bộ đội đến cưỡng chế cánh đồng 70 ha của dân chúng xã Xuân Quan huyện Văn Giang.
Khoảng 2000 người dân của ba xã Xuân Quan, Phụng Công và Cửu Cao đã chống trả quyết liệt với 3000 công an, bộ đội bị lạm dụng thi hành nhiệm vụ.
Việc cưỡng chế đất ở Văn Giang Hưng Yên có liên quan đến công ty Ecopark. Người đứng đằng sau Ecopark là đương kim thủ tướng Nguyễn tấn Dũng.
1000 công an (không có quân đội như lần cướp đất ở Văn Giang) cùng chó săn được huy động để đàn áp hơn 100 người dân địa phương ở Vụ Bản ngày 09/05/2012.
Hành động cướp đất cướp của dân một cách công khai, và dã man đã khiến nhiều nhân sĩ, trí thức trong nước, hải ngoại còn nặng lòng với dân tộc đã lên tiếng chỉ trích.
Các vụ cướp đất cướp của dân chưa yên thì ngày 06/05/2012, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam tổ chức khánh thành tượng Đức Thánh Trần ở đảo Trường Sa nhằm đánh lạc hướng dư luận.
Trong hội nghị Tổng kết năm 2011 của Bộ Khoa học và Công nghệ được tổ chức ngày 11/01/2012, ông Nguyễn tấn Dũng đã nhấn mạnh "Chúng ta quyết tâm làm điện nguyên tử. Không làm điện nguyên tử không có điện. Theo tính toán đến năm 2020, Việt Nam sẽ thiếu điện nghiêm trọng".
Thực ra, đây là phương tiện tham nhũng đối với đảng Cộng sản Việt Nam, cho dù việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân sẽ vô cùng bất lợi cho dân tộc Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang tạo ra ba quả bom treo lơ lửng trên đầu dân tộc Việt Nam.
Chỉ có con đường cách mạng dân chủ mới thoát khỏi sự cai trị độc tài của đảng Cộng sản Việt Nam và chấm dứt tình trạng diệt chủng dân tộc qua ba quả bom bùn đỏ, đập nước, hạt nhân. Con đường cách mạng dân chủ sẽ là quả bom thứ tư, mà đối tượng nhắm đến không ai khác chính Cộng sản Việt Nam sẽ là mục tiêu hướng tới.
Tham khảo:
1/ Thiên Niên Sử Thăng Long Thành, Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc biên khảo
Trúc Lâm Lê An Bình biên khảo; Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc hiệu đính

http://vietnamdefence.info/lichsuvietnam_phan3.htm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét