Người theo dõi

Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2016

TỈNH HÀ TĨNH

Hà Tĩnh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hà Tĩnh

Địa lý
Diện tích
5.997,3 km²
Dân số (2013)

 Tổng cộng
1.242.700 người[1]
 Mật độ
207 người/km²
Dân tộc
[hiện] Vị trí Hà Tĩnh trên bản đồ Việt Nam

Hành chính
Quốc gia
Vùng
Tỉnh lỵ


Đối với các định nghĩa khác, xem Hà Tĩnh (định hướng).
Hà Tĩnh là một tỉnh lớn thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Trước đây, Hà Tĩnh cùng với Nghệ An là một miền đất có cùng tên chung là Hoan Châu (thời kỳ đấu tranh chống văn hóa nô dịch (111tcn-938scn), Nghệ An châu (thời Lý, Trần), xứ Nghệ (năm 1490, đời vua Lê Thánh Tông), rồi trấn Nghệ An. Năm 1831, vua Minh Mệnh chia trấn Nghệ An thành hai tỉnh: Nghệ An (bắc sông Lam) và Hà Tĩnh (nam sông Lam).
Năm 1976, Hà Tĩnh sáp nhập với Nghệ An, lấy tên là Nghệ Tĩnh. Năm 1991, Quốc hội khóa VIII ra nghị quyết chia tỉnh Nghệ Tĩnh, tái lập tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà Tĩnh.
Vị trí
Hà Tĩnh trải dài từ 17°54’ đến 18°37’ vĩ Bắc và từ 106°30’ đến 105°07’ kinh Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Nghệ An, phía Nam giáp tỉnh Quảng Bình, phía Tây giáp hai tỉnh  Borikhamxay  Khammuane của Lào, phía Đông giáp Biển Đông.
Địa hình
Hà Tĩnh cách Hà Nội 340 km về phía nam, ở phía đông dãy Trường Sơn với địa hình hẹp, dốc và nghiêng từ tây sang đông. Phía tây tỉnh là những dãy núi cao 1.500m, đỉnh Rào Cọ 2.235 m, phía dưới là vùng đồi thấp giống bát úp; tiếp nữa là dải đồng bằng nhỏ hẹp chạy ra biển; sau cùng là những bãi cát ven biển cùng với nhiều vũng, vịnh, tiêu biểu là cảng biển nước sâu Vũng Áng và bãi biển Thiên Cầm.
Khí hậu
Hà Tĩnh nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, mưa nhiều. Ngoài ra, Hà Tĩnh còn chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam, với đặc trưng khí hậu nhiệt đới điển hình của miền Nam và có một mùa đông giá lạnh của miền Bắc; nên thời tiết, khí hậu rất khắc nghiệt. Hàng năm, Hà Tĩnh có hai mùa rõ rệt:
Mùa hè: Từ tháng 4 đến tháng 10, đây là mùa nắng gắt, khô hạn kéo dài kèm theo nhiều đợt gió phơn Tây Nam (gió Lào) khô nóng, nhiệt độ có thể lên tới hơn 40oC, khoảng cuối tháng 7 đến tháng 10 thường có nhiều đợt bão kèm theo mưa lớn gây ngập úng nhiều nơi, lượng mưa lớn nhất 500 mm/ngày đêm.
Mùa đông: Từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, mùa này chủ yếu có gió mùa Đông Bắc kéo theo gió lạnh và mưa phùn, nhiệt độ có thể xuống tới 7oC.
Lịch sử
Trước thời các vua Hùng dựng nước, Hà Tĩnh cùng với Nghệ An là nước Việt Thường.
Thời các vua Hùng dựng nước Văn Lang liên bộ lạc, theo Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Tĩnh thuộc bộ Cửu Đức
Thời nhà Hán (thời kỳ đấu tranh chống văn hóa nô dịch (111tcn-938scn), đất Hà Tĩnh ngày nay thuộc huyện Hàm Hoan thuộc quận Cửu Chân
Thời nhà Ngô (thời độc lập tự chủ), thuộc Cửu Đức
Thời nhà Đinh, nhà Tiền Lê: gọi là Hoan Châu, vùng địa đầu phía Nam của nước Đại Cồ Việt, tiếp giáp với nước Chiêm Thành và nước Ai Lao.
Thời -Trần, từ năm 1030, bắt đầu gọi là châu Nghệ An. Vào đầu thời kỳ này (đầu thời nhà Lý), đất Hà Tĩnh (phía Bắc đèo Ngang) vẫn là vùng đất biên cương của Đại Việt với Chiêm Thành.
Thời nhà Hậu Lê, từ năm Hồng Đức thứ 20 (1490) vua Lê Thánh Tông đặt ra thừa tuyên Nghệ An, nhưng vùng đất Nghệ An-Hà Tĩnh ngày nay cũng còn được gọi là xứ Nghệ An, phần đất thuộc tỉnh Hà Tĩnh ngày nay là đất thuộc 2 phủ Đức Quang (tức phủ Đức Thọ sau này) và phủ Hà Hoa (sau còn gọi là phủ Hà Thanh). Phủ Hà Hoa gồm 2 huyện: Thạch Hà và Kỳ Hoa (tức Kỳ Anh và Hoa Xuyên sau này). Phủ Đức Quang gồm 6 huyện: Thiên Lộc (tức Can Lộc), La Sơn (tức Đức Thọ ngày nay), Hương Sơn, Nghi Xuân, Chân Phúc (tức Nghi Lộc Nghệ An), Thanh Chương  (Nghệ An).[2]
Thời Tây Sơn, vùng đất Nghệ An-Hà Tĩnh được gọi chung là Nghĩa An trấn
Nhà Nguyễn năm Gia Long nguyên niên (1802) lại đặt làm Nghệ An trấn
Năm 1831, vua Minh Mạng chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Nghệ An (phía Bắc sông Lam); Hà Tĩnh (phía nam sông Lam). Tỉnh Hà Tĩnh được thành lập với 2 phủ Đức Thọ và Hà Hoa của trấn Nghệ An trước đó. Năm Minh Mạng 17 (1838) lập thêm huyện Hoa Xuyên thuộc phủ Hà Hoa (Hoa Xuyên tức là Cẩm Xuyên ngày nay). Năm Minh Mạng 21 (1840), 2 huyện (trước của vương quốc Viêng Chăn bị diệt vong bởi Xiêm La và đất châu Trịnh Cao) là: Cam Cát (tức Khamkheuth tỉnh Borikhamxay) và Cam Môn (tức vùng các huyện Hương Khê, Vũ Quang và phia Đông Bắc tỉnh Khammuane ngày nay), từng nhập vào phủ Trấn Định (tức Ngọc Ma) thuộc xứ Nghệ của Đại Nam, đến lúc đó Minh Mạng cho nhập vào phủ Đức Thọ của tỉnh Hà Tĩnh. Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), đổi phủ Hà Hoa thành phủ Hà Thanh (do kỵ húy), đồng thời Thiệu Trị lấy cả 3 phủ Trấn Định, Trấn Tĩnh, Lạc Biên (trước thuộc Nghệ An) nhập vào tỉnh Hà Tĩnh.[3]
Năm Tự Đức thứ 6 (năm 1853) đổi tỉnh Hà Tĩnh làm đạo, hợp vào Nghệ An thành An Tĩnh.
Năm Tự Đức thứ 29 (năm 1876) lại đặt tỉnh Hà Tĩnh như cũ.
Thời Pháp thuộc tỉnh Hà Tĩnh thuộc xứ Trung Kỳ nằm trong Liên bang Đông Dương của Pháp. Các phủ huyện là đất (các tỉnh Khammuane, Borikhamxay) thuộc Lào ngày nay (tức là đất các phủ Trấn Định, Trấn Tĩnh, Lạc Biên) bị cắt về xứ Lào thuộc Pháp, và từ đó không thuộc Việt Nam nữa.
Thời nước Việt Nam độc lập (sau 1945), tỉnh Hà Tĩnh là một tỉnh thuộc vùng Trung Bộ Việt Nam. Sau năm 1954, Hà Tĩnh thuộc Bắc Việt (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa).
Từ sau khi Việt Nam thống nhất (Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam), giai đoạn 1976-1991, 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh nhập làm một tỉnh và được gọi là tỉnh Nghệ Tĩnh
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh lại tách ra thành Nghệ An và Hà Tĩnh như ngày nay. Khi tách ra, tỉnh Hà Tĩnh có 9 đơn vị hành chính gồm thị xã Hà Tĩnh và 8 huyện: Cẩm Xuyên, Can Lộc, Đức Thọ, Hương Khê, Hương Sơn, Kỳ Anh, Nghi Xuân, Thạch Hà.
Ngày 2 tháng 3 năm 1992, thành lập thị xã Hồng Lĩnh thuộc tỉnh Hà Tĩnh trên cơ sở tách thị trấn Hồng Lĩnh; 2 xã: Đức Thuận, Trung Lương; một phần xã Đức Thịnh thuộc huyện Đức Thọ và 2 xã: Đậu Liêu và Thuận Lộc thuộc huyện Can Lộc.[4]
Ngày 4 tháng 8 năm 2000, huyện Vũ Quang được thành lập trên cơ sở tách 6 xã: Đức Lĩnh, Đức Giang, Đức Liên, Ân Phú, Đức Hương, Đức Bồng thuộc huyện Đức Thọ, 5 xã: Hương Thọ, Hương Minh, Hương Đại, Hương Điền, Hương Quang, Hương Trạch, thuộc huyện Hương Khê và xã Sơn Thọ thuộc huyện Hương Sơn.[5]
Ngày 7 tháng 2 năm 2007, huyện Lộc Hà được thành lập trên cơ sở tách 7 xã ven biển: Ích Hậu, Hồng Lộc, Phù Lưu, Bình Lộc, Tân Lộc, An Lộc, Thịnh Lộc thuộc huyện Can Lộc và 6 xã ven biển: Thạch Kim, Thạch Bằng, Thạch Châu, Mai Phụ, Hộ Độ, Thạch Mỹ thuộc huyện Thạch Hà.[6]
Ngày 28 tháng 5 năm 2007, chuyển thị xã Hà Tĩnh thành thành phố Hà Tĩnh.[7]
Ngày 6 tháng 4 năm 2015, thị xã Kỳ Anh được thành lập trên cơ sở tách thị trấn Kỳ Anh và 11 xã: Kỳ Hà, Kỳ Ninh, Kỳ Lợi, Kỳ Trinh, Kỳ Thịnh, Kỳ Long, Kỳ Liên, Kỳ Phương, Kỳ Nam, Kỳ Hưng, Kỳ Hoa thuộc huyện Kỳ Anh.
Dân cư
Hà Tĩnh có 1.229.197 người (niên giám thống kê Hà Tĩnh 2011), giảm so với điều tra dân số năm 1999, do một bộ phận dân di cư chuyển đến các địa phương khác sinh sống mà chủ yếu là ở các tỉnh phía Nam. Dân tộc chủ yếu sống tại Hà Tĩnh là người Kinh và một dân tộc thiểu số khác cùng nhóm với người Kinh là người Chứt, Thái, Mường, Lào sống ở các huyện: Hương Sơn, Vũ Quang, Hương Khê với khoảng vài ngàn người sống ở miền núi.

Hà Tĩnh có diện tích tự nhiên 6.055,7 km². trong đó:
Đất ở: 6.799 ha
Đất nông nghiệp: 98.171 ha
Đất lâm nghiệp: 240.529 ha
Đất chuyên dùng: 45.672 ha
Đất chưa sử dụng: 214.403 ha
Sông  
Hà Tĩnh có nhiều sông nhỏ chảy qua, con sông lớn nhất là sông La  sông Lam, ngoài ra có con sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu,Ngàn Trươi, Rào Cái, Tổng chiều dài các con sông khoảng 400 km, tổng sức chứa 13 tỷ m³. còn hồ Kẻ Gỗ, hồ Sông Rác, hồ Cửa Thờ Trại Tiểu, Đập Đồng Quốc Cổ Đạm... ước 600 triệu m³ [1].[
Tài nguyên biển
Hà Tĩnh có bờ biển dài 137 km. Trữ lượng nhiều khoảng 85,8 nghìn tấn , 3,5 nghìn tấn mực và 600 tấn tôm [2].
Tôn giáo
Hà Tĩnh là tỉnh có đông đồng bào theo các tôn giáo, chủ yếu là Công giáo và Phật giáo ngoài ra còn một số người theo đạo Tin lành với số tín đồ hiện nay là 154.848 (chiếm trên 12% dân số toàn tỉnh); có 307 cơ sở thờ tự (231 nhà thờ, nhà nguyện, tu viện; 73 chùa).
Riêng đạo Công giáo, Hà Tĩnh là 1 trong 15 tỉnh, thành phố có số lượng tín đồ đạo Công giáo đông nhất toàn quốc, hiện nay có 6 giáo hạt, 58 giáo xứ, 231 họ đạo, 3 tu viện thuộc dòng Mến Thánh giá Vinh, ngoài ra còn  một số cơ sở, nhóm nữ tu Dòng Mến Thánh giá, Dòng Bác ái. Hiện nay toàn tỉnh có 56 linh mục và hơn 150 nữ tu ở các cơ sở dòng, nhóm nữ tu, có 149.273 giáo dân, chiếm 11,5% dân số, có 131/262 xã, phường, thị trấn có đông giáo dân và có 461 khu dân cư vùng giáo, trong đó 114 vùng giáo toàn tòng.[8]
Rừng
Tỉnh Hà Tĩnh có trên 300.000 ha rừng và đất rừng trong đó diện tích rừng chiếm 66%, còn lại chưa có rừng, gồm trên 100.000 ha đất trống đồi núi trọc, đất bụi và bãi cát. Rừng tự nhiên (164.978 ha) hiện chủ yếu phân bố ở vùng núi cao, xa các trục giao thông, trong đó rừng sản xuất kinh doanh 100.000 ha, rừng phòng hộ 63.000 ha, độ che phủ 38% so với diện tích đất tự nhiên. Rừng giàu chỉ chiếm 10%, rừng trung bình 40%, còn lại 50% là rừng nghèo kiệt. Đất không có rừng 151.000 ha, chiếm 24,4% diện tích tự nhiên của tỉnh, trong đó một số diện tích ở sườn đồi đang bị xói mòn. Trữ lượng gỗ 20 triệu m³hàng năm khai thác chừng 2-3 vạn m³; những năm gần đây thực hiện chính sách đóng cửa rừng nên lượng gỗ khai thác hàng năm đã giảm nhiều.Thực vật của rừng đa dạng và phong phú, có trên 86 họ và trên 500 loại cây dạng thân gỗ, trong đó có nhiều loại gỗ quý như: lim, sến, táu, mật, đinh, gõ, pơmu và các loại động vật quý hiếm như: voi, hổ, báo, vượn đen, sao la.
Hà Tĩnh có khu vườn quốc gia Vũ Quang rộng 56 nghìn ha với 307 loài thực vật bậc cao thuộc 236 chi và 99 họ, 60 loài thú, 187 loài chim, 38 loài bò sát, 26 loài lưỡng cư và 56 loài . Đặc biệt, ở rừng Vũ Quang đã phát hiện ra sao la và mang lớn là hai loại thú quý hiếm chưa có tên trong danh mục thú của thế giới [3].[liên kết hỏng]
Hành chính
Hà Tĩnh có 13 đơn vị hành chính cấp huyện gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 10 huyện, trong đó có với 262 đơn vị hành chính cấp , gồm có 11 thị trấn, 21 phường và 230 :[9]
Thành phố Hà Tĩnh (tỉnh lỵ)
Thị xã Hồng Lĩnh
Thị xã Kỳ Anh
Huyện Cẩm Xuyên
Huyện Can Lộc

Huyện Đức Thọ
Huyện Hương Khê [10]
Huyện Hương Sơn
Huyện Kỳ Anh

Huyện Nghi Xuân
Huyện Thạch Hà
Huyện Vũ Quang [11]
Huyện Lộc Hà
Văn hóa
Xứ Nghệ là tên chung của vùng Hoan Châu cũ (bao gồm cả Nghệ An và Hà Tĩnh) từ thời nhà Hậu Lê. Hai tỉnh này cùng chung một vùng văn hóa gọi là văn hóa Lam Hồng, có chung biểu tượng là núi Hồng - sông Lam. Hai tỉnh này có cùng phương ngữ- tiếng Nghệ, cùng kho tàng văn hóa dân gian, cùng ca câu hò ví dặm, cùng uống chung dòng nước sông Lam.
Hà Tĩnh là một vùng đất nằm trên dải đất miền Trung, phía nam sông Lam, thiên nhiên không mấy ưu đãi, nhưng lại được coi là nơi "địa linh nhân kiệt"[4]. Nhiều làng quê ở Hà Tĩnh nổi tiếng văn chương, khoa bảng và kiên cường. Nhiều anh hùng, danh nhân Việt Nam xuất thân từ Hà Tĩnh.
Núi Hồng Lĩnh với 99 ngọn cùng sông Ngàn Phố, sông Ngàn Sâu  sông La, sông Lam là nguồn cảm hứng cho các thế hệ thi nhân, nhạc sĩ. Núi Hồng Lĩnh là một trong số các địa danh được khắc vào Bách khoa thư cửu đỉnh hiện đang đặt tại cố đô Huế.
Phía đông Hồng Lĩnh  làng Tiên Điền của đại thi hào  Nguyễn Du, tác giả của Truyện Kiều. Phía tây nam núi Hồng lĩnh là làng "Bát cảnh Trường Lưu" của dòng họ Nguyễn Huy. Hai làng văn hiến ở hai sườn đông và tây núi Hồng Lĩnh ấy đã tạo nên một Hồng Sơn văn phái với những tác phẩm tiêu biểu như Hoa tiên (của Nguyễn Huy Tự), Mai Đình mộng ký (của Nguyễn Huy Hổ), Truyện Kiều.
Các làng Thu Hoạch, Trường Lưu, Tiên Điền, Uy Viễn,  Đông Thái, Yên Hội, Gôi Mỹ, Thần Đầu, Trung Lễ, Bùi Xá, Ích Hậu, Trung Lương, Ân Phú... nổi danh về truyền thống học hành, khoa bảng và văn chương
Hà Tĩnh còn có nhiều làng văn nghệ nổi tiếng trong vùng như: làng hát ca trù Cổ Đạm, chèo Kiều Xuân Liên, hát ví phường vải Trương Lưu, hò ví dặm Đan Du, Phong Phú... Nhiều làng nền nếp, phong lưu có nhiều lễ hội, hương ước, phong tục như: Kim Chùy, Hội Thống, Đan Trường, Kim Đôi, Phù Lưu Thượng... Các làng truyền thống với những giọng hò nổi tiếng quanh núi Hồng Lĩnh, ven dòng sông Lam, sông La, sông Ngàn Sâu, sông Ngàn Phố đã để lại nhiều thơ văn và trước tác.
Làng nghề truyền thống
- Làng Nghề Nồi Đất Cổ Đạm- Làng nghề vắt nồi đất Hoa kỳ thuộc Xã cổ đạm từ xa xưa con người ở vùng đất này đã biết dùng đất sét để vắt lên những cái nồi đất phục vụ cho cuộc sống trong vùng cũng như cả cộng động.
- Làng rèn Vân Chàng-: Làng nằm trong lưu vực sông Minh, bao bọc bởi rú Ngọc và rú Tiên thuộc tổng Minh Lang, huyện Thiên Lộc. Ngày nay thuộc xã Đức Thuận, thị xã Hồng Lĩnh. Từ bao đời làng rèn Vân Chàng không chỉ có tiếng ở địa phương mà cả trong nước về sản xuất các mặt hàng đồ sắt phục vụ nông nghiệp và đời sống. Làng rèn Minh Lương: Làng nằm cạnh làng Vân Chàng, nay thuộc xã Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh. Làng phát đạt nghề rèn nông cụ, hiện nay nghề được tiếp tục phát triển và mở rộng.
- Làng mộc Thái Yên: Đầu thế kỷ XX, Thái Yên là một thôn thuộc xã Quang Chiêm.Từ nằm 1976 Thái Yên nằm trong xã Đồng Quang, ngày nay Thái Yên thuộc xã Đức Bình, huyện Đức Thọ. Thợ mộc Thái Yên giỏi nghề kiến trúc nhà cỴa, đình chùa với kỹ thuật cao về chạm, trổ, tiện, xoi...Đồng thời rất khéo tay làm đồ gia dụng kiểu mới như: giường, tủ, bàn ghế....Hàng mộc Thái Yên nổi tiếng trong nước, kể cả Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn và cũng ăn khách ở Hồng Kông, Thượng Hải.
- Làng gốm Cẩm Trang: Từ Tam Soa - Linh Cảm ngược sông Ngàn Sâu qua xã Ân Phú đến thác Trành là địa phận Cẩm Trang. Ngày nay Cẩm Trang nằm trong xã Đức Giang, huyện Vũ Quang. Trước đây thợ gốm chủ yếu nung các loại sành nhỏ như: bình, vò, chậu liển, be, hũ, vại....dùng trong gia đình. Ngày nay Cẩm Trang đã nung gạch, ngói được quý khách hàng ưa chuộng. Nhưng do thiếu điều kiện như: giao thông, kỹ thuật mới hiện đại, thị trường....Nên nghề gốm cổ truyền ở Cẩm Trang nay đã mất mà chỉ có nghề nung gạch các loại.
- Làng đóng thuyền Trường Xuân: Làng Trường Xuân là một giải đất đẹp, ven sông La, giáp các làng Thọ Ninh, Thọ Trường, Thịnh Quả....trước đây. Nay làng Trường Xuân thuộc xã Trường Sơn, huyện Đức Thọ, và làng có 170 hộ làm nghề đóng thuyền, xẻ gỗ. Thợ đóng thuyền Trường Xuân đã đóng hàng nghìn thuyền lớn nhỏ phục vụ đánh cá, vận tải trong hai cuộc kháng chiến, đến nay nghề truyền thống này vẫn được duy trì tốt.
- Làng đúc đồng Đức Lâm: Xưa kia làng thuộc tổng Thượng nhi, phủ Thạch Hà, nay là xã Thạch Lâm, huyện Thạch Hà. Đức Lâm là một làng cổ có nghề đúc đồng truyền thống từ xa xưa trên dưới 200 năm. Thợ đúc đồng đã từng đúc các loại: từ nồi, chậu, chảo, bình, mâm đến loa chiêng, kẻng, chuông, đồ trang sức như tiền đồng, thỏi bạc, trâm vàng. Đến nay nghề đúc đồng ở Đức Lâm đã bị mai mộ.
Làng Vĩnh Hoà: Làng xưa kia có tên Vĩnh Bảo, xã Phúc Truyền, huyện Thiên Lộc. Nay Vĩnh Hoà xã Mỹ Lộc. Làng có các nghề sau: - Nghề đúc lưỡi cày: đúc cả lưỡi và diệp. - Nghề nấu gang. - Nghề dệt võng.
- Làng Đan - Đan chế: Làng vốn có tên là Đan liên, thuộc tổng Trung, phủ Thạch Hà sau đổi thành Long Đan và nay là xã Thạch Long, huyện Thạch Hà. Làng nổi tiếng đan lát các loại đồ dùng gia đình: thúng, mủng, dần, sàng, nong, nia, gàu tát nước, rổ, rá...
- Làng nón Tiên Điền: Làng Tiên Điền nay thuộc xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân. Xưa kia làng có nghề làm tơi nón, đã đi vào thơ Nguyễn Du: "Quê nhà nắng sớm mưa mai Đã buồn, giở đến (nón) tơi càng buồn". Nay nghề này ở Tiên Điền đã bị mai một.
- Làng dệt vải Trường Lưu: Đời Lê thuộc xã Lai tổng, Lai thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang, nay là xã Trường Lưu, huyện Can Lộc. Từ bao đời, nghề thủ công chính ở Trường Lưu là nghề bông vải, kéo sợi, dệt vải. Sản phẩm phục vụ trong làng, trong tổng bao gồm các loại vải mộc, vải thô may mặc gia đình, có cả tơ lụa cho các cô gái. Làng Trường Lưu đã hình thành phường vải và hát ví phường vải cũng phát triển ở đây. Hiện nay nghề dệt vải ở Trường Lưu đã mai một.
- Làng Văn Tràng: Làng thuộc xóm Bắc Hải xã Kỳ Hải, huyện Kỳ Anh, ngày nay làng có nghề đúc lưỡi cày, đúc súng đạn.
- Làng thợ bạc Nam Trị: Thuộc hầu hết xã Thạch Trị và một phần xã Thạch Lạc, huyện Thạch Hà. Làng nổi tiếng nghề chạm vàng, bạc (nghề kim hoàn) làm đồ nữ trang.
- Làng Phù Lưu Thượng: Nay làng thuộc xã Hồng Lộc, huyện Can Lôc. Làng có nghề trồng chè ngon có tiếng được đi vào ca dao, tục ngữ:"Lá dày bé bé, gấp bẻ thì giòn".
- Làng chiếu Trảo Nha: Làng nằm bao ba phía một ngọn đồi nhỏ gọi là Ngạn Sơn, nay thuộc thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc. Làng nổi tiếng với nghề dệt chiếu: "Chiếu chợ Nghèn gần xa có tiếng ".
- Làng Ba Xã - Ích Hậu: Nay là xã Hậu Lộc, huyện Lộc Hà. Làng có nghề trồng mía, kéo mật, trồng dưa gang.
- Làng Hữu Bằng: Ngày nay thuộc xã Sơn Bằng, huyện Hương Sơn. Làng có nghề làm điếu cày bằng tre già và hộp thuốc lào bằng vỏ bưởi.
- Làng Đan Du: Làng thuộc xã Kỳ Thư, huyện Kỳ Anh. Làng có nghề làm nón là chính. Cách đây 70 năm nghề nón ở Đan Du đã hình thành và chiếm lĩnh thị trường trong tỉnh. Làng nón Phù Việt: Làng thuộc xã Thạch Việt, huyện Thạch Hà, làng nổi tiếng nghề nón trong tỉnh nên đã đi vào thơ ca: "... Nón Ba Giang óng ả đường làng..." Hiện nay vẫn còn nhiều hộ gia đình làm nón nhưng do nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nguyên liệu khó khăn nên nghề nón ở Phù Việt vẫn có phần hạn chế.
- Làng Phú Phong: Làng thuộc xã Phú Phong, huyện Hương Khê. Nghề trồng cau là nghề thịnh hành nhất của làng vì đây là nguồn lợi to lớn, làm giàu cho dân làng.
- Làng Cương Gián: Nay là xã Cương Gián, huyện Nghi Xuân. Làng vốn nổi tiếng làm nghề nước mắm đã được ghi trong sách Nghi Xuân địa chí". Thời thiệu trị, các làng duyên hải đều có nghề nước mắm, nhưng thịnh nhất là ở Cương Gián, tuy vậy đến nay nước mắm Cương Gián vẫn chưa được phục hồi.
- Làng Nhượng Bạn: Làng thuộc xã Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên. Làng có nghề làm nước mắm thịnh hành từ xa xưa đến nay, mỗi gia đình ở Cẩm Nhượng đều có từ 5 đến 7 vại nước mắm muối để trong nhà.
- Làng Yên Lạc: Thuộc xã Quang Lộc - Can Lộc chuyên làm áo tơi biểu tượng của người dân Nghệ Tĩnh.
Nhân vật nổi bật
Đây là quê hương của nhiều nhân vật ở nhiều lĩnh vực từ xưa đến nay. Số người Hà Tĩnh đậu đại khoa thời phong kiến (tiến sĩ trở lên) xếp thứ 6 toàn quốc (sau Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Nội, Nghệ An, Thanh Hoá).
Thời Bắc thuộc: Mai Hắc Đế
Thời nhà Trần/hậu Trần: Sử Hy Nhan, Đặng Bá Tĩnh, Đặng Tất, Đặng Dung, Nguyễn Biểu,...

Khu kinh tế Vũng Áng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Khu kinh tế Vũng Áng là một khu kinh tế của Việt Nam nằm tại huyện Kỳ Anh, phía Nam tỉnh Hà Tĩnh, cách thành phố Hà Tĩnh 70 km về phía Nam.
Quy mô và vị trí 
Khu kinh tế Vũng Áng chủ yếu do Trung Quốc thầu và thi công. Khu kinh tế Vũng Áng được thành lập vào tháng 4 năm 2006 trên cơ sở khu công nghiệp - cảng biển Vũng Áng đã được thành lập từ năm 1997. Đây là một bộ phận của khu đô thị Vũng Áng và vùng kinh tế Bắc Quảng Bình - Nam Hà Tĩnh. KKT Vũng Áng được Thủ tướng Chính phủ thành lập tại Quyết định số 72/2006/QĐ-TTg ngày 03/4/2006 có diện tích 22.781ha với mục tiêu xây dựng, phát triển thành KKT đã ngành, đa lĩnh vực với trọng tâm là: (1) phát triển các ngành công nghiệp luyện kim gắn với lợi thế về tài nguyên, nguồn nguyên liệu; các ngành công nghiệp gắn với khai thác cảng biển, công nghiệp thép, trung tâm nhiệt điện và lọc hóa dầu, (2) phát triển đồng bộ khu liên hợp cảng Vũng Áng - Sơn Dương bao gồm việc đầu tư và khai thác có hiệu quả khu liên hợp cảng, phát triển dịch vụ cảng và các dịch vụ vận tải biển để tạo thành một trong những cửa ngõ ra biển quan trọng của Bắc Trung Bộ, (3) xây dựng khu đô thị mới Vũng Áng, đồng thời ưu tiên phát triển các khu du lịch sinh thái, du lịch nghĩ dưỡng biển trở thành các điểm du lịch quan trọng trong tuyến du lịch ven biển Bắc Trung Bộ.
Mục đích thành lập khu kinh tế Vũng Áng là khai thác lợi thế vị trí địa lý tự nhiên (gần cảng nước sâu Vũng Áng và Sơn Dương, gần quốc lộ 1A, trên quốc lộ 12A nối với Lào Thái Lan, gần mỏ sắt Thạch Khê) để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Hà Tĩnh, tạo điểm bứt phá về kinh tế – xã hội trong khu vực Bắc Trung Bộ, tạo sự liên kết phát triển giữa các tỉnh Bắc Trung Bộ, thu hẹp khoảng cách trong phát triển kinh tế – xã hội, hội nhập với cả nước và quốc tế.
Khu kinh tế Vũng Áng ở chân núi phía Bắc của dãy núi Hoành Sơn, bao trùm các  Kỳ Nam, Kỳ Phương, Kỳ Lợi, Kỳ Long, Kỳ Liên, Kỳ Thịnh, Kỳ Trinh, Kỳ Hà và Kỳ Ninh (đều thuộc Kỳ Anh) với diện tích tự nhiên 227,81 km². Phía Bắc và Đông khu kinh tế giáp biển Đông, phía Nam giáp tỉnh Quảng Bình, phía Tây giáp các xã: Kỳ Khang, Kỳ Thọ, Kỳ Hà, Kỳ Hưng và thị trấn Kỳ Anh (đều thuộc huyện Kỳ Anh).
Các hoạt động kinh tế được ưu tiên phát triển tại khu kinh tế Vũng Áng bao gồm: dịch vụ cảng biển, công nghiệp luyện kim gắn với lợi thế về tài nguyên và nguồn nguyên liệu (mỏ sắt Thạch Khê, mỏ titan,...); các ngành công nghiệp gắn với việc khai thác cảng biển; các ngành công nghiệp khai thác nguồn nguyên liệu trong vùng cũng như nhập khẩu, đặc biệt là từ Lào và Thái Lan; các ngành công nghiệp phục vụ xuất khẩu.
Ngày 25 tháng 3 năm 2015, một vụ sập giàn giáo đã xảy ra tại đây khiến 13 người tử vong tại chỗ.
Ảnh hưởng đến môi trường[sửa | sửa mã nguồn]
Vào tháng 4 năm 2016 xảy ra hiện tượng rất nhiều cá biển chết hàng loạt rồi trôi dạt vào bờ tại vùng biển Vũng Áng (Hà Tĩnh).[1] Hiện tượng này sau đó lan ra vùng biển Quảng Bình, Quảng Trị, Huế.[2] Có nơi mỗi ngày, ngư dân dọc bờ biển vớt được hàng tấn cá chết.[2] Nhiều ý kiến cho rằng hiện tượng trên là do nguồn nước bị ô nhiễm bởi các nhà máy tại khu kinh tế Vũng Áng xả thải gây độc.[3] Qua phân tích, cả nước biển lẫn nước đầm Lăng Cô (Huế) đều bị ô nhiễm, nồng độ PO4 (chỉ tiêu phú dưỡng) ở tầng đáy gấp đôi chỉ số cho phép, làm tăng độ pH trong nước, nhiều khả năng đây là nguyên nhân làm cá chết hàng loạt. Ngoài ra tảo biển phát triển mạnh, cộng với khí độc ở đáy lồng khiến cá thiếu oxy. Từ kết quả phân tích, khả năng cá chết do dịch bệnh đã được loại bỏ. [4] Cơ quan chức năng nhận định rằng “yếu tố gây độc trong nước” tại biển Vũng Áng được bắt từ nguồn nước thải chưa được xử lý nhưng đổ trực tiếp ra sông, biển, hòa lẫn vào nước biển gây ô nhiễm nguồn nước, làm cá bị ngộ độc, chết. [5] Ngày 24 tháng 4 năm 2016, theo thông tin từ báo Tuổi trẻ, công ty Formosa (Khu kinh tế Vũng Áng, Hà Tĩnh) trước đó đã nhập về 45 loại hóa chất để xử lý chất thải, súc rửa đường ống. Điều đáng nói là trong số này có nhiều loại hóa chất mà theo đánh giá của các nhà khoa học là thuộc dạng "độc và cực độc".[6]


CÁ CHẾT VÌ NHIỄM ĐỘC

CỘNG SẢN CHẾT VÌ HÈN

NGƯỜI CHẾT VÌ UẤT HẬN

^ “Cận cảnh cá chết la liệt bất thường dọc bờ biển Hà Tĩnh”. Báo Dân Việt. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2016.
^ a ă “Quảng Bình, Quảng Trị: Cá chết la liệt dọc bờ biển”. Báo Dân Việt. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2016.
^ “Cá biển chết hàng loạt: Do khu công nghiệp Vũng Áng xả thải?”. Báo Dân Việt. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2016.
^ “Tìm nguyên nhân cá chết dọc biển miền Trung”. Báo Tuổi trẻ. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2016.
^ “Vụ cá chết: Formosa nhập hóa chất cực độc súc xả đường ống”. Báo Tuổi trẻ. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2016.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét