CHƯƠNG IX :
VĂN THƠ
VIẾT LOẠN CÀO CÀO CẢ
Ai xui gặp lại nhau đây
Ba mươi năm ấy đã đầy lênh đênh
Ít khi nhớ? Lắm khi quên?
Mà mong manh cũ còn nguyên trong lòng.
Cuộc sống tương đối ổn
định hơn và tôi có thể chủ động tìm đến bạn bè xưa. Những lần gặp nhau như thế,
hết thằng này đến thằng khác thay phiên nhau trách phiền tôi là một thằng tự ái
vặt. Bạn bè tìm đến nhau chẳng qua là cái tình. Tôi chỉ biết cười và nhận về
mình sự thiếu sót. Nhưng tự trong sâu thẳm của tấm lòng mình, tôi nghĩ rằng,
việc phô bày những thiếu thốn, gian khó của mình trước mặt bạn bè là một điều
gì đó không ổn. Nhưng cũng chính vì sự muốn tìm đến nhau với tư cách bằng vai,
phải lứa. Tôi phải cố gắng, và tôi đã làm được. Thôi thì nâng ly tạ tội và nghe
chúng nó cằn nhằn cho bằng thích.
Có một điều là tất cả
bạn bè đều quan ngại cho tôi, không phải vì những khó khăn trong cuộc sống mà
tôi phải đương đầu, mà vì cái tính khí oái oăm cũng như việc vẫn đeo đuổi mộng
thơ thẩn của tôi. Nhưng quan ngại thì quan ngại, khi đàn đúm với nhau thì thằng
nào cũng mong tôi có một bài thơ mới. Nhưng hầu hết những bài thơ tôi đọc cho
bạn bè nghe đều được viết trong thời gian gỡ lịch. Tôi cũng phải cố dè sẻn, dù
biết rằng như vậy là có lỗi với bạn bè. Nhưng biết làm sao khi mà đã tịt ngòi?
Dù rằng tôi cũng có viết được dăm bài, nhưng những bài thơ đó thì tôi đã nhượng
quyền tác giả cho người khác rồi, nên làm sao mà phổ biến lung tung được.
Cả bọn đi qua ngưỡng của tuổi năm mươi, mỗi thằng một số phận. Những lần tìm đến nhau như thế là thằng nào cũng bị vợ nhằn nhện vì một lý do duy nhất “Con cái lớn rồi, mà mấy ông gặp nhau cứ mày mày, tao tao như là con nít. Không sợ bọn chúng lờn mặt. Còn ông Hiền thì đã te tua tàn tịch vì nợ áo cơm, con muộn, vợ đau, vậy mà cái tính mơ mơ, màng màng của ông coi bộ không giảm mà càng lúc càng nặng thêm“. Các bà có cái lý của các bà, chúng tôi thì có cái lý của chúng tôi. Nhưng riêng tôi thì vẫn cứ vô tư mơ màng và thỉnh thoảng còn nhắc lại việc thầy Vân kêu bạn bằng thằng ở tuổi ngoài bảy mươi và ông lý giải tại sao phải thế. Các bà lừ mắt nhìn tôi và lắc đầu chào thua.
Trong một lần gặp nhau như thế. Mai, cô hàng vải cũng có mặt, bằng cái giọng rổn rảng kể cho mọi người nghe về cái việc tôi đi mua quần áo cho vợ rồi cao giọng ngâm nga bài thơ Mua Áo của Đông Hồ [i]
Tôi có bán được bài thơ nào để mua áo cho vợ đâu. Thơ dở ẹc, ai mua mà bán. Chữ thầy cho trong ngày tuổi nhỏ, thay vì đem phân phát lại cho đời thì tôi đem bán. May mà khi bán chưa bẻ cho ngòi bút cong cong. Và chỉ thế thôi. Vậy mà cô bạn này cũng cảm động ra phết, cứ có dịp là nhắc nhớ, ngâm nga. Cũng may là không ai cho cô ấy biết về việc tôi lộng giả về bài thơ hôi rình của ngày tuổi nhỏ. Dù ngày xưa, cô ấy có mái tóc rất dễ gây té người. Tôi cũng đã từng té còn gì. Cũng may là bây giờ không còn nữa, nên mừng mừng mà cũng tiêng tiếc.
Trong khi mọi người đang râm ran cười nói và ra sức trêu đùa nhau thì tôi nhận được ánh mắt của Trung. Hắn nhìn tôi như thầm hỏi “mày mua áo cho ai ?“. Còn tôi thì vái trời cho nó đừng có công khai tội lỗi của tôi. Rất nhiều tội lỗi của tôi. Và linh thật, hắn im lặng nhìn sang hướng khác lắc đầu. Trung ơi! Tao mua áo cho vợ tao mà. Tôi nói thầm như thế, không biết nó có nghe không.
Và cũng trong một lần gặp nhau như thế gần ngày Thanh Minh. Không hiểu cái gì xui, mà một đứa trong bọn đưa ra đề nghị:
- Ê. Tao đề nghị thế này. Hay là chúng ta bỏ ra một ngày đến thăm và thắp hương cho những thằng đứt bóng. Mình đi sau Thanh Minh một ngày.
Một ai đó lên tiếng;
- Khó lòng mà thực hiện. Bởi vì làm sao mà biết cho hết. Bố khỉ, tụi nó chết nhiều quá.
- Không cần phải đi hết. Tìm được nhà thì đến thắp hương. Không thì đi thăm mộ. Đứa nào biết thì dẫn đi. Không tìm nhà thì tìm mộ. Mộ xa không đến được thì nhớ trong lòng.
Thế là cả bọn lên kế hoạch. Thằng Hùng, ông chủ của mấy chiếc xe khách, cung ứng phương tiện. Còn lại thì mỗi đứa nhét túi một ít tiền. Lên danh sách ai còn gia đình ở đây, gia đình ai đã rời đi. Mộ đứa nào ở đâu. Cần phải rủ rê thêm ai.
Mười ngày sau, chúng tôi, gần một chục đứa lên đường. Hoa quả, nhang đèn và những tấm lòng. Chẳng mấy bạn bè còn lại cái bàn thờ ở thị xã. Mọi việc trơn tru cho đến khi đi thăm mộ. Mộ thằng Bích thì gia đình hốt cốt mang đi. Mộ thằng Tường, gia đình đi nước ngoài không còn ai chăm sóc nên đã thất lạc trong những nấm mồ vô chủ. Không hiểu, tấm bia người ta nhổ nó đi đâu. Mộ thằng Trung nằm trong khu mộ gia đình đã bị giải tỏa. Mộ thằng Thuật thì ở quá xa… Rốt cuộc rồi chỉ tìm được mộ thằng Long ở nghĩa trang quân đội cũ. Nghĩa trang không ai chăm sóc. Những ngôi mộ không ai chăm sóc. Chung quanh đó, cũng có nhiều ngôi mộ như thế. Cái thì bia bị đục nham nhở, cái thì… Cũng có một số đã được làm lại với cái tấm bia hoàn toàn mới và đã xóa đi cái lý lịch là lính Sài Gòn, sở dĩ chúng tôi biết là nhờ những cái tên đã từng một thời nghe nói đến. Cả bọn gần như không ai nói một tiếng nào. Có rất nhiều ngôi mộ chẳng ai đến viếng trong ngày Thanh Minh. Không ai nghĩ rằng những hình ảnh tệ hại của những ngày đầu giải phóng vẫn còn tồn tại đến giờ này. Mỗi đứa một suy nghĩ, một ưu tư. Bổng dưng có một giai điệu đã mịt mù trong quá khứ vang lên trong tôi và bật thành lời hát nhỏ của ai đó trong bọn “… Bạn bè còn đó anh nhớ không anh, người tình còn đây anh nhớ không anh. Vườn cỏ còn xanh, mặt trời còn nguyên khi bóng anh như cánh chim chìm xuống. Vùng trời nào đó anh đã bay qua, chỉ còn lại đây những sóng bao la, người tình rồi quên, bạn bè rồi xa. Ôi tháng năm. Những dấu chân rồi cũng bụi mờ…”.
Thế là chúng tôi chấm dứt cuộc viếng thăm bạn bè mà không thực hiện được việc cuối cùng là cùng nhau ngồi uống một vài chai với những kỷ niệm của những thằng đã mất. Đã thế, còn phải đeo một cục đá trong lòng. Tất cả những gì chúng tôi mang theo được bày ra và mỗi đứa thắp một nén hương. Thằng Long hưởng hết, nhưng chắc gì nó không mời những hàng xóm đói meo. Không một lời van vái nào được bật ra hay chỉ thì thầm. Tất cả nghẹn lại trong ý nghĩ u buồn.
Chúng tôi đã làm một việc vô bổ. Chắc gì an ủi được mà không chừng làm tủi thêm vong linh của bạn bè, của những người đã ngủ yên, đã rời khỏi từ rất lâu những bề bộn của nhân gian. Họ đang yên nghĩ. Họ không muốn ai nhắc nhớ lại những gì mà xác thân cát bụi của họ phải trải qua. Họ chẳng màng gì khi được nâng niu bởi những tấm lòng hay bị xâm phạm bởi sự nhỏ nhen của những kẻ không học thuộc cái đạo lý “nghĩa tử, nghĩa tận“, dù hàng ngày vẫn còn ai đó đang ra rả hai tiếng nghĩa nhân. Chúng tôi, những thằng còn sống, nhất là những thằng đã chết. Suy cho cùng có tội lỗi gì đâu. Gần một phần tư thế kỷ đã đi qua. Thế mà… Nhưng dù sao thì cũng là bạn bè tôi, cũng là những người cùng thế hệ, họ đã nằm xuống vì một cuộc chiến tranh dài ngoằng mà tự thân họ không hiểu tại sao phải vậy? Đất nước biết bao lần phân liệt và cũng ngần ấy lần thống nhất giang sơn. Bao nhiêu tiền của, sinh mạng bị mất đi Bao nhiêu tấm lòng tan nát. Ai gây ra? Có trời mà biết. Những xót xa rồi cũng phai đi. Ai còn còn nhớ và ai cố quên? Chỉ có trời mới biết. Còn có chăng là Trịnh Công Sơn và… bọn khùng khùng như chúng tôi. Nhưng Trịnh đã từ bỏ hay bị buộc phải từ bỏ những giai điệu đó. Bây giờ không ai muốn hát, hay là cũng không ai dám hát. Chỉ còn chúng tôi… nhưng liệu được bao năm.
Tôi bắt đầu hoạch định cho việc phát triển cơ sở làm ăn thì vợ tôi chịu ca phẩu thuật thứ hai. Thân thể tiều tụy ấy chịu đựng liên tục hai ca mỗ làm cho vợ tôi mỏng manh như tờ giấy quyến, nhưng lại làm cho tính cố chấp dầy thêm. Mẹ tôi đã cảnh báo cho vợ chồng tôi điều này từ lâu. Nhưng bản tính ấy và nhiều thứ khác nữa làm cho vợ tôi coi thường sức khỏe của mình. Ăn uống, nghĩ ngơi, sinh hoạt gần như không theo một quy luật nào cả. Tất nhiên. Tôi không thể giải bày cùng ai chuyện này và gồng mình lãnh đủ. Thầy nghề võ, dù cao cường cách mấy, mà đánh tứ trụ là đã muốn hộc xì dầu. Còn tôi thì “phải, trái, trước, sau, trên, dưới, trong, ngoài”. Đánh tám hướng, Thế thì hộc ra cái gì đây? Còn gì nữa đâu mà hộc. Bắt đầu từ đây, trong ngôi nhà này và những thành viên trong đó sẽ còn phải rất lâu nữa mới có những bữa cơm đích thực mang không khí gia đình. Bởi vì mâm cơm dọn lên là vợ tôi lại đi đâu đó, hai cha con cắm cúi ăn. Khi xong, vợ tôi lại xuất hiện và dọn dẹp. Khuyên nhủ, năn nỉ, thậm chí cự cãi cũng chẳng ăn thua gì. Tôi đành chịu. Lý luận của cô ấy ngang phè:
- Nhường nhịn cho chồng con như vậy thôi chứ. Có ai được như tôi không?
Thua. Bạn bè, người thân và cả khách hàng quen biết nữa, nhìn tôi, lắc đầu ái ngại.
Vợ tôi xuất viện. Sức khỏe dần dần khá hơn. Bằng mọi cách có thể, tôi thu xếp một chuyến đi chơi. Sẵn dịp đi lắp đặt bảng hiệu cho khu du lịch Hòn Phụ Tử. Sau khi bỏ ra một ngày thuyết phục. Vợ tôi bằng lòng. Tôi gởi cháu cho cô út. Thế là không gian mới, môi trường mới, chúng tôi có những ngày thật đẹp. Tôi cố gắng hết sức để xóa đi những ý nghĩ buồn chán cho vợ tôi, và hy vọng cô ấy sẽ hiểu ra. Nhắc nhớ những kỷ niệm ban đầu, những lần đi chơi hiếm hoi, hoặc những giây phút vui vẻ trong sinh hoạt hàng ngày. Nhưng tất cả chỉ có hiệu quả nhất thời. Mấy ngày ở khách sạn, một nơi xa lạ với những quen thuộc đã làm cho chúng tôi gần nhau hơn, vợ tôi có vẻ tươi tắn hơn. Những lúc rỗi rảnh chúng tôi đi thăm thú nơi này, nơi khác, mua những món đồ lưu niệm nho nhỏ. Những giây phút hiếm hoi chúng tôi có được thứ tình cảm vợ chồng hạnh phúc (?). Để rồi sau khi trở về nhà là ca cẩm, cằn nhằn vì hao tốn. Chúng tôi không hiểu nhau. Vợ tôi, với suy nghĩ là tiết kiệm cho chồng được đồng nào hay đồng nấy, cô ấy nhìn và thấy sự cực nhọc của tôi trong việc đảm đương vai trò trụ cột của gia đình. Thế nên, nếu có thể không ăn mà vẫn sống chắc có lẽ cô ấy cũng làm thôi, việc ăn nguội, uống lạnh, để bụng đói đi ngủ là việc thường ngày. Dù chỉ là một chuyến đi làm ăn kết hợp với rong chơi làm tốn hao bạc triệu cũng làm cho vợ tôi thắc ruột. Tuổi đã nhiều mà khi có những triệu chứng không ổn về sức khỏe thì lại dấu và khi tôi biết được thì… Mọi giải thích của tôi vô hiệu. Những người thân can thiệp hay khuyên nhủ cũng không xong. Sự trông mong của tôi là vợ tôi tự biết chăm sóc. Nhưng điều đó gần như không thể. Nếu như ngưng công việc lại để có thể nhìn ngó vợ tôi một cách chu đáo hơn, điều đó có nghĩa là tôi mất hết, kể cả cái khả năng lo toan cho vợ tôi khi đau yếu. Tôi lại phải làm một việc mà chính bản thân mình không bao giờ muốn. Với tư cách là một người đàn ông trong gia đình, tôi cố gắng làm tròn trách nhiệm và bổn phận của mình. Sự cố gắng này xuất phát từ ý thức, và không biết tự bao giờ nó không còn xuất phát từ tấm lòng.
Trong khi đó, nhà vẽ bảng hiệu của tôi gần như thuộc vào loại đông khách nhất nhì của tỉnh. Ngoài hợp đồng cung cấp bảng hiệu và các trang trí quảng cáo khác cho hãng Castrol, Petrolimex, BGI… Tôi còn nhận trang trí cho hầu hết các cơ quan chính quyền trong tỉnh và một số lượng khá lớn các cửa hàng, cửa hiệu. Sự phát triển đòi hỏi phải thay đổi cách làm ăn. Ngoài số lượng thợ phải thuê thêm còn phải đầu tư những trang thiết bị và dụng cụ lao động mới, vật tư, nguyên liệu… Tôi bị buộc phải thế và tôi cũng muốn thế. Cuộc sống phải như vậy. Ngoài ra, các hoạt động nghề nghiệp của tôi còn nhằm mục đích khác, là để thỏa mãn cái khao khát được thể hiện năng lực của mình. Cuộc sống riêng của gia đình đã bắt đầu vơi dần những khó khăn, nhưng công việc thì cuốn tôi vào.
Tôi lại phải thường xuyên lên xuống Sài Gòn. Mỗi chuyến đi như vậy là tôi thuê một xe con, khi thì bảy chỗ, khi thì bốn chỗ, không phải vì tiêu hoang hay muốn làm sang mà vì muốn tìm một sự yên tĩnh trong cuộc hành trình (?). Kèm theo là một sự tính toán chi ly như là một tên biển lận. Này nhé một chuyến đi và về chỉ vỏn vẹn một triệu, nhưng khỏi xe ôm, không bốc vác, không cả phí vận chuyển hàng, về trong ngày, hàng bảo đảm không hư hỏng, mất mát và quan trọng nhất là tránh phải cự cãi. Liệu tôi có quá trái khoáy trong việc làm này không? Nhưng thôi, dù sao thì cũng chẳng phiền phức gì ai? Đôi lúc tôi tự nghĩ “ Giá như có một chiếc xe “
Dù lên xuống Sài Gòn thường xuyên như thế. Nhưng chưa bao giờ tôi có ý định nghỉ lại qua đêm.
Hôm nay thì khác. Sài Gòn vẫn vậy, nhưng khi mà để ý tới thì quá nhiều thay đổi. Con đường Lê Lợi, nơi có nhiều kỷ niệm nhất với tôi cũng thế. Nhà sách Khai Trí, các quán café Hà Nội, Tuyết Lan một thời tôi từng lê lết thì đã không còn. Cả cái quán Mai Hương, nơi tôi ngồi chờ làm một cú dấn thân, cũng không còn. Những địa chỉ thân quen thì còn đó. Nhưng người thân quen thì chẳng biết ở phương nào. Nên những lần đi như vậy, khi xong việc tôi về ngay. Lần này thì hơi lâu, sau khi thanh lý hợp đồng đã thực hiện xong và ký hợp đồng mới. Tôi còn phải chọn mua một cái máy cắt décal, một số dụng cụ, trang thiết bị khác và nguyên, phụ liệu. Buổi tối tôi và tay tài xế đi thăm thú Sài Gòn. Xách xe chạy long rong một hồi không biết phải ghé vào đâu, đâm chán. Chúng tôi lủi vào một nhà hàng định tìm một vài lon bia rồi về khách sạn nghỉ. Khi ngồi vào bàn, quán khá đông khách, mãi một lúc sau mới có một cô tiếp viên đến. Trong khi tay tài xế đang loay hoay với cô tiếp viên của một hảng bia. Tôi ngồi yên lặng nhìn quanh. Tôi có cái cảm giác như ai đó đang chăm chú nhìn mình. Bổng tay service khác bước đến chìa cho tôi miếng giấy và nói nhỏ:
- Xin mời chú xem.
Tôi nhìn xuống manh giấy “ Nếu là ông Hiền mấy mươi năm trước đã từng ăn thịt chó, uống rượu Tây ở… Xin vui lòng cho gặp“. Một quá khứ chìm hút tận đâu đâu, bổng bật lên như ánh chớp. Tôi thật sự rúng động. Trời đất nào xui rủi đưa tôi đến chốn này. Tôi nhìn tay service, hỏi :
- Người viết mấy chữ này ở đâu ?
- Xin mời chú theo tôi.
Tôi dặn tay tài xế mấy câu, rồi đi theo tay service. Tôi được đưa vào một căn phòng giản dị, nhưng không kém phần sang trọng. Tay service mời tôi ngồi và nói:
- Xin mời chú ngồi. Bà chủ sẽ ra ngay.
Rồi anh ta đi mất. Tôi ngồi nhìn quanh. Bức ảnh đập vào mắt tôi, vẫn còn nguyên trong cái khung cũ kỹ. Tất cả mọi thứ đã mờ đi, nhưng khuôn mặt trong sáng ấy đang thách thức thời gian và nó gợi lại toàn bộ cái kỷ niệm oái oăm mà tôi có dự phần. Thu Huyền giữ tấm ảnh này như là một sự tiếc nuối một quảng đời đẹp nhất của mình. Tôi đứng dậy gở khung ảnh và lật lại, mấy câu thơ tôi viết bằng bút nỉ vẫn còn, nhưng giấy và màu mực cùng sậm lại theo thời gian. Kỷ niệm ùa về, dù chỉ là một thứ kỷ niệm của một người nói và một người nghe những lời bạt mạng.
- Cậu có chạy đàng trời cũng không thoát khỏi tay tôi.
Tôi quay lại. Thu Huyền với cái nét khinh bạc vẫn còn nguyên trên khuôn mặt. Nhưng dấu vết của thời gian đã làm cho dịu lại. Mái tóc không còn một sợi đen và khuôn mặt với đôi kính gọng vàng thanh mảnh, vóc dáng đường bệ trong bộ cánh không chê vào đâu được. Trong một thoáng, cả hai nhìn nhau, rồi bấu chặt tay nhau và cùng bật lên cười y như cái giọng cười của hai thằng đàn ông vốn là bạn bè lâu ngày gặp lại, Khi chấm dứt tràng cười hả hê ấy, tôi nói:
- Đúng. Dù có bao nhiêu tuổi thì tôi cũng chỉ là một con lươn, chớ không thể thành chồn. Tôi trả lời tưng tửng.
- Thế thì cậu nói tôi là con rắn trun[ii] à. Thôi con gì cũng được. Cậu trông vẫn như xưa, dù có đen, ốm hơn một chút. Trong khi tôi thì quá già, quá xấu phải không? Ngót nghét ba mươi năm rồi còn gì? Thôi treo lại khung trời cũ kỷ ấy đi. Nó xám xịt rồi.
Tôi yên lặng nhìn, khi Thu Huyền ngồi xuống trước mặt tôi rồi tiếp:
- Quả tình khi nhìn thoáng qua. Tôi cũng không ngờ. Nhưng nhìn thấy bộ dạng cậu khi ngó quanh quanh, tôi biết là tôi không lầm. Cái gì xui cậu tới đây vậy?
Chị hỏi lại một câu mà cả hai đều biết là không thể trả lời sao cho chính xác. Tôi trả cái khung ảnh vào chỗ cũ, ngồi đối diện với Thu Huyền và không biết phải nói làm sao cho đúng ý mình:
- Có trời mà biết? Chị hỏi tôi, tôi hỏi ai? Thôi cứ cho là vì miếng giấy của chị vậy.
Thu Huyền cười khanh khách, giọng cười y hệt như ngày nào, nhưng thoải mái hơn:
- Cậu luôn luôn ở trong tầm kiểm soát của tôi mà. Rồi bổng nhiên giọng nói ấy lại chuyển sang một âm điệu khác. Không nhìn thấy cậu bằng mắt thì tôi nhìn bằng thứ khác.
Tôi tìm cách né :
- Chị vẫn sống một mình?
- Không. Với con gái tôi
- Thế thì ba cháu đâu? Tôi hỏi mà giật thót trong bụng.
Như đoán được ý tôi. Thu Huyền cười :
- Yên tâm đi, không phải con của cậu đâu?
Tôi cố dấu cái thở phào, hỏi lại :
- Thế thì anh ấy đâu?
Thu Huyền cười buồn, giọng lạnh tanh:
- Ngủm rồi. Vượt biên bị hải tặc mần thịt. Nếu không thì cũng chẳng ngó ngàng gì đến mẹ con tôi.
Tôi chới với trước cái kiểu trả lời này:
- Xin lỗi chị. Tôi quá vô ý.
- Có gì đâu? Cậu lúc này chắc bảnh lắm nên mới xa giá nghênh ngang thế kia.
Tôi phì cười:
- Xe thuê. Thưa chị. Chẳng qua lấy le chút đỉnh với khách hàng vậy mà. À lúc này chị còn viết gì không?
Thu Huyền :
- Còn đấy chứ. Bán có giá hơn là khác. Nhưng thỉnh thoảng thôi. Dù sao thế gian này cũng còn lắm kẻ nhập nhằng và tôi còn đất sống. Bổng chị thở dài. Mà không chừng còn nhiều hơn nữa là khác. Trước thì người mua của mình về bán kiếm lời. Chẳng qua là để kiếm tí tiền còm. Bây giờ thì khác, người mua về in, để tặng hòng kiếm tí danh. Này. Cậu tham gia không? Lúc này người ta đặt hàng thơ nhiều lắm.
Tôi hết hồn trố mắt nhìn chị :
- Trời đất. Đặt hàng thơ. Cảm xúc nào để viết. Mà viết như thế thì… Mà thứ đó bán cho ai?
- Cậu còn khá sạch đấy. Này nhé. Cậu in một tập thơ, bất kể là thơ của ai miễn tên tác giả là cậu, rồi đem tặng tứ lung tung. Từ một tên vô danh tiểu tốt, cậu trở thành thi sĩ, thêm vài cuốn nữa thì thành nhà thơ. Tốn không quá mười lăm triệu. Hách chưa? Cậu thử nghĩ trong cuộc sống thì thi sĩ thật, nhà thơ thật được gì nào? Thi sĩ dỏm, nhà thơ dỏm được gì nào? Đưa cái thật ra thì lấy cái quyền lợi dỏm vào. Đưa cái dỏm ra lấy cái quyền lợi thật vào. Đâu cậu thử điểm danh mấy nhà thơ thật, thi sĩ thật có ông nào, bà nào có cuộc sống tinh tươm bằng nghề làm thơ không? Chưa đói là may vì có nghề tay gì nhỉ? Phải hay trái. Đó là một thực tế cay xót nhất của cuộc đời. Cậu vào hàng năm rồi. Tri thiên mệnh đi. Mệnh của những nhà thơ thời hiện đại là như thế đấy.
Tôi hoàn toàn bất ngờ, nếu không muốn nói là bị sốc:
- Tri thiên mệnh? Phải tri thiên mệnh kiểu này thì kinh khủng quá?
- Chẳng có gì kinh khủng cả. Sao cậu không nghĩ xem cái loại sản phẩm đó gạt được ai? Ở đây tôi muốn nói về cái nhu cầu thôi. Người ta cần, mình đáp ứng. Đáp ứng nghiêm túc, đừng đạo thơ người khác đem bán là được. Lợi cả hai bên mà không rụng của ai một cọng lông chân nào, kể cả người đọc. Được quá đi chứ? Đọc một bài thơ bố lếu, bố láo có làm ai chết đâu? Đôi khi còn có được một nụ cười, rồi khoái tỉ thốt lên “Thơ gì mà ngộ vậy ta?“. Cũng như lâu lâu nghe được một câu nói bậy ngoài phố vậy mà. Tội gì mà mình không chung góp cho đời những tiếng cười, lại có tiền mà chẳng hề suy suyển gì đến cái thanh danh chưa hề có của mình. Tất nhiên, người cười thì có cái quyền lựa chọn kiểu cười.
- Tôi nói chị đừng giận. Cười không nổi thì lấy đâu mà lựa chọn.
- Tất nhiên. Nhưng cậu không cười bởi vì cậu không đọc. Cậu đọc xong rồi cậu tức. Nhưng nghĩ lại thì cậu cười. Không tin, khi nào có ai đặt hàng. Tôi gửi thư cho cậu. Này nhé. Nếu lao vào thì cậu phải nghiêm túc thực hiện hai điều: thứ nhất không đạo thơ, trích thơ người khác; thứ hai là đã bán cho người ta rồi thì đừng bao giờ lưu lại trên máy vi tính, hay bất cứ bản nháp nào, lại càng không đọc cho ai nghe, in vi tính tặng cho ai làm kỷ niệm. Bởi vì như thế là để lại cái lu bu, nhập nhằng cho thiên hạ, sau này thiên hạ phải mắc công bàn tán. Suy cho cùng vẫn lương thiện hơn chán vạn con, thằng chôm thơ, đạo văn. Thậm chí cả những công trình nghiên cứu của người khác để tìm kiếm lợi danh. Chẳng những không trả cho người ta một đồng xu mà còn gân cỗ ra cãi.
- Nghe chị nói. Tôi hết muốn làm thơ.
- Tùy cậu vậy. Ngộ được điều này, tôi cảm thấy mình hạnh phúc. Bởi vì công sức tôi bỏ ra, dù gì cũng được đổi lại bằng một dúm tiền. Dù sao vẫn còn hơn là bị mất không bởi phường trộm đạo.
- Tại sao lại một dúm? Tiểu thuyết có “ba xu” mà bán được mấy chục ngàn. Tôi lại cà khịa.
Thu Huyền như chợt nhớ ra và cười lớn:
- Cậu vẫn nhớ câu nói ấy à? Cám ơn. Bổng nhiên giọng chị trầm xuống. Nhưng chưa thấy ai đặt hàng cái mái tóc trắng phau này cả. Quá date rồi.
Tôi nghe nhói lòng dùm chị:
- Trời đất. Tôi xin chị. Cay nghiệt với mình để làm gì?
Giọng chị như vô cảm:
- Cậu xem tôi còn đủ tư cách cay nghiệt với ai bây giờ? Thôi với cậu vậy nhé.
- Được thôi. Tôi nói như liều mạng.
- Nói chơi vậy chứ cậu hiểu lầm tôi rồi. Cậu nên hiểu cái từ “quá date“ theo một nghĩa khác đi. Hay là nói thế này “Keep out of reach of childrens“ cộng thêm một vạch đỏ chạy quanh.
Tôi bật cười :
- Nghĩa là thuốc độc bảng A, phải để khỏi tầm tay trẻ con. Mà tôi thì bao giờ cũng là trẻ con. Thua.
Thu Huyền nhìn tôi cười tủm tỉm rồi quẹo cua đột ngột làm tôi chới với:
- Tôi đã từng bắt ghế cho cậu trèo lên mà. Ai thua ai nào? Nhưng lần này thì không có đâu đấy ?! Thích thì tự mà leo lên.
Tôi nín thinh và Thu Huyền cũng yên lặng.
Chuyện của chúng tôi, đã từ lâu lắm rồi chỉ là những thấp thoáng trong tôi như là chuyện của ai kia, không dính dáng gì đến mình. Để bây giờ thì lại bối rối đây.
Hai ly nước lọc được tay service để lên bàn. Chị mời tôi, giọng trêu chọc:
- Nào mời cậu, uống tạm nước lọc vậy.
Cả hai nâng ly:
- Cám ơn chị. Tôi đang khát đây.
Thu Huyền tiếp tục cười bằng cái giọng điệu của mình:
- Cũng lại tưng tưng nữa. Nhưng thôi. Hôm nay gặp cậu, tôi mừng lắm khi thấy cậu vẫn yên lành. Nhiều khi nhớ đến cậu, tôi nghĩ, nếu không “vị quốc vong thân” thì cũng “tâu na biệt vụt”[iii]. Sao cậu né đạn hay vậy, mà cũng chẳng chịu ra đi?
- Không biết phải trả lời chị làm sao đây? Thời gian đâu mà tính chuyện “tâu na biệt vụt”. Tám năm lính, chín năm tù, ba năm vong gia thất thổ. Gỡ xong chín cuốn lịch thêm ba mươi tờ lẻ, trở về nhà không một cắc lộn lưng. Đành nhếch nhác cọ sơn đi chạy gạo.
Chị ấy nhướng mắt nhìn tôi qua bên trên gọng kính:
- Chà gian truân dữ thiệt ha. Nhưng này, cậu tin có số mệnh không ?
- Thôi cứ cho là số mệnh đi. Cũng như là cả cái đất Sài Gòn mênh mông này mà tự dưng tôi lủi vào đây để uống một ly nước lọc. À. Mà chị tìm ở đâu ra cái câu “tâu na biệt vụt” vậy?
- Số mệnh thiệt chứ cậu nói chơi à? Nếu không thì tại sao tôi lại tơ tưởng những bao nhiêu năm một tên oắt con xấu hoắc như cậu và cũng chưa biết bao giờ chấm dứt. Còn cái câu đó hả? Dính vào người của xứ Rạch Giá thì tự nhiên phải biết thôi.
Trong khi tôi hoang mang chưa biết phải nói gì thì Thu Huyền đứng lên bấm chuông, một cô gái bước vào, cúi chào rất lễ phép:
- Thưa. Dì gọi cháu.
- Bên phòng ăn, cháu chuẩn bị xong chưa?
- Dạ xong ạ. Thưa dì
- Cháu vào phòng làm việc của dì, lấy cái hộp gỗ để trên bàn vi tính, mang ra cho dì.
Cô bé lui ra, rồi nhanh chóng trở lại, đưa cho Thu Huyền cái hộp gỗ. Chị để cái hộp xuống bàn, nói nhỏ nhưng là ra lệnh:
- Cậu dùng cơm với tôi. Mình qua phòng ăn. Kẻo thôi cậu lại nói là tôi chỉ cho cậu uống nước lã. Còn tài xế của cậu, cậu đừng lo, ăn uống ngon và no mà không say. Mời cậu ta vào đây để chứng kiến việc của tôi và cậu là tội cho cậu ta.
- Chị chu đáo quá làm tôi đâm lo.
- Thôi nào. Đừng có mà cà khịa. Mời.
Tôi đứng dậy đi theo Thu Huyền sang phòng kề bên. Căn phòng trang trí rất noble thuộc loại dành riêng. Thú thật, cái khung cảnh này thì tôi thường thấy khi đi trang trí cho các nhà hàng, quán ăn. Nhưng chưa bao giờ tham dự. Bởi vì không ai mời tôi và tôi cũng chẳng có dịp để mời ai. Thu Huyền mời tôi bằng một cử chỉ rất điệu đàng có pha chút giễu cợt, nhưng tôi cũng hiểu không phải nhắm vào vẻ nhà quê của tôi. Nhìn hai cái chân đèn đầy kiểu cách, với hai ngọn nến đang tỏa ra một thứ ánh sáng bập bềnh mang theo một chút mơ mộng như đang chờ đợi những người tham dự góp thêm vào mộng mơ. Ôi lãng mạn đến thế là cùng. Tôi thừ người nhìn khung cảnh ấy mà không biết vì sao. Tôi giật mình khi nhìn thấy những giọt nến long lanh. Tôi không hiểu vì sao lại thế. Mãi đến khi Thu Huyền hỏi tôi:
- Cậu nghĩ ngợi cái gì thế?
Tôi lại giật mình nhìn chị, rồi hốt nhiên cao giọng đọc:
Tương kiến thời nan, biệt diệc nan
Đông phong vô lực bách hoa tàn.
Xuân tàm đáo tử ti phương tận,
Lạp cự thành hôi lệ thủy can.
Hiểu kính đãn sầu vân mấn cải,
Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn.
Bồng lai thử khứ vô đa lộ,
Thanh điểu ân cần vị thám khan.
Gặp đã khó rồi lại khó xa.
Nhẹ hều cơn gió cũng mưa hoa.
Vào xuân tằm chết đường tơ dứt,
Tàn nến tro bay giọt lệ nhòa.
Gương sớm sầu mây vương tóc rối,
Thơ khuya biết lạnh buốt trăng ngà.
Non Bồng gần xịt sát bên nách,
Nhờ bóng chim xanh chỉ hướng qua.
Chị trố mắt nhìn tôi một lúc:
- Cậu dịch đấy à?
Tôi cười không trả lời. Chị tiếp:
- Cậu ác thật. Rất ác.
Ôi cái câu này tôi đã nghe ở đâu nhỉ.
Bổng dưng cái khung cảnh lãng mạng này không có chút ngọt ngào nào mà là đầy ắp những nồng cay. Tôi lại nổi máu cà khịa để làm loảng bớt đi cái không khí, mà tôi không nói được cái tính chân thực của nó:
- Ăn cơm trong cái khung cảnh như thế này thì nuốt được mấy hột hả bà chị của tôi?
- Cậu vẫn tính nào tật nấy. Bao nhiêu năm lăn lóc, những ma sát trong đời mài chưa nhẵn được cái giọng điệu của cậu sao?
Ngưng lại một lát, Thu Huyền nói khi khui xong chai rượu:
- Cậu thấy cái khung cảnh ra sao?
- Nếu tôi không lầm thì chị đang mâu thuẫn.
- Mâu thuẫn?
- Vâng. Chị muốn sự gặp gỡ này mang một hình thức khác hơn kia. Nhưng cũng lại muốn tái hiện một kỷ niệm y như thật. Như dù gì thì cũng cám ơn chị. Đối với tôi, dù bất ngờ, chị cư xử với tôi như thế nào cũng đều đáng để trân trọng.
Vừa rót rượu. Thu Huyền vừa cười vừa nói:
- Kể ra cậu nhận xét cũng khá tinh tường. Thế thì cậu nghĩ gì về cái kỷ niệm ấy mà đọc cho tôi nghe một bài thơ như trời giáng ấy?
- Chà câu hỏi này khó thật. Nhưng nói dối với chị thì không xong.
- Biết sợ là tốt. Thế thì nói đi.
- Kỷ niệm thì thật đẹp. Có một thời gian khá lâu tôi nhớ. Nhưng cuộc đời đã buộc tôi quên. Xin lỗi chị. Tôi đã vâng lời nó. Nhưng rồi cũng không được, để giờ đây gặp lại và lần này thì còn ác liệt hơn lần trước. Như vậy không phải “ Tương kiến thời nan biệt diệt nan” thì là gì?
Phải rất lâu sau Thu Huyền mới đẩy ly rượu sang tôi và nói:
- Thôi. Hãy mừng gặp lại và uống cái đã.
Chị nâng ly lên mời.
Hớp một ngụm nhỏ. Tôi nghe gai gai cả người một phần vì những lời chị nói. Nhưng cái gai gai ấy có một phần nữa là do hương vị ấm ấm và nồng cay của rượu… Đã lâu rồi tôi mới nếm lại hương vị này.
Đặt cái ly xuống. Chị nói:
- Miệng lưỡi của cậu lúc này góc cạnh quá.
- Thì cũng như chị đấy thôi. Tại nó mài không đều, nên chẳng những không nhẵn đi mà làm nảy ra thêm nhiều góc mới. À, mà viết thuê cũng phải suy nghĩ nhiều lắm sao mà tóc tai chị lại trắng bóc thế kia.
Thu Huyền vừa xoay xoay chai rượu, vừa đưa tay vuốt tóc, nhìn tôi qua hai gọng kính làn:
- Người ta nói sơ sơ ý của họ, rồi mình viết cho dài ra, đúng theo số trang in mà họ yêu cầu. Trong khi viết, thỉnh thoảng thêm một tí nước mắt cho ướt át, vài cục đá cho gồ ghề, mấy cây kim gút cho có tí gai góc. Lâu lâu thấy cứng quá cũng thêm vài cái bông hoa gì đó cho lãng mạng, mềm mềm ra, hay nếu có yêu cầu thì một tí cao hổ cốt để lên gân. Có gì đâu mà phải nghĩ suy. Nhưng tuyệt đối là không thêm rượu, cái loại chuyện đó nồng nàn sao được, say đắm nỗi gì mà thêm. Còn chuyện tóc bạc hả? Chẳng qua là tại tôi tìm cách nào đó kể kiếm chồng. Kiếm mãi không xong, lo buồn riết thành ra bạc tóc.
- Viết văn mà chị nói y như đầu bếp. Thảo nào chị mở nhà hàng. Hay là chị dọn cho tôi món Tiểu Thuyết Thập Cẩm, Thơ Xáo Măng. Nếu hào phóng hơn thì chị cho luôn món Hồi Ký Xào Chua Ngọt… hay gì gì đó.
Thu Huyền cười lớn:
- Chà mấy món này hấp dẫn đây.
Tiếng Thu Huyền bổng dưng như nhỏ lại và xa hơn:
- Thôi mấy món đó tính sau. Nhưng tôi mời thịt chó, cậu có ăn không? Thứ này mà ăn mình êng.[iv] Chán chết.
Tôi bật cười:
- Chị Huyền này. Ông bà có nói “ Chửi cha không qua nhại tiếng” đấy. Chị nhại tôi hai lần rồi đấy nhé.
- Tôi đã nói là tôi dính vào người Rạch Giá rồi mà.
Tôi cảm nhận được đôi điều gì đó. Có thể Thu Huyền nói thật và cũng có thể là đùa vui. Tôi mong là đùa thôi. Nếu đó là một cách biểu lộ thì…
- Nào trả lời tôi. Cậu ăn thịt chó không ?
- Nếu chị mời thì tôi ăn thôi. Nhưng tôi nghĩ có cần phải thế không? Kỷ niệm đẹp dần theo thời gian và nó mất đi rất nhanh khi mình cố gắng tái hiện nó trong một hoàn cảnh không còn phù hợp. Mà tôi thì không muốn mất nó.
Thu Huyền cười lớn :
- Cậu mài lưỡi được bao lâu rồi mà bén thế? Không muốn mất hay không muốn nhớ. Lúc này cậu còn làm thơ không?
- Theo mồ hôi trôi mất hết rồi.
Giọng điệu ngậm ngùi pha lẫn khinh bạc trở lại với Thu Huyền:
- Cậu có điên không? Tại sao lại từ bỏ cái nghiệp dĩ của mình? Dính vào đã mệt. Gỡ bỏ còn mệt hơn. Cậu ốm nhom, ốm nhách như thế này nhắm làm nổi không? Tương kiến thời nan, biệt diệc nan đấy nhé!
- Không phải thế. Nhưng sao câu cú cứ lục cục, lòn hòn. Thêm nữa, ý tứ thì gập ghềnh, lổm ngổm khó nghe.
Thu Huyền nheo mắt nhìn tôi, chuyển hướng :
- Chuyện gia đình cơm áo thế nào? Cậu nói thử nghe coi. Bộ lu bu lắm sao mà nào là hết mồ hôi, lại lục cục, lòn hòn, rồi gập ghềnh, lổm ngổm.
- Chuyện áo cơm thì đại khái là kẽ được chữ nào ăn ngay chữ nấy, lắm khi ăn luôn chữ sắp kẽ. Còn chuyện gia đình, nói ra chị nghe xong thì lại sợ chị nổi cơn thịnh nộ. Mà nói khác đi thì kỳ.
- Ăn nhằm gì đến tôi? Cứ nói
Tôi bậm gan xả láng :
- Vợ hai bà, con ba đứa. Yêu ai cũng phân nữa. Thương con cũng phải dè chừng. Đấy, đa đoan cho lắm vào cho nên bây giờ chị mời ăn thịt chó, thèm ứa nước bọt mà phải cắn răng để lắc đầu.
- Tội nhỉ? Nghe giọng cậu kể khổ mà tôi cảm động muốn trào máu họng.
Thu Huyền cười khẩy, rồi tiếp:
- Rồi lại nghe cậu nói thương ai cũng phân nữa mà ứa gan, thương con mà phải dè chừng thấy mà phát ghét. Cũng vừa. Gieo chi thì gặt nấy.
- Thấy chưa. Không ăn nhằm gì mà cũng làm chị trào máu họng, xanh máu mặt, rồi ứa gan. Nhưng có gieo gì đâu chị ơi. Chim ăn rớt hạt ấy mà.
Thu Huyền nhướng mắt nhìn tôi:
- Chim ăn rớt hạt. Con chim nào mà ăn uống bầy hầy thế. Đàn ông mấy cậu là chúa phân bua. Cái chi cũng đổ thừa cho… tùm lum. Thậm chí đổ thừa luôn cho ông địa. Khi đến với một người đàn bà là phải chuẩn bị tư thế làm cha trước khi chuẩn bị tư thế làm người tình. Bọn các cậu thì bao giờ cũng chăm chăm nghĩ tới điều sau. Thế nên cuộc đời đâm ra nhiều rắc rối. Hèn chi, cậu run khi nghe tôi có một đứa con. Cũng may lần đó không rớt hạt. Thôi không nói chuyện đó nữa. Uống đi. Rồi gắp thức ăn cho kỹ vào, kẻo thôi làm rớt hạt nữa rồi lại than van.
- Kinh nghiệm đắt giá đến thế mà tới giờ này chị mới nói. Hồi đó thì nín thinh đồng lõa. May mà không hạt nào rơi rớt lại.
Thu Huyền đỏ mặt nhìn tôi :
- Cậu đúng là đồ điên. Thôi uống.
Lại nâng ly.
Bổng Thu Huyền trở giọng buồn buồn:
- Cậu thấy không? Tất cả những ước mơ bị cuộc sống phủi sạch. Mà ước mơ của chúng ta có gì lớn lao lắm đâu cậu nhỉ? Như cậu đã biết, cái việc tôi đã làm và đang thỉnh thoảng làm, là ước mơ cả một đời tôi. Tôi te tua vì nó. Nhưng bây giờ thì như thế đấy. Vì nó mà tôi mất cả cuộc đời mình, mất cả niềm tin. Không cần hỏi nhau, nhưng cả cậu và tôi cũng hiểu rằng quảng thời gian ba mươi năm này, người đối diện mình đã trải qua bao nhiêu là nỗi buồn. Đàn ông thì buồn cho thời cuộc, đàn bà thì buồn cho số phận. Tại mình cũng có, tại người cũng có. Nhưng như vậy cũng hay, buồn quá nên khi gặp một niềm vui chút xíu cũng đủ tràn bờ. Bây giờ cũng thế. Rất vui. Nào uống nhé.
Lại nâng ly.
- Thu Huyền này. Thế thì trong bao nhiêu năm qua. Ngoài niềm vui hôm nay. Thu Huyền còn niềm vui nào khác?
- Trời đất. Nghe cậu chuyển tông, xưng hô với tôi bằng tên, lòng tôi thì âm ấm, mà tóc gáy thì lạnh lờn.
Tôi thật sự chới với, như không mà chuyển tông ngang, nhưng vẫn cố bường:
- Không biết chị nói như vậy mà có lạnh thật không chớ tôi thì lạnh thật. Vái trời cho rượu nói chớ chẳng phải tôi.
- Thôi. Ấm lạnh gì cũng chẳng sao. Trả lời cậu về cái việc có niềm vui nào không nè. Tất nhiên là phải có. Nếu không thì sống làm sao nổi. Một đôi khi thì nó tự đến, không thì phải kiếm tìm. Câu hỏi của cậu đểu thật. Nhưng thôi, dù gì cuộc đời cũng có nhiều điều đẹp đẽ đủ sức mang đến một niềm vui, đâu phải nhất thiết là cái chuyện đàn ông đụng với đàn bà. Cái kỷ niệm đẹp nhất có liên quan đến tôi và cậu, chính là lúc cậu từ chối tôi. Cậu đã làm đẹp đời cậu, cũng có nghĩa không làm thêm bẩn đời tôi. Nhưng tiếc thay chỉ có một lần. Lần sau cậu trở lại như là một con quỷ. Ấy thế mà lúc đó tôi lại thấy cậu là một con quỷ đáng yêu. Nói ra cậu đừng cười, đến bây giờ vẫn thế.
Lòng tôi lại nôn nao vì câu nói này. Tôi nhìn chị. Đôi mắt lấp lánh sau cặp kính làn. Tôi không hiểu tại sao lòng tôi lại như thế. Tôi không hiểu tại sao đôi mắt chị lại như thế.
Có tiếng gõ cửa và rồi người phục vụ xuất hiện, nói nhỏ gì đó với Thu Huyền. Anh ta quay ra rồi trở lại. Tôi nhìn Thu Huyền, khi người phục vụ dọn ra cái lẩu cầy và một dĩa dồi luột. Hốt nhiên hình ảnh mịt mờ của ngày hôm nào đã được tái hiện gần như trọn vẹn. Ôi. Sài Gòn. Một đêm say đủ thứ. Ôi. Sài Gòn. Một ngày nắng mênh mang. Sài Gòn cho tôi ít ỏi thế sao? Tôi run run:
- Cám ơn… chị về việc tái hiện một kỷ niệm. Nhưng… tôi sợ cơn say của tôi sẽ làm chị thất vọng. Bởi vì…
Chị cười nụ, ngắt lời tôi:
- Tôi biết ý cậu muốn nói gì. Cậu không phải lo. Đây là một sòng nhậu dai dẳng nhất trong đời tôi. Một cơn say không phải ai cũng có. Còn thái độ của cậu như thế nào, chuyện đó tôi chẳng quan tâm. Nhưng cậu hãy nhớ cho là; lần đầu tôi dụ khị cậu, cậu giãy nảy chối từ, lần kế cậu cuồng chân chạy hoảng rồi tự chui vào, lần này thì trời xui đất khiến. Thế nên, nếu cậu muốn làm cái giống gì thì tôi cố giúp cậu trở thành cái giống ấy. Thôi uống đi. Rồi gắp mồi. Rồi muốn trở thành cái giống gì cũng được.
- Cám ơn chị. Chắc có lẽ cơn say đang hành hạ chị suốt bao năm đang chuyển về phía của tôi đây.
- Vợ hai bà, con ba đứa. Liệu có còn say nổi không đây?
- Say theo kiểu của chị đã từng say thì chắc là được.
- Muốn say thì uống và gắp mồi vào. Nào nâng ly.
Lại nâng ly. Và sau đó là cái hương vị nồng nàn của kỷ niệm. Kỷ niệm thì mờ xa. Nhưng hai con người và hương vị thì rất thật và có kèm thêm một thứ hương khác nữa. Hương thời gian. Chị lại rót và cả hai lại uống. Đôi mắt chị thì long lanh sau cắp kính làn. Và đôi mắt tôi thì như phủ một màn sương cũng sau cắp kính làn.
Để ly rượu xuống, tôi nói:
- Thôi được. Chị và tôi hãy để cho buổi tiệc hôm nay chấm dứt. Lúc đó tự khắc chị sẽ biết tôi thành cái giống gì?
- Cậu và tôi đều biết người đối diện mình vẫn còn đang bấu víu vào cái nghiệp dĩ mà mình đã trót chui vào. Dù cậu vừa nói thơ của cậu đã trôi tuột theo mồ hôi. Dù bây giờ, mỗi chúng ta ai nấy đều tinh tươm, nhưng lại phải nhờ một cái nghề mà chưa bao giờ mình mơ ước. Cậu thì nhếch nhác cọ sơn, tôi thì lỉnh kỉnh soong nồi. Nhưng tôi biết, khi có dịp thì cậu lại lao vào cũng như tôi vậy, mà không biết để làm chi? Những nơi chúng ta chui vào đều rất đẹp. Chúng ta mang vào đó một ước vọng. Nhưng chúng ta đã trả giá vì những mơ hồ của mình. Trong khi cuộc sống hàng ngày thì lại đòi hỏi chúng ta phải làm khác hơn. Cái lỉnh kỉnh của tôi, cái nhếch nhác của cậu, nó mang đến cho chúng ta một cái đẹp khác, niềm vui khác. Nhưng tiếc thay, khi chúng ta nhận ra thì đã te tua. Niềm vui hôm nay có được là nhờ nó đấy. Cậu hiểu không? Nếu muốn say như tôi thì phải vịn vào nó thôi. Vịn vào cái không phải là ước muốn ban đầu đã trở thành nghiệp dĩ ấy.
- Tôi hiểu. Thế thì hôm nay trời xui tôi trở lại. Chúng ta gặp nhau như thế này cũng là nhờ nó. Nhưng có một điều tôi xin chị hãy hiểu cho. Cuộc gặp gỡ hôm nay tạo ra trong đầu tôi những nghĩ ngợi rất đẹp và những xúc động trong lòng tôi thì rất lu bu. Bây giờ thì chúng ta đang uống rượu. Thế thì trong cơn say, không biết cái nào sẽ thắng cái nào. Thế nên, nếu như cái nào chiến thắng thì cũng xin chị thấu hiểu cho là cái đó sẽ đẹp. Cái xấu thì làm sao mà có khả năng chiến thắng. Phải không chị?
Ánh mắt Thu Huyền nhìn tôi qua bên trên cặp kính làn:
- Cậu dữ thiệt. Rượu của tôi, thức nhắm của tôi và cả con người của tôi, trong đó có suy nghĩ, cảm xúc và thái độ… Thế mà cậu dành lấy quyền sở hữu tự bao giờ vậy? Cậu buộc tôi phải chấp nhận thái độ xỉn say của cậu. Dù cho thế nào cậu cũng đúng, cũng đẹp. Ấy thế mà cậu buộc được mới lạ chứ? Ghê thật. Thôi kẻ chiến thắng hãy mời tôi đi.
- Vâng. Xin mời chị. Nhưng trước khi uống. Tôi xác định lại. Chưa ai chiến thắng cả. Có thể cả hai cùng thắng và cả hai cùng bại trận.
- Chậc. Cậu khéo mồm đến thế là cùng. Lúc nào cậu cũng muốn kéo tôi vào. Thôi uống nào.
Lại nâng ly. Và sau đó là cái hương vị nồng nàn của kỷ niệm. Kỷ niệm thì mờ xa. Nhưng hai con người và hương vị thì rất thật và có kèm thêm một thứ hương khác nữa. Hương thời gian. Chị lại rót và cả hai lại uống. Đôi mắt chị thì long lanh sau cắp kính làn. Và đôi mắt tôi thì như phủ một màn sương cũng sau cắp kính làn.
- Cậu biết không? Tình yêu mà tôi tưởng tượng ấy, nó trật lất. Ba con bé trông được đấy, bộ dạng ngon lành hơn cậu nhiều. Nhưng khổ nỗi, mấy tỷ tế bào não của ông ta chỉ lưu trữ rặt một từ. Tiền. Tôi lấy ổng được bốn năm, bữa đói, bữa no hết một năm, còn lại ba năm, khi đã có miếng ăn, miếng uống thì không đánh lộn, cũng rầy lộn hay giận hờn, mà nguyên nhân thì bao giờ cũng là tiền. Ấy vậy mà cũng có một đứa con. Tôi không hiểu con bé nó len vào lúc nào nhỉ? Lúc ba con bé bỏ mẹ con tôi, ông ta vét hết tiền đi vượt biên, rồi hay tin ổng chết. Tôi bị sốc vì đau đớn, sau đó lại tiếp tục giận hờn. Nhưng dù sao cũng cám ơn ông ấy, nhờ vậy mà mẹ con tôi không chết và tôi quyết tâm không lấy ai nữa (?). Mà có muốn cũng chẳng biết lấy ai? Và ai lấy? Khi nghèo, không ai ngó. Khi có, lắm người dòm. Mà khổ nỗi họ dòm tôi thì ít mà dòm cái túi tôi thì nhiều. Tôi không phải là kẻ so đo, nhưng họ dòm thò lỏ thấy mà phát bực. Cậu có dòm như thế không?
- Dòm hổng thấy thì dòm làm chi?
Thu Huyền ngữa cỗ ra cười:
- Cậu dữ thiệt
Tôi lại giở giọng tưng tưng:
- Mấy tay đó dở. Cái túi đựng được bao nhiêu. Cái tủ sắt mới nhiều. Nhưng mấy khi mà chị mở tủ sắt cho dòm. Thôi ngó ngang cho chắc. Nếu có tiếc quá thì dòm chị cho đỡ ghiền.
Thu Huyền trố mắt nhìn tôi:
- Cậu thành quỷ hồi nào vậy? Thôi, trở lại việc của tôi. Qua việc này tôi cho là mình xui, nhưng khi con bé lớn dần lên trong khốn khó. Hai mẹ con cùng hủ hỉ với nhau, thì tôi cho đó là niềm an ủi. Rồi khi nó trưởng thành, cũng là lúc thời thế đổi thay, miếng đất lúc mua thì giá như cho, bổng dưng tăng lên phát chóng mặt. Tôi cắt bán phân nữa, phần còn lại xây đựng và hai mẹ con cùng chăm sóc nhau, chăm sóc cái nhà hàng này, tôi lại cho là mình gặp may. Đấy cậu thấy không? Chỉ một việc có một đứa con thôi mà cũng khi xui, khi hên. Còn cậu thế nào, khi mà dính một chùm hệ lụy, yêu nhiều như thế chắc mệt lắm hả? Vậy hên hay xui? Ủa sao cậu không nói gì hết vậy? Nào vô một ly, rồi nói gì đó cho tôi nghe.
Lại nâng ly.
- Những gì chị nói thì đúng quá đi chứ, chí ít cũng với chị, với tôi. Nhưng cái vụ mà tôi yêu nhiều hay yêu ít. Cái này thì vô phương đếm. Mà không thể đếm thì làm sao biết là ít hay nhiều. Khi nào thoải mái, thuận tiện thì yêu, còn khi quá bức bách nợ áo cơm thì nghỉ.
Thu Huyền lại tròn mắt nhìn tôi:
- Nghe cậu nói, tôi muốn hắt ly rượu vào mặt cậu. Cậu học cái thói đểu cáng đó ở đâu vậy? Cậu xem bọn đàn bà chúng tôi là cái món gì? Tivi chắc. Lúc rãnh thì “on”, lúc buồn thì “off”.
Tôi lại phải giải thích cho câu nói dễ gây hiểu lầm này:
- Chị hiểu sai ý tôi rồi. Yêu là chiều chuộng, lo lắng, quan tâm chăm sóc ấy mà, chứ không phải ái ân. Già rồi chị ơi. Chỉ là trách nhiệm thôi. Chớ bổn phận thì chắc gì kham nổi.
Thu Huyền nhướng mắt nhìn tôi:
- Thế tại sao lại ôm đồm.
- Vậy mới khổ.
Rồi quỷ dục như thế nào không biết, tôi bắt đầu e hèm:
Đàn ông xin hỏi biết hay không?
Bị dụ đeo cho cái chức chồng.
Đêm đến nái sề quằm chặt cỗ,
Ngày về cu tí quặp vào hông.
Cân đo mệt xỉu chân kèm gậy,
Đong đếm bơ phờ tóc trắng bông.
Trách nhiệm ban ngày, đêm bổn phận,
Gọi hoài, ừ mãi. Dám đâu không?
Thu Huyền trố mắt nhìn tôi:
- Ôi trời. Cậu lại dám đùa với bà chị Hồ Xuân Hương à?
- Không dám đùa. Chỉ là than thân trách phận thôi. Đàn ông bọn tôi thời bây giờ là như vậy đấy. Khổ lắm chị ơi.
- Khổ. Khổ thì để một người gọi thôi. Tại sao ai gọi cũng ừ. Hèn chi cậu ốm nhách. Chết còn được nữa là…
- Bởi thế tự nãy giờ tôi đang sợ …
Có lẽ đoán được tôi sắp nói xàm. Chị ngắt lời:
- Đồ điên. Có quỷ mà gọi cậu. Thôi. Uống nào.
Lại nâng ly. Và sau đó là cái hương vị nồng nàn của kỷ niệm. Kỷ niệm thì mờ xa. Nhưng hai con người và hương vị thì rất thật và có kèm thêm một thứ hương khác nữa. Hương thời gian. Chị lại rót và cả hai lại uống. Đôi mắt chị thì long lanh sau cắp kính làn. Và đôi mắt tôi thì như phủ một màn sương cũng sau cắp kính làn. Bổng dưng chị cất giọng ngâm, thật ấm, thật trong mà cũng thật ngậm ngùi:
Ới hởi nhân gian có hiểu không?
Cái duyên, cái nợ vợ và chồng.
Trong hòa, ngoài hợp nên vừa ý,
Dưới đỡ, trên đần bớt xóc hông.
Thu vén một mình chưa chắc cú,
Chung cùng hai phía bổng bồng bông.
Nợ nhau đến thế mà hay nhỉ,
Có vẫn hơn là phải ở không?
Tôi trố mắt nhìn chị. Thu Huyền như đã họa lại bài thơ từ lâu trong tự đáy lòng mình và hôm nay bật ra trơn tru như là một ước mơ cháy lòng mà không thể nào trở thành hiện thực.
- Thôi nào. Cậu đừng có trố mắt nhìn tôi như vậy. Cái nhân duyên của tôi và cậu có cái đỉnh hiện thực đẹp nhất là ở đây. Chúng ta có thể tha hồ quan hoài, tha hồ tưởng tượng. Rất mong cụ thể hóa, nhưng cố mà kềm lại Hiền nhé, kẻo thôi không còn đẹp nữa
- Tôi hiểu. Thôi thì “cung kính bất như phụng mệnh”. Chị biết không? Lần cuối cùng ghé nhà chị, rồi khi ra về tôi đi không muốn nổi, với cả hai nghĩa đen và bóng, nghĩa nào, nghĩ lại cũng thấy bềnh bồng. Nhưng tôi biết ở lại lâu thêm là không thể. Rồi sau đó bao nhiêu lần lên xuống Sài Gòn, mỗi khi giải quyết xong công việc thì tôi khổ sở biết bao khi cố quăng ra khỏi đầu óc mình cái ý nghĩ ghé lại. Mọi việc rồi dần phai theo ngày tháng. Để bây giờ ngồi đây. Chỉ có trời biết sự tái ngộ này hên hay xui, tự mình muốn hay là sự xô đẩy của cuộc đời. Nhưng dù sao đó cũng là một niềm vui. Thôi, xin được cùng chị nâng ly.
Lại nâng ly. Và sau đó là cái hương vị nồng nàn của kỷ niệm. Kỷ niệm thì mờ xa. Nhưng hai con người và hương vị thì rất thật và có kèm thêm một thứ hương khác nữa. Hương thời gian. Chị lại rót và cả hai lại uống. Đôi mắt chị thì long lanh sau cắp kính làn. Và đôi mắt tôi thì như phủ một màn sương cũng sau cắp kính làn. Đúng rồi, sương dày hơn rồi mà.
- Khi tôi viết cái thư cho cậu. Cậu không trả lời. Tôi xuống Rạch Giá, đứng nép vào gốc me già bên hông ngân hàng Việt Nam Thương Tín, nhìn cậu đi ra, đi vào cơ quan của cậu. Hai ngày như vậy mà không biết để làm gì? Mấy lần định gọi, nhưng làm như có ai bóp họng. Chắc có lẽ đứng chờ mà không biết để làm chi, rồi buồn tay bức mấy lá me non lòa xòa trước mặt, nhai nhai, nhổ nhổ một hồi làm chua tê cả họng, nên gọi chẳng nên lời. Rồi chợt nghĩ thôi đứng xa xa nhìn cậu vậy mà hóa hay, quấn vào nhau riết đâm ra chán chết. Cậu chửi thề với tôi nghe còn tàm tạm, tôi mà chửi thề với cậu thì quái chiêu hết biết. Nhưng cái nết của cậu mà không chửi thề thì không xong. Thế là tôi lặng lẽ ra về mang theo trong lòng một…
… Giọt sương rơi xuống cỏ khô.
Cũng long lanh một giấc mơ muộn màng.
Lại nâng ly. Và sau đó là cái hương vị nồng nàn của kỷ niệm. Kỷ niệm thì mờ xa. Nhưng hai con người và hương vị thì rất thật và có kèm thêm một tứ hương khác nữa. Hương thời gian. Chị lại rót và cả hai lại uống. Đôi mắt chị thì long lanh sau cắp kính làn. Và đôi mắt tôi thì như phủ một màn sương cũng sau cắp kính làn.
Tôi đặt cái ly xuống và lắng nghe cái cảm giác cay đắng của Thu Huyền đang chuyển sang tôi. Nỗi đắng cay từ quá khứ cho đến tận bây giờ hình như chưa hề phai nhạt. Tất nhiên cái khối cay đắng phủ chụp xuống chị ấy không phải hoàn toàn của tôi, nhưng có phần của tôi và vì thế, tôi cảm thấy mình có lỗi. Nhưng tôi cố giấu trong lòng, nhưng chị thì không.
Cơn say bắt đầu dẫn dắt Thu Huyền vào nẻo quan hoài:
Giấc mơ không thật, đúng rồi
Nhưng mà phải có cho đời đáng yêu
Rồi qua trăm nẻo phù du
Cái mơ, cái thực cũng hư không rồi
Còn chăng một tấm lòng thôi
Mở ra xem lại. Buồn ơi. Chẳng gì?
Người xưa, tiệc cũ bày đâ
Cho chuyện ngày ấy lại say say lòng.
Lại nâng ly.
- Bài thơ này chị bán không?
- Bán tuốt. Còn gì đâu mà giữ.
- Vẫn còn đấy chứ? Còn gặp lại, còn say sưa, còn kỷ niệm. Và cả nỗi ngậm ngùi nữa. Chị vừa mới nói. Chị quên à?
- Ừ. Không bán thì không bán. Bởi vì, có ai mà mua một tấm lòng trống không. Nhưng mà cậu có điên không nhỉ?
- Vậy chớ chị muốn tôi phải ra làm sao? Đến với chị đôi giờ. Bỏ đi mất biệt. Mấy chục năm gặp lại còn được mời nhậu. Không điên lên vì sung sướng thì là gì?
- Cậu vẫn không thay đổi?
- Thế mà chị cứ thắc mắc về cái lưỡi của tôi hoài. Nhưng cuộc sống luôn thay đổi mà. Tôi cũng thế chị ạ. Làm sao mà chẳng đổi thay. Nhưng vẫn phải cố cười thôi. Ít ra cũng tự an ủi mình.
- Tôi mà biết thế. Tôi nói con bé là cái hạt của cậu làm rơi. Thử coi cậu còn cố cười được không? Thu Huyền trêu tôi.
- Thế thì tôi ngã ra chết liền, cho chị lấy thịt nấu giả cầy.
Thu Huyền cười ha hả:
- Đàn ông mấy cậu là đồ đểu. Nghe nói tới con thì không xỉu cũng chết giấc. Lúc lóp ngóp bò dậy được thì dọt.
- Cho chị xác định lại đi xem tôi có chết không? Có kinh nghiệm rồi đấy.
- Thôi được rồi, đừng có phân bua. Nghe cái kinh nghiệm của cậu mà tôi nổi gai ốc. Tôi không lấy thịt của cậu mà nấu giả cầy đâu. Cái mùi thịt của cậu bây giờ mà cộng với mùi mắm tôm thì bố ai mà chịu nổi. Nào…
Lại nâng ly. Và sau đó là cái hương vị nồng nàn của kỷ niệm. Kỷ niệm thì mờ xa. Nhưng hai con người và hương vị thì rất thật và có kèm thêm một tứ hương khác nữa. Hương thời gian. Chị lại rót và cả hai lại uống. Đôi mắt chị thì long lanh sau cắp kính làn. Và đôi mắt tôi thì như phủ một màn sương cũng sau cắp kính làn.
Và hốt nhiên tôi đọc lên cảm nghĩ của mình khi nhìn mấy món thịt cầy.
- Ôi. Sài Gòn.
Một đêm say đủ thứ .
Ôi. Sài Gòn.
Một ngày nắng mênh mang,
Sài Gòn cho tôi ít ỏi?
Nhưng tôi vẫn để trong lòng…
Rồi cất bước lang thang
Hôm nay nồng nàn hương vị thời gian.
Hôm nay bù trừ mong manh kỷ niệm,
Hôm nay nồng nàn hương vị mắm tôm.
Hôm nay nồng nàn hương vị rau thơm.
- Và ngày mai Sài Gòn vẫn nắng,
Ôi Sài Gòn đêm nay say.
Để giả từ.
Ai đẩy tôi vào một giấc chiêm bao.
Khi hai con mắt mở trao tráo.
- Thôi cám ơn. Chiêm bao thì cứ chiêm bao. Nhưng muốn yên lành thì đừng có mớ.
- Chị yên tâm. Tôi ngủ thì chỉ nghiến răng thôi. Mà nếu mớ xong rồi chết cũng chẳng sao?
- Thôi đừng chết. Cứ sống đi, chết làm gì mà đòi chết hoài.
Lại nâng ly
- …Cõi địa phủ, thiên đàng chán ngắt.
Cứ ở đây quay quắt với đời
Lại nâng ly
- Khi buồn ta cất tiếng cười.
Khi vui ta khóc cuộc đời xót xa.
Lại nâng ly
- Thôi đừng nghĩ ta bà thế giới
Cứ mộng mơ để lãng quên đời.
Lại nâng ly
- Cứ say xỉn để mà chơi.
Ngủ vùi một giấc cho vơi nỗi sầu.
Lại nâng ly.
- Mặc thiên hạ lao xao, lộn xộn.
Giữ lòng ta trọn vẹn cho ta.
Buồn vui một kiếp… khà khà.
Cả hai ngửa cỗ ra cười, cười cho tới nước mắt ràn rụa, cười cho tới hụt hơi. Đến khi ghìm lại được. Thu Huyền nói tiếp trong nước mắt:
- Hôm nay vui thôi. Không có buồn cậu nhỉ?
Không biết chị ấy đúng hay sai, nhưng tôi cũng trả lời:
- Vâng. Hôm nay rất vui.
- Khi nào lên Sài Gòn một mình êng, mà cậu muốn vui thì cứ đến. Hứa nhé.
- Vâng. Xin hứa. Khi nào lên một mình êng.
- Vậy thì uống cạn ly tôi mới tin.
Lại nâng ly. Và sau đó là cái hương vị nồng nàn của kỷ niệm. Kỷ niệm thì mờ xa. Nhưng hai con người và hương vị thì rất thật và có kèm thêm một thứ hương khác nữa. Hương thời gian. Chị lại rót và cả hai lại uống. Đôi mắt chị thì long lanh sau cắp kính làn. Và đôi mắt tôi thì như phủ một màn sương cũng sau cắp kính làn.
Không hiểu sao tôi lại hỏi :
- Tôi hỏi thật và xin chị cũng nói cho y hệt như sự thật.
Chị nhướng mắt nhìn tôi:
- Cậu hỏi cái gì mà khẩn thiết thế. Tôi có nói xạo với cậu bao giờ.
- Xin lỗi chị vậy. Nhưng đôi khi có một sự thật mà vì một lý do tế nhị nào đó mà người ta không thể công bố. Nhưng giữa chị và tôi. Hai con người này có biết trời cao đất dày là gì. Đâu có lý do gì mà chị phải lo.
- Ơ cái cậu này lạ thật. Hỏi thì cứ hỏi. Cái gì mà rào đón mãi. Nào nói đi.
- Con bé. Nó là …
Chị ngắt lời tôi bằng một tràng cười:
- A. Cái cậu này. Nhưng thôi tôi nói đây. Giờ này mới nghĩ đến chuyện nuôi con hả? Tôi cũng mong nó là con của cậu. Nhưng rất tiếc không phải là như vậy. Sao bộ vung vải tứ lung tung rồi bây giờ đâm lo hả?
Rồi bổng nhiên giọng chị như trầm xuống:
- Cậu phải nhớ cho rằng. Trong cuộc đời này. Muốn là một việc. Nhưng được lại là một việc hoàn toàn khác. Thôi nâng ly. Nếu muốt vớt vát thì hôm nào đó thuận tiện ghé lại. Lúc tỉnh táo, không rượu chè. Đừng hiểu lầm. Tôi sẽ bảo con tôi kêu cậu bằng ba, đương nhiên cháu tôi phải kêu cậu bằng… ông ngoại. Nào nâng ly lên. Ông ngoại của cháu ngoại tôi. Nhưng phải nhớ cho là làm ông ngoại thì mệt đấy. Không phải mệt với cháu ngoại mà là mệt với… bà ngoại.
Tôi hoàn toàn bất ngờ với câu kết thúc. Nhưng cơn bốc đồng của tôi lại nổi lên:
- Chấp nhận.
- Đồ điên.
- Có thể là điên đấy. Nhưng biết đâu điên thì lại hay hơn.
Có lẽ thấy không nên kéo dài thêm chuyện này, nên Thu Huyền lại phải giúp tôi thoát ra:
- Thôi đi nào. Bây giờ cậu thấy cái khung cảnh mà tôi sắp đặt cho sòng nhậu này có lãng mạng không. Tôi và cậu. Cậu và tôi. Hai chúng ta làm một cuộc tâm tình của hai kẻ đã là cố nhân nhau. Tất nhiên ba mươi năm trước và bây giờ hoàn toàn khác nhau. Chỉ có một điều không khác. Dù sao thì hai chúng ta cũng từng là nhân tình, nhân ngãi với nhau. Thôi uống nào.
Lại nâng ly. Và sau đó là cái hương vị nồng nàn của kỷ niệm. Kỷ niệm thì mờ xa. Nhưng hai con người và hương vị thì rất thật và có kèm thêm một thứ hương khác nữa. Hương thời gian. Chị lại rót và cả hai lại uống. Đôi mắt chị thì long lanh sau cắp kính làn. Và đôi mắt tôi thì như phủ một màn sương cũng sau cắp kính làn.
Để ly xuống, không hiểu sao và từ ở nơi nào, tôi moi ra rồi bật lên một bài thơ Đường:
Thoắt cái hai ta tuổi cứng rồi.
Tóc pha thêm muối mặn mòi chơi.
Tìm vui nhắm nháp ly trà nhạt,
Đón mộng lai rai chén rượu đời.
Số phận tại gieo mầm họa phúc
Vui buồn vì kiểu cách rong chơi
Trăm năm xin giữ lòng như cũ,
Hãy phả hồn Xuân với cuộc đời
Lại nâng ly.
- Chà. Hay thật. Còn lạc quan thế tức là còn đủ sức để lu bu. Số phận tại gieo…mầm ho…họa phúc, vui buồn vì…ki…kiểu cách ro…rong chơi. Đúng lắm. Cậu làm thơ còn nghe được quá mà, đã vậy còn chọn thứ dữ. Cậu họa thơ Hồ Xuân Hương nghe cũng tưng không kém chi bài chính. Thế mà cậu nói đã trôi tuột theo mồ hôi. Cậu là chúa lộn xộn. Nhưng tôi tin cậu, tôi hy vọng cậu sẽ tiếp tục làm thơ, dù tôi không biết mấy về đời thơ của cậu, nếu có thì chỉ là mấy giòng phía sau cái khung ảnh cũ kỷ của tôi. Nào uống. Ông ngoại của cháu ngoại tôi.
Lại nâng ly.
- Hiền này. Lần trước khi rời nhau, Hiền… Hiền để lại mấy giòng. Bây giờ…sớm muộn gì Hiền cũng rời đây. Hiền có… có gì để lại? Kệ nó, gập ghềnh cũng được, lổm ngổm cũng xong. Không tính những gì Hiền vừa đọc. Tôi phải nhận trước, để rồi Hiền xỉn, Hiền lại quên. Thôi uống đi. Rồi tìm cái gì đó cho… cho tôi. Nào uống một ly lấy hứng
Lại nâng ly. Và sau đó là cái hương vị nồng nàn của kỷ niệm. Kỷ niệm thì mờ xa. Nhưng hai con người và hương vị thì rất thật và có kèm thêm một thứ hương khác nữa. Hương thời gian. Chị lại rót và cả hai lại uống. Đôi mắt chị thì long lanh sau cắp kính làn. Và đôi mắt tôi thì như phủ một màn sương cũng sau cắp kính làn. Sự chuyển đổi cách xưng hô đang chuyển đến tôi cái cảm giác là mùi hương thời gian đang mất dần đi để cho quá khứ gần hơn, gần hơn…
Tôi rút viết, rồi ngó quanh tìm giấy. Thu Huyền xua tay:
- Hiền… cứ đọc đi. Tôi đã đặt máy ghi âm ngay từ khi Hiền bước chân vào. Thời hiện đại mà, hại điện tí đỉnh cũng không sao? Tôi biết hôm nay có một điều gì… gì đó rất đáng phải giữ lại.
Chị rót rượu cho cả hai:
- Nào. Đọc đi rồi mình uống tiếp.
Tôi thật sự hơi hoảng, nhưng tôi đang liều mạng và nó lấn át hết, với cái suy nghĩ rất đơn giản “Dù sao cũng chỉ là một cuộc vui“. Và tôi bắt đầu e hèm
Ai xui gặp lại nhau đây?
Bao nhiêu năm ấy đã đầy lênh đênh
Ít khi nhớ? Lắm khi quên?
Mà mong manh cũ còn nguyên trong lòng.
Nâng ly ngày gặp lại,
Uống cạn nỗi ngậm ngùi.
Mãi lu bu, chuyện cũ tưởng quên rồi.
Chợt nếm lại vị xưa, hương mới cáu,
Một khoảng trời xanh, biết bao giông bão,
Gió cấp nào cũng đủ để te tua.
Mỗi bóng chiều rơi dính một tí già nua.
Ác một nỗi tấm lòng vẫn mãi…
Hiểu kính đãn sầu vân mấn cải,
Dạ ngâm ưng giác, nguyệt quang hàn.[v]
Chén trăng nghiêng không làm giấc mơ tan.
Mà cứ rót ngậm ngùi từng giọt một,
Nhớ hay quên cũng làm cho xót xót,
Đời xui ta hay ta tự xui mình.
Chơi khăm chi vậy? Ơi tình.
- Hay. Rất hay. Nhưng buồn nát ruột cố nhân ơi. Cố nhân làm học trò cụ Uy Viễn tướng công từ bao giờ mà chơi thơ Đường, hát nói ngon ơ vậy. Xin nâng ly đáp tạ cố nhân. Cố nhân đã giữ lời. Cố nhân còn nhớ ta. Rất cám ơn.
Lại nâng ly.
- Cuộc vui hôm nay rất đẹp. Tôi nói thật lòng đấy. Hôm nay. Cậu đang là con quỷ đầy nanh vuốt. Ngay liền đó cậu lại là một người làm thơ đáng yêu. Nhớ đừng bán thơ mình? Viết và đọc cho mình nghe và ai đó nghe. Nhớ. Đừng bán. Đừng bán. Cậu mà bán thì tôi không mời cậu nhậu nữa đâu? Mỗi bóng chiều rơi dính một tí già nua. Ác một nỗi tấm lòng vẫn mãi… Nào. Nâng ly.
Lại nâng ly. Và sau đó là cái hương vị nồng nàn của kỷ niệm. Kỷ niệm thì mờ xa. Nhưng hai con người và hương vị thì rất thật và có kèm thêm một thứ hương khác nữa. Hương thời gian. Chị lại rót và cả hai lại uống. Đôi mắt chị thì long lanh sau cắp kính làn. Và đôi mắt tôi thì như phủ một màn sương cũng sau cặp kính làn.
Tôi không hiểu tại làm sao mà tôi đọc một cách ngon lành như thế. Chắc có lẽ là do rượu, do cảnh, do tình. Có thể lắm. Ôi say đã thiệt. Tội gì không say, khi mà có rượu, có thơ và có cả cố nhân. Chị lại khề khà:
- Trong bài thơ của cậu có hai câu của Lý Thương Ẩn trong bài Vô Đề mà cậu đã đọc lúc mới vào phòng này. Như vậy Lý Thương Ẩn hay cậu là người thấu hiểu tấm lòng tôi?
Tôi im lặng mà chị cũng không cần tôi phải trả lời. Ôi. Chúng tôi, hai tâm hồn bạt mạng. Kẻ thì bị đẩy ra rìa tình yêu, người lại bị đun vào nẻo đa đoan. Cả hai đang đắm đuối nhìn vào hai ngọn nến đang lụi tàn với những giọt lệ hồng trong suốt.
Cứ thế từng ly, từng ly cho đến khi chai rượu hết veo. Và chị ấy cứ nhắc mãi tôi nên viết, nhưng đừng bán. Và cũng luôn miệng phong hàm ông ngoại cho tôi. Cuối cùng ông ngoại chỉ còn đủ sức để ra xe trong vòng tay đỡ đần của ai cũng không biết nữa và cố gắng hết sức mà không nói rõ ra được tiếng giã từ. Sau đó, chỉ còn thấy thấp thoáng một bàn tay vẫy chào mờ dần, mờ dần…rồi mất hút trong muôn vạn ánh đèn chấp chới, lung linh. Ôi bàn tay của bà ngoại đang vẫy chào… ông ngoại dỏm. Ôi. Mấy cơn say giữa đất Sài Gòn. Mấy nhỉ? Hình như là…
Khi tỉnh lại. Một mình trong khách sạn. Đầu óc tôi gần như trống rổng, không nghĩ được bất cứ một điều gì. Tất cả những gì xảy ra lại hiện đến, rồi nhanh chóng biến đi như một cuộn băng video quay nhanh. Tôi có cảm giác như tôi không còn là tôi nữa. Dù rằng những cảm giác tuyệt vời của cơn say, cảnh say vẫn còn nôn nao trong lòng.
Tôi thực sự ngạc nhiên khi nhìn thấy cái hộp trên bàn ngủ. Tại sao nó lại ở đây? Không hiểu của ai và cái gì trong đó? Tôi linh cảm có điều gì đó không bình thường. Tôi cầm cái hộp, tần ngần một lát rồi mở ra mà hai bàn tay như run rẩy. Bên trong là hai cái phong bì, không có cái nào ghi tên người gởi và người nhận. Một cái thật cũ và một phong bì gần như mới toanh. Theo tự nhiên tôi mở cái cũ trước.
Tây Ninh. 1970
Hiền.
“Hơn hai năm, từ ngày tôi rời bỏ Hiền và sau gần một năm học từng chữ I, chữ tờ. Tôi viết lá thư này cho Hiền. Nhưng cũng năm lần bảy lượt mới xong, khi xong rồi chắc cũng không biết Hiền ở đâu mà gởi? Nhưng thôi. Cứ viết đi, may ra tìm được địa chỉ của Hiền”
Tôi thật sự bị choáng. Cái gì xảy ra nữa đây hả trời? Chữ nghĩa quay mòng mòng trước mắt tôi, một phần vì quá bất ngờ, một phần vì cơn say còn váng vất. Hai cái quá khứ hiện đến vừa thật vừa mộng ảo, nhanh và mạnh như một cơn giông. Tôi tê cứng cả người. Cái gì đây? Tại sao thế? Không hiểu, tôi không hiểu. Phải rất lâu tôi mới có thể đọc tiếp.
“Hiền có biết là tôi yêu Hiền lắm không? Bao nhiêu người đến với tôi, họ đều nói yêu tôi. Họ chỉ nói thôi chứ trái tim họ dành cho hướng khác. Và họ nhanh chóng bỏ đi và không thèm nói một tiếng. Còn Hiền thì lại chẳng nói với tôi một lời tán tỉnh nào, trong khi những vụng về của Hiền thì rất đáng yêu. Xa nhau là lỗi tại tôi. Tôi biết rằng là không thể, nhưng tôi lại cuốn Hiền vào và… như thế đó. Tôi biết lúc ấy Hiền buồn lắm, tôi biết Hiền quay quắt tìm kiếm và quay quắt nhớ thương tôi. Rồi khi hoàn toàn tuyệt vọng thì Hiền lại tìm đến một nơi. Mà nơi ấy chỉ còn thấp thoáng một chút xíu bóng dáng của tôi. Hiền ơi. Tôi cũng thế, tôi buồn, tôi nhớ Hiền, và chỉ buồn, chỉ nhớ mà thôi. Bởi vì cuộc sống đã xô Hiền mất hút vào một nơi nào đó. Tôi viết những giòng chữ ngã nghiêng này cho Hiền với bàn tay vụng về, và những ý nghĩ cũng vụng về không kém. Phải chi lúc gặp Hiền và trong tình yêu tôi cũng vụng về như thế.
Không biết thư này có tới tay Hiền hay không? Nhưng dù sao thì tôi cũng nói ra được tấm lòng của tôi với Hiền. Lan“
Nhìn những giòng chữ ngả xiêu, ngả tó đầy lỗi chính tả trên manh giấy học trò đã ngả màu vàng như chiếc lá úa vàng còn sót lại của một quá khứ hơn ba mươi năm. Nhưng tôi biết chắc một điều, những gì viết trên ấy đã làm tôi nghẹt thở đây. Lan! Lan bây giờ đang ở đâu? Tôi thẩn thờ cầm lá thư trên tay, nhớ lại những ngày quay quắt tìm Lan, nhớ lại bức thư tạ từ, nhờ người khác viết, đi theo tôi suốt quảng đời lửa đạn rồi trở thành tro bụi khi thời cuộc đổi thay. Tôi nhìn một lượt căn phòng khách sạn. Sao mà nó giống nơi mà tôi đã cùng Lan có những ngày tuyệt diệu ở Vũng Tàu. Rồi những bước chân vô định kiếm tìm đẩy tôi vào nẻo khác. Tôi chấp nhận tất cả, không bằng một tấm chân tình mà như là một kiểu rong chơi. Ôi, tôi thì bao giờ cũng thế? Để giờ đây, trong cái váng vất của cơn say cụ thể và cái mùi giấy cũ nhưng thoang thoảng đâu đó hương xưa. Tất cả cái quá khứ đã từ trong hư không bật dậy đột ngột, như bị chấn động và cụ thể với mấy cái phong bì như những viên gạch tung ra từ một phế tích của một ngôi nhà tình yêu cũ kỷ, vừa được thu dọn lại và chỉ còn hai. Tôi thẩn thờ đậy cái hộp lại mà không xem cái phong bì mới. Tôi tìm một ly nước trong tủ lạnh và cơn say lại ập về. Ôi cơn say nào nữa đây.
Giòng nước ấm làm cho tôi tỉnh táo. Tôi tắm thật kỹ, thật sạch như muốn làm cho tôi trở thành không còn là tôi đầy bụi bặm. Không hiểu sao tôi lại có ý nghĩ này? Một sự cố gắng vô ích. Nhưng dù sao cũng làm cho tôi nhẹ nhàng hơn. Tôi nhìn đồng hồ, đã gần năm giờ, tôi lắng nghe Sài Gòn thức giấc và lắng nghe quá khứ thức giấc. Những ngày lêu bêu ở Sài Gòn, những tưởng rằng tôi có thể tự mình tìm ra cho mình một con đường mình mơ ước. Nhưng cuộc sống thì lại đẩy tôi vào hệ lụy và từ chối tôi. Ôi Sài Gòn. Sài Gòn lộng lẫy. Nhưng Sài Gòn chỉ là mấy thoáng trong tôi và mãi mãi chẳng là của tôi. Sài Gòn cho tôi nhiều thứ, nhưng cũng làm cho tôi sợ hãi.
Tiếng gõ cửa của tài xế kéo tôi trở về hiện thực. Và chuẩn bị rời khách sạn.
Tôi giải quyết công việc còn lại của mình khá khó khăn, nhưng rồi đâu cũng vào đấy. Ngồi trên xe chạy loanh quanh Sài Gòn. Tôi định trở lại, hỏi Thu Huyền về tin tức của Lan. Nhưng rồi thôi. Bởi vì như thế là xúc phạm chị ấy. Nhận chuyển cho tôi cái hộp là chị ấy đã cố gắng hết sức mình rồi. Dẫu là quá khứ mịt mù, nhưng khi trở lại thì nó vẫn mới nguyên và cộng thêm một cái cảm giác gì đó làm cho cõi lòng xao động. Tôi cũng thế và Thu Huyền cũng thế. Cũng tại tôi, tôi đã tự gây khó cho mình vì cái bệnh lu bu và bây giờ thành cái tật lu bu. Ôi Sài Gòn, Sài Gòn nhỏ đến thế sao? Có biết cơ man nào là quán ăn, nhà hàng. Tại sao tôi lại chui vào ngay chóc. Ông trời chơi khăm tôi hay là cuộc sống cần trả lại cho tôi những nỗi ngậm ngùi mà tôi đổ vào người khác. Khi chúng tôi quay về Rạch Giá. Lúc ra khỏi Phú Lâm. Anh tài xế hỏi tôi:
- Bà chủ quán chắc là cố nhân của ông quá? Khi đưa ông ra xe, tôi thấy cả hai cùng tới bến, nhưng bà ấy cũng cố đưa cho tôi cái hộp và dặn đò tôi dăm lần bảy lượt, nào là giữ gìn kỹ lưỡng cái hộp, nào là nhớ trông chừng ông. Còn ông thì mặt mày tỉnh queo mà trong bụng hình như đang ngủ.
Tôi nói lãng :
- Tốt nhất là chú cứ chú tâm vào việc lái xe. Chú mà nghe tôi kể thì chắc chú lủi vào cột đèn. À mà bà ấy nói gì về cái hộp?
- Bà ấy bảo cái hộp của ông để quên ở nhà bà ấy lâu lắm rồi? Dặn tôi giữ kỹ giùm ông?
- Thôi chú lái xe đi.
Anh ta nín thinh và tiếp tục làm công việc của mình. Tôi mở cái hộp và tần ngần lấy cái thư, cái thư mới toanh, mở ra đọc.
Sài Gòn 1997
Hiền ơi.
Thế là hơn ba mươi năm. Tôi cố gắng hết sức tìm một người đàn ông nào đó yêu tôi. Nhưng hoài công vô ích. Trong khi tôi thì chỉ có một tấm lòng khao khát yêu thương. Mỗi một lần thất bại là mỗi lần tôi đổ yêu thương vào Hiền một ít. Hiền đã trở thành cái thùng rác tình yêu của tôi . Thế là tôi lại tiếp tục yêu Hiền, yêu cái thùng rác, yêu mơ hồ.
Hiền này. Nói Hiền là cái thùng rác tình yêu. Hiền có giận tôi không? Ừ giận thì giận chớ làm gì được nhau, khi mà bây giờ Hiền đang có trong tay cái thùng rác ấy.
Từ ngày, biết đọc và viết. Tôi thường hay viết thư, nhất là khi qua bên này. Nhưng đều không có nơi để gởi. Ban đầu tôi hơi buồn buồn. Nhưng sau đó lại là một niềm vui. Thế là tôi cứ viết sau những giờ làm việc chí chết. Nhưng lạ một điều, người được tôi viết cho ít nhất lại là Hiền. Nếu kể luôn bức thư này thì hình như là hai hay ba gì đó. Rồi khi về Việt Nam, tôi lại mang luôn cả cái hộp đựng đầy những lá thư uá vàng theo thời gian. Tôi nghĩ rằng có thể gởi được cho ai đó. Nhưng tuyệt nhiên không tìm ra địa chỉ của ai. Kể cả Hiền. Khi gặp lại chị Huyền, tôi mừng quá và chị ấy nói là có thể tìm ra địa chỉ của Hiền. Và tôi nhờ chị ấy. Thôi thì mong là Hiền đọc được.
Hiền này.
Khi gặp lại chị Huyền. Tôi lại biết thêm rất nhiều điều về Hiền. Và khi đã biết, tôi chợt nhận ra là Hiền có một cái tật rất xấu, cái tật đó không làm hại ai, nhưng lại có thể làm cho Hiền gặp nhiều vất vả trong cuộc sống. Hiền không bao giờ biết so đo trong tình cảm, trong sinh hoạt hàng ngày, ngay cả khi Hiền không có một xu trong túi. Tôi nhớ những ngày ở Vũng Tàu, rồi khi về Sài Gòn, Hiền đã vét sạch những đồng bạc cuối cùng. Hiền không cần biết những ngày sắp tới Hiền sẽ ăn gì để sống. Và vì thế Hiền không đến thăm tôi, khi mà trong túi chẳng có một xu và tôi có đủ thời gian để làm một chuyến đào thoát khỏi tình cảm của Hiền. Nhưng chính tôi lại mang nó theo về với mình. Bao nhiêu năm qua, những người đàn ông đi qua đời tôi. Không phải những người đó đều xấu trai, xấu tính. Nhưng tất cả họ, khi đến với tôi họ đều không có điều kiện để yêu thương. Vì thế mà hình ảnh của Hiền sống mãi trong tôi. Nhưng tôi biết là không thể. Bởi thế mà tôi viết cho Hiền rất ít. Nhưng giờ đây về lại cái thành phố này. Hiền đầy khắp, dù Hiền không có ở nơi đây, dù tôi biết chắc là không bao giờ tôi còn có được Hiền dù chỉ một giây.
Tôi biết. Dù cho có gặp lại Hiền, thì những giây phút ấy đã trở thành kỷ niệm, nó cũng chỉ là kỷ niệm thôi. Chúng mình làm sao đủ sức mà tái hiện lại phải không? Nhưng sao mà tôi muốn gặp Hiền vô cùng. Nhưng cũng sợ giây phút đó vô cùng. Cuộc sống đã đổi thay. Chỉ khổ cho tôi, tấm lòng thì vẫn vậy. Đã nhiều lần tôi muốn khác đi, nhưng không thể được. Hiền có biết con bé nhà tôi nó nói sao không ? Khi mà nó thấy tôi ngồi hý hoáy viết thư. Nó cứ nghĩ là tôi viết cho Hiền. Bởi vì Hiền là người tôi thường nhắc và kể cho cháu nó nghe. Và nó đọc cho tôi nghe hai câu ca dao “ Bà già tuổi tám mươi tư. Ngồi bên cửa sổ viết thư cho…bồ “. Hiền thấy có tức cười không. Nhưng mà thật đấy. Phải không Hiền? Bởi vì tôi chỉ mới năm mươi sáu tuổi thôi. Nhưng khi nhìn vào gương thì tôi chợt nhận ra. Thời gian đã lấy đi của tôi nhiều thứ. May thay cái tấm lòng tôi dành cho Hiền thì vẫn y nguyên, dẫu có đôi khi tôi cố tình làm mất. Thế đấy. Có thể tôi sẽ viết cho Hiền nhiều hơn nữa. Nhưng cũng có thể là bao nhiêu đây cũng đủ. Dù sao thì cũng là bà ngoại rồi. Thôi thì cứ để trong lòng, chứ viết ra giấy mà không gởi được thì thời gian sẽ làm cho nó úa vàng. Với lại tuổi tác cũng chẳng còn ít ỏi gì. Viết cho Hiền nhiều quá, cái nọ đếm xọ với cái kia. Ít hóa thành nhiều rồi đâm ra có lỗi với Hiền.
Không hiểu Hiền bây giờ ra sao? Nhưng có ra sao thì tôi cũng yêu Hiền mà. Tôi vẫn tin thế, dù Hiền không còn nhớ đến tôi. Thì ít ra Hiền cũng còn phải nhớ đến mình. Hãy luôn luôn nhớ đến mình Hiền nhé. Thôi dừng bút ở đây. Hiền nhé. Vợ chồng con bé sắp về. Kẻo thôi chúng nó lại cười cho. Mới đây thôi vợ chồng chúng nó có một trận cười bằng thích khi bắt gặp tôi một mình đang diễn lại lớp Thần Nữ dâng Ngủ Linh Kỳ. Đấy thỉnh thoảng nhớ Hiền, tôi khóa cửa phòng và diễn.
Cuối cùng có một điều mà tôi vừa nhận ra. Lần đầu tiên Hiền xuất hiện trước mắt tôi. Tôi tự nhủ “ Cậu bé này hay đấy. Cua cậu ta chơi cho đỡ buồn vậy” và tôi thực hiện ý định này. Nhưng đến khi hoàn thành kế hoạch thì hởi ơi. Hiền mới là người chiến thắng chứ không phải tôi. Khi tôi thua thì tôi phải bỏ chạy. Và càng chạy thì Hiền càng đuổi theo. Đuổi vào nỗi nhớ, đuổi vào giấc mơ. Tôi không xin lỗi Hiền về việc này đâu. Bởi vì dù trước hay sau thì tôi cũng yêu Hiền. Mà yêu chớ có ghét đâu mà có lỗi. Phải không?
Thôi giả từ Hiền vậy. Không biết gởi một lời chúc nào cho hợp đây. Thôi thì hãy khỏe mạnh, lúc nào cũng khỏe mạnh nghe Hiền. Lan.
TB. Khi tôi mang cái hộp về Việt Nam. Cháu nó vẫn nghĩ là tôi chỉ viết cho Hiền thôi và sẽ tìm cách gởi hết cho Hiền. Nó bảo “ Mẹ chỉ cần gởi cho cậu cái đầu tiên và cái sắp viết là đủ. Mẹ cần phải để lại một phần cho mẹ” Con tôi nói đúng và tôi gởi cho Hiền hai thư thôi. Những cái còn lại, dù viết cho Hiền hay cho ai, thì cũng chỉ là tôi viết cho tôi và tôi đã… đốt bỏ. Ngần ấy năm tôi sống bằng hình ảnh của Hiền với những lần tự diễn, tự nghe, tự xem và tự… nhớ. Tiếc rằng những thứ này không gởi được. Lạ nhỉ, rốt cuộc những cái gì mà tôi gởi được cho Hiền đều viết ở Việt Nam.
Còn một việc nữa. Tôi xin Hiền hãy tha thứ cho chúng tôi. Tôi và chị Huyền. Chúng tôi mỗi người có một cách riêng của mình để mà tỏ lộ với Hiền. Chị Huyền có nói với tôi “ Tay nhóc này, yêu hắn thì tuyệt cú mèo, nhưng ở với hắn thì đói nhăn răng và… tức chết “. Có thể chị Huyền nói đúng. Nhưng chúng tôi lại luôn tơ tưởng về Hiền và cũng biết, đấy là một điều kỳ cục, thế mà lại được chúng tôi gọi là tình yêu. Ấy thế mà nó đúng. Hiền xem, thế có chết không? Nhưng dù sao, thì Hiền đang đọc những giòng này trong một điều kiện mà chúng tôi rất yên tâm. Tôi luôn luôn nghĩ thế, dù không có một tin tức gì của Hiền. Hãy tha lỗi cho chúng tôi. Tôi yêu Hiền mà. Nhất là khi về lại Việt Nam. Nhưng để làm gì nhỉ? Ngoài ra còn một điều nữa cũng cần phải nói ra, điều này có thể làm cho Hiền buồn. Thật ra thì Hiền không phải là người có phong độ trên trung bình. Nhưng tôi và có lẽ cả chị Huyền đều không thể nào xua đuổi Hiền ra khỏi lòng mình được. Phải công nhận là Hiền… lỳ thật. Khi chấm dứt những giòng này. Ngày mai mẹ con, bà cháu chúng tôi lại về bên ấy và có thể…
Bức thư được viết với những ý nghĩ có vẻ như chấp vá. Có lẽ vì gấp gáp, vì xúc cảm hay gì gì nữa… Nhưng bên trong ẩn chứa biết bao điều buồn tủi. Để rồi phần tái bút dài ngoằng, rồi kết thúc bởi giọng điệu của một bà chị cả làm cho tôi buồn cười, nhưng đúng. Dưới mắt Lan tôi luôn luôn là một hình ảnh của ba mươi năm trước. Nghĩa là tôi vẫn trẻ con, luôn luôn lạ lẫm trước thân thể đàn bà. Nhìn ngắm, khám phá, táy máy chân tay trên thân thể ấy là một điều kỳ thú đã làm tôi mãi mãi trẻ con cho đến tận bây giờ. Chị khẳng định cho tôi biết rằng chị rời bỏ tôi là đúng. Tôi không chịu thế là vì tôi sĩ diện với một cái tôi mỏnh manh, mơ hồ. Nhưng thôi. Có mấy ai được như tôi. Đã qua rồi cái tuổi năm mươi mà vẫn như là trẻ con trên mọi nẻo đường đi qua cuộc đời. Thảo nào đến tuổi này mà tóc vẫn còn xanh. Để lại cái thư vào hộp và đầu óc tôi thì bồng bềnh, bồng bềnh với những gì Lan viết, bồng bềnh với những thông tin báo cho tôi biết là Thu Huyền luôn luôn để mắt đến tôi. Chiếc xe chạy thế nào thì tôi không biết. Chứ riêng tôi về đến nhà với cái cảm giác bị cơn gió lùa vào quá khứ. Họ chăm chăm vào tôi để làm gì nhỉ? Chẳng lẽ trên đời này chẳng có một người nào cho riêng họ. Hay là cái hậu quả mà tôi đã gây ra bởi cái trò táy máy tay chân như lời của bác sĩ Lê.
Trời bắt đầu se lạnh và tôi bị mất phương hướng trong công việc hàng ngày. Dù rằng đây là thời điểm mà công việc nhiều nhất trong năm. Tôi không hiểu mình cư xử như thế có đúng không. Sự quên đi hay nhớ lại đều quá khó khăn.
Hình ảnh Thu Huyền trong cái dáng vẻ đường bệ của một người có cuộc sống đầy đủ làm cho tôi yên tâm. Nhưng mái tóc trắng phau kia. Cái gì khiến nó trở thành như thế? Thời gian hay là nỗi bi phẫn của cuộc đời? Hay là vì lo lắng chuyện kiếm chồng nên bạc tóc như lời chị ấy nói?! Nhưng gì thì gì, nó cũng làm tôi bất nhẫn. Xét cho cùng thì không phải lỗi này là do tôi. Khi nhớ lại những ly rượu trong đêm tái ngộ đã làm cho tôi sảng khoái, dù rằng những gì chúng tôi nói với nhau chỉ là sản phẩm của cơn say và nỗi ngậm ngùi. Tôi biết chị ấy mượn việc viết thuê, cả chuyện tình yêu nữa, để đùa với những cảnh đời ngược ngạo, hay chí ít ra là với tôi. Cuộc sống của chị ấy bây giờ không nhất thiết phải làm việc ấy. Nếu như cần phải viết, thì chị viết một cái gì đó cho chính mình. Tôi tin như vậy. Trò chơi chữ nghĩa bao nhiêu năm ít ra cũng làm cho tôi được một nửa lần vui, khi đọc cho chị ấy nghe đôi bài thơ bất chợt bằng một thể thơ mình thích mà chỉ sử dụng có đôi lần. Một lần nữa tôi lại gây thêm hệ lụy, mà lúc đó cái tính lơ đễnh của tôi trổi dậy, hay là tôi nghĩ rằng cái hệ lụy này không đủ lực hay đúng hơn không đủ thời gian để tác động vào tôi. Nhưng tôi đã lầm khi nhận được hai cuộn băng ghi âm mà con gái Thu Huyền mang xuống Rạch Giá, tìm đến tiệm vẽ trao tận tay cho tôi. Một lần nữa tôi không biết tại sao chị ấy có địa chỉ và tại sao chị ấy lại làm thế. Cô bé trông dịu dàng, hiền thục gần gấp đôi lẽ thường. Có lẽ những thứ khát khao mà chị ấy muốn có, đã được dành lại và trao hết cho con.
Tôi đưa cô bé đi ăn và thăm thú vòng vòng thị xã và chỉ cho cháu nơi mà Thu Huyền đã đến và đứng chờ tôi. Khi từ giả nhau ở cổng khách sạn. Bằng cái giọng láu lỉnh đến không ngờ, cô bé có nói với tôi một câu làm cho tôi lặng người:
- Mẹ nói rất nhiều về cậu. Nhất là từ khi bất ngờ gặp lại cậu. Nhiều đến độ cháu băn khoăn, không biết cháu là con của cậu hay của ba cháu. Cậu đừng cười, hình ảnh của người cha trong cháu rất mờ nhạt, ngoài một tấm ảnh không ra làm sao cả. Hôm cậu và mẹ ngồi ăn uống với nhau, cháu ở bên ngoài chứng kiến, rồi khi nghe lại mấy cuồn băng cộng thêm những gì mẹ nói. Bổng nhiên cháu nhận ra một cảm giác rất lạ. Nhưng thực tế thì không phải như vậy? Phải không cậu.
Tôi nhói cả lòng. Ơi trời ơi. Mấy thằng cha bỏ rơi, bỏ rớt con mình có hiểu thấu được điều này không. Tôi im lặng nhìn cô bé và im lặng xét nét vị trí của tôi với những đứa con mình. Cô bé lại tiếp:
- Sáng mai cháu về sớm, chuyến xe hai giờ. Cậu không phải tiễn cháu. Khi nào cậu lên Sài Gòn cậu nhớ ghé thăm mẹ. Cháu dạy cho con của cháu kêu cậu bằng ông ngoại.
Tôi vô cùng kinh ngạc:
- Ông ngoại. Đây là ý của mẹ cháu hay của cháu?
Con bé lại cười :
- Của con cháu. Thằng nhóc cứ hỏi mẹ cháu hoài “ Bà ngoại ơi. Ai cũng có ông ngoại. Nhưng sao con lại không có”
Ôi trời ơi. Thắc mắc của trẻ con:
- Thôi được. Khi nào cậu lên Sài Gòn. Cậu sẽ ghé và bồng cháu ngoại.
- Cháu cám ơn cậu. Ngoài ra cháu còn phải cám ơn cậu một việc nữa.
- Việc gì?
- Từ ngày cậu ghé qua. Mẹ không còn nhậu nhẹt nữa. Cháu thắc mắc, lại lo cho sức khỏe của mẹ, nên cứ theo hỏi mãi. Cuối cùng mẹ bảo là từ đây mẹ chỉ uống rượu với cậu thôi. Dù biết rằng điều này rất khó. Mẹ nói uống rượu với cậu thật vui.
Thông tin này làm tôi lại nôn nao:
- Vui. Cháu nói thật chứ ?
- Vâng. Cháu thấy vậy khi nghe lại cuốn băng, rồi so sánh với những lần xỉn say của mẹ. Cũng nói cười rổn rảng. Nhưng trong những nụ cười ấy có một điều gì đó rất thoải mái, không phải là một sự che lấp. Kể cả những ngậm ngùi. Cậu hứa là thường ghé chứ?
Tôi phải suy nghĩ rất âu mới trả lời đúng ý mình:
- Cậu không dám khẳng định là thường ghé. Nhưng thuận tiện thì cậu ghé chứ ? Để xem cảm giác làm ông ngoại nó ra làm sao? Chỉ làm ông ngoại thôi. Cháu thấy thế nào?
Hai cậu cháu nhìn nhau cười. Từ giã cô bé ra về, đường phố đã thưa người qua lại, nhưng ánh đèn của phố phường Sài Gòn trong đêm tái ngộ đang chấp chóa trước mặt tôi. Lung linh, mờ ảo một kỷ niệm mà không phải ai cũng có. Tôi biết, giờ đây Thu Huyền và gia đình bé nhỏ ấy đang có những ngày tháng bình yên. Có lẽ chị ấy đang viết một cái gì đó cho mình. Vâng, cho chính mình. Với ý nghĩ này tôi dừng lại dưới bóng đèn cao áp bên đường móc trong bóp ra và đọc lại hai bài thơ mà Thu Huyền gởi kèm theo băng cassette:
Ai còn nhớ. Ai đã quên,
Con ma, thằng quỷ bồng bềnh trong yêu?
Long rong dưới ánh nắng chiều,
Lênh đênh khi bóng đêm gieo mịt mùng
Cắn nhau mà nói rằng hôn,
Để rồi không dám chung cùng với nhau.
Sóng đời lúc chậm lúc mau,
Hoa trôi, bèo dạt biết đâu mà lần.
Lối vô thường dắt bước chân,
Vào nơi cơm áo lừng khừng… tưởng quên.
Ma một bên, quỷ một bên,
Ai quên ai nhớ. Nhớ, quên làm gì?
Quên thì quên để làm chi?
Vậy thì nhớ để làm gì vậy ta?
Lối bon chen cứ vào ra,
Quên quằn quặn dạ, nhớ xa xót lòng.
Quên quên, nhớ nhớ lòng vòng,
Bao năm xoay tít mòng mòng nhớ quên.
Thu Huyền đã viết như thế cho mình và có lẽ cả cho tôi, bằng cái thứ ngôn ngữ vong mạng bất cần, nhưng làm sao mà cái ngôn ngữ ấy đủ sức để gói ghém cho kín đáo những cay cực của cuộc sống và tấm lòng. Tôi biết chắc như thế, vì chị đã gởi cho tôi. Ôi. Chỉ có một ngày cả hai dắt tay nhau dong ruỗi giữa phường phố Sài Gòn. Ôi. Cái nhớ, cái quên của chị ấy dành cho tôi như là một cơn say của một kẻ bất cần. Hương vị của rượu thì bao giờ cũng đắng, cũng cay. Nhưng cũng rất nồng nàn. Có lẽ vì thế mà chúng tôi say. Có lẽ vì thế chị ấy dành cho riêng mình và chưa bao giờ nêm nếm vào những trang viết thuê ấy một giọt nào.
Nhưng bài thơ thứ hai thì lại là những nỗi ngậm ngùi riêng. Chị đã viết cho mình. Và tôi cũng chỉ là một cái cớ.
Kỷ niệm cứ xa dần
Nhưng người thì có thật
Bóng thời gian chơi vơi
Hương thời gian chất ngất
Cuộc đời chừng ba trợn
Bèo dập gặp hoa phai
Sương bay mờ mái tóc
Rượu đầy ly ngậm ngùi
Ba mươi năm. Từ đó
Cho đến mãi bây giờ
Hai phận đời lộn xộn
Nhìn nhau. Mà ngẩn ngơ
Nhân ảnh mờ kính làn
Nâng ly lên uống càn
Mấy câu thơ đăng đắng
Đặt ly xuống. Ngâm tràn
Chuyện ngày xưa. Một thoáng
Sao dài đến hôm nay
Cho nỗi buồn thêm lớn
Thôi thì say. Cứ say.
Nhưng có lẽ những gì chị đã viết cũng chỉ minh họa cho tấm lòng mình. Nghĩ đến điều này bổng dưng tôi cảm nhận ra được tội lỗi tràn trề của mình. Sự trở lại vô tình của tôi như là một trớ trêu của số phận. Sự cay đắng của bà chúa thô Nôm Hồ Xuân Hương được chị làm dịu lại bằng một mơ ước cháy lòng của cuộc sống lứa đôi. Thu Huyền ngổ ngáo, vong mạng nhưng lại đầy nữ tính. Chị kỳ vọng gì ở tôi? Một kỳ vọng mơ hồ. Và tôi nữa. Tại sao tôi lại để cho một con người xa lạ sống trước tôi hàng ngàn năm chi phối lấy mình. Lý Thương Ẩn đã xé đôi bài thơ mình quăng vào hậu thế và cơn gió nào đùa nó xuống chấp chới ở Phương Nam, rồi vận vào Thu Huyền và tôi, hai con người ngơ ngáo như hai mảng giấy cũ mèm ráp lại nhau trong một giây phút ngậm ngùi như những giọt lệ hồng của bóng tàn đăng.
Tôi lẩn quẩn với cái ý nghĩ tự trách mình. Khi bình tỉnh lại thì tôi hiểu ra là con người ai cũng có một trái tim. Và trái tim đó khi nó rung lên thì chỉ có ông trời mà cản. Tôi không thể cản được trái tim tôi thì làm sao cản được trái tim người. Thu Huyền đanh đá, bất cần, nói năng vong mạng, sau ba mươi năm vẫn còn nhớ như in màn ăn thịt chó uống rượu Tây. Lan đằm thắm dịu dàng, dấu kín kỷ niệm, dàn trải cõi lòng trong hai lá thư với những lời lẽ mà tôi không sao hiểu nổi. Họ có đùa giỡn với tôi chăng? Nếu như có, thì cú giỡn chơi này quả là hay thật, mà cũng ác thật. Nhưng thôi, bây giờ cả hai cũng có cho mình một cuộc sống an toàn và chút ít rảnh rang để ngẫm nghĩ rồi vui buồn cùng kỷ niệm và cũng có thể mơ màng một tí gì đó cho tương lai, dù cái tương lai ấy không còn dài lắm, và chẳng hứa hẹn một điều gì. Thôi hãy cầu thời gian làm cái công việc của mình hiệu quả hơn. Nhưng với tôi coi bộ cũng không dễ lắm đâu? Vì dù sao tôi vẫn còn mê hát bộ, vẫn khoái thịt chó và lắm thứ lu bu lang bang khác.
Không biết phải làm gì. Trong khi công việc thì cứ quấn lấy người, mà đầu óc thì cứ rối nùi. Và cũng như mọi lần. Tôi quảy cây đàn lên vai. Trèo lên xe chạy long rong về hướng Minh Lương. Mong tìm một cánh đồng và một khung trời nào đó đỡ chật chội hơn. Nhưng suốt một quảng đường gần hai mươi cây số. Ruộng đồng bị che khuất bởi ngổn ngang gạch đá của những ngôi nhà xây dựng dở dang. Những ngôi nhà xây xong thì kiểu dáng kệch cỡm trộn lẫn trong những hoa hòe hoa sói, diện tích xây dựng thì nhiều nhưng diện tích sử dụng thì đầy bất cập. Muốn thoát, mà cũng không thoát được, đường sá mịt mù cát bụi, khói xe. Phải qua khỏi cầu Bơ He, tôi mới nhìn thấy được những khoảng đồng xanh, nhưng cũng bị ngắt khúc đến tội nghiệp. Lác đác những mảnh ruộng xanh màu được cắm tấm bảng thí điểm một giống luá mới, cây trồng mới, nhưng đó đây lại xuất hiện khá nhiều những tấm bảng cũng như thế nhưng nội dung là rao bán đất. Sự khác nhau của những tấm bảng này thì đã quá rõ, nhưng bên trong tấm lòng của người rao bán đất thì là gì? Vì muốn đổi đời, vì nợ nần, vì đau yếu hay… Nhưng dù gì thì khi bứt ra khỏi mảnh đất phủ kín bao lượt dấu chân mình quả là một điều không sao hiểu nổi. Đi tìm được một thoáng gió lành cho đầu óc giản ra thì tôi lại nhét vào những quan hoài cho chuyện của người ta. Nhưng may mà chỉ một thoáng thôi. Tôi chạy mãi, chạy mãi, miệng hát nho nhỏ những bài ca mình thích. Đến khi qua khỏi Đường Xuồng. Nắng lên khá cao, tôi tìm một bóng râm của một gốc cây ven đường. Dừng xe lại, tôi ngồi tựa lên yên xe. Hít thật đầy buồng phổi cái không khí tuyệt vời giữa cái nắng tháng chín rực rỡ. Những cơn gió mang màu xanh bạt ngàn của lúa đang làm đồng xô ập vào tôi. “Về thôn xưa ta hát khúc hoan ca. Ngọt hương lúa tình quê thêm mặn mà. Dào dạt bao niềm thương bên mái lá… “[vi] Bài hát vang lên trong đầu tôi. Tôi lấy vội cây đàn, vừa đàn vừa hát. Tiếng hát được cơn gió mang đi và tôi hát mãi, hát mãi…Tôi có cảm tưởng như nắng gió và bầu trời xanh kia như chậm lại và cùng tôi chia sẻ nỗi lòng. Khi không còn hát được nữa. Thì từ trong tấm lòng tôi theo hai bàn tay chạy trên những sợi dây đàn. Những giai điệu thoát đi từ một tâm hồn nhẹ hẩng, bật thành những âm thanh sôi nổi, nhưng rất đỗi dịu dàng và cứ thế cho đến lúc cái cảm giác đau buốt ở những đầu ngón tay làm cho tôi ngừng lại. Nhưng những âm thanh ấy thì vẫn đang hòa quyện đâu đó trong gió, trong lòng, trong màu xanh dập dềnh của lúa. Tôi nằm xuống lớp cỏ xanh ven đường, một cảm giác mát rượi lan dần qua lớp áo. Kê hai bàn tay dưới ót, tôi nhìn lên quảng trời xanh lồng lộng. Những áng mây lững lờ trôi, nhẹ nhàng, từ tốn, không âu lo. Những hệ lụy và bao nhiêu khốn khó của tôi đã được quảng trời mênh mông vô tận ấy mang đi. Không hiểu có làm vẩn đục chút nào cái tinh khiết tuyệt vời kia không? Tôi nhắm mắt lại và chìm trong yên tĩnh.
Trên đường về, ngang qua Đường Xuồng nhìn thấy con đường tẻ dẫn về quê hương nhỏ xíu của tôi. Tôi tần ngần, muốn về lại quê thăm mộ ba tôi, nhưng tôi không thể bỏ nhà qua đêm. Tôi ghé lại quán café tìm ly nước uống, mong gặp một người quen. Nhưng giờ này chắc không ai có chuyện gì đến phải ra đây. Uống một ly nước, ngồi ngó quanh quanh trông vời quê cũ. Ôi. “nhật mộ hương quan hà xứ thị[vii] “. Bổng đâu cái bóng dáng mịt mờ không rõ mặt, chấp chới trong ánh nắng chiều. Mập mập, tròn tròn với cái khăn choàng tắm trên đầu. Vóc dáng thì hiển hiện rõ ràng nhưng khuôn mặt thì tôi không thể nào mường tượng nổi. Hình bóng chấp chới ấy thì nguyên vẹn nhưng khung cảnh thì luôn luôn thay đổi. Tôi ngửi được một cái mùi gì đó rất thân quen, rất dễ chịu, nhưng không thể nào biết đó là cái mùi gì?
Tôi phải thật chú tâm và cố trấn áp cái cảm giác bồng bềnh vì sảng khoái. Để trở về trên quảng đường gần ba mươi cây số, đầy ngập ánh nắng chiều và cơn gió xanh màu lúa non đang đầy ngập trong tôi.
Cuộc sống hiện đại làm cho tôi chóng mặt. Muốn tìm một nơi mình thích không dễ dàng gì. Phải chạy đi, chạy về hơn ba mươi cây số trên con đường đầy bụi trần ai?! Nhưng dù sao cũng tìm được. Đã qua rồi thời binh lửa. Nhưng cái màu bình yên coi bộ tô vẽ chẳng những chưa xong, mà còn gây ra lắm lôm côm bởi những người thợ tay nghề còn chưa cao lắm. Nghĩa là còn chút nhiệt tình nhưng chưa được khôn ngoan (!?). Và tôi lại phải đi tìm cho mình những phút giây bình yên hơi vất vả. Nhưng như vậy mới thú. Tôi chẳng đã từng nổi cơn khùng rủ anh Tư Lụa xuống chiếc vỏ vọt, với thức nhắm, rượu, cả mùng mền chiếu gối. Rồi chạy suốt giòng sông Cái Lớn luôn mấy ngày, chỉ để vừa nhâm nhi vừa nhìn ngắm giòng sông dưới ánh trăng ảo diệu, dưới ánh nắng rực rỡ của bình minh, dưới sâu lắng của chiều tàn và tiếng thì thào miên viễn của hai vệt lá dừa nước xanh mướt ven sông? Bổng dưng tôi buồn cười khi nhớ lại một trong những lần rong chơi đó. Tôi viết tặng cho anh Tư Lụa hai câu thơ chữ Hán, khi cả hai ngồi nhậu và nhìn xuồng ghe, tàu bè qua lại trên sông:
Giang thượng bách chu hành cấp cấp.
Lợi danh châu bất kiến nhàn châu.[viii]
Anh trợn mắt nhìn tôi và khi tôi giải nghĩa xong thì anh cười ngất rồi phán một câu làm tôi cười theo:
- Tôi dốt thấy bà mà chú chơi tôi kiểu này thì đến khổ cho tôi. Nhưng thôi, nếu chú muốn thấy chiếc đò chở nhàn thì cách tốt nhất chú nên mượn cái vỏ vọt của tôi mà chạy một mình. Bởi vì, tôi mà chạy cho chú thì có mang theo cái lợi là được chú trả tiền thuê còn được chú bao ăn, bao nhậu. Mà nếu không như vậy thì chú không chịu.
Ôi cái nhàn nhã của đời người nó ít ỏi và khó tìm đến thế ư?
Tôi trở lại với những công việc của mình với sự yên tĩnh vừa tìm được. Vợ tôi thì quá quen với những bất thường của tôi. Những mẫn cảm với cuộc sống đã làm tôi trở thành một người như thế đấy. Vợ tôi hiểu mà cũng như không hiểu những gì rối rắm trong tôi. Cô ấy chịu đựng, nhẫn nại với những bất thường của tôi và nhẫn nại với bệnh tật và tính cố chấp của mình.
Tôi đã có thể mua được sách từ khá lâu. Trước kia, mỗi tháng dăm ba cuốn. Nay thì có thể nhiều hơn. Với mơ ước có vẻ bộn bề, nên sách tôi mua hầu hết là sách lịch sử và văn học, thi ca. Thế nên chẳng phải chọn. Mà sự lựa chọn thì tôi lại không quen. Với lại tôi nghĩ, đã viết sách thì phải nghiêm túc. Nhất là sách lịch sử. Thế nên, tôi dính khá nhiều bộ sách làm cho tôi bực bội. Đại loại như bộ sách Danh nhân Đất Việt. Bộ sách viết theo dạng dã sử, nhưng có những cứ liệu hẵn hoi. Được các tác giả trình bày khá hấp dẫn. Nói chung thì bộ sách cũng cung cấp cho tôi một số tư liệu và những cảm nhận lịch sử rất hay. Nhưng lại có một cái nhìn đầy tính áp đặt, nếu không quá khích thì cũng tức cười. Nhất là tác giả Văn Lang. Và đỉnh điểm của nó là truyện Phan Bá Vành của ông. Nói chung thì những gì ông Văn Lang viết thì quá rõ. Dưới mắt ông, thì tất cả các triều đại phong kiến, nhất là triều đình nhà Nguyễn, đều là bỏ đi. Nếu có ông vua nào không thể vặn vẹo được thì ông ta lại hồ hởi khoác lên người ông vua đó một cái áo nhân dân. Trở lại truyện Phan Bá Vành thì sự bôi bác đã hết chỗ nói. Trong truyện, có đoạn viết về vua Minh Mạng như sau “ Vua Minh Mệnh từ khu hồ sen, trong cấm cung theo đường hồi lang vào nghĩ ở vườn Thư Quang. Tên vua thứ hai (ôi Trời) của triều Nguyễn này vừa làm xong cái công việc hàng ngày mùa hè của hoàng đế; bắt cả bầy vợ hàng trăm người của y trần truồng ra tắm ở hồ sen để y ngồi xem. Minh Mệnh bần thần có ý không vui; Hoàng đế vừa chợt thấy trong đám vợ của y đã nhiều người có dáng quá tuổi đôi mươi! Loay hoay với điều ám ảnh ấy, chợt thấy quan Thượng bảo khanh Hoàng Quýnh đã kính cẩn chực sẵn ở thềm điện“ [ix] Đọc xong đoạn này tôi tá hỏa. Đến khi bình tỉnh lại thì tôi nổi nóng. Đúng là ngu như chó. Mà không biết là ông ta ngu hay tôi ngu. Ai thấy cảnh này? Quan Thượng bảo khanh Hoàng Quýnh chăng? Cho kẹo một ông quan nhát gan và nịnh nọt này cũng chẳng dám hé mắt nhìn, thì làm sao dám hé môi mà nói lại với ai. Dù có xảy ra hay không có xảy ra. Vào thời điểm đó, ai dám ghi lại cái hoạt cảnh “trời thần” này vào giấy trắng mực đen. Và hơn trăm năm sau, dựa vào đâu tác giả Văn Lang biết như thế và viết như thế. Ngoài ra toàn bộ câu chuyện, tác giả đã suy luận theo kiểu của mình, rồi cường điệu quá đáng một số tư liệu lịch sử nhằm mục đích thóa mạ, bôi bác tất tần tật cả một chế độ và toàn bộ vua quan triều Nguyễn, nhất là vua Minh Mạng, kể cả “một bầy quan tướng “[x]bằng giọng điệu của một tên du thủ, du thực. Một chế độ như thế mà tồn tại hơn một thế kỷ ư? Ông Văn Lang quên đi mục đích của ông là muốn giáo dục cho thanh niên một quan điểm, một phong cách sống tốt đẹp hơn, thông qua việc tái hiện lại một nhân vật lịch sử bằng văn học. Nhưng viết kiểu này đúng là láo thật. Tại sao ông Văn Lang lại sử dụng luận điệu của một tâm hồn chất chứa thù hằn vô lối, chẳng lẽ ông Văn Lang lại có một tâm địa đen tối, nhỏ nhen đến thế ư? Mà tôi biết ông có phải thế đâu. Thiếu gì cách để phê phán những sai lầm của các nhân vật lịch sử. Tại sao ông Văn Lang lại phải chọn một lối viết như thế? Tại sao lại dựng nên một sự kiện vu khống bẩn thỉu như thế? Người ta cố tình bôi tro trát trấu vào quá khứ nhằm mục đích tô hồng cho một hiện tại, mà hiện tại thì họ không đủ nước sơn. Mà nói một cách đúng hơn là hiện tại này đâu cần phải tô hồng.
Và tôi cũng hoàn toàn không hiểu Phan Bá Vành có công lao gì cho đất nước này? Khi mà bản thân cũng chỉ là một tên du thủ du thực, một người hiếu sát, toan giết Hai Đương, một thủ hạ, vì lỗi thua trận để lấy uy mà không cần biết lẽ thắng thua trong binh pháp. Hơn nữa, cũng là loại háo sắc, đến độ phải vong mạng dưới tay của một mụ đàn bà. Mới có một tí đỉnh quyền lực thì đã vợ đôi, vợ ba. Giết cha, bắt con làm vợ lẽ. Đây là một cái họa sát thân mà ai cũng biết. Chẳng lẽ anh hùng thì không? Đang tính toan chuyện sống chết mà tơ tưởng đến vợ bé ở trong chòi. Người như thế mà anh hùng là anh hùng ở chỗ nào? Đã vậy còn cấu kết với bọn phỉ Tàu, thực dân Tây. Ấy vậy mà Văn Lang cho là một anh hùng. Ông Văn Lang có biết chăng cái nguyên nhân cuộc nổi loạn của Phan Bá Vành là do thế lực của mấy ông Tây mũi lõ yễm trợ. Một người như thế, nếu đứng đầu một chính quyền thì điều gì sẽ xảy ra.
Thế là ý đồ của câu chuyện đã rõ. Văn Lang không quan tâm gì lắm đến việc truyền đạt một tư tưởng phản kháng vì bị áp bức bóc lột. Từ nhân vật Phan Bá Vành là có thật, những tình tiết mà ông Văn Lang đưa ra về nhân vật này trong câu chuyện chưa chắc là có thật trong lịch sử. Mục đích trên hết của ông là muốn bêu rếu vua Minh Mạng, hay nói đúng hơn là của triều đại phong kiến nhà Nguyễn. Ông Văn Lang đã quên những gì được ông viết ra không phải là lời nói gió bay mà là một tập sách mang tính giáo dục hẵn hoi.
Không hiểu, khi có chú nhóc nào đó, chỉ thẳng vào mặt ông Văn Lang mà nói một câu thế này “Ê. Văn Lang. Mày viết cái cụ địt gì thế?“. Không hiểu, ông ta nghĩ sao về cái kiểu cách ăn nói hỗn láo, na ná như ông ta viết về vua Minh Mạng? Nhưng có lẽ điều ấy không bao giờ xảy ra. Bởi vì, một chú nhóc nói một câu như thế thì rất ít có khả năng hoặc thậm chí chưa đọc sách Sử bao giờ, mà đã không đọc thì có lý do gì phải nói thế. Còn trái lại, thì chú nhóc ấy sẽ ăn nói đàng hoàng hơn, tất nhiên là sâu cay hơn. Cũng may, sách xuất bản không nhiều. Một, hai ngàn bản gì đó cho mỗi lần in.
Tôi bị chựng lại với thú đọc sách. Vẫn phải mua, không mua lấy gì đọc? Nhưng việc chọn sách lại quá khó khăn. Sách lúc này nhiều đến phát ngộp, mà tiền thì ít thôi, cho nên không thể mua một quyển sách làm cho mình bực bội. Vậy mà vẫn lầm. Đó là chưa kể, khi con cháu đọc được thì sinh chuyện.
Nhưng rồi cũng tới. Một đứa cháu của tôi đang học lớp mười một, cháu đọc được đoạn này, cháu hỏi tôi:
- Bác hai ơi. Ông vua Minh Mạng như vậy đó hả bác?
- Con thấy sao?
- Chắc không có đâu bác. Làm vua, thì dù có bầy hầy cách mấy thì cũng phải biết giữ gìn thể diện. Với lại vua Minh Mạng dù là một ông vua bảo thủ, nhưng được học hành đàng hoàng, rất chuộng Nho Giáo. Tuân thủ nghiêm nhặt đạo lý thánh hiền. Một người thừa hưởng một nền giáo dục tốt như thế, có một trình độ và hành xử uyên bác vị trí của mình, thì không thể nào vua Minh Mạng lại có một hành động như vậy. Mà nếu giả như có làm thì cũng không ai biết và nếu ai có biết thì… Ngoài ra, vua Minh Mạng cũng là ông vua tài ba, đảm lược nhất triều Nguyễn. Thời của ông, dù có rối ren đấy, nhưng đất nước phát triển rất nhiều mặt và cũng là giai đoạn duy nhất trong lịch sử đất nước có lãnh thổ rộng nhất. Được các nước phương tây đánh giá là một chánh quyền mạnh nhất khu vực Đông Nam Á. Con thấy những nhận định về vua Minh Mạng đầy rẫy những mâu thuẫn. Họ làm thế để làm gì ? Bác hai có biết không? Nói cho con nghe đi.
Tôi nhìn cháu mình mà không biết trả lời ra sao nên hỏi lại:
- Con đọc được ở đâu mà biết được như thế. Ở trường đâu có dạy cho con như thế.
- Sách của bác hai toàn là lịch sử với văn học không?
Tôi nhìn cháu tôi. Thì ra con bé đọc sách của tôi:
- Con đọc hết sách của bác à? Nhưng con có biết là vua Minh Mạng cũng có những sai lầm nhất định. Con nói mâu thuẫn là thế nào?
Con bé lại cười lém:
- Thì bác nói. Mua sách là để cho con cháu đọc mà. Con mới đọc được một ít hà. Còn việc ông vua mà sai lầm thì cũng thường thôi. Ai mà không thế. Mọi hành vi của bất cứ ai, dù đúng dù sai cũng phải theo một trình tự nào đó. Chứ đâu phải là muốn đúng, muốn sai thì làm đại. Con nghĩ, đánh giá một ông vua không có nghĩa là đánh giá một cá nhân mà là đánh giá một giai đoạn lịch sử mà ông vua ấy trị vì. Nếu đánh giá như thế mà chỉ chăm chăm moi móc vào hành vi, tính khí của một cá nhân là hoàn toàn vô lý. Huống gì đây lại là một lập luận được trình bày bằng một ngữ điệu mang tính mạt sát, đưa ra một sự kiện thiếu tính thuyết phục. Đã thế, còn bày đặt trưng ra các chứng cứ mơ hồ.
Tôi không ngờ cháu tôi lại lập luận như thế. Tôi nghĩ thầm “Mình có trò vui rồi đây”:
- Chà. Con học ở đâu cái lối lập luận to tát thế? Vậy theo con, việc này ra làm sao?
- Chắc tại ghét nên nói cho đã miệng. Chẳng cần biết đúng sai, như con nít chửi lộn. Con thấy ông này hình như không ưa triều đại nhà Nguyễn.
- Thế thì những người đó đúng sai không theo trình tự nào à?
- Có chớ bác. Vì hoàn cảnh tác động hay tự thân họ. Đúng hay sai của họ đều có mục đích rõ ràng mà. Còn việc một ông vua có nhiều vợ thì ở đâu mà không có. Con không bênh vực chuyện đa thê hay nhiều chuyện khác nữa. Nhưng trong một giai đoạn lịch sử nào đó lại một điều hoàn toàn phù hợp. Hãy hiểu lịch sử đúng theo những gì đã xảy ra và thời điểm xảy ra. Viết sử theo kiểu này là có mục đích riêng mà quên đi mục đích chính thống mà người viết sử phải tôn trọng, đó sự thật
- Mục đích gì? Nếu không là Sự Thật. Tôi ngạc nhiên.
Con bé nhìn tôi:
- Bác hai biết mà còn hỏi con. Tại sao vua Lê Thánh Tôn, chết vì tay hoàng hậu Trường Lạc mà không nghe ai nhắc tới. Mà nguyên nhân dẫn đến việc này là do tính khí quá thích đàn bà. Điều này đã được các sử quan nhà Lê ghi trong Đại Việt sử ký đàng hoàng mà. Đây cũng là sự thật. Tất nhiên, con không dại gì đi bới móc chuyện riêng tư của các bậc tiền nhân. Đây là một vấn đề tế nhị mang tính thể diện quốc gia. Nhưng tại sao lại viết về vua Minh Mạng như thế. Điều này làm cho con khó chịu.
Tôi nhìn cháu tôi, nó còn bé quá, mà nhận xét của của nó thì xem ra không bé chút nào. Nhưng cái kết luận của nó thì quả là hay. Tuyệt hay. Tôi đã kể lại và đưa ra lập luận của mình bằng một ngôn ngữ mà tôi phê phán. Còn cháu tôi thì đơn giản và trong suốt, “Hãy hiểu lịch sử đúng theo những gì đã xảy ra” Tôi đành nói với cháu:
- Thôi con. Lịch sử bao giờ cũng thế. Có nửa phần sự thật thấy được, nửa phần không thấy được. Nửa phần không thấy được là để dành cho người ta suy luận theo cái kiểu của mình. Trong đó có bác cháu mình. Mà cuộc đời thì năm người, mười ý.
Con bé tròn mắt nhìn tôi. Phải thôi. Tuổi trẻ bao giờ cũng rạch ròi đen trắng. Chứ làm sao mà có cái kiểu xám tro? Còn với tôi, chắc nó nghĩ một trong hai điều sau đây: một là, bác hai khó hiểu; hai là, bác hai chạm mạch.
Ôi. Không hiểu từ bao giờ. Không riêng vì ở Việt Nam, mà ở các quốc gia khác cũng thế. Người ta viết Sử chỉ ghi lại một bộ phận rất nhỏ trong quá trình lịch sử của một dân tộc. Đó là bộ phận quyền lực. Những ông vua, bà chúa và cái triều đại của họ. Chưa thấy một bộ lịch sử nào ghi lại quá trình tiến hóa của một dân tộc. Vào năm nào? Ai là người tìm ra hạt lúa. Vào năm nào? Ai là người có công phát minh ra cây cuốc, cây cày. Vào năm nào? Ai là người hoàn thiện được cái này, ai khám phá ra cái kia. Những quyển sách như Lịch Sử Văn Minh Trung Quốc. Lịch Sử Văn Minh Ấn Độ của Will Durant chỉ là sách đọc tham khảo chớ chưa là sách giáo khoa. À mà tại sao lại không có một Lịch Sử Văn Minh Việt Nam nhỉ? Tại sao lại phải chờ ông Will Durant.
Tùy theo quan điểm, lá gan của người viết sử mà làm nên mức độ khách quan và chân thật. Nói đến điều này chắc lại phải chờ ông Will Durant. Nhưng hiện tại, người ta xoay qua, lật lại những nấm mồ. Người ta thêm vào, bớt ra để bôi tro trát trấu, hay để trét phấn tô son cho một nhân vật mà lúc đương thời được cho là minh quân, lương tướng hay tặc tử, loạn thần. Tất cả những trang sử được viết không nhằm mục đích để ghi lại trung thực một sự kiện, một quá trình lịch sử mà chỉ dựa vào đó để củng cố cho những quan điểm mơ hồ của hiện tại. Ôi. Lịch sử chỉ là một con thuyền để cho người ta lái và tha hồ mà quẹo qua, quẹo lại trên một giòng sông chỉ có hai bến bờ hư ảo. Và trong lúc mòn mỏi, lênh đênh ấy, người ta vớ vào Phan Bá Vành, Lê Duy Lương, Nùng văn Vân, Lê văn Khôi… để làm thành một cái phao khởi nghĩa nông dân, từ đó làm thành một điểm tựa cho một giai cấp hiện tại. Họ phủ nhận một triều đại đã làm cho đất nước rộng thêm, mạnh thêm và giàu thêm trong quá khứ. Họ đâu có biết rằng những con người, mà họ phong cho cái mác Lãnh Tụ Nông Dân Khởi Nghĩa, là sản phẩm còn sót lại của một quá trình lịch sử mấy trăm năm đầy loạn lạc, cát cứ, phân liệt. Những con người đó, vì muốn làm ông làm cha thiên hạ nên họ không còn một khái niệm thống nhất đất nước trong đầu. Họ bỏ qua một mầm mống cát cứ được hình thành ngay trong những ngày đầu khởi nghiệp của nhà Nguyễn Tây Sơn. Họ tựa vào hai chiến công lẫm liệt hào hùng trong lịch sử là việc đánh tan tành đoàn quân xâm lược Xiêm La và sau đó là hai mươi vạn quân xâm lược Mãn Thanh. Họ quên rằng, nếu như vua Quang Trung sống thọ hơn thêm hai mươi năm nữa thì điều gì sẽ xảy ra. Chắc chắn nó sẽ tàn khốc hơn nhiều cuộc chiến tranh giành lại vương quyền của Nguyễn Gia Long. Họ quên những thế lực ngoại bang, lúc này còn thêm cả các nước Tây phương đang tìm thuộc địa, làm sao mà để yên cho một triều đình, một đất nước to lớn, giàu mạnh này yên ổn. Sự thất bại của triều đại nhà Nguyễn trong việc điều hành và giữ gìn đất nước là có thật và do nhiều nguyên nhân. Trong đó có sự phá hoại lủng đoạn của ngoại bang là nguyên nhân chủ yếu. Chứ đâu phải chỉ vì quan điểm hay tài năng của cá nhân mấy ông vua. Thế thì bôi tro trát những ông vua ấy để làm gì? Tất nhiên không thể đặt Phan Bá Vành, Lê Duy Lương, Nùng văn Vân ngang hàng với vua Quang Trung. Nhưng người ta cố tình đánh đồng các vua triều Nguyễn với Mạc Đăng Dung, Lê Chiêu Thống. Chụp cho đủ cái loại mũ “rước Tây về dày mả tổ”. Rồi khi thấy không ổn lại thay bằng cái mũ “Bế quan tỏa cảng”. Cuối cùng là “đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân”. Ấy thế mà người ta làm được. Và tuổi trẻ hiện đại lại nhìn những ông vua triều Nguyễn như là một người gì nhỉ? Còn cái công lao khai hoang mở đất của các chúa Nguyễn, thống nhất một giang sơn của vua Gia Long thì không ai biết tới. Lại càng không hiểu rằng họ Nguyễn chưa bao giờ mở một cuộc chiến tranh xâm lược, mà chỉ là khai phá những gì người ta bỏ đi và gìn giữ nó, biến nó thành một giang sơn. Còn việc sử dụng những thế lực ngoại bang để giành lấy quyền lực cho mình thì việc này cần phải xét lại. Bởi đây là một điều rất ư tế nhị đối với triều đại này.
Bây giờ, thiên hạ viết sử và hiểu lịch sử như thế đó. Họ sống bằng một thứ lịch sử đầy lập luận, họ buộc tiền nhân phải làm theo ý mình mà không suy xét thêm những hành động của tiền nhân được hình thành trên hoàn cảnh nào và xuất phát từ đâu trong suy nghĩ tự thân của họ, của thời đại họ. Những người viết sử ấy làm cho hiện tại mà họ đang sống trở thành một bó đuốc, không phải để soi sáng một sự thật của quá khứ mà để soi đường cho quá khứ đi theo một hiện tại mập mờ và một tương lai được sắp đặt. Họ quên rằng điều đó làm cho họ rời xa gốc rể của mình. Và những lá cành bắt đầu héo úa. Nhưng chẳng sao, những tình tự dân tộc vẫn còn và sẽ sống mãi như đã tồn tại hơn bốn ngàn năm.
Bổng dưng tôi nhớ lời bác Chín Phước, ông Mười Can, lần gặp Bảy Huỳnh và lần cả bọn chúng tôi đi tảo mộ. Và tôi viết.
Tôi đã đi qua một thuở chiến tranh
Tôi đang đi qua một thuở hòa bình
Đang cố quên đi một thời chết chóc
Với ước vọng rằng đời trở nên xanh
Tôi đã đi qua một thuở chiến tranh
Tôi đang đi qua một thuở hòa bình
Đang cố góp tay xóa mờ đố kỵ
Để cho vầng trăng soi sáng đường tình
Tôi đã đi qua một thuở chiến tranh
Tôi đang đi qua một thuở hòa bình
Đang tập quên đi những điều không thật
Để đường về quê rợp bóng cây xanh
Tôi đã đi qua một thuở chiến tranh
Tôi đang đi qua một thuở hòa bình
Đang tập tành làm những điều đẹp đẽ
Để gió chướng về háo hức hoa xuân
Tôi đã đi qua một thuở chiến tranh
Tôi đang đi qua một thuở hòa bình
Bao nhiêu năm rồi. Đêm nay chén rượu
Nhớ lại bạn bè một thuở linh đinh
Đứa mất đứa còn, đứa xa vạn dặm
Còn nhớ gì không thân phận chúng mình
Đứa chết không yên tấm thân cát bụi
Đứa sống cúi đầu ngắm vệt cỏ xanh
Tôi đã đi qua một thuở chiến tranh
Tôi đang đi qua một thuở hòa bình
Bao nhiêu năm rồi. Đêm nay chén rượu
Một mình nâng ly đau nhói phận mình
Tôi đang đi qua một thuở hòa bình
Ba muơi năm rồi chỉ có tôi quên
Trong khi người ta vẫn luôn nhắc nhớ,
Nhắc nhớ hơn thua nhắc nhớ giận hờn
Tôi đang đi qua một thuở hòa bình
Người ta vẫn còn chưa sợ chiến tranh
Vẫn còn chưa quên những thù hận cũ
Ai sống cùng ai một thuở hòa bình
Tôi đang đi qua một thuở hòa bình
Bao nhiêu năm rồi tóc chẳng còn xanh
Nhìn thấy mọi người sống trong trắc trở
Còn nhớ hay quên một thuở hòa bình
Tôi đang đi qua một thuở hòa bình
Bao nhiêu năm rồi tóc chẳng còn xanh
Mơ ước mọi điều đều như không thật
Ai sống cùng tôi một thuở hòa bình
Tôi đang đi qua một thuở hòa bình
Bao nhiêu năm rồi tóc chẳng còn xanh
Một thuở hòa bình giở từng trang sử
Hậu sinh ghi nhiều điều quá linh tinh
Chuyện của ông cha từ ngàn năm trước
Tốt xấu đủ đầy để lại hậu sinh
Chọn để sống theo chớ đâu phải sửa
Cho đúng cho sai theo ý của mình
Tôi đang đi qua một thuở hòa bình
Trời thì vẫn xanh, cây lá vẫn xanh
Bao nhiêu năm rồi lòng tôi vàng úa
Nhìn ra cuộc đời, đời vẫn mông mênh
Khi gõ xong chữ cuối cùng. Rồi không hiểu sao tôi lại nhớ Sài Gòn. Nhớ không thể nào tả nổi. Tôi không hiểu tại sao lại thế. Hai việc hoàn toàn khác nhau mà nối tiếp nhau. Có phải chăng là phải có cái gì đó để quên bực bội. Thế là tôi lại tiếp tục gõ. Nhưng cả một nỗi nhớ mênh mang lại chỉ hiện lên một góc nhỏ mơ hồ:
MỘT GÓC SÀI GÒN
Chấp chới Sài Gòn mưa bay.
Chấp chới Sài Gòn nắng đổ,
Tôi không ở nơi đó,
Nhưng thỉnh thoảng thì có ghé qua.
Những lần đầu tiên
Ngòn ngọt phố chiều tiếng hát Sylvie.
“ Những khoảnh khắc tình yêu” sao đẹp thế,
Ôi tình yêu bạn bè và một thời rách nát
Một thời chắp vá tư duy
Chỉ thế thôi. Tôi yêu cả nơi này
Nhưng giòng đời thì cứ ạt ào sóng gió.
Tôi bập bủng lội theo và...
Sài Gòn gây nhớ,
Chấp chới cuộc đời mưa bay.
Chấp chới cuộc đời nắng đổ,
Hơn ba mươi năm. Có rất nhiều thỉnh thoảng.
Ghé về Sài Gòn với tất bật của tôi.
Những nơi muốn ghé. Không còn ai
Những dấu chân của người xưa
Và của tôi xưa.
Lầm bụi
Phường phố thì vẫn đông, vẫn vui và thêm lạ
Kỷ niệm thì thấp thoáng đâu đây
Chấp chới cuộc đời mưa bay.
Chấp chới cuộc đời nắng đổ,
“ Những khoảnh khắc tình yêu” xa biệt,
Ôi Hà Nội. Ôi Tuyết Lan. [xi]
Tiếng hát xa xôi. Quán xưa không còn.
Hỏi nắng, hỏi mưa. Nắng mưa không biết.
Nên cho riêng dăm phút ngậm ngùi.
Phố Lê Lợi.
Mênh mang buồn qua nỗi nhớ của tôi.
Công việc và những điều khác nữa, ví dụ như hai bài thơ tào lao vừa rồi, như là một hơi ấm của cuộc đời. Tất cả làm cho tôi vơi đi những bực bội không đáng có. Và tôi chắt chiu từng chút một. Từ những quan hệ làm ăn cho đến những gì bất chợt nghĩ ra hay được viết ra. Khách hàng mỗi lúc một nhiều hơn, trong số đó có những người mà tôi không ngờ mình được gặp lại. Những người quen biết cũ, họ đến với tư cách là khách hàng. Nhờ vậy mà làm cho tôi có được những cảm giác đẹp đẽ hơn, khi được tiếp xúc với họ. Những suy nghĩ đó, mà tôi không biết có tự bao giờ, đã làm cho tôi luôn quắt quay với công việc. Từ những công việc đáng làm đến cả những công việc tưởng như không đáng làm. Tôi trở thành một tên lơ mơ đầy bận rộn.
Những trang thiết bị vừa mới mua xong đã được chuyển về. Sau đó một cửa hiệu mới lên đời được khai trương. Ước mơ suốt bao nhiêu năm cật lực trèo lên tuột xuống cây thang tre đã trở thành hiện thực. Sau khi lắp đặt và vận hành thử cái máy cắt decal. Vợ chồng tôi không ngủ được. Tôi ôm vợ tôi vào lòng như để chia sẽ một niềm vui khi ước mơ đã thành hiện thực. Tôi hy vọng tìm ở đó một sự đồng cảm, nhưng cô ấy lại than trời nóng quá. Mà trời nóng thật. Rồi cả hai cũng không ngủ được, lại chui ra, lại chui vào, lại mở máy cắt thử, rồi lại đóng máy… cứ thế cho tới sáng bạch ra.
Tôi là người đầu tiên ở thị xã, trang bị cho cơ sở mình một máy cắt decal. Nhưng trong số trang thiết bị mới của tôi có một món rất quái chiêu. Cây thước Lỗ Ban. Lúc này, kích thước của bảng hiệu không còn được cân đối bằng một kích thước phù hợp với nơi đặt chúng, mà là phải theo một loại kích thước hoàn toàn lạ lẫm với những cái tên nghe rất buồn cười. Ôi mới đây thôi. Người ta coi trời bằng vung, mà bây giờ dị đoan hết mức. Tôi chợt nhớ mấy câu khẩu hiệu “Thằng trời đứng lại một bên. Để ông thủy lợi đứng trên thằng trời”. Ngộ thiệt. Còn chưa kể đến việc coi ngày, giờ, rồi cúng kiến, nhang đèn đỏ rực. Tôi đã từng được yêu cầu treo bảng vào giờ đại kiết. Hai giờ sáng. Ai đại kiết, tiểu kiết thế nào thì không biết, còn thầy trò tôi thì muốn kiết lỵ luôn. Đấy công việc và cả những thứ không phải là công việc cứ xô ập tới và tôi cứ quay mòng mòng trong ba bốn phía. Nhưng được cái là sự thiếu thốn đang dần rời xa. Tôi cũng cố chắt mót những cảm xúc, những rảnh rang ít ỏi để viết những ca khúc nhỏ, rồi tôi dạy cho con hát. Việc này thì tôi nhờ đến cây guitar và việc ký âm lại thì vô cùng cực khổ, còn về trường độ của từng nốt và sắp xếp âm hình thì không khó lắm, nhưng rồi cũng được dăm ba ca khúc nhỏ để hai cha con nghêu ngao. Một đôi ngày thì chở con vào nhà cô Út thăm bà nội của cháu. Một thứ hạnh phúc đơn giản mà chỉ có một sự yên tĩnh nhất định mới có thể cảm nhận được. Nó là hơi thở của cuộc sống. Thỉnh thoảng cha con đèo nhau chạy long rong ra phố. Tôi giải thích cho con tại sao phải tuân theo luật giao thông. Tại sao phải bỏ rác vào thùng mà không quăng vãi ra đường. Tại sao gặp người quen phải chào hỏi… Con bé thì bi bô hỏi luôn miệng. Mà tôi thì câu trả lời được, còn lắm câu thì lại tịt mù. Việc học hành của con, tôi không đủ sức và cũng không có thời giờ để giúp đỡ hay kiểm tra. Thôi đành nhắc nhở và tạo cho con ý thức học hành, thực hiện hoặc tuân thủ những việc nho nhỏ như thế.
Ông Mười Can đến thăm tôi khá bất ngờ. Nhìn thấy cơ ngơi và công việc kiếm cơm của tôi ông cười ha hả, đưa ra một nhận xét rất nhanh:
- Tao đã nói mà. Mày khó mà giàu nổi. Nhưng mày phong lưu. Mà muốn phong lưu thì phải có một dúm tiền và một dúm tài.
- Được như thế thì còn đòi gì nữa chú Mười.
- Đấy vấn đề của mày ở chỗ đó. Hỏi thật mày nghe. Mày bày biện ra lắm trò thế này mà lại nói là không muốn làm giàu, thì mày muốn làm gì?
- Không hiểu có phải là cái số hay không? Nói thật với chú. Tôi cũng muốn làm giàu đấy. Nhưng quả tình chui đầu vào chỗ khó mà giải quyết được trơn tru thì quá khoái. Nhất là khi mình giải quyết cho ai đó một khó khăn nho nhỏ.
- Và mày tìm cái khó mà chui vào?
- Chắc như vậy quá chú.
- Ngay chóc rồi chớ chắc hay không chắc gì? Nội cái chiếc xe của mày chạy tao nhìn vào mà muốn ói. Thế mà cái dàn đồ nghề của mày thì hết chê. Ê. Làm giàu cũng khó lắm nghe mậy. Tại sao chẳng chui vào. Thử xem?
- Dễ ợt chớ khó khăn gì chú: Mua giá một, bán giá hai; Làm ba tính tiền thành sáu. Cộng thêm một tí xạo sự là xong.
Ông nhìn tôi lắc đầu:
- Biết rành như vậy mà mày có làm không?
- Tập tành hoài mà hổng được chú ơi. Nói dóc nghe chơi thì ngọt giọng. Nói dóc kiếm tiền sao mà cái bảng họng hơi bị trẹo.
Ông cười to:
- Khi tao hỏi anh ba Đặng về mày. Tao nghe ông ấy nói tao lấy làm kỳ. Đến khi nhìn mày giải quyết công việc trong trại. Tao lại nghĩ anh ba Đặng nhận xét mày quá trật. Nhưng bây giờ thì… quá trúng. Thôi, từ ngày về tới giờ có ai làm khó dễ gì không ?
- Chút đỉnh thôi chú. Nhưng suy cho cùng khó hay dễ đều do mình. Mình không cự nự với người ta thì có ai rảnh rang đâu mà đi phùn mang trợ mắt với mình.
- Được thế thì hay. Nhưng tao nói cho mà nghe. Mày cũng trời đất lắm. Đừng nghĩ là tao không biết. Công An phường kêu làm cỏ, mày quăng dao bỏ đi mà còn bảo là bận đi kiếm tiền nuôi vợ, nuôi con. Ngon. Thời bao cấp mà mày chơi kiểu đó là hiu hắt ngay.
Tôi không ngờ ông cũng biết chuyện này. Tôi chưa kịp trả lời thì ông tuôn tiếp một hơi:
- Còn vụ điều tra dân số nữa nghe mậy. Nhưng thôi. Ngay thẳng được thì cứ ngay thẳng. Nhưng đừng có bướng. Làm gì thì làm, nhưng trách nhiệm với gia đình vợ con thì đừng có lơ là. Ê. Bộ vi tính dễ học lắm sao mà mày cứ gõ gõ, bấm bấm coi bộ ngon cơm vậy. Chà còn cái máy cắt nữa, cái gì mà mày bấm mấy cái, nó chạy qua, chạy lại một hồi, nó cắt chữ nghĩa y trân không sai một nét.
- Người ta chế tạo ra mới khó, chứ xài thì dễ thôi chú. Mò riết rồi cũng ra. Gõ banh chành một vài cái thì xong ngay.
Ông cười ha hả:
- Mày điên. Thôi tao ghé chơi, thăm mày một chút. Tao còn đi họp. Chắc tháng sau mày phải xuống trang trí lại nhà văn phòng của trại mới được. Nếu có kẹt tiền mua gạo cho tao hay. Tao ứng trước, mai mốt trừ lại.
- Cám ơn chú. Không tiền mua rượu thì có thể, nhưng không tiền mua gạo thì chắc là không đến đỗi như thế.
Ông nhìn tôi cười một hơi rồi bẻ ngang:
- Ê. Mầy làm thơ coi bộ mướt nét quá. Tao thì không biết gì, nhưng ai đọc thơ mày đăng trên mấy tờ báo tường cũng đều khen. Sao không gởi đăng báo, kiếm thêm.
Tôi cũng không biết nói sao với ông, đành lấp lửng:
- Chú Mười ơi. Lúc này chạy gạo muốn hụt hơi. Làm gì có thời gian mà thơ thẩn. Với lại, cái tật của tôi mà cầm cây viết lên thì viết toàn những chuyện móc họng thiên hạ. Móc ra xương thì chưa chắc đã được cám ơn. Móc trớt quớt thì vào gặp ông nữa.
- Thì coi ai mắc xương thì móc dùm.
- Không có bằng bác sĩ mà cầm kềm, cầm kẹp thì không ổn đâu chú mười ơi
Ông cười ha hả:
- Nói bỏ móc mà cũng còn khều khều. Cái tật của mày cũng hơi lớn. Mà mày biết giữ như thế hồi nào thế?
- Thì hồi ở Thứ Bảy Kinh Làng với ông.
- Mày thiệt tình. Mày nói câu này thì mày nịnh thuộc loại siêu đẳng rồi. Thôi tao về. Ráng nghe mậy. Chí thú làm ăn không bổ bề ngang cũng bổ bề dài. Tao thấy cơ sở làm ăn của mày coi được đấy. Tao còn một năm nữa về hưu. Không biết làm cái nghề ngổng gì để sống đây?
Tôi nhìn theo ông. Một đại tá công an với danh hiệu Anh Hùng Lao Động. Về hưu không biết làm gì để sống? Tôi không hiểu là ông nói đùa hay nói thật. Nhưng cái tôi biết chắc là ông ấy sẽ cảm thấy hụt hẩng, không phải vì chuyện áo cơm, mà vì chẳng biết phải làm cái chuyện gì khi mà hết cả một đời ông ấy đã nghiện cái cảnh có lắm chuyện phải làm.
Tôi cũng gặp lại ông linh mục khi ông tìm đến tiệm vẽ để đặt một số bảng biểu. Cả hai chúng tôi tròn mắt nhìn nhau và sau đó là tay bắt, mặt mừng. Thôi chuyện gì thì chuyện, cứ kéo sang quán café cái đã. Ông trông vẫn hào hoa và đẹp trai dù đã hơn hàng năm khá xa. Ông nhận xét về tôi :
- Anh vẫn ốm và đen như thường lệ. Nhưng không già đi. Tóc vẫn còn xanh mướt.
- Đổi thay mệt lắm bố ơi. Cứ thế cho nó đỡ lo.
Ông đưa tay lấy cái nón ra khỏi đầu, phô bày một mái tóc muối tiêu có hơn chín chục phần trăm là muối. Trong khi tôi còn đang ngạc nhiên. Ông nói vui vẻ:
- Đúng là anh không thay đổi thật. Vẫn cái giọng điệu như ngày nào. Anh xem tôi này. Tóc tai phải phù hợp với tuổi tác.
- Sự phù hợp? Vậy thì bố thích nghi sớm đấy. Biết những bước sắp tới ra sao mà chuẩn bị kỹ thế?
Không trả lời tôi mà ông hỏi :
- Lúc này anh làm ăn ra sao?
- Cũng được thưa bố. Bây giờ bố ở đâu?
Ông nhìn tôi mỉm cười :
- Ở đâu mà chả được. Nơi nào cũng là của mình. Hằng hà sa số Thánh. Nơi nào có Thánh là ở thôi. Ông đang nhắc lại câu tôi trả lời ông thượng tọa.
- Bố này, chuyện ấy xưa rồi mà. Bố nói thế không sợ thầy Thượng Tọa nói là bố đánh cắp bản quyền à.
Ông cả cười và hỏi tiếp:
- Đều là người tu hành mà. Có gì lại phải lo. Cái này anh sai rồi đấy. Thôi. Phần anh này. Anh thích nghi cuộc sống có suông sẽ lắm không?
- Cũng hơi rắc rối đấy bố. Nhưng sự nhẫn nại nào cũng có kết quả tốt cả. Có khác chăng là ít hay nhiều.
- Mừng cho anh. Này, anh có còn nhớ những gì anh nói lúc còn ở dưới ấy không?
- Chà. Mấy cái lập luận ba trợn ấy mà bố chưa quên à? Chẳng qua là tôi cà khịa ấy mà. Chứ có biết gì đâu?
- Thế thì những gì anh nói. Những cái đó từ đâu mà ra?
- Nói thật với bố. Tôi cũng không biết. Cũng có thể đó là phế phẩm của những con mọt sách. Bố cũng biết đấy, mối mọt là tệ hại lắm rồi, mà phế phẩm của mối mọt thì…
Ông ngắt lời tôi:
- …thì có thể khá hơn chăng? Những lập luận của anh làm cho tôi suy nghĩ mãi. Quả tình trong cuộc sống thế tục có lắm điều để suy gẫm. Tôi được học hành đàng hoàng. Nhưng kiến thức thì chỉ khu trú trong một giới hạn nhất định. Môi trường sống và tư duy của tôi nằm trong một phạm trù hoàn toàn khác với anh. Không có những lo toan phiền toái về cơm áo, gạo tiền. Thành ra khi nghe những lời anh nói làm cho tôi suy nghĩ và cũng chính vì thế mà tôi cứ tìm cách cho anh nói. Đến khi được trả tự do. Người làm tôi nhớ nhiều nhất chính là anh. Hỏi thăm hoài mà chẳng biết anh ở đâu. Bổng dưng hôm nay lại gặp. Hay thiệt.
Tôi không ngờ những lập luận ba trợn của mình lại gây phiền phức cho người khác đến thế. Tôi đành giã lã:
- Bố ơi. Hơi đâu mà bố để bụng những lời ba trợn như thế? Thú thật với bố. Những gì tôi nói chẳng qua là cãi chày, cãi cối. Sự hiểu biết của tôi trong lãnh vực này là con số không mà bố. Bố để bụng làm chi cho mệt hả bố?
Ông không trả lời tôi mà hỏi:
- Cái “vô đạo” của anh bây giờ ra sao rồi?
Tôi cười :
- Rồi, bố lại gài bẫy nữa rồi. “Vô đạo” là không theo đạo nào, chứ đâu phải là phủ nhận, phải không bố.
Ông cười:
- Đúng là anh không thay đổi. Cứ tưng tửng suốt. Những lập luận của anh có lý đấy, nhưng kiểu cách trình bày quá lôm côm. Anh có cần đi sâu thêm không. Tôi chỉ cách cho anh.
- Rất cám ơn bố. Nhưng có lẽ không còn kịp nữa rồi, dù biết rằng sự học là không bến bờ. Trước mắt xin bố cho tôi học cách làm chủ một gia đình. Chắc có lẽ hợp hơn.
Nói xong tôi mới biết mình hớ. Ông cười và nhìn thẳng vào mắt tôi:
- Anh quả là điên. Tôi mà chỉ anh cách làm chủ một gia đình thì còn ra cái non nước gì? Anh muốn tôi đóng phim “Con chim hót trong bụi mận gai” à? Cái tôi muốn giúp anh là muốn chỉ cho anh cách trình bày ý tưởng của mình một cách logic hơn, mạch lạc hơn kia. Biết đâu chừng một ngày nào đó anh trở thành nhà văn cũng nên. Nhưng quả tình khó mà thuyết phục được anh.
Tôi không biết phải nói sao và có lẽ nên trở về với công việc:
- Không sao mà bố. Dù sao bố cũng còn gặp lại tôi mà. Còn việc tôi trở thành nhà văn ư? Bố ơi. Tôi mong làm rất nhiều nhà… Nhưng chẳng có nhà nào cả. Có chăng là cái nhà chòi.
- Ái chà. Cái nhà chòi của anh sao mà…
Hốt nhiên tôi hỏi ông:
- Bố này. Xin bố đừng buồn khi tôi nói câu này. Theo tôi, trên cương vị là một người tu hành, đúng ra bố không bao giờ hỏi tôi những điều mà bố đã hỏi?
Ông nhìn tôi rồi nói một thoáng đăm chiêu:
- Chính vì vậy mà tôi nhớ anh. Đúng là tôi không nên hỏi thế. Nhưng tôi đã hỏi và anh đã trình bày những lập luận của mình. Nhưng thôi, chuyện đã qua. Chắc có lẽ trong khoảng thời gian ấy chúng mình có quá thừa thì giờ…
Tôi vội ngắt lời ông:
- Thôi. Kể như là tào lao vậy. Bây giờ tôi giúp gì được cho bố. Bố nói đi, tôi sẵn sàng.
Chúng tôi trở về tiệm vẽ, trao đổi nhau về công việc. Ông tỏ vẻ thích thú trước những trang thiết bị mới của tôi. Rồi ông thấy và chăm chú mấy giòng tôi ghi trên màn hình:
* Qua khung cửa nắng Xuân hồng đang tới
Gió Xuân nồng chấp chới mảnh rèm trong
Mùa Xuân thơm trên khuôn ngực em hồng
Thôi thì đắm vào Xuân cho phải lẽ
* Khi đắm say thì đâu còn biết nữa
Cái gì em, cái gì của mùa Xuân
Trời Xuân trong hay em cứ trắng hồng
Em thơm mát hay gió Xuân xào xạc
* Đắm đuối nhau đi vào trong hoan lạc
Mà lối này ai cưỡng lại được đâu
Xuân và chúng mình hòa lẫn trong nhau
Cơn gió cứ cười rung rinh rèm cửa
* Thì thào nắng mùa Xuân đang khe khẽ
Bướm hoa ơi hãy chấp chới thêm vào
Kẻ trong phòng đang lạc hóa cho nhau
- Mùa Xuân với chúng mình đang ân ái.
Đọc xong ông quay lại nhìn tôi:
- Anh viết?
Tôi cười ngượng nghịu:
- Vâng. Thưa bố
Ông cười:
- Những giòng này mà anh để cho thầy tu đọc thì hết nói nổi Nhưng không sao, là tại tôi vén rèm nhìn vô thế tục.
Tôi chỉ cười mà chẳng biết phải nói gì. Công việc được giải quyết nhanh chóng. Khi ra về, ông nói :
- Anh thích nghi nhanh thật. Cái máy vi tính, mà tôi mó vào chỉ đánh văn bản và chơi game. Anh có thể biết rõ ràng hơn đấy.
- Biết cái gì hả bố?
Ông nheo mắt nhìn tôi :
- Cái mà anh gọi là Tôi Không Biết ấy.
Tôi cũng không kém:
- Bây giờ tôi đã nhận ra; còn có rất nhiều… rất nhiều điều tôi không biết. Thưa bố.
- Cuối cùng thì anh không biết gì cả.
- Tất nhiên. Phải đến lúc đó thôi bố ạ. Tôi lấp lửng.
Ông nheo mắt nhìn tôi:
- Nhưng những gì tôi vừa đọc trên máy, thì anh lại biết một cách rất tận tường. Chẳng những thế còn biết làm cho nó đẹp thêm. Tình yêu mà không có thiên nhiên can dự vào thì không ổn lắm.
Tôi trố mắt nhìn ông và nghĩ thầm một ý nghĩ rất thực nhưng cũng rất bậy bạ “ Chẳng lẽ… thế tại sao ông lại nói trúng phóc vậy ta”. Cả hai nhìn nhau và cười. Tôi hiểu rằng ông chỉ nói chơi thôi. Và tôi cũng thế. Làm sao mà có ai hiểu nổi lẽ vô thường.
Tôi lại gặp ông mì gõ, khi đi lắp bảng hiệu cho một quán ăn mà chủ quán chính là ông. Ôi cái thị xã con con thế mà đã bao năm. Cũng phải thôi. Ban ngày là của tôi, ban đêm là của ông. Bây giờ ông đã có cửa nhà, có một quán ăn riêng. Nhỏ thôi, nhưng khá khang trang, có bảng hiệu đàng hoàng. Tôi vẽ bảng hiệu mà. Thằng bé con con giờ đã lớn. Tiếng xực tắc ngày nào đã đi vào quá khứ. Với tôi là mất đi những tiếng vọng tạo nên một nỗi quan hoài. Với ông ấy và thằng nhóc là bớt đi nỗi tủi buồn, cơ cực. Tôi đang mâu thuẩn chăng, khi mà muốn nghe tiếng xực tắc để những đêm mất ngủ có cái mà đỡ lòng, rồi lại mừng khi thấy người tạo ra nó thoát khỏi cảnh đèn khuya hắt hai ba bóng. Ôi tôi ơi là tôi với nhiều ước muốn tréo ngoe. Trong khi thợ thầy đang treo bảng. Ông châm trà mời tôi và ông kể cho tôi nghe về cuộc đời mình, ông nói một hơi, gần như là lâu lắm rồi không có ai để trút bầu tâm sự:
- Ông anh biết không? Quê tôi ở tuốt ngoài Tây Ninh. Cha mẹ mất sớm. Lại ở vùng xôi đậu. Anh em tứ tán chia đều cho hai phía. Hai ông anh tôi đi theo quốc gia: một chết, để lại một bầy con; một cụt giò, vợ bỏ. Tôi và cô em út theo Việt Cộng để mong ở gần nhà nhang khói cho mẹ cha. Nhưng rồi cũng chẳng có cái bàn thờ mà đặt hai cái lư hương cho đàng hoàng để đốt nhang. Bom đạn làm cho nhà cửa tanh banh. Rồi tôi thì công tác đẩy đưa. Tới ngày đất nước thống nhất, tôi được phân công ra là ở phòng Lương Thực huyện ở Cửu Long.
- Thế thì tại sao ông anh lại đi bán mì gõ?
Ông nhìn tôi và cười :
- Anh nghĩ coi. Mình dốt muốn chết, theo mấy ổng học hành biết đọc, biết viết vậy thôi. Lúc mới giải phóng. Được phân công ở đâu thì làm ở đó. Hào khí ngất trời. Nhưng cái không hiểu biết nó hại tôi, cộng thêm nữa là tính cả tin. Cứ tưởng ai cũng thật thà như mình, nên đưa gì ký ráo. Tới chừng bể chuyện thì tôi là Trưởng Phòng mà. Kho6ng bao che, đổ thừa, thẳng ruột ngựa ôm sạch. Bị ngưng sinh hoạt đảng, bị cách chức, được làm công nhân viên. Không ở tù là may lắm. Cái ý nghĩ áo gấm về làng bị đứt nghe một cái bựt. Tôi oải quá, nhưng cũng rán bường theo cho tới ngày mở cửa. Rốt cuộc chẳng tới đâu vì cái tính ngang ngang cộng thêm việc cái lý lịch lòi ra hai ông anh là lính ngụy. Thế là nghỉ. Được cấp một ít tiền, một cái nhà con con. Tôi bán quách lấy vốn, tính tìm kế sinh nhai. Nhưng từ hồi nào tới giờ có làm ăn gì đâu? Chẳng mấy hồi cụt vốn. Vừa lúc đó lại gặp vợ tôi. Bà ấy là gái lỡ thời. Hai đứa xáp vào. Bà ấy có mấy công ruộng. Hai vợ chồng son rỗi. Ruộng nương, giăng câu đặt lờ, sống cũng an nhàn. Được bốn, năm năm. Tôi mới biết là mình vô sinh. Bởi vì hồi chiến tranh, tôi dính mấy miểng vô… ngay chóc. Một thời gian cũng lành lặn lại như thường. Cũng chiến đấu ra trò. Ai dè khi đi khám kỹ, thì ra bấy lâu tôi bắn toàn đạn mã tử không. Tính nói thiệt với bà ấy. Nhưng chưa kịp thì bà ấy đau cái kiểu gì mà có mấy tiếng đồng hồ rồi chết, không thèm trối trăn một tiếng. Tôi buồn quá giao đất, giao nhà cho thằng em vợ, quảy gói bụi đời. Đang thất nghiệp, đi lang thang tìm kế sinh nhai tôi gặp ông già bán mì gõ ở Bạc Liêu. Không biết ổng khoái tôi cái gì? Ổng dạy tôi nghề nấu mì. Theo ổng vài tháng, thấy tôi nấu coi bộ mát tay, ổng kêu tôi đóng một xe mì riêng. Nhưng không hiểu sao tôi lại không làm mà đi theo phụ bán với ổng thêm vài tháng rồi lại quảy gói lên vai chạy tuốt về đây. Loanh quanh tính chuyện làm giàu. Số tiền dành dụm vơi dần theo ngày tháng. Tới khi thằng nhỏ đeo theo. Không biết lấy gì nuôi nó, mà đuổi đi thì không nỡ. Còn mấy chỉ vàng hộ thân, tôi đem bán lấy tiền đóng cái xe mì gõ. Thế là hai cậu cháu gõ mì. Rốt cuộc trời thương. Bây giờ nó lớn, đang học lớp 12, tôi lại có nhà, cái bàn thờ vợ tôi cũng thêm được chút tinh tươm. Thế ông anh thấy có đã không? Lao động là vinh quang mà. Đúng bon.
- Thế anh có về quê không?
- Có chứ. Về mới xuống đây.
- Chà lâu ngày mới gặp lại chắc là vui.
- Ừ. Vui thì có vui, nhưng khóc đã. Nhất là cô em. Thấy anh em con cháu ai cũng có cái ăn, cái mặc. Tôi mừng quá ông anh ạ. Nhưng nghĩ lại cũng buồn. Tôi thì kiếp này vô phương được phong hàm ông nội, ông ngoại rồi. Thằng nhóc trông cũng được đấy. Nó như biết tôi lo hay sao mà cứ trấn an tôi luôn. Nó nói “Dù con kêu cậu bằng cậu, chẳng qua là quen miệng, chớ bao giờ cậu cũng là cha của con“ và nó chứng minh liền. Bạn bè hay ai đó tới nhà, nó cũng giới thiệu tôi là cha nó. Không phải tôi không tin nó nói, nhưng tôi vẫn thấy làm sao vậy. Bởi vì không biết ngày nào mẹ nó trở về.
Tôi cũng không biết nói sao cho phải, và tôi nghĩ tới chuyện mình, nên cố tìm cách trấn an ông cũng như tự trấn an mình:
- Ông anh đừng làm như vậy tội nghiệp cháu nó. Đã thương nó, cưu mang nó. Thì nó xem anh là cha thì phải rồi. Hãy khẳng định với cháu nó đi. Thôi chúc anh mua may bán đắt. Khi nào cưới vợ cho thằng bé nhớ mời tôi. Tới lúc nó “đãi” được rồi mà coi bộ “lão” vẫn còn ngon cơm.
- Chà ông anh nhớ dai dữ ha. Câu đó tôi nói mà. Thôi. Anh nói vậy tôi hay vậy. Bây giờ thì cho tôi gửi tiền bảng. Bữa khai trương, sáng đến giúp hội nghen.
Và bất chợt tôi nhìn thấy bàn thờ ông Địa, ông Thần Tài ghi mấy câu thơ thay gì bằng mấy chữ Tàu:
Mỗi ngày một ly café,
Quán thì có sẵn, gọi là mời nhau.
Nén nhang thay một lời chào,
Còn phù hay hộ thế nào? Tùy ông.
Nhân gian thiên hạ đàm trùng.
Tôi chợt nhận ra, ông chủ quán có cái bộ mặt coi bộ dễ ghét cũng chẳng kém gì tôi. Tôi nhìn ông, hỏi:
- Ông anh làm mấy câu thơ này à?
Ông nhìn tôi cười lớn:
- Không phải, của một ông bạn bày ra khi tôi lập cái bàn thờ này đấy.
Tôi trố mắt nhìn :
- Và ông anh làm theo y chang
- Đúng rồi. Tôi thấy hay hay. Thực ra thì chẳng tốn hao gì? Ít ra mình cũng có một cái gì đó để mà thầm thì van vái hay cười chơi. Nhưng bài thơ làm cho tôi thấy hụt… Chữ nghĩa cỡ tôi thì biết gì về thơ thẩn. Nhưng không hiểu tại sao ông bạn tôi làm có năm câu. Tôi hỏi thì anh ta cười rồi… nói “ Được bấy nhiêu là hết ý”.
Từ giã nhau ra về. Tôi mang theo được một niềm vui và một chút ngạc nhiên về câu trả lời của ông mì gõ. Một chút an tĩnh cho tâm hồn hay là một nụ cười thầm chỉ có giá bằng một ly café và một điếu thuốc. Kể ra cũng rẽ chán. Nhưng mấy câu thơ thì tưng hết nói. Dù sao thì cũng cầu cho những ai chí thú làm ăn mau qua cơn bỉ cực. Mong những ai quen thói hoang đàng sẽ nhận ra những lề thói trớt quớt của mình. Chớ thần thánh nào mà nhận của đút bao giờ.
Những cuộc gặp gỡ. Những con người. Những tính cách. Ai cũng đáng yêu. Ai cũng có những trăn trở riêng tư, không bao giờ giống nhau, nhưng luôn luôn làm cho cuộc sống đẹp hơn. Họ đến với mọi người bằng nụ cười. Ai cũng thế. Tôi có được như thế không? Ôi chuyện của người. Tôi nhìn, tôi ngắm, tôi nghe và hiểu ra đôi điều. Thế mà chuyện của riêng tôi thì lại là một dấu hỏi. Ngộ ghê? Nhưng dù sao tôi cũng tìm được trên đường những nụ cười, cho tôi hay không nhất thiết phải cho tôi mà của ai đó gởi đến ai kia. Bổng nhiên tôi thèm được cầm lên cây viết. Và tôi viết lại được từ lúc nào tôi cũng không hay. Ngộ ghê? Nhưng viết rất chậm, thưa và chưa bao giờ viết một mạch mà xong. Dù rằng ý tưởng đôi khi cũng tàm tạm được.
Của ai ai cũng thấy đời đẹp hơn.
Thoáng đâu đó lời cám ơn,
Dăm câu hòa nhã, nỗi buồn cũng vơi.
Nên chi cũng tập tành cười,
Học câu thân ái, học lời dễ nghe.
Cho thơm hương lúa làng quê,
Cho êm tiếng gió mang về mùa Xuân.
Và đến một ngày. Bổng nhiên…
Lời chào Ai gởi, tặng riêng nụ cười ?
Quá vui, ấp úng dăm lời,
Vội mang đi cất nụ cười vào tim.
Để rồi đêm lại qua đêm,
Mang ra ngắm nghía. Mong thêm nụ cười.
Một trung tâm thương mại mới, hiện đại, sang trọng xây dựng vừa xong, thay thế ngôi chợ cũ. Đường sá rộng ra, nhưng có vẻ hẹp hơn vì nhà cửa nhiều hơn, vì người đông hơn. Do đó những cái sân nhà đều được tận dụng. Nhưng kỳ quái nhất là con đường Nguyễn Trường Tộ, ngày xưa nườm nượp người trong ngày giáng sinh, thì giờ đây là một con hẽm hẹp nhất thị xã, hẹp đến độ hai cái máng xối của hai nhà đối diện cùng hát lên bài ca “anh về với em như chim liền cánh, như cây liền cành…”. Tất nhiên, mức độ ồn ào lớn hơn, muỗi và rác cũng nhiều hơn… Đặc biệt là rất ít người đi bộ vì lề đường bị chiếm dụng, cây xanh quá ít và nhất là mọi người có rất nhiều việc phải làm, làm thật nhanh thật lẹ. Chính tôi cũng thế, tôi bị cuốn vào và quên mất cái thú “tatalism” [xii]. Đi bộ tà tà giữa cái nắng, cơn mưa liệu có kịp, có ổn không? Đó là chưa kể những cái biển báo báo giao thông đặt thấp lè tè, tôi đã dăm lần “tatalism” và lơ mơ để cái trán hít vào đến tóe máu. Dù vậy tôi cũng thỉnh thoảng dừng chân đâu đó đứng nhìn:
Phố ồn ào quá đi thôi,
Tìm đâu tĩnh lặng một thời phố xưa.
Người hấp tấp mà hững hờ,
Bước chân nhẹ của ngày xưa. Đâu rồi?
Chỉ còn tiếc nhớ mà thôi,
Làm sao sống lại một thời đã qua.
Vô công chỉ có mình ta,
Rỗi nghề nên mới nhớ xa, nhớ gần.
Nhìn bâng quơ, đứng tần ngần,
Cái bon chen cứ rần rần chạy qua.
Tưởng thế là xong. Ai dè còn một thứ nữa. Tôi đang tất bật tranh thủ cuộc sống trong một môi trường bê tông đầy những tiện nghi (?) để quan hoài một màu xanh ngút ngàn hoang dã với nỗi nhớ con cào cào, con sáo sậu, tiếng chim hót và bây giờ nhớ con chuồn chuồn, thèm tiếng con dế gáy. Và quá thèm nên viết.
CHUỒN CHUỒN
Bước ra ngoài phố chợt buồn
Tìm không thấy bóng con chuồn chuồn bay
Nắng mưa dự đoán sao đây
Để mà chuẩn bị phút giây hẹn hò
Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng bay vừa thì râm
Giờ đây phố xá ầm ầm
Cây xanh thưa thớt lầm lầm bụi bay
Người ta xả rác luôn tay
Con chuồn chuồn bỏ chốn này ra đi
Còn anh thì cứ loay hoay
Mưa bay tưởng nắng, nắng đầy tưởng mưa
Lắm phen trớt quớt hẹn hò
Em hờn giận để câu thơ anh buồn
Nhớ ơi những cánh chuồn chuồn
HAI CON DẾ
Tôi và em là hai con dế
Rất hiền hòa và rất dễ ưa
Cất tiếng gáy gọi nhau say đắm
Bờ cỏ non mát mẻ cơn mưa
Tôi với em là hai con dế
Chưa bao giờ biết đến hung hăng
Cũng chẳng biết đá nhau chí tử
Bờ cỏ non tủng tẳng tung tăng
Tôi với em là hai con dế
Suốt đêm cao tiếng gáy gọi tình
Tôi tặng em chồi non cỏ mượt
Em tặng tôi đôi mắt long lanh
Tôi với em là hai con dế
Cứ rong chơi và cứ bâng khuâng
Cất tiếng gáy cao lời tình tự
Tội tình gì vào chốn gian truân
Tôi với em là hai con dế
Đắm say nhau quên phận bọt bèo
Tôi run râu và em run cánh
Không đá càng mà đá lông nheo
LÁ THU
Xin như một chiếc lá vàng rơi
Gieo lại cành khô chút ngậm ngùi
Ngọn gió cợt đùa qua khắp chốn
Cơn mơ lão đão phủ trăm nơi
Hơi thu trong suốt hai con mắt
Hoài cảm long lanh mấy dặm đời
Rồi lúc vàng khô im ắng lại
Chuyển về lộc mới những xanh tươi
Vẫn chưa viết được tiếng chim kêu và chẳng biết viết làm sao về những con cào cào. Ôi nhớ thì cứ nhớ mà tại sao phải nhớ cái thì nói được cái lại không.
Hai người khách vào tìm tôi, một bà cụ và một phụ nữ. Họ không đặt làm bảng hiệu mà tìm hỏi thăm người. Người phụ nữ có vẻ dè dặt hỏi:
- Anh là anh Hiền?
Tôi cố lục trong trí nhớ xem gặp người này đâu, nhưng đành chịu nên gật đầu:
- Vâng Tôi là Hiền.
Người phụ nữ có vẻ ngập ngừng:
- Trước năm 1975 Anh là Cảnh Sát làm ở tỉnh này?
Tôi hơi bất ngờ:
- Có chuyện gì không? Xin cụ và chị vui lòng nói cho.
Mắt cả hai như sáng lên, người phụ nữ tiếp, giọng vẫn e dè:
- Mẹ tôi và tôi đến làm phiền anh. Nhờ anh giúp một việc. Nếu có điều gì không phải xin anh vui lòng bỏ qua cho.
Tôi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác:
- Xin cụ và chị cứ nói. Nếu như khả năng tôi có thể giúp được. Tôi sẵn sàng.
Thay vì nói thẳng vào việc chị lại bắt đầu kể lể:
- Anh Hiền biết không? Chị em chúng tôi đều ra nước ngoài sinh sống từ lâu. Nhưng mẹ tôi thì nhất quyết không đi. Bà cụ ở lại với dì tôi và cứ trăn trở mãi về việc anh tôi chết mà không biết, mồ mả xương cốt thất lạc nơi nào. Hơn hai mươi năm, có được bao nhiêu tiền má tôi cứ tiêu vào việc tìm kiếm hài cốt của anh tôi. một sự tìm kiếm vô vọng. Chúng tôi chỉ có một mình anh ấy là trai.
- Chị nói rõ ràng xem. Anh ấy là ai và tại sao lại phải nhờ tôi giúp.
- Anh tôi là Đình. Năm 1974 anh ấy là thiếu úy làm trưởng cuộc ở một xã thuộc tỉnh Kiên Giang. Anh ấy bị mấy ông này bắt và nghe nói bị giết mấy ngày sau đó. Lúc đó, rất rối rắm nên gia đình thì không thể biết được tận tường. Hôm nay, tìm đến anh thì may ra có được một chút thông tin nào đó.
Rồi chị trở giọng như than thở trong khi bà cụ thì vẫn lặng lẽ không nói một câu nào:
- Người chết thì cũng đã chết rồi. Nhưng mẹ tôi thì vẫn cứ nặng lòng. Chị em chúng tôi không biết phải làm sao cho vừa lòng mẹ tôi. Anh xem, mồ mả của những anh ở các nghĩa trang quân đội còn bị đập phá, san lấp, di dời. Huống gì một nắm xương của anh tôi. Ai biết, ai sẵn lòng giúp đỡ. Ai quan tâm đến những nắm xương tàn của những người lính được cho là bán nước. Đâu ai biết những người lính như anh Hiền, như anh tôi chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh. Nghĩa trang Arlington đầy những nấm mồ của những người lính hai bên trong cuộc chiến tranh Nam Bắc, họ hoàn toàn bình đẳng và quên hết hận thù khi đã chết. Còn ở đây chỉ là một nỗi ngậm ngùi. Bao nhiêu lần năn nỉ, giải thích. Nhưng mẹ tôi vẫn có cái lý của bà. Mà cái lý lẽ của tấm lòng người mẹ thì chúng tôi không thể chối cãi được. Tấm lòng của mẹ. Điều này rất thiêng liêng. Tội lỗi của anh tôi, nếu có như thế nào chăng nữa thì vẫn là máu thịt của mẹ tôi. Tội nghiệp cho anh tôi, mới ra trường nhận nhiệm vụ chưa được nữa năm thì chết ở cái tuổi hai mươi hai.
Tôi thực sự bàng hoàng. Việc này tôi chỉ mới nghe thấy lần đầu. Những điều chị ấy nói là sự thật và việc thiếu úy Đình bị giết thì tôi có biết, thậm chí biết tận tường nữa là khác:
- Xin cụ và chị bình tỉnh cho. Việc này tôi có biết. Vậy thì cụ và chị cần tôi giúp gì?
Chị lôi từ trong bọc ra một cái bản đồ tỉnh Kiên Giang rồi nói:
- Chỉ cần anh Hiền xác định địa điểm anh tôi lúc bị bắt là được. Tôi đã có được những thông tin là anh tôi bị bắt rồi sau đó bị giết nhưng ở đâu thì chúng tôi không tài nào biết được, bởi vì thời cuộc một phần, một phần khác là lúc ấy chúng tôi còn quá nhỏ. Nhưng sau này chúng tôi cũng được biết là anh ấy bị giết cách nơi bị bắt không xa.
Tôi quá bất ngờ khi nhìn thấy một cái bản đồ quân sự được ấn hành trước năm 1975. Việc thiếu úy Đình tôi nắm được khá rõ. Tôi nhìn tấm bản đồ và rồi chỉ dẫn, ghi ra từng địa danh, nơi bị bắt, nơi bị giết, rồi bảo:
- Chị cũng liều thật, cứ mang tấm bản đồ loại này mà đi như thế. Nhưng thôi bây giờ, tôi giúp chị. Anh Đình bị bắt tại khoảng này và theo tin tức tôi nhận được lúc đó thì sau vài ngày anh Đình bị giết ở đây. Lúc đó chúng tôi cũng có cho người đi tìm nhưng tình hình quá phức tạp, nên đành thôi. Nhưng lúc này thì thực địa thay đổi nhiều. Chị chỉ còn có cách hỏi thăm những người sống cố cựu nơi ấy. Thời gian thì đã quá lâu nên sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng có một ít thuận lợi là những định kiến cố chấp cũng phai nhạt dần. Hy vọng bà cụ và chị có thể tìm thấy hài cốt của anh Đình. Rất tiếc là tôi không thể đi cùng.
Rồi tôi hướng dẫn cặn kẽ cho họ phải đi bằng phương tiện gì để đến nơi. Cuối cùng, tôi gởi đến họ lời cầu chúc họ đạt được ý nguyện.
Cả hai từ giả tôi, cũng vẫn là chị ấy nói:
- Cám ơn anh Hiền. Chúng tôi đã hỏi han gần cả trăm người từ bên ấy cho đến bên đây. Kẻ không, người biết, mà biết thì cũng mơ mơ, hồ hồ. Nhưng thông tin họ không cụ thể như anh Hiền. Nếu không nhờ một người quen chỉ cho mẹ tôi và tôi. Chúng tôi cũng không biết để tìm đến đây. Anh không phải áy náy vì không đi cùng. Mẹ tôi và tôi đi có lẽ thuận lợi hơn sự có mặt của anh. Hy vọng là chúng tôi tìm được, một lần nữa xin cám ơn anh.
- Chúc bác và chị toại nguyện, tôi cũng mong như thế. Sở dĩ tôi biết là vì lúc đó tôi làm việc ở một bộ phận nhận đủ mọi loại tin tức từ các nơi trong tỉnh gởi về.
Nhìn chị ấy dắt díu bà cụ gần đất xa trời đi tìm hài cốt của con, lòng tôi trĩu nặng. Chiến tranh đã qua đi, có hai niềm đau còn lại. Một được an ủi thì chẳng nói làm gì, một bị lãng quên, thậm chí bị nhục mạ, xâm phạm. Đúng như chị ấy nói. Người chết thì đã chết rồi, nhưng tấm lòng của người mẹ thì ai cũng nhận ra là tấm lòng ấy rất thiêng liêng. Nhưng bao nhiêu người thấu hiểu cho chuyện này.
Tôi và những người giúp việc của tôi lại tiếp tục quay như cây đèn cù, chạy tới, chạy lui. Cắt cắt, dán dán những tấm bảng hiệu mới cho cái chợ mới, những khu phố mới với những cửa hàng mới và hàng lô hàng lốc những cái mới khác. Nhưng trong sâu thẳm của lòng tôi thì cái hình ảnh cũ thì vẫn y nguyên. Vâng. Điều này luôn luôn xảy ra với mọi người chứ không phải riêng tôi. Không biết cô bạn cũ, với cái sạp vải, bây giờ ở nơi nào trong ngôi chợ mênh mông ấy. Bổng nhiên, tôi thuộc lại vanh vách bài thơ Mua Áo của Đông Hồ. Thôi thì nếu không bán được thơ, thì bán chữ decal vậy. Đàng nào cũng là chữ cả. Đàng nào cũng bán chớ mình chẳng cho ai được món gì? Thiên hạ bây giờ không đua nhau bán chữ đó sao? Ai có con đưa đến trường thì biết rõ cái thị trường chữ nghĩa nó sôi động đến cỡ nào? Tôi nhớ ngày xưa, tôi đi học chỉ đóng độc nhất có một thứ tiền gọi là tiền niên liễm. Số tiền có giá trị bằng mười gói xôi. Đứa nào học giỏi được thầy móc tiền túi thưởng cho, khi thì dăm cuốn tập, khi thì quyển sách… Đứa nào nghèo còn có thể được một bộ quần áo. Đứa nào học dở, thì thầy cô dạy thêm cho mà tiền học phí thì… không có. Nhưng giờ đây thì đã khác rồi. Kinh tế thị trường mà. Phải dạy ngay môn kinh tế thị trường từ khi mới học i, tơ bằng cách để chính các em cân đo đong đếm một cách cụ thể, thực tế. Này nhé. Trường điểm, trường chuyên phải chạy vạy, đút lót. Tiền học phí cho suốt cả năm học, sách học cho từng năm học, mà phải mua sách mới bởi vì chương trình mỗi năm mỗi mới. Rồi sổ vàng này, rồi giấy thi kiểm tra, giấy thi học kỳ này, phí xây dựng, quần áo thể dục này, đóng góp sinh hoạt hè này, đóng góp gây quỹ thưởng cuối năm này, học phí phụ đạo này. Đi thi cũng phải mua đơn, lệ phí, nghe đâu còn cả đóng tiền bồi dưỡng cho giám thị… Bất cứ thứ gì cũng được quy ra tiền. Cũng có nghe loáng thoáng, học trò vi phạm nội quy cũng phạt bằng tiền. Thế là không bán chữ là gì? Bán cả đến những gì có liên quan đến chữ. Ôi. Thế thì tôi bán chữ méca, décal chẳng qua là cái dạng bán décal, méca kèm thêm công cắt dán. Ấy vậy mà cũng áy náy. Tôi lạ thật. Hâm chăng?
Tôi thực sự bắt đầu đối diện với khó khăn lớn nhất của đời mình. Không phải vì chuyện tiền bạc hay làm ăn, mà là sức khỏe của mẹ tôi càng ngày càng đáng lo ngại. Tôi linh cảm được điều này. Và nhiều lúc tôi bàng hoàng tự hỏi. Tôi sẽ sống làm sao đây khi không còn mẹ nữa? Từ bé đến bây giờ, dù đã bao nhiêu lần tôi quên rằng tôi có một người mẹ. Nhưng khi nhớ lại là tôi quay quắt tìm về, chỉ để được nhìn thấy mẹ tôi, thỉnh thoảng lại bới tóc cho bà, nghe những lời thương yêu và rầy dạy. Thậm chí, còn phải đón nhận sự giận dữ của bà trước những việc làm càn quấy của mình. Nhưng với tôi, những lúc như thế là tôi bình yên nhất, hạnh phúc nhất.
Tôi có hai em trai; Ngọc, Nam và ba cô em gái Nhưng mẹ tôi lại ở với cô út. Bà cụ thâm thật. Chồng cô ấy trốn ra nước ngoài khi đứa con thứ hai còn trong bụng. Để cho em tôi tay xách nách mang nuôi hai đứa bé. Bà cụ muốn ở gần bên con gái vừa để an ủi con và trông chừng cháu. Thế là chúng tôi phải tỏ rõ bổn phận mình. Cô út lành tính, thương các anh chị. Và mẹ tôi lại tự biến mình thành một cái bệ để cho anh em chúng tôi đỡ đần nhau qua cơn khốn khó. Ôi tấm lòng người mẹ. Mẹ của chúng tôi.
Trong cuộc đời ai cũng được sinh ra bởi một người cha, một người mẹ và hầu hết những người cha, người mẹ ấy đều sống bằng những niềm vui và nỗi buồn của con cái. Và chúng tôi, khi hiểu thấu đáo điều này thì chỉ còn có mẹ thôi. Anh em tôi chăm chút cho mẹ mình, làm theo những điều bà chỉ dạy trong cung cách xử sự hàng ngày. Và chỉ có thế chúng tôi mới yên tâm. Tôi tích cực hơn các em tôi, không phải vì mình là anh lớn cần phải làm gương. Mà chính vì tôi là người có quá nhiều lỗi lầm với cha, với mẹ. Trong đó có một cái lỗi tày đình mà tôi ngậm tăm. Không dám nói. Không phải vì sợ mẹ tôi không tha thứ, mà… vì tôi không đủ sức chịu đựng trước những khó khăn mà mẹ tôi phải giải quyết hộ cho tôi trong những ngày tháng cuối đời.
Trong khi cuộc sống anh em tôi càng lúc càng khá hơn, thì sức khỏe mẹ tôi càng lúc càng kém đi. Sáu anh em cùng nhau chăm chút mẹ, đáp ứng mọi yêu cầu, lắng nghe và làm theo những lời chỉ dạy. Nhưng đã đến lúc, mẹ tôi rời bỏ chúng tôi rồi. Bà mất đầu năm 1999. Bà không nhìn thấy được cái tiệm vẽ đầy bề thế với các trang thiết bị khá hiện đại của tôi khai trương trước đó mấy tháng. Tôi mồ côi cha lẫn mẹ năm năm mươi hai tuổi. Những ngày tang ma của mẹ, dù mệt mỏi, buồn phiền, bậu bịu lu bu. Nhưng tôi cũng nhận ra có những người mà tôi chưa từng gặp bao giờ. Họ đến viếng bà bằng một niềm tiếc thương vô hạn. Và tôi chợt hiểu ra những lời dạy của ba mẹ tôi dành cho anh em chúng tôi chính là thái độ cư xử hàng ngày của ông bà đối với mọi người. Chính những thái độ đó đã giúp cho anh em tôi dễ dàng hơn trong cuộc sống đầy những khó khăn và hôm nay những người đến viếng bà bằng một thái độ đầy trân trọng tiếc thương. Dù ba mẹ tôi chỉ là một người bình thường, rất bình thường, không giàu sang, không danh vọng.
Ngày đưa mẹ tôi về quê. Tàu chạy qua giòng sông ấy. Giòng sông đã từng nhận của ba mẹ tôi và những con người sống ở hai bên bờ không biết nhiêu là giọt mồ hôi. Tôi ngồi trước mũi tàu, rãi từng nhúm vàng mả, như gieo rắc tấm lòng mình. Những giọt nước bắn tung vào miệng, mang theo cái vị mằn mặn của giòng sông. Đã từ lâu, có biết bao giọt mồ hôi của biết bao con người đổ ra vì cuộc sống và đã rơi xuống giòng sông, ba mẹ tôi cũng thế. Và tôi đã bao lần nếm cái vị mặn của nước sông và cả những giọt mồ hôi của mình, cả hai thứ từng làm đầu lưỡi tê tê. Nhưng chưa bao giờ tôi lắng nghe cái vị giác của mình phân định sự khác nhau của hai vị mặn mòi này. Bây giờ tôi đang làm việc đó, nhưng dù cố gắng hết sức tôi cũng không thể nào nhận ra nó khác biệt ở chỗ nào? Nếu đem phân tích hoá học thì khác nhau nhiều đấy. Nhưng với vị giác của con người thì chắc chắc là không. Mẹ tôi đã được giòng sông đưa bà về với ba tôi. Cũng có thể là ba tôi đang đón mẹ tôi về như ngày xưa ông lên Thầy Quơn rước bà về Cái Mới Lớn để làm nên một gia đình. Nhìn lên khung trời mênh mông ấy. Tôi biết ba mẹ tôi đang ở đâu đó, đang mừng ngày đoàn viên và hài lòng về những đứa con của mình. Có lẽ chỉ những vết hằn của năm tháng và lòng yêu thương con cái là ba mẹ tôi để lại trần gian. Hay đúng hơn là trong sâu kín trái tim của anh em chúng tôi.
Mẹ tôi mất, anh em tôi phải đối diện một quảng trống khó lòng bù đắp nổi. Cũng như mọi người. Chúng tôi cảm nhận được hết mọi lỗi lầm của mình trong mọi cư xử hàng ngày đối với mọi người chung quanh. Tự nhiên chúng tôi chùng lại những hành vi xốc nổi của mình. Khi không còn những tiếng rầy la quen thuộc của mẹ nữa. Anh em chúng tôi như gần lại hơn. Ngày mẹ tôi còn, bà ở với cô em út. Chúng tôi dăm ba ngày. Không đứa này thì đứa khác, mua món này, món kia hay đưa cho mẹ ít tiền. Ai nhìn thấy cũng cho là chúng tôi hiếu thảo. Có thể như thế. Nhưng trong sâu thẳm của chúng tôi thì vấn đề lại khác. Chúng tôi tìm ở hành động đó một sự yên tâm. Thực ra là chúng tôi không nhận ra điều này cho đến khi bị mẹ tôi phát hiện. Bà hỏi chúng tôi :
- Anh em tụi con thương má hay là bắt má giữ của. Má có đi đâu? Ăn bao nhiêu? Xài bao nhiêu? Mà hở ra thì mấy con đứa sắm, đứa mua, đứa đưa tiền.
Chúng tôi yên lặng nhìn nhau và tôi phải phân bua:
- Mẹ thấy ai không có thì cho. Thấy ai thiếu thì giúp. Vì vậy anh em con phải mua, phải sắm, phải đưa tiền. Mẹ sử dụng thế nào thì tùy mẹ. Không lẽ mỗi lần muốn cho ai, giúp ai hay mua một món gì đó, mẹ lại nhắc nhở tụi con.
Mẹ tôi cười :
- Con là anh lớn, lại nghèo. Vợ thì đau yếu, con thì còn nhỏ. Nên má lo, má nói thế. Thế mà má nói con, thì con trả lời một hơi là xong. Nhưng thôi. Các con hãy làm điều gì đó mà các con cảm thấy yên tâm. Nhưng trong chừng mực nào đó mà các con làm được.
Mẹ tôi nói đúng. Với mẹ tôi, tất cả những khó khăn và buồn phiền của chúng tôi hoàn toàn trôi tuột. Tôi thì mỗi khi xách xe chạy loăng quăng đâu đó, chợt nhớ ra mình vừa lấy được ít tiền, thế là ghé thăm mẹ và nhét vào túi bà một ít, cứ tưởng là để cho mẹ xài, cứ tưởng mình tỏ rõ một thái độ hiếu thuận, nhưng thật ra là để làm yên lòng mình. Hóa ra là có hiếu thảo gì đâu. Khi gặp những khó khăn bực dọc. Tôi đến với mẹ, không phải để than van mà để được cùng mẹ nhắc lại những chuyện này, chuyện kia trong quá khứ, hoặc nhắc nhớ người này, người nọ. Mua một món gì đó cho mấy mẹ con, bà cháu cùng ăn. Cũng có đôi khi được mẹ giác đác, rầy la, thậm chí giận dữ trước một hành động không đúng nào đó của chúng tôi. Nhưng chúng tôi biết những thứ đó xuất phát từ một một nơi ấm áp nhất mà ai ai, biết cách làm con, cũng hiểu. Khi tôi trở về. Đầu óc nhẹ tênh và bình tĩnh trước những khó khăn của mình. Và mẹ tôi đã chỉ cho chúng tôi và đã để lại cuộc đời một điều gì đó thiêng liêng cho con cái mình tiếp tục sống. Điều đó còn lớn hơn gấp bội giòng sữa ban đầu. Nhưng bây giờ thì chỉ có một nén nhang và một nỗi lòng.
Thế đấy. Năm mươi hai năm tôi đi quẩn quanh trong vòng tay của ba mẹ. Từ hôm nay, có biết bao điều tôi chỉ nói một mình. Trong đó có bao nhiêu điều chưa nói. Bao nhiêu lỗi lầm chưa xin được thứ tha. Tôi viết đôi giòng dưới di ảnh của mẹ tôi.
Trời oi oi sợi nắng hè,
Mẹ đem dịu mát theo về lời ru.
Nắng mưa cứ thế dãi dầu,
Nên thèm quá đỗi tiếng ru ngày nào.
Bây giờ mẹ ở trên cao,
Trong di ảnh vẫn ngọt ngào lời xưa.
Cho yên ả nắng ban trưa,
Cho say giấc ngủ đêm khuya thanh bình.
Thầm thì giữa quảng trời xanh,
Ngàn năm mẹ giữ yên lành cho con.
Từ ngày mẹ tôi mất, trong những ngày đầu tôi cảm thấy hụt hẩng. Một thời gian khá lâu tôi không vào nhà cô em út, vì tôi biết khi vào đó là tôi phải đối diện với sự thật là mẹ tôi không còn nữa. Tôi lao vào công việc, những thời gian rỗi rảnh ít oi thì tôi lại tìm một trò gì đó để chơi, một điều gì đó để nghĩ ngợi. Tôi lao vào với công việc. Mang theo một khoảng trống lớn và mơ hồ. Thỉnh thoảng vào thăm bàn thờ mẹ. Tôi chợt rùng mình và không hiểu sao tôi lại vượt qua. Nhưng ánh mắt của mẹ như bảo rằng “Dù gì thì con cũng phải cố gắng“. Nhìn sang ảnh ba tôi. Nụ cười của ba tôi như có một chút gì giễu cợt. Và tôi chợt hiểu ra rằng. Quan hệ cha con giữa ba tôi và tôi là một điều gì đó cụ thể nhưng rất mơ hồ. Có một điều mà cả hai cha con đều nghĩ và đã làm nhưng chưa bao giờ cả hai công nhận. Ba tôi bao giờ cũng mong muốn và tạo điều kiện cho tôi trở nên một người đàn ông đích thực để có thể là một nguời bạn của ông. Tôi cũng muốn thế. Và tôi cũng biết, ba anh em chúng tôi chưa bao giờ nhận dược ở ba tôi những lời như thế. Nhưng xem ra hai thằng em tôi có một tư thế đàn ông vững chãi hơn tôi nhiều.
Công việc làm ăn của tôi đang phát triển. Song song với việc khai thác tối đa công suất của những trang thiết bị mới là sự khai thác tối đa khả năng còm cõi của mình. Khi thực sự tiếp cận, rồi hoà nhập vào những kiến thức mới tôi mới cảm nhận được sự dốt nát của mình. Sự dốt nát mà bản thân tôi chưa bao giờ nghĩ là mình có (!?). Bây giờ lại lòi ra một đống thù lù. Này nhé, cái điện thoại di động, cái máy vi tính cùng với các trang thiết bị ngoại vi cùng với các bảng hướng dẫn sử dụng bằng tiếng Anh. Chưa kể những loại hình dịch vụ bưu chính viễn thông mà tôi phải biết để hỗ trợ mình trong công việc. Muốn khai thác hết các chức năng, sử dụng cho hiệu quả là một việc cần phải học rất lâu. Tất nhiên là phải bường theo thôi. Tôi chợt nhận ra là mình phải biết mình cần cái gì và học cái gì cùng với sự giới hạn của ước muốn. Bao nhiêu năm qua, tôi tham lam vô độ. Cập nhật tứ lung tung, chuyện gì cũng muốn biết, cũng chui vào. Rốt cục, chỉ là một đống xà bần vô tích sự. Nhớ mà tức cười, cung cấp bảng hiệu cho hảng nhớt Castrol bao nhiêu năm, thế mà khi văn phòng của hãng dời về trụ sở mới ở lầu 4 tại toà cao ốc lộng lẫy SunWah ở 115 Nguyễn Huệ, Sài Gòn. Lần đầu tiên đến đấy, tôi phải xách cartab bò cầu thang lên tầng bốn vì một lý do rất trời ơi. Tôi không biết sử dụng thang máy! Kiến thức ngày nay là như vậy hả ông Nguyễn Vạn Phú?
Mẹ tôi mất chẳng bao lâu thì cái điều tôi hằng lo đã tới. Vợ tôi lại chịu ca phẩu thuật thứ ba. Tôi thực sự bị sốc. Mà lần thứ ba là lần phẩu thuật oái oăm. Vợ tôi bị thủng bao tử. Nguyên nhân là không ăn sáng, rồi cứ lo cơm nước, giặt giủ, dọn dẹp… đến giờ cơm. Mệt không ăn được. Tôi mua cho cái gì đó để ăn thì nhá một ít, rồi thôi. Cứ thế ngày này qua tháng khác. Lủng. Nếu như ngày hôm đó, tôi không về kịp thì vợ tôi chắc chết. Không khí ở bệnh viện làm tôi khó chịu. Rất nhiều thứ khó chịu, mà cái làm cho tôi thực sự nổi quạu là thái độ của các nhân viên trong bệnh viện. Tiền. Thứ đầu tiên và duy nhất đủ khả năng làm cho mọi việc trơn tru. Thuốc men chỉ là phần hỗ trợ. Nhưng nhờ các dì, cô của cháu thay nhau chăm sóc. Tôi chỉ có một việc duy nhất là móc tiền. Vậy mà, khi xuất viện về nhà, cái bao tử ấy chỉ còn có hơn phân nửa. Và niềm tin của tôi dành cho những người thầy thuốc thì chẳng còn chút nào. Ai đó đã làm cho họ đói, nên họ học không thuộc bài học lương y. Mà nếu tôi thì chắc cũng thế. Vì vậy, họ phải no. Mà họ muốn no thì người bệnh hết dám ho. Nghĩ ra điều này tôi thôi. Không giận nữa, nhưng niềm tin thì không khôi phục được.
Đã thế lúc này tôi lại còn bị phân tâm bởi cái sự cố Y2K. Báo, đài loan tin, bàn tán, bình luận, suy đoán nghe đã mệt. Các bản tin của các thông tấn xã vĩa hè lại càng mệt hơn. Những tờ rơi in lụa, in vi tính thậm thò, thậm thụt, những bàn tán thì thầm... với những nội dung động trời, động đất. Cũng may nhờ cái tính lơ mơ nên tôi thoát. Dù hằng ngày cái quán café được mệnh danh là “Tèo Tèo Thông Tấn Xã“, nơi tôi thường đến, luôn luôn có những bản tin mới. Và đồ hộp, mì tôm, dầu lửa đắt hàng.
Tết Dương lịch năm 2000. Toàn thế giới có ba cái máy vi tính bị hỏng, ít hơn gấp bội một con vi rút của một tay hacker nào đó. Không một trận động đất, một trận đại hồng thủy nào xảy ra. Lại càng không có những cơn mưa dầu, nắng lửa hay con cá sấu nào nổi lên ở Vàm Nao ngoác mồm nuốt trộng những ai chẳng chịu tu hành (!?). Nếu có thì là những tai nạn do chính con người hữu ý hoặc vô tình tạo ra. Đêm giáng sinh, rồi giao thừa dương lịch năm 2000 có hơn một ngàn vụ tại nạn giao thông trên khắp cả nước, và cả mấy trăm con người về cõi thiên đàng và một số nữa đui què, sứt mẻ. Chẳng lẽ đây là sự cố Y2K ?! Nhưng những bản tin ba trợn vẫn tiếp tục cái công việc trời ơi mình bằng cách thêm vào cái đuôi âm lịch cho có vẻ phương đông.
Lại một lần nữa. Thiên hà ngôn tai. Ông trời nín thinh đâu có nói gì đâu? Trong khi thiên hạ đang rầm rì chuẩn bị vào Xuân với những thái độ khá khác thường. Nhưng tôi thì lại khác, hơn năm mươi lần đón xuân, đến hôm nay tôi mới nhận ra rằng. Tôi chỉ cảm thụ được mùa xuân vào những ngày trước Tết, khi cơn gió chướng bắt đầu rong ngọn, đẩy đùa những vạt lúa vàng mơ trên những cánh đồng, gió lành lạnh, nắng trong xanh và ly café buổi sáng lại ấm hơn. Rồi sáng ngày mồng một, bổng nhiên mùa xuân trở nên loảng ra, đường phố vắng hoe. Thế là mùa xuân của tôi chấm hết khi tôi phải đối diện với những ngày không phải làm gì nhưng vô cùng bận bịu trước những lời chúc mừng sáo rổng, những trận nhậu nhẹt mềm người… và hàng lô lốc những cái lôm côm khác. Nhưng cái bực mình nhất vẫn là phong bao lì xì. Chuyện nhét vào tay trẻ con một ít tiền không còn là một niềm vui mà là một sự bực bội. Người lớn trở thành nạn nhân của người lớn với nhau trong quá trình làm hư hỏng trẻ con. Đã biết bao lần tôi cầm viết lên hay ngồi trước màn hình mà đối diện là trang giấy rổng không, đầu óc rổng không. Những cuộc khai bút bất thành vì trẻ con lủ lượt đến nhà mừng tuổi. Và lòng tôi lại nôn nao mong chờ những ngày sắp sửa vào xuân. Đã từ lâu tôi cảm nhận mùa xuân như thế mà tôi nào có biết, có hay. Và hôm nay cũng thế. Liệu ngày mồng một năm này có khác hơn chăng?
Năm nay chắc cũng thế. Tôi chuẩn bị cho cả nhà một cái tết Nguyên Đán tinh tươm nhất. Nhưng vợ tôi thì lại muốn đưa con về Sa Đéc. Phải chiều ý thôi. Quá lâu rồi, mẹ con cô ấy không về ngoại.
Sáng ngày hai mươi chín tết. Sau khi đưa hai mẹ con ra xe, trở về nhà và chợt nhận ra là tôi chỉ còn có một mình. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình lẻ loi đến thế. Tôi lại đóng cửa nhà bước qua tiệm vẽ. Chỉ còn lại một vài người thợ đang hoàn tất những tấm bảng hiệu cuối cùng mà khách hàng đặt sẵn để qua tết khai trương, một vài người khác đang dọn dẹp. Tôi đến bên máy, nhét vào cái đĩa CD, những bản nhạc Xuân rộn rã cũng không làm cho tôi cảm thấy bớt đi hiu quạnh. Đành phải tìm một việc gì đó để làm. Tôi cắt decal mấy chữ “Chúc Mừng Năm Mới” và một con mèo có cặp mắt rất điệu đàng nằm dưới cành hoa mai, dán lên tấm bande roll treo ở cửa tiệm và mấy câu thơ đem về treo ở cửa nhà. Ngày làm việc cuối cùng của năm chấm dứt lúc 12 giờ. Thay vì ăn cơm, tôi đi nhậu. Chẳng lẽ cái sự cố Y2K của tôi là như thế. Chuẩn bị một cái Tết tinh tươm nhất để chỉ một mình. Còn sự cố nào nữa không?
Tôi quyết định đi Xẻo Kè khi đã ngà ngà say. Đã gần ba giờ chiều, không tìm ra một chỗ trống nào trong các chuyến tàu đò trong ngày cuối năm. Tôi đành nhờ anh Tư Lụa cứu bồ. Tới vàm Xẻo Kè khoảng hơn bốn giờ. Sẵn bánh trái rượu thịt mà tôi mang cho mấy mẹ con. Tôi bảo anh đậu lại mép lá dừa nước, dưới bóng dâm của hàng lá dừa nước gần vàm và gầy sòng trong tiếng khua xào xạt của gió lá và sóng nước. Tôi nói:
- Cứ uống đến 5,6 giờ, anh đưa tôi vào thì anh vẫn còn về nhà kịp trước 8 giờ.
Anh Tư tỏ vẻ thắc mắc:
- Tết nhất tới nơi mà chú đi đứng cái kiểu này thì tôi chịu thua chú thật. Mà chú vào đây để làm gì?
Tôi ậm ừ :
- Có chuyện mới đi. Tôi đâu có khùng. Anh Tư.
- Chú không khùng mà tui thì muốn khùng. Nhà hai bác ở Cái Mới Lớn mà. Mấy lần chú lên cơn rồi. Chú nhớ không?
- Thôi vô đi anh tư. Uống vài ly cho ấm là hết khùng. Tôi tặc lưỡi, nâng lên ly rượu.
Cũng như kiểu nhậu như mấy lần trước với Tuân hay mấy lần tôi nỗi cơn khùng như lời anh nói. Nói thì nói vậy, nhưng khi đã nâng ly giữa cái khung cảnh tuyệt diệu này. Làm sao mà anh Tư Lụa có thể không hết lòng tham gia. Thế là, sông Cái Lớn, anh Tư Lụa và tôi cứ rề rà đi dứt chai Saint Rémy. Trước khi anh tư Lụa nổ máy, tôi đưa cho anh tiền xăng dầu cùng một xấp phong bao lì xì cho đám cháu gọi tôi bằng ông chú:
- Đây tiền dầu và lì xì mấy cháu nhỏ.
Anh ngần ngừ:
- Anh em với nhau mà chú làm riết tôi đâm sợ.
Tôi cười cười:
- Anh tư này, tôi có tiền mà. Ngại khỉ gì. Anh cầm đi và giúp tôi chuyện nữa?
Anh trợn mắt nhìn tôi:
- Giờ này mà còn giúp? Chú định không cho tôi ăn Tết à?
- Anh khỏi lo. Này nhé, tới nơi anh không nói bất cứ một tiếng nào. Thấy sao để y nguyên như vậy. Nếu không là anh em mình quê độ với nhau đó nghen.
Anh lại trợn mắt nhìn tôi :
- Chú làm ăn cái kiểu gì kỳ vậy? Hồi đó đi chuyển thư, tải thuốc cho mấy ổng cũng không ra vẻ bí mật như chú.
Tôi chậc lưỡi:
- Tôi đã nói thế thì anh giúp tôi đi. Chẳng có chuyện gì mờ ám đâu? Sức vóc này còn bao nhiêu mà kiếm chuyện. Anh khỏi phải lo.
- Ừ thì đi. Nhưng cái gì mà lì xì nhiều thế? Thiệt tình, cái tính ăn xài bạt mạng của chú tôi coi bộ vô phương cứu chữa rồi.
Tôi gạt ngang:
- Thôi, anh nhét vào túi đi, rồi dọt. Lúc này tôi “bảnh” lắm. Anh đừng có ngại.
Từ vàm vào tới nhà khoảng hơn hai cây số. Sau gần mười phút. Tôi chỉ chỗ cho anh tư Lụa. Nghe tiếng đò ghé lại, cả nhà nhìn ra rồi ba mẹ con ào xuống. Cô ấy và hai đứa nhỏ hỏi cả hai:
- Mình. Ủa. Anh tư. Sao cũng có anh tư ở đây?
- Ba. Cậu Tư. Sao ba biết cậu tư mà nhờ cậu tư đưa xuống?
Nghe lối chào hỏi của cô ấy và mấy đứa nhỏ. Anh Tư Lụa và tôi thì trợn mắt nhìn nhau:
- Sao lại là chú. Chú là chồng con Út Giữa.
Tôi nhìn anh chưng hửng :
- Hổng lẽ thằng cha nào khác. Mà anh là cậu của con tôi hồi nào vậy?
Anh trợn mắt nhìn tôi
- Chú nói nghe coi bộ hơi bị ngược nghe. Thế thì chú là ba của hai thằng cháu tôi hồi nào vậy? Thôi lên nhà. Tôi giải quyết vụ này sau. Chà. Mờ ám lâu lắm rồi nghen, chớ đâu phải mới đây?
Tôi cười cười:
- Anh xem thằng Hòa bao nhiêu tuổi rồi. Mới đây thôi chớ lâu la gì? Nó còn chưa có vợ mà.
Anh trợn mắt nhìn tôi:
- Theo… dượng thì chừng nào mới lâu?
Cô lại giục:
- Thôi ở đó mà lâu với mau. Mình mời anh tư lên nhà uống nước cái đã.
Khi lên tới nhà. Sau khi ngồi xong xuôi. Cô ấy hỏi tôi:
- Mình xuống ăn tết với mấy mẹ con em hay là về với anh tư. Bộ mình biết anh tư hả?.
Tôi chưa kịp trả lời thì Tư Lụa lại rổn rảng:
- Tụi bây xáp vô hồi nào mà cứ mình đầu ngọt xớt vậy? Con cái bao lớn rồi, mà tao không hay biết gì ráo. Rồi anh quay sang tôi tự giới thiệu. Tôi là anh cô cậu với con Út đây. Má tôi thứ tư, ba con út thứ năm.
Tôi bật cười :
- Tôi đâu biết anh tư. Phải biết vậy, hồi đó tôi bắt anh đi lính luôn cho có anh có em.
Trong khi ba mẹ con đang tíu tít, tôi kể sơ cho anh Tư Lụa nghe về việc của chúng tôi. Mấy mẹ con nghe và hiểu ra rồi cười y như Tết. Ủa, Tết thật mà. Nghe xong, anh thở hắt ra, rồi đổi giọng:
- Con út nó lên nhà tôi hà rầm mà tôi có biết nhà cửa nó ở đâu đâu. Chỉ nghe nói là ở Xẻo Kè thôi. Còn vụ chồng con của nó thì nghe loáng thoáng, làm sao mà biết tận tường. Tưởng làm sao. Ai dè gom vô một cục. Mà gom kiểu này kẹt dữ nghen.
- Đã tạo ra thì kẹt mấy cũng ráng chịu. Bây giờ anh có bắt tôi cúi xuống thì tôi cũng phải cúi thôi.
- Tôi có nghe con Út nói với tôi mấy lần mà lại không ngờ là chú. Với lại, làm ngày nào ăn ngày nấy, rảnh rang đâu mà đi tới, đi lui. Gặp nhau thì anh em mừng rỡ. Nghe nói nó có chồng thì hay vậy chứ cũng không tiện hỏi xem thằng em rể mình là ai. Cũng chẳng buồn hỏi nó làm ăn sinh sống thế nào? Thấy mẹ con nó ra vô, ăn mặc tinh tươm, học hành đàng hoàng thì mừng vậy thôi.
Cô ấy nhìn tôi ngượng ngịu. Tôi thì nói giả lả:
- Thôi thì anh để tôi bảo mấy đứa nhỏ tìm cách báo cho chị tư hay anh về trễ. Anh ở đây cho em út tạ tội một phen. Mình ơi…
- Thôi thôi. Tết nhất mà bỏ bà ấy ở nhà một mình là không được. Chuyện của… chú. Ủa, mà dượng út mày, mai mốt tao tính sau. Như không đổi giọng ngang xương nghe nói hơi trèo trẹo cái miệng. Thôi. Tao về nghen. Ờ. Quên. Bữa nay tao có tiền, mới trúng mối xộp đây. Hòa, Hậu đâu lại đây cậu Tư lì xì.
Cô ấy lại khoát tay, nói lớn:
- Thôi mà anh tư. Tụi nó lớn hết rồi, lì xì cái gì? Nếu phải lì xì thì cho em gởi tiền lì xì cho bầy cháu của anh. Với lại anh tư chờ em một chút. Đã đến nhà em thì phải có gì mang về ăn tết chứ? Hòa lấy chài, chài cá cho cậu Tư đi con. Hậu bắt cho cậu tư mấy con gà về cúng mùng ba. Anh mà hổng nhận vợ chồng em không cho về.
Thế là cha con tôi phải làm theo lệnh bà chủ nhà ra sau vườn vừa chài cá, vừa bắt gà. Chỉ một chài thôi, nào là mè vinh, rô phi, sặc rằng, trê lóc, tai tượng. Tha hồ lựa. Thằng Hậu thì tài thật, mới thoáng một cái đã mang đến hai con gà gần cả ký mỗi con. Anh tư Lụa tay lựa cá, miệng nói, không hiểu anh chuyển tông từ chú sang dượng út hồi nào mà ngon ơ :
- Út nè, cô mày giỏi thiệt. Biết bày biện công việc làm ăn ghê. Hầm cá này dượng út mày nhậu mệt.
Cô ấy vừa cười vừa nói :
- Em mà biết mới lạ. Một tay ba mấy đứa bày biện, chỉ cách đào ao, vét mương, xử lý nước, rồi mua cá giống mang vô. Miễn chuyện gì em không biết thì hỏi, ảnh chỉ cách cho mấy mẹ con làm.
Tôi phì cười:
- Anh mà nghe cô ấy nói riết là tôi trở thành ông thần. Hay là làm lai rai một chút rồi về. Anh tư.
- Hổng được dượng. Đã một chập ngoài vàm rồi, bây giờ theo dượng út mày chập nữa có mà quẹp luôn. Thấy dượng mày nhậu mà tôi muốn nóng lạnh. Rượu mạnh mà dượng mày uống như uống nước ngọt. Tôi muốn xỉn mà dượng mày coi bộ tỉnh queo.
Anh cúi xuống xách giỏ cá rồi tiếp:
- Hậu tiếp cậu hai con gà. Về trễ mợ con cằn nhằn dữ lắm. May mà có cái để tay xách, nách mang kiểu này chắc bà ấy dù có giận cành hông cũng xuống cái ọt.
Tôi bước lại nói nhỏ với anh :
- Anh tư về đừng nói gì với chị và mấy cháu nghe anh tư. Qua tết em về ngoài ấy gặp chị tư rồi em mới lựa lời
Anh nhìn tôi tỏ vẻ thông cảm:
- Thôi. Chuyện ai nấy lo. Hồn ai nấy giữ. Nói tới nói lui làm gì. Vụ này lùm xùm là gay go đấy. Thôi tôi về.
Cô ấy vừa chạy theo vừa nói :
- Anh Tư. Cho em gởi một ít lì xì cho mấy cháu. Anh nói bà cô lì xì. Hòa đổ xăng cho cậu Tư đi con.
Anh tư cười cười:
- Khỏi lo. Ông chú nó gởi ngoài đầu vàm rồi. Tao chỉ cần chuyển tông sang ông dượng là xong. Không cần lấy nữa. Còn xăng cứ đổ đầy bình, nếu có một can sơ cua nữa cũng chẳng chối từ.
- Muốn mấy can cũng được.
- Thôi nghe. Đổ đầy bình cho cậu thôi nghe Hòa. Mày mà nghe lời ba má mày thì có ngày dẹp tiệm. Nhất là ba mày. Xài như cái cối. Hồi đó đi lính lương bổng chẳng bao nhiêu. Thế mà khi không, chẳng quen biết gì tao mà lại xuất tiền lo giấy hoãn dịch hết mấy chục ngàn. Vậy mà khi trả lại còn muốn giận.
Út Giữa tròn mắt nhìn tôi, rồi nhìn anh Tư Lụa tỏ vẻ không hiểu. Còn mấy cậu cháu đưa nhau xuống đò, tôi thấy vui thật vui. Trời cũng chập choạng tối. Cô ấy nhìn tôi trân trân rồi hỏi nhỏ:
- Mình không về?
- Mình lạ thiệt. Nhà ở đây, vợ con ở đây còn về đâu nữa?
- Mình bỏ chị và con ở nhà một mình.
- Hai mẹ con về ngoại hôm hai mươi tám. Anh ở nhà chẳng biết đi đâu. Thôi thì xuống đây xin ngủ nhờ vậy.
- Thôi. Vô nhà. Muốn ngủ ở đâu chỉ chỗ cho con giăng mùng.
- Mình giăng mùng cho anh chớ. Sao lại là con.
- Em thì đã giăng sẵn, nếu mình không sợ chật thì em cho ngủ chung. À. Sao mình không để mùng hai hả vô. Mẹ mới mất, chị vừa mổ xong mà mình bỏ đi. Còn cúng kiến nữa.
- Có mấy chú nó lo. Hồi đó anh ở tù chín mười năm, có cúng kiến gì đâu, ba má còn hổng rầy. Huống gì bữa nay vô với vợ con.
- Mình nói bậy không. Mấy cô, mấy chú biết được mình vô đây là mình mệt đó. Mà mình mua cái gì mà lủ khủ vậy?
Tôi không trả lời, nắm lấy tay cô ấy:
- Thôi. Vô nhà đã.
Vào đến nhà. Cô ấy lại lúi húi chuẩn bị nào là pha nước, áo khăn. Rồi giục tôi tắm sớm, kẻo trời tối gió bấc thổi mạnh, lại lạnh. Rồi cơm nước, café. Mấy mẹ con lăng xăng lo toan cho một ông chủ nhà… mà mấy chục năm mới về nhà ăn Tết có một lần. Tôi ngồi hớp từng ngụm trà và nhìn ngó quanh quanh. Xẻo Kè đã có điện. Ngôi nhà như ấm lại. Tôi nhìn quanh thấy ba mẹ con chuẩn bị ăn tết khá tinh tươm. Tôi nhẹ cả lòng.
Đây là lần đầu tiên, mà cũng có thể là lần duy nhất, tôi đến ăn Tết với ba mẹ con. Một không khí gia đình thực thụ. Mấy mẹ con chăm chút cho tôi từng thứ một. Họ xem những việc làm của mình là một bổn phận đương nhiên và họ thực hiện bằng một sự tự nguyện đầy hạnh phúc. Bóng dáng một người đàn ông thật sự cần thiết cho một gia đình đến thế sao? Dù bóng dáng của tôi trong ngôi nhà này chỉ là một người đàn ông còm cỏi, mù mờ. Những gì mà tôi thực hiện cho ngôi nhà này chỉ mang tính tượng trưng. Vòng tay của người chồng dành cho cô ấy thì năm khi mười họa. Đôi vai của người cha này chưa ấm được dăm lần hơi hướm của con. Vẫn biết lòng thương yêu mà tôi dành cho họ thì vô bờ, nhưng thể hiện thì… gần như trớt quớt
Đúng là Tết thật. Vợ chồng con cái cứ râm ran đủ chuyện. Hai thằng con thì cứ loăng quăng hỏi tôi hết chuyện này sang chuyện khác. Cô ấy chẳng cách chi chen vào, nên sắp soạn cái cartab của tôi. Rồi lôi mấy bộ quần áo ra ủi, dù đã ủi rồi, rồi máng vào tủ. Lấy bộ đồ tôi mặc vào mang đi giặt. À không, mang đi dấu, có lần nào mà tôi vào đây mà không mất một bộ đồ. Không biết cô ấy làm thế để làm gì nhỉ? Rồi đi vào tìm một chuyện gì đó để mà chăm sóc tôi. Café, trà và cuối cùng là một nồi cháo gà làm cho hai đứa con phải ganh tị. Thằng Hậu lại là đầu têu:
- Ba mà vào thì tụi con xuống cấp. Dĩa thịt gà của ba không có một miếng xương.
Và Hòa thì phụ họa:
- Biết bao lâu anh hai mới nghe em nói một câu đúng.
Cô ấy lại lườm hai cục cưng của mình:
- Tụi con còn trẻ ăn đầu, giò, cánh, xương xóc là phải rồi.
Tôi lại phải chen vào:
- Thôi. Má con dọn ra như thế. Ai ăn gì thì gắp. Ba có giành với các con đâu. Thôi ăn nhanh lên. Sắp giao thừa rồi.
Cô ấy vẫn cố chống chế:
- Mình cứ thế. Con muốn gì được nấy. Đến khi mình đi. Chúng nó quen thói thì em lãnh đủ.
- Thôi. Được rồi. Con có gì thì mình mét anh. Được chưa. Ăn đi. Các con thích dĩa nào gắp dĩa nấy. Cái gì chê thì để đó cho ba. Mình cũng ăn đi.
Nói thì nói vậy. Nhưng rốt cuộc rồi, cái dĩa thịt gà không xương và bộ lòng, chỉ có một mình cô ấy gắp cho tôi trong khi hai đứa con vừa ăn, vừa nhìn và cười với nhau. Cô ấy thì cứ như không biết. Cứ thản nhiên gắp vào chén tôi hết đũa này sang đũa khác.
Gần giao thừa, vợ chồng, con cái ra trước sân, xúm nhau đốt rơm nướng bánh phồng. Ôi. Cái không khí tuyệt diệu của ngày nào, đã lâu rồi không thấy, đã xảy ra. Ánh lửa bập bùng, mùi bánh, mùi khói rơm hòa quyện mang theo một hơi ấm nồng nàn giữa cái không khí se se lạnh của giây phút cuối năm. Bao lâu rồi nhỉ? Tôi không được hưởng thụ cái không khí tuyệt diệu này và bây giờ đây nó lại đuợc tái hiện như một giòng nước lũ. Và tôi đang bơi trong kỷ niệm mờ xa và hạnh phúc thực tại. Nhân đôi hay nhân một ngàn lần. Tôi không còn sức lực để mà nhận biết.
Khi cô ấy nướng bánh. Mấy cha con lại rù rì hết chuyện này, sang chuyện khác. Nghe các con nói chuyện. Tôi thực sự an lòng. Hòa tỏ vẻ chín chắn trong làm ăn. Hậu thì có láu táu, nhưng học hành nghiêm túc. Khi cô ấy gọi tôi:
- Mấy cha con, nói gì mà lắm vậy. Hoà mang bánh vô đi con. Chuẩn bị cúng giao thừa. Nhớ châm hai bình trà để cúng giao thừa và ông bà nội. Còn một bình cho ba con nghe. Còn Hậu, lấy nước dập lửa rồi hốt tro đi con.
Hậu nhanh nhảu:
- Ba má vào đi. Để đó cho con.
Hậu quay lưng đi. Tôi nhìn lại, ánh lửa rơm chỉ còn là một đống than hồng lấp lóa, nhưng cũng đủ làm cho khuôn mặt cô ấy hồng lên và lấp lánh hàm răng, long lanh đôi mắt. Chỉ có mái tóc như là nối dài với bóng đêm vô tận đen tuyền:
- Còn anh thì làm gì? Tôi hỏi
- Mình hả. Mình bồng em vô nhà.
- Anh bồng hổng nổi. Cõng thì họa may. Cũng như hồi đó vậy. Xong xuôi là anh cõng vô liền.
Cô dứ dứ vào tôi
- Hông à nghen. Hồi đó thì không sao, bây giờ mà con nó thấy được thì có nước mà chui xuống đất. Mình cũng lạ, em đòi như vậy mà mình cũng chiều. Bây giờ nghĩ lại thiệt là… em hết biết em. Mà thôi. Mình quay lưng lại đi.
- Thấy chưa. Miệng thì nói vậy mà…
- Thì chiều em một chút đi. Còn một lát nữa Tết rồi.
Khi tôi quay lưng lại, cô ấy vòng tay ôm lấy hông, tựa đầu lên lưng tôi và im lặng. Một lát sau tôi nghe cô ấy nói nhỏ, thật nhỏ:
- Nhìn thấy cái lưng mình, em nghe nhẹ cả người. Được tựa đầu vào lưng mình. Bao nhiêu lo lắng mất hết trơn. Nắng mưa, gió máy cỡ nào cũng chẳng chạm tới em.
- Và cũng không chạm tới anh em con.
Cũng lại thằng Hậu.
Không biết cô có nghe con nói không mà vẫn giữ nguyên như thế. Hậu đã vào nhà. Mãi rất lâu sau, cô ấy vừa nói vừa xoa xoa lưng tôi:
- Mình mỏi không? Thôi vô nhà nghe mình. Cái lưng của mình xương không. Cô ấy trở giọng xót xa.
Tôi im lặng choàng vai cô ấy, tôi bước những bước chân bềnh bồng. Cô ấy đã đặt một niềm tin quá lớn vào tôi, vào cái lưng mỏng tang như tờ giấy. Nhưng niềm tin ấy lớn đến độ nó lấn át hết cả những tủi buồn của kiếp đời lẻ mọn. Tôi tự hỏi và nghi ngờ mình. Tôi có đáng được thế không? Khi mà trong lòng tôi chưa bao giờ thanh thảnh khi đón nhận hạnh phúc của cô ấy. Và tôi cũng biết rằng khi cô ấy cũng thế.
Mấy mẹ con tất bật chuẩn bị đón giao thừa. Cô ấy dọn một mâm đủ thứ bánh trái đặc trưng của vùng quê; bánh phồng, bánh tét, bánh ít, một ít kẹo mứt, thèo lèo… lên bàn giữa nhà, chuẩn bị đủ cả nhang đèn. Hai thằng con thì lăng quăng hết chuyện này sang chuyện khác. Tôi đứng nhìn và thầm mong giao thừa đến chậm, mà nếu đến rồi thì hãy chậm qua. Khi đồng hồ đổ chuông. Cô ấy đốt nhang đưa cho tôi và nói nhỏ:
- Mình. Mình mời ba má về ăn Tết đi mình.
Tôi cầm mấy cây nhang rồi cùng cô ấy lầm rầm khấn vái. Tôi gần như chẳng vái van chi. Không hiểu cô ấy khấn vái cái gì mà lâu thế. Khi xong, tôi nói với cô ấy:
- Sao mình biết ba má qua đây. Mà khấn vái gì lâu thế?
- Nhà này là con, cháu của ba má mà. Con cháu ở đâu thì lòng mẹ cha, ông bà cũng ở đó. Còn khấn vái thì em có khấn vái gì đâu. Em chỉ xin ba má nhận em và các con.
Tôi ngạc nhiên nhìn cô ấy. Đôi mắt sáng long lanh. Tôi hiểu cô ấy khao khát chuyện này đến nhường nào. Tôi biết, sự vĩ đại người đàn bà là được chăm sóc cho người mình yêu thương. Đối với họ, việc chăm sóc cho người mình yêu thương không phải là một bổn phận, một trách nhiệm hay một thứ gì gì… khác. Đó là một nhu cầu. Một nhu cầu luôn luôn bào mòn sức lực của họ, nhưng bao giờ cũng làm cho ánh mắt long lanh. Vợ tôi thì luôn luôn chăm chút cho tôi tinh tươm áo quần, vừa miệng món ăn, nhưng lại gieo vào lòng tôi lắm nỗi ưu phiền. Cô ấy thì cũng thế. Và lỗi thì ở tôi.
Cô ấy bảo anh em thằng Hòa đốt nhang, lạy mừng tuổi ông bà nội. Tôi choàng tay qua vai cô ấy, rồi cả hai cùng nhìn những làn khói bay lượn lờ, nhìn hai đứa con mừng tuổi ông bà. Bổng nhiên cô ấy nói, giọng như nghẹn lại:
- Ba má nhận em rồi mình ơi.
Tôi nhìn những tàn nhang không rơi gãy mà cong lại. Người ta nói, khi đốt nhang cúng kiến người đã khuất, tàn nhang không rơi xuống mà cong lại là linh hồn người được cúng vái đã về. Tôi chưa bao giờ tin điều này. Nhưng hôm nay thì tin. Tin thật lòng như cô ấy vậy. Tôi siết chặt cô ấy trong tay mình, nghe mùa Xuân đang từng giây, từng giây trùm khắp nhân gian. Xong lễ cúng giao thừa, thay vì ăn uống chút gì thì Hòa, Hậu lại bàn chuyện đi chơi đâu đó. Cô ấy dặn con :
- Hai con đi chơi gì thì chơi. Nhưng không nhậu nhẹt.
Hòa trả lời:
- Ba má khỏi lo. Chúng con đi hát karaoke một lát rồi về. Chúng con có mang theo chìa khóa. Ba má cứ khóa cửa.
- Tại sao không hát ở nhà?
- Thôi. Hát um sùm ba má không ngủ được.
Giữa tiếng gió xào xạc và những tiếng lá chuối lật phật bên hè. Cô ấy hỏi và tôi kể cho cô ấy nghe về quan hệ của anh Tư Lụa và tôi. Cô ấy nhìn tôi bằng một ánh mắt lạ lùng:
- Cũng mình nữa. Cả giòng họ em mắc nợ mình.
- Chẳng qua là anh muốn tự làm yên lòng mình thôi. Thấy mình như vậy anh không cứu thì… uổng lắm à nghen.
- Hứ. Uổng, vậy mà khi em ra gặp mình, mình hổng tỏ lộ cái gì hết trơn. Chẳng thèm nhìn em một cái. Tới sau này gặp lại em phải năn nỉ mình muốn gãy lưỡi. Đợi tới lúc em ôm đại mới chịu.
- Lúc đó anh đang run.
- Run. Đàn ông gì mà nhát hít vậy.
- Ai biểu mình thơm quá làm chi. Anh mắc hít vào thì làm sao mà ừ được.
- Mình nói gạt em. Thôi. Nói vụ anh tư nè?
- Thấy chị tư Lụa và mấy cháu như vậy. Anh biết giúp được mà không giúp xem ra cũng kỳ. Anh nợ mình thì có. Một mình mình nuôi cho anh hai thằng con trai bự cãy rồi còn gì?
Cô ấy ôm lấy vai tôi, giọng run run:
- Mình nói gì đâu không, cũng con em nữa chứ. Như vậy em liều mạng thương mình đâu có uổng mình hén. Mình biết hông? Lúc cùng bác Năm ra Rạch Giá tìm thấy mình rồi. Về nhà em thức gần cả tháng không ngủ nghê gì được. Tới chừng nhớ ra mình có chị rồi em thức thêm một chập nữa. Mà mình thì đâu có đẹp trai gì đâu? Cái miệng dẻo quẹo. Nói ra tiếng nào tiếng nấy là hai cái tai em cứ kêu ù ù. Mới gặp có chút xíu mà em chìm xuồng. Mình coi vậy mà ác thiệt.
Tôi lặng yên không nói gì, rồi cô ấy cũng lại thế. Cô bẻ bánh cho tôi ăn, rót nước trà cho tôi uống và đi tới, đi lui dọn cái này cho tôi nhìn, dẹp cái kia để cho mái tóc phất qua phất lại cho… tôi ngắm. Thỉnh thoảng quay lại châm thêm nước vào bình. Cuối cùng, cô ấy… không cho tôi ngủ.
Tôi vẫn nằm yên choàng tay cho cô ấy gối đầu và cô thì tiếp tục đêm đếm mấy ngón tay, mấy cục chai trong lòng bàn tay, rồi cả mấy cọng sươn sườn. Một lúc sau, có lẽ là thấy không thiếu món gì, cô ấy nói mà như giần giận :
- Mình làm sao vậy ?
- Làm sao là làm sao?
- Bộ mình hết thương em rồi hả?
- Ai nói. Hết thương mà chui vào đây.
- Hay là nhậu với anh tư rồi mệt?
- Đâu có. Khỏe re mà
- Vậy sao mình… mình… êm ru vậy?
- À. Anh ngỡ là mình…
Cô im lặng một chút rồi ôm chầm lấy tôi và nói nhỏ:
- Hổng có đâu mà. Hết mấy ngày rồi. Vậy mà cũng không chịu hỏi.
- Ai biết đâu? Mọi lần mình đến với anh thì đâu có kín mít như thế?
Cô ôm choàng lấy tôi và thì thào:
- Em quên mà. Vậy mình… làm gì đó thì làm đi.
Và cô ngồi dậy, rồi đứng xuống đất và để tôi tự tay làm cho cô thông thoáng và để cho mùi hương từ thân thể đó cuốn lấy tôi. Cô ấy bao giờ cũng vậy, tính cách vẫn vẹn nguyên. Luôn luôn tuân phục, luôn luôn sẵn sàng. Hiến dâng và đón nhận bằng một thái độ cuồng nhiệt. Không có bất cứ sự e dè, kềm chế nào trong cảm xúc. Thích gì làm nấy. Muốn sao nói vậy. Chưa bao giờ tôi thấy có một chút e ấp, màu mè nào của cô ấy trong chuyện ái ân. Nhưng cô cũng biết tôi muốn gì ở cô. Đại loại như tôi luôn hôn khắp người, tất nhiên là không bỏ sót. Thế là hôm nay tôi nằm yên cho cô hiến dâng tận miệng. Món nào cũng ngọt ngào, nơi nào cũng ấm áp và ở đâu cũng nồng nàn. Nhưng hôm nay là ngày xuân nên tất cả được nhân lên. Nhân bao nhiêu lần nhỉ? Làm sao mà tôi biết được. Tất nhiên, cô ấy cho tôi một thì cô ấy nhận lại hai. Đấy. Cô tham lam cũng đâu kém gì tôi.
Giấc ngủ đến cả hai khi đã no đầy khoái cảm. Bên ngoài trời ngan ngát hương xuân.
Bổng dưng có cái mùi thơm thơm quen thuộc, nhưng đậm đà hơn làm tôi hơi ngộp ngộp. Tôi vội mở bừng mắt. Khuôn ngực đầy đặn ấy đang kề sát mặt tôi. Hai cái núm vú hồng hồng, nâu nâu đang chấp chới gọi mời và mái tóc thì thì đang tỏa hương. Nhưng tôi cũng nhận ra là trời đã sáng bét. Căn phòng sáng trưng mà tôi không biết là do ánh nắng ngày xuân tràn qua cửa sổ hay là thân thể trắng ngần của cô ấy, đang vây bủa lấy tôi. Mà thôi, cái gì cũng được hãy yêu chiều cái mùi thơm thơm, nồng nồng từ hơi thở, từ bộ ngực ấm áp tuyệt vời này trước đã. Ôi. Mùa xuân, với lấp lóa nắng xuân hồng, với lất phất gió xuân nồng, chập chờn cành lá xuân xanh, ngan ngát hương hoa xuân thắm. Tất cả đang lùa qua khung cửa sổ làm cho mùa xuân êm đềm trong tay tôi thêm đầy đặn đắm say. Và mùa xuân đã ban cho chúng tôi thêm sức lực để thêm một lần yêu đương tuyệt diệu. Đôi tay, đôi chân và cả người của cô không cho tôi một khoảng trống nào. Tất cả mùa xuân đang đầy ắp trong cô chấp chới, trùm phủ, rủ rê tôi tung bay trong bầu trời hoan lạc. Cuốn hút lấy chúng tôi vào cơn mê đắm vô ngần. Trời đã Xuân rồi nay lại thêm Xuân. Cô ấy thì thào bên tai tôi điều gì đó. Tiếng nói và hơi thở gấp gáp và hai thân thể của chúng tôi tan biến vào nhau.
Tôi đang chìm đắm trong một mùi hương kỳ lạ và ngạc nhiên cho chính mình. Sức lực nào để cho tôi yêu chiều cô ấy như thế? Thực ra, từ lâu lắm rồi tôi không còn có thể ái ân với một khoảng cách thời gian gần như vậy. Trong khi cô ấy còn đang từ tốn, dịu dàng, và có khi ham hố, mê cuồng nuốt chửng lấy tôi bằng đôi môi ấm áp, nồng nàn, thì tôi tỉnh táo lại trong cái mệt mỏi nhẹ nhàng và tôi mới hiểu cái mùi hương ấy là từ đâu mà có. Ôi thân thể con người mới tuyệt diệu làm sao. Nhất là thân thể của người cùng mình chung cuộc ái ân. Tôi chợt nhớ bài thơ tôi viết khi cùng cô ấy đưa con đi Cần Thơ, mùi mồ hôi thoang thoảng tỏa ra trong một tấm thân sạch sẽ tinh tươm. Rồi thấm đẫm vào tôi rồi đi sâu vào trong ký ức, để sau đó tôi viết trên máy tính, rồi hớ hênh để cho ông linh mục đọc được. Ôi. Cái sự cố này đã được tôi linh cảm trước rồi chăng? Cố nhiên là tôi không ghìm được nữa, nên ôm chặt mùa xuân của tôi vào lòng, vừa hít cho no đầy cái mùi hương nồng nàn ấy, vừa kề tai cô, nói một câu mà tôi chưa từng nói với cô bao giờ:
- Anh yêu em.
Mùa Xuân, cô ấy và tôi chấp chới cùng bay khi mà tôi nghe cô ấy đang run rẩy trong tay. Có một giọt nước âm ấm rơi xuống ngực tôi. Mãi lâu sau cô ấy nói:
- Em định giỡn với mình. Kêu mình thức dậy. Mà mình không hiểu gì hết. Mình lại làm chuyện ác với em. Bộ mình thương em lắm hả?
Thế mà… Ôi một kiểu đánh thức chưa từng có. Môt câu nói oái oăm chưa từng có. Tôi lại phải siết nhẹ cô vào lòng:
- Anh yêu mình mà.
- Mình… mình lại ác với em.
Cô ấy lại run run.
Trời đã sáng bảnh từ lâu, nắng xuân đang phả hồng khoảng sân vắng lặng. Bổng dưng tôi không tin vào mắt mình, một bụi bông trang với những bông hoa đỏ thắm lấp lóa, lấp lóa dưới ánh nắng rực rỡ. Tôi bước ra sân. Phía sau bụi bông trang là bàn ông thiên đang có một chén nước lóng lánh và bên trong là một bông trang đặt trên bệ thờ cạnh cái lư hương. Một cảm xúc nhẹ nhàng nhưng thật mạnh mẽ như lần tôi nhìn thấy bụi bông trang trong ngôi vườn hoang tàn ở nhà thằng Bình. Tôi đứng yên dưới nắng xuân và tôi bềnh bồng, bềnh bồng.
- Mình ơi. Nắng như vậy mà mình đứng đó làm gì?
Tiếng nói cô ấy văng vẳng như ở một nơi nào xa lắm, xa lắm. Tôi vẫn tan trong ánh nắng muà xuân bằng những cảm giác kỳ diệu ấy.
- Mình ơi. Vào nhà mình.
Kèm theo là một bàn tay nắm lấy tôi lay mạnh.
Khi vào tôi hỏi:
- Mình trồng bụi bông trang từ bao giờ.
- Cả năm rồi. Mà mình sao vậy?
- Không sao cả? Mà mình trồng chi vậy?
- Lần trước mình vào, mình ngủ trưa mà mình mớ rất lớn “Ô. Bông trang, bông trang đẹp quá” Lúc đó mình đang ngủ mà em thấy mặt mình rạng rỡ lên như lúc nãy vậy.
Thì ra là vậy. Tôi lại hỏi:
- Mình tìm ở đâu? Bây giờ đâu có ai trồng bông trang.
- Em tìm hoài không gặp. Em nhờ bác Năm. Bác Năm xin đâu ở Thầy Quơn mang qua cho em.
Tôi lại …
Sáng mồng hai. Tôi đưa cho cô hai cái phong bì đỏ. Rồi bảo:
- Mình dặn con trông chừng nhà. Mình qua mừng tuổi ba má.
Cô ấy tròn mắt nhìn tôi, rồi vừa ấp úng, vừa bệu bạo:
- Mình… mình nói gì?
- Đi mừng tuổi ba má.
- Thiệt hả mình?
- Ừ. Mà mình cũng chuẩn bị cho anh cái mo cau.
- Ở đâu mà có mo cau. Mà để làm gì?
- Không thì kiếm miếng giấy gì dày dày cũng được.
- Chi vậy mình?
- Bó đít lại. Chớ ở với con gái người ta, có con thiếu điều muốn làm sui rồi mà chẳng biết nhà ông già vợ.
Cô đỏ bừng cả mặt:
- Thôi, nếu ba có đánh mình thì em nằm đại lên lưng mình là xong. Ổng sợ con gái út ổng đau thì ổng đánh nhẹ.
- Hổng dám nhẹ đâu. Lấy chồng mà chẳng nói với mẹ cha tiếng nào. Hổng chừng ổng giận, ổng nện banh chành luôn. Không có ngon ăn như lúc mình bật nút áo nằm đại lên mình anh đâu?
- Thôi à. Tết nhất mà mình cứ kiếm chuyện chọc em. Để em chuẩn bị. Nhưng hổng có mo cau đâu nghen. Lỡ thương chồng rồi thì ráng mà chịu.
Giọng cô bổng trở nên mơ màng.
- À mà sáng hôm qua. Mình nói cái gì với em. Mình nói lại cho em nghe coi.
- Hồi nào? Mà anh nói cái gì?
- Hồi sáng hôm qua, sáng mùng một đó. Lúc…
Tôi nhìn cô, khuôn mặt ấy đang hồng lên:
- Chờ hai con chó con đó lên. Nói cho chúng nghe luôn.
- Thôi, con nít con nôi cho nó nghe chuyện người lớn làm gì? Mà nó cũng biết hết rồi.
- Vậy là em nghe rõ rồi. Còn nhắc lại làm chi?
- Mình nói lại cho em nghe đi. Sáng hôm qua… mắc công chuyện, nên em nghe chưa rõ lắm.
- Mắc công chuyện? Chuyện gì?
- Nói đi mình. Em nói mắc công chuyện… không nghe mà.
- Hổng biết còn nhớ hông đây.
- Em đố mình đó. Mình mà quên là em quậy cho coi.
- Mình nhỏng nhẻo quá đi.
- Vậy chớ lâu lâu mình mới vô một lần. Hổng lẽ gây lộn. Ừ đó. Em nhỏng nhẻo với mình đó. Chẳng những bây giờ mà mai mốt già khọm em vẫn cứ như vậy. Ai làm gì em. Nói đi mình. Hồi sáng hôm qua.
- Để anh nhớ coi… À. Phải rồi. Anh nói với mình “Anh yêu em”. Đúng hông?
- Xời ơi. Dễ nói muốn chết, mà mấy chục năm nay mình cứ lập bà, lập bập. Để tới già chát mới chịu nói ra. Mình thiệt là tình. Từ sáng hôm qua tới giờ em cứ lơ lơ, lững lững. Hổng biết mình có nói hay không. Ai dè mình nói nhằm lúc em đang… mắc công chuyện.
- Công chuyện gì. Anh thấy mình làm gì đâu?
- Ai biểu mình quấy rầy em. Mình… mình ác với em. Mà sao mình lại nói “anh yêu em” mà không nói “anh yêu mình”
- Nói như vậy là để cho mình biết là anh yêu mình hồi lúc còn kêu mình bằng “em”
Cô trố mắt nhìn tôi:
- Rồi tới khi kêu em bằng “mình” thì mình hết yêu?
- Tại sao lại không. Còn yêu dữ hơn nữa là khác. Anh đã nói lần thứ hai là “Anh yêu mình mà “
- Ừ hén. Em quên. Lâu lâu mình nói một lần còn đỡ đỡ. Như không mấy chục năm không nói gì hết. Tới chừng nói, mình dồn lại một cục làm em muốn… xỉu.
Tôi im lặng nhìn khuôn mặt ấy hồng lên. Hèn chi suốt ngày hôm qua, lúc nào cô ấy mặt mày cũng hồng hồng, miệng như cười cười. Còn tôi thì… không hiểu sao một tay lắm lời, nhiều lẽ, mà tới giờ này mới biết trong ngôn ngữ của nhân gian có mấy lời như thế. Hình như hàng ngày, người ta nói với nhau hà rầm, thực có, giả có. Thế mà tôi…
Bao nhiêu năm ấy chung cùng
Nhớ thương, thương nhớ đầy lòng đắm say
Vòng tay ôm hết ngất ngây
Môi kề môi đắm đuối lời ái ân
Mà sao vẫn cứ tần ngần
Lập bà lập bập lần khân tháng ngày
Để khi tóc điểm sương rồi
“Anh yêu em” ấp úng lời trên môi.
Ôi. Cái chuyện này rất cần nói thật thà.Vậy mà khi thật thà thì lại đâm ra lập bập. Mà lập bập những hai mươi hai năm thì quả là nhát hít. May mà nói không được nhưng làm thì được.
Bao giờ cũng thế. Cô ấy luôn biểu lộ cho tôi thấy là cô ấy yêu tôi. Những việc mà cô ấy làm bộ nhỏng nhẻo, nủng nịu. Chẳng qua là cô ấy muốn tôi vui. Và chỉ có thế. Chưa bao giờ cô ấy sử dụng cái lợi thế chết người này để làm bất cứ một điều gì phiền lụy cho tôi. Ngoại trừ cái việc tôi phải để cho cô ấy yêu chiều. Mà thứ này tôi muốn phiền thì cũng chẳng còn hơi sức đâu mà phiền. Suy cho cùng thì bà vợ bé này… Hổng biết nói làm sao cho đúng.
Cô nhìn xuống trạm xăng, gọi Hòa:
- Hòa à. Con lên cho ba con bảo một chút.
Hòa chạy lên :
- Ba má kêu con.
- Hai anh em coi nhà. Ba má qua ngoại. Con bảo Hậu đem máy xuống vỏ và châm xăng vào. Nhớ lấy thêm một can cho ba má mang theo cho ngoại, để ngoại muốn đi đâu đó thì đi. Hậu đi chơi đâu rồi con?
- Nó nằm đọc sách ở dưới trạm xăng. Thôi ba má chuẩn bị đi. Tụi con lo cho. Hay ba má để cho em Hậu đưa đi. Ba ngồi che dù cho má.
Cô ấy xua tay:
- Thôi. Thôi. Tết nhất mà để cho em con lái vỏ vọt là xuồng ghe người ta lên bờ hết. Như sực nhớ lại, cô tiếp. Bữa nay, con chọc má nữa hả? Ba con che dù cho má thì phải rồi. Đâu đợi tới con nhắc.
Hòa cười cười bỏ đi. Tôi quay lại hỏi cô ấy:
- Con nó như thế là tại mình chiều nó quá phải không?
- Con của mình chớ của ai mà mình hỏi em?
- Mình chuẩn bị đi. Mình chạy. Anh che dù cho.
- Đâu có gì mà chuẩn bị. Mọi thứ em cho con mang qua từ hôm trước Tết. Bữa nay thêm mình và hai cái phong bì nữa là xong.
- Vậy thì đi. Đưa dù cho anh. Con nó nói đúng đó.
- Mình làm kiểu đó thì xuồng ghe người ta không lên bờ mà vợ chồng mình lên bờ. Làm ơn ngồi trước mũi giùm em đi. Và tự mà che lấy. Đen thui mà không lo.
Mọi người không ai ngờ là chúng tôi đến. Ba cô ấy đang ngồi uống trà tán gẫu với mấy ông bạn già. Má cô ấy và mấy bà trong xóm đang gầy sòng tứ sắc. Chúng tôi chào hỏi mọi người, ai cũng chào đón chúng tôi bằng một thái độ thân tình, trừ má cô ấy. Phải công nhận là bà già giận dai thật. Và chính vì thế, làm cho tôi thấy nó làm sao ấy. Y như là một tên ăn vụng bị bắt quả tang. Trong khi cô ấy đang chuẩn bị mọi thứ lên bàn thờ thì tôi lại phải trả lời hết câu hỏi này đến câu hỏi khác. Mãi cho đến khi cô ấy giục:
- Mình ơi. Em chuẩn bị rồi. Mình…
Tôi đứng dậy và nói:
- Thưa ba má và cô bác. Năm mới vợ chồng con chúc ba má và cô bác luôn luôn khỏe mạnh. Và xin phép ba má cho phép vợ chồng con được mừng tuổi ông bà.
Ba cô ấy nhìn tôi rồi nói:
- Ba cám ơn các con. Thôi mừng tuổi ông bà đi.
Tôi lại phải bậm gan nói tiếp:
-Trước khi mừng tuổi ông bà. Vợ chồng con xin ba má tha lỗi cho. Vợ chồng ăn ở với nhau, con cái ngần ấy tuổi rồi. Chúng con mới lần đầu tiên cùng nhau qua trình diện tổ tiên. Đây là một điều không phải. Ba má và cô bác tha lỗi cho thì vợ chồng con mới dám.
Ba cô ấy từ tốn nói:
- Thôi, lỗi phải gì? Tại thời cuộc nó mới vậy. Chứ nếu suông sẽ thì có ai muốn vậy đâu? Mà có muốn cũng hổng được với ba đâu? Hai đứa con mừng tuổi ông bà đi. Có ông bà nào lại chấp nhất con cháu.
Chúng tôi đến thắp nhang lên bàn thờ. Rồi cả hai cúi xuống lạy. Vừa lạy cô ấy vừa nói nhỏ:
- Chỉ cần ba nói hai tiếng “thôi khỏi” là em chết liền.
Tôi cố nín cười:
- Biết sợ vậy mà còn nằm đại lên mình anh. Đã vậy còn bật sẵn nút áo.
Đã cúi xuống sát đất rồi mà cô ấy còn niểng mặt qua háy tôi một cái. Ánh mắt trong veo, đuôi mắt dài ngoằng.
Xong rang cái phần mừng tuổi. Cô ấy lại móc hai cái phong bì đỏ đưa cho ba cô ấy một cái và nói:
- Năm mới vợ chồng con gửi ba mua trà uống.
Ông cầm lấy cái phong bì đặt xuống bàn, rồi nói:
- Hôm trong tết, anh em thằng Hòa có mang qua rồi. Cái gì hoài vậy? Cứ vài tháng thì chồng con gởi, vài tháng thì chồng con đưa. Bộ chồng con làm nhiều tiền lắm hả con? Ba có xài phí gì đâu mà đưa chi nhiều vậy?
- Tết mà ba. Với lại đây là lần đầu tiên con về nhà mà có chồng. Bao nhiêu lần trước qua mình êng.
Cô ấy quay sang đưa cho má cô ấy, vừa nói nhỏ vừa cười
- Má. Lấy tiền đậu chến má. Của chồng con.
Hai lỗ tai tôi nổ lùng bùng. Tôi không còn nghe được ai nói gì? Tôi bước tới nắm tay cô ấy lôi ra cửa, rồi nói như rít qua kẻ răng:
- Mình điên rồi hả? Mình ăn nói cái kiểu gì thế?
Cô ấy nhìn thấy đôi mắt tôi long lên thì mặt mày tái xanh lại và cứ ấp a, ấp úng:
- Em… em…
- Thôi vô. Thiệt hết biết. Về nhà mình biết tay anh.
Khi tôi trở vào và ngồi vào bàn. Mọi người hỏi han về công việc làm ăn. Nhưng hỏi tôi rất cặn kẽ về việc tôi cứu cô ấy ra sao hoặc việc tôi đi lính hồi đó, rồi việc tôi ở tù ra sao. Nhưng hầu hết đều cảnh báo cho tôi về tính khí của cô ấy. Mọi người gần như quên là thằng Hậu đã hai mươi tuổi. Tôi tỏ vẻ thắc mắc:
- Cháu thấy vợ cháu đâu có dữ dằn thế. Nghe mấy chú nói làm cháu phát run. Hai chục năm nay, vợ cháu bao giờ cũng “mình ơi, mình à“ ngọt xớt với cháu chứ đâu có gì đâu
Một người lên tiếng:
- Chà. Chú mày coi bộ binh vợ dữ a. Chú mày cũng biết chớ. Thứ gì độc cách mấy cũng có thuốc trị. Con nhỏ này ngang ngược khét tiếng cả xứ Hốt Hỏa với Xẻo Kè. Nhưng được cái biết điều. Chú mày thấy không. Hai lần lấy chồng. Không thèm nói với ai một tiếng. Nghèo cạp đất ăn. Dứt khoát không tơ hào của ai một cắc. Bây giờ khá giả thế đó. Không ai sai chạy với nó được một đồng. Mà phải việc là ai hỏi cũng đưa. Ấy vậy mà tụi tao nghe ông già vợ mày nói là chỉ cần mày trừng mắt lên một cái là nó êm ngay.
Tôi cười cười:
- Vậy mà cháu có biết gì đâu? Lúc hai đứa xáp vô cháu nghĩ là tại mình. Với lại bấy lâu nay, cháu có trừng, trợn gì với cô ấy đâu?
- Chà. Thôi chú ơi. Chuyện vợ chồng ai nấy biết. À mà để coi. Chú mày tuổi gì?
- Dạ cháu tuổi Hợi. Đinh Hợi
- Thôi. Đúng sách rồi. Con Út nó tuổi Giáp Ngọ.
- Đúng làm sao hả chú?
- Hai tuổi này có một điều rất xấu, một điều rất tốt. Xấu là tuổi Giáp Ngọ này mà vớ dính tuổi Đinh Hợi là phải làm bé, nên cũng hơi lùm xùm. Tốt là mày nói trời, nói đất gì nó cũng nghe. Mà cái tuổi của mày mà xáp vô cái tuổi của nó thì mày nói trật ở đâu không biết, chớ mở miệng ra với nó toàn là nói trúng không?
- Sao kỳ vậy chú? Vợ một, vợ hai mà trúng ở chỗ nào.
- Ậy… ậy. Tao đã nói là cái số nó phải vậy mà.
Tôi đành im như thóc, dù không tin, nhưng kể ra có cái số này thì oái oăm thiệt. Nhưng đúng như thế thì… cũng được.
Một ông khác lại góp vào:
- Nói tới cái vụ hai đứa bây xáp vô, tụi tao mới cành hông. Đã làm bé mà lại làm bé cho thằng đang trốn chui, trốn nhủi. Không một cắc lộn lưng, chỉ một bộ đồ dính da. Mày nhét xong cái bầu vô bụng nó rồi mày bỏ đi mất biệt. Hỏi cô bác nào mà thấy cháu mình như thế mà không trào máu mậy. Vậy mà ai nói động tới mày là sanh tử với nó. Tay xách nách mang hai đứa con. Buông cái này, bắt cái kia. Khi dư dã được đồng tư, đồng rưỡi, có mấy tay ở đâu đến bờm xơm với nó. Nó quay cán chổi dứ dứ rồi hét vào mặt “Mấy ông không bằng cái móng tay chồng tôi nữa mà bày đặt “. Còn một tay nữa ọ ẹ sao đó hổng biết. Nó xách cây len quăng một cái cảng, rồi nói ” Ông thấy mười công đất mới cày không? Trong vòng một tháng rưỡi ông ban làm sao cho bằng rang như năm công kế bên. Tôi bỏ ba thằng Hòa ưng ông liền“. Một công tao thấy còn muốn dội ngược, đừng nói mười công. Tay đó bỏ giò chạy mất. Bọn tao cũng không biết mày tài ba đến cái cỡ nào, mà thấy nó làm coi bộ dữ quá. Mãi đến sau này biết rõ ngọn nguồn nên mới té ngữa. Nhất là thấy năm công đất chú mày dọn phải nói là đã con mắt. Tụi tao là dân làm ruộng có nghề mà thấy là muốn chóng mặt. Đất lung bào gò đống lổm ngổm. Thế mà mày làm mấy tháng bay bứt. Thấy thì khoái. Chứ tụi tao, mãi sau này lúc khấm khá ra, mới dám thuê máy về ban. Hèn chi nó binh chú mày mút chỉ.
Tôi cười cười:
- Chú ơi. Chẳng qua lúc đó không có việc gì làm. Mà cơm người ta thì mình ăn, mùng người ta thì mình ngủ, mặt người ta thì mình hun. Ở không coi sao được. Chớ thật ra là lột hết mấy lớp da tay. Nắng muốn bể đầu bể cỗ. Đã vậy đêm phải thức khuya, sáng phải dậy sớm.
Mấy ông lão trợn mắt nhìn tôi, rồi cười ha hả:
- Cái thằng này. Phải chi tụi tao còn trẻ, chắc là phải học thuộc lòng câu này.
Có ai đó từ bên sòng tứ sắc nói vọng sang:
- Bộ già rồi không thuộc được sao? Đâu mấy ông nói thử rồi làm thử coi. Đố mấy ông dám.
Những tiếng cười rộ lên vui như… tết. Và rồi một người vài tiếng, làm cho cái chân tướng bà chằn của cô ấy càng lúc càng lộ ra. Thế mà khi nhìn cô ấy thỉnh thoảng đi qua đi lại, dọn bánh châm trà thì tôi lại không thấy có vẻ gì là bà chằn cả.
Mọi người bảo ở lại lai rai. Nhưng chúng tôi cố từ chối ra về. Với lại, rượu vào lời ra chẳng hay chút nào. Ba cô ấy chắc hiểu nên cũng không cầm cọng.
Về tới nhà. Nhớ lại câu nói của cô ấy tôi còn nhộn nhạo trong bụng. Còn cô thì cứ lấm lét nhìn tôi. Thấy cũng tội. Thôi thì giải quyết cho rồi. Tết nhất mà. Khi cô ấy đi ngang. Tôi nắm tay lại:
- Mình ngồi xuống đây anh hỏi một chút.
Cô ây tần ngần:
- Thì mình hỏi đi.
- Ngồi xuống.
Cô ấy cóm róm ngồi xuống. Tôi hỏi:
- Hồi nhỏ mình bú sữa bò hay uống nước cơm pha đường chảy?
Cô ấy chưng hửng:
- Đâu có. Em bú sữa của má mà.
- Vậy tại sao nói chuyện với má như vậy? Anh uống nước cơm pha đường chảy nè, mà chưa bao giờ dám nói với bà nội thằng Hậu nửa câu như thế. Chớ đừng nói tới nguyên câu.
- Em… Em nói chơi.
- Nói chơi cái kiểu gì kỳ cục vậy. Con nó nói với mình như vậy, mình chịu không? Từ đây. Chấm dứt cái kiểu ăn nói như vậy nghen. Má, dù thế nào cũng là người sinh dưỡng ra mình. Mình đưa cho má được đồng nào thì đưa, không được thì thôi. Đưa kiểu đó là làm sao. Hổng sợ quả báo hả?
Cô ấy im lặng một lúc rồi lí nhí:
- Em nghe mình. Mà em cũng ẩu thiệt. Em tính nói chơi thôi. Ai dè mình giận.
- Không phải anh giận. Mà anh sợ người khác nghe được. Nó kỳ hờm lắm. Mình biết không? Con cái mình lớn hết rồi. Sui gia được rồi. Mình như thế mai mốt dạy con, dạy dâu làm sao đây?
- Em biết rồi. Thôi mình bỏ qua cho em. Ai bảo mình không dạy em.
- Không dạy hả? Ngay từ lúc mình mới gặp anh. Anh đã nói rồi. Bấy lâu nay, anh không hay, không biết. Chắc là mình tha hồ trả treo với má ha.
- Thôi mà. Em nói em bỏ mà. Mai mốt mình nghe được, mình xử em thế nào em cũng chịu.
- Ủa. Nghe nói hung dữ lắm mà. Sao bữa nay hiền vậy?
- Tại… tại mình là chồng em mà.
Ôi một câu nói “hung dữ“ không thể nào tả nổi. Hung dữ đến độ một tay “coi trời như cái bánh khọt“ này cũng phải êm re.
Mấy ngày tết, cha con chồng vợ cứ loay hoay bàn chuyện ruộng nương, mua bán, làm ăn, rồi chuyện học hành của thằng Hậu. Ngày mồng bốn, khi chỉ còn hai cha con. Hậu nói với tôi:
- Ba. Cái việc lúa cho vay. Ai cũng làm mà sao ba không cho má làm.
Tôi lại phải giải thích cho con. Thằng bé nghe xong lại nói:
- Con nói cái này ba đừng rầy con nghe. Vụ đó ông ngoại thì nói ba hiền, cậu tư thì nói ba… khùng. Còn bà cô thì nói ba sợ người ta giựt, tụi con không có gạo ăn, mắc công ba lo.
Tôi trả lời con nửa đùa, nửa thật :
- Bà cô con nói trúng. Còn hai con thì nói làm sao?
Hậu đưa tay gãi gãi đầu một lát mới ấp úng:
- Con thì… thì nghĩ ba hơi… gàn. Còn anh hai thì nói ba đã bảo cái gì cũng nên làm theo, khỏi phải bàn cãi.
Tôi cười và xoa đầu con :
- Chỉ có vậy mà cũng ấp úng. Ừ thì con cũng trúng. Nhưng anh hai con thì hơi quá. Thôi. Nghe ba hỏi này. Tiền trong sổ tiết kiệm còn bao nhiêu?
Nó nhìn quanh rồi nói nhỏ:
- Còn nguyên, má không cho xài tiền đó. Má nói má lo cho con được. Cứ để đó khi nào ba muốn xài thì rút ra cho ba xài. Má kêu con đưa cái sổ cho má cất. Con đưa sổ cho má mà chưa rút ra được đồng nào. Má cũng lấy luôn cái giấy ủy quyền.
Tôi nghe xao động trong lòng, nhưng vẫn hỏi con :
- Má con cho tiền đủ xài không? Nếu không thì viết thư cho ba. Mấy lần ba lên thăm con, không nghe con nói gì.
- Thôi, con hổng dám. Má với anh hai mà nghe được là con lãnh đủ. À ba ơi. Má cỡ này giàu lắm, ba đừng có lo. Nhưng má không có cho vay bạc lúa nữa đâu.
- Sao con biết má con giàu?
- Con đâu biết, một năm con về nhà có mấy tháng. Con chỉ nghe cậu mợ tư nói.
Tôi chợt nhớ ra là không nên biết quá nhiều về những gì cô ấy có, nên tìm nột điều gì khác để hỏi con:
- Anh hai con từ sáng đến giờ đi đâu ba không thấy?
- Anh hai đi Gò Quao. Qua thăm cô giáo, bạn ảnh. Anh hai thấy ba còn ngủ, nên chỉ hỏi má.
- Còn con nữa. Đi đâu, làm gì con có hỏi má con không ?
- Làm ngang, đi ngang là chết với má.
- Nhưng mà con có nghe lời đâu. Ba nghe má con nói. Con chạy vỏ vọt ghe xuồng lên bờ hết. Phải không?
Thằng bé chống chế:
- Đâu có dữ vậy. Tại má sợ, má nói vậy.
- Má con sợ là phải. Nuôi con tới bao lớn rồi mà không có ba bên cạnh đỡ đần. Má con cực khổ lắm. Mỗi bước đi của các con. Má con trông đứng, trông ngồi. Thương má thì ráng mà tự gìn giữ nhân cách mình, bản thân mình. Anh em con làm bất cứ việc gì cũng phải nghĩ đến má con, đến những người chung quanh nữa.
Thằng bé lại chống chế :
- Con cũng thương ba vậy.
Tôi phì cười:
- Ừ. Thì thương ba cũng phải vậy. Hổng lẽ, cãi lại má con mà thương ba à? Con phải nghe lời má con, nghe lời anh hai con nữa. Anh hai con nghỉ học là vì con. Con biết không?
- Dạ. Con biết. Tại lâu lâu ba vô. Con tính nhỏng nhẻo với ba một chút. Ai dè hổng được gì hết trọi.
Tôi nghĩ thầm. Cái thằng láo thật :
- Thì cứ nhỏng nhẻo. Nhưng phải nhớ là con lớn rồi. À quên. Nhà có ai đi đâu nhiều mà má con sắm tới hai cái vỏ như thế?
Hậu đưa mắt nhìn quanh, rồi nói nho nhỏ:
- Ba hổng có nói là con nói nghe. Trong đó có một cái vỏ và máy chỉ để dành riêng. Chẳng ai chạy được cả. Lại càng không cho mượn. Chỉ một mình má sử dụng để đưa rước ba. Tại ba không để ý. Từ ngày ba vô ra ở đây. Có khi nào tụi con được đưa rước ba đâu. Chẳng những thế, quần áo, giày vớ của ba. Tụi con đừng hòng mà rớ tay vào giặt giũ, lau chùi. Má là đại lý độc quyền mà.
Trời đất. Chuyện này thiệt là hết ý kiến. Thôi thì tùy vậy, cô ấy muốn gì thì muốn làm gì thì làm.
Nhìn con, tôi lại nghe ấm lòng. Con cái đã lớn. Chà mình sắp làm sui. Tôi lại hỏi thăm con về gia đình và giòng họ nội, ngoại Thằng bé biết khá tận tường. Mà tôi cũng quên lửng là hỏi xem tại làm sao nó biết. Tết nhất giỗ quãy, mấy mẹ con làm bổn phận của mình rất tinh tươm. Và tôi cũng đã được cô ấy mời cùng cô ấy đứng thắp nhang khấn vái ba má tôi trong giờ giao thừa và các bữa cơm sáng chiều trong ngày tết. Tôi biết là làm hay không làm việc này cũng không sao cả. Chẳng tổ tiên, ông bà cha mẹ nào đòi, người sống cũng như người đã khuất. Những việc làm này chẳng qua là làm yên tĩnh lòng mình. Mà những ai biết làm yên tĩnh lòng mình như thế thì đáng trân trọng xiết bao. Huống gì đây là vợ con tôi.
Thức dậy từ rất sớm tôi ra sau hè nhìn ngó quanh quanh. Khi ánh bình minh phả xuống một ánh sánh rực rỡ và song hành là những ngọn gió bấc lay phay lạnh. Tôi nhìn vạt ruộng mới cày. Ánh nắng lấp lóa một màu đất nâu nâu. Hốt nhiên tôi nhớ lại bài thơ mà mình đã làm, mà đã có lúc tôi cho là một ước mơ không thể thành hiện thực. Nhưng bây giờ thì… chắc phải ghi lại thêm một lần nữa. Bởi vì không chỉ là ước mơ mà là một sự thật hiển nhiên
NÂU NÂU
Luống cày phơi lấp lánh màu nâu nâu.
Lưng bàn tay cũng nâu nâu nắng gió,
Chỉ có trái tim bừng bừng màu đỏ,
Từng vạt cày nâu chấp chới gọi xanh.
Một thoáng mây, rồi những thoáng mây lành.
Nâu nâu áo mồ hôi pha với nước,
Bàn chân nâu dẫm trên nâu nâu đất,
Khói chiều bay lãng đãng gọi nâu về.
Đêm nâu nâu mưa từng hạt tỉ tê.
Kêu gọi những mầm xanh về mặt đất,
Để muôn trùng quê trở thành bích ngọc,
Mát lòng anh và đỏ thắm lòng em,
Nâu nâu đi qua ngày tháng thân quen,
Dát từng vệt xanh dài lên khắp chốn,
Nối đất xanh với trời xanh lồng lộng,
Nâu nâu da, nâu nâu đất. Dịu dàng.
Ôi! nâu nâu ánh lên nét diệu huyền.
Mưa nắng thơm thơm, đêm ngày thấp thoáng,
Có ai đó, trong lay phay gió chướng,
Hai bàn tay nâu nắm lấy. Trái tim hồng.
Màu nâu nâu ấy bật lên từ đôi tay tôi trong những ngày vong gia thất thổ và hôm nay… Bàn tay cô ấy rám nắng nâu hồng. Khuôn mặt cũng thế. Rồi hương tóc ai đó lay phay trong gió bấc phả vào mặt tôi. Rồi mãi lâu sao thành tiếng gọi:
- Mình.
Và vòng tay nâu hồng ấy, ôm lấy hông tôi. Không phải chỉ là ước mơ mà còn nhiều hơn sự thật.
- Mình ơi.
- Cái gì nữa đây?
- Cái lưng của mình…
- Lưng anh. Lưng anh làm sao rồi?
- Xương không chớ làm sao. Vậy mà tựa đầu vào cũng êm hết biết hén.
Đã hai lần cô ấy nói cái lưng tôi chỉ có xương thôi. Tôi biết tại sao cô ấy nói thế. Lòng tôi lại nổi lên những cơn sóng nôn nao. Cuối cùng, tôi cũng tìm được một việc gì đó để làm cho vợ con trước khi ra về. Tôi cầm cây sào vớt lên từng bụi lục bình, rồi mang chúng bỏ vào ao cá. Cái ao khá rộng được nạo vét lại từ một hố bom. Nếu cứ để nắng chan chát như thế này thì khô mất. Thả lục bình vào vừa giảm tối đa lượng nước bốc hơi, vừa tránh bị chài cá trộm và làm cho nước sạch. Tôi cũng biết làm như vậy cá chậm lớn vì thiếu ôxi, nhưng không sao vì mật độ cá nuôi trong ao không cao, nên không ảnh hưởng nhiều. Tất nhiên là tôi phải giải thích cho cô ấy và hai thằng nhóc biết việc này. Những việc làm nhỏ xíu, năm thì mười họa tôi mới mó tay vô. Nhưng nếu tính về hiệu quả kinh tế thì tôi lời gấp bội, khi mà tôi nhận được từ cô ấy một cái nhìn lấp lánh, báo cho tôi biết tôi luôn luôn nhận được trong vòng tay mình một thân thể có chứa đựng một trái tim đầy ắp yêu thương, đầy ắp nồng nàn. Nhưng cái điều mà tôi thực sự cảm động chính là sự bình yên tuyệt đối mà tôi nhận được ở nơi này. Dù ngắn ngủi, dù thỉnh thoảng mà quý giá vô ngần. Cứ mỗi lần tôi tìm đến, gió trên sông và hơi thở của cô luôn thổi sạch ưu phiền.
- Mình ơi. Vào ăn cơm đi
Tiếng gọi ấy mà không vào thì không được.
Cô ấy dọn cho tôi những món ăn y như những ngày đầu tôi vào đây. Một ui kho quẹt đủ loại cá mà anh em Hòa, Hậu đi chài dọc theo rạch Xẻo Kè, một tô canh bằng đủ các loại rau hái quanh vườn, một chén nước mắm tỏi ớt và nồi cơm gạo trắng tép. Không hiểu từ bao giờ, cô ấy biết tận tường cái nết ăn uống, ngủ nghê của tôi và cả ước muốn nữa. Rất đơn giản, nhưng lại hơi khó khi thực hiện. Rồi trong cuộc sống hàng ngày, khi có tôi hoặc khi tôi vắng mặt, tất cả những ý muốn của tôi gần như cô đáp ứng đủ đầy. Giờ đây thì được không khí của mùa Xuân làm cho đậm thêm. Tôi ăn ngon miệng. Nhìn tôi ăn hết chén này sang chén khác, mấy mẹ con hết nhìn tôi, rồi nhìn nhau. Cô ấy nói mà cố dấu tiếng thở dài:
- Tết nhất mà mình ăn uống cái kiểu gì thiệt là kỳ cục. Ai ở ngoài bước vào nhìn thấy là chết em.
- Cái gì mà kỳ cục, mà chết?
- Mấy hôm nay là Tết nhà không thiếu gì món ăn ngon. Lớp nào mẹ con em chuẩn bị, nào là mình mua vào. Mà em thấy mình ăn cho lấy có. Đã vậy trong ao thì chẳng thiếu gì cá ngon. Làm kiểu nào mình cũng chỉ ăn một chút rồi thôi. Bữa nay làm đồ ăn như thế mà thấy mình ăn. Em phát sợ.
Tôi im lặng cười, Hòa cũng thế, còn Hậu thì láu táu:
- Ừ. Ba ngộ thiệt đó má. Con thấy mấy món này làm như muốn dội ngược.
- Con dội thì để ba ăn. Một lát mấy mẹ con làm món gì mấy mẹ con thích mà ăn.
Cũng lại là Hậu:
- Con chẳng hiểu gì cả. Hổng lẽ ba phong độ như vậy mà số cực.
Tôi nhìn con tôi:
- Con làm thầy tướng số bao giờ vậy? Này, mấy mẹ con nghĩ xem. Ba ăn không ngon sao được. Tết nhất mà mấy con xách chài đi chài, bắt từng con cá hủn hỉn dưới sông, mẹ mấy con thì ra sau hè hái rau, từng lá rau dền, rau ngót, ra bờ rào ngắt mấy cọng mồng tơi, dăm cọng rau đắng, rau dịu, xuống mé sông chui vào đám lá đầy kiến vàng ngắt từng cái đọt choại non chong. Rồi tỉ mẩn làm những con cá lẳn mẳn ấy, rồi kho nấu, nêm nếm. Mồ hôi mồ kê đẫm cả người. Mệt lắm mấy con biết không ? Đó là chưa kể việc phải năn nỉ mấy con đi chài? Số ba như vậy mà con nói là cực. Đồ chó con.
Hai thằng con tôi tròn mắt nhìn nhau. Rồi cũng lại là Hậu:
- Nghe ba kể, tụi con thấy má bỏ công nhiều hơn, trong khi gió bấc vù vù mà tụi con mình mẫy ướt nhẹp.
Tôi tiếp lời chúng ngay:
- Về tới nhà hai đứa quăng cái ạch đó, rồi tắm rửa xong là ngồi xem tivi. Trong khi má con lại lúi húi trong bếp. Thế mà mấy con cà nanh với má con à. Ừ. Thì ba thương má con nhiều đó. Được hông? Đứa nào dám cãi ba. Nói nghe coi.
Hai cặp mắt mí lót lại mở to ra nhìn nhau. Hòa nói một câu làm tôi giật mình:
- Ăn cơm xong tụi con đi chơi. Cho ba tha hồ mà thương má để trả công. Có tụi con ở đấy mắc công ba chia.
Chúng nhìn nhau rồi nhìn mẹ chúng, mẹ chúng nhìn tôi, và tôi thì nín thinh, cắm cúi vét sạch những món ăn mà mình thích…
Rồi bữa ăn cũng xong. Hai thằng nhóc bỏ đi chơi thật. Đúng là chó con. Hai con chó con này lớn thiệt rồi. Lịch sự lắm chớ. Chúng hiểu sự yên tĩnh cần thiết cho chúng tôi xiết bao. Khi cô ấy đang ngồi rửa chén ngoài cầu ao. Tôi đứng sau lưng, nói nhỏ:
- Bữa cơm vừa rồi, mình cho anh ăn y hệt như ngày đầu tiên mình dụ khị anh vào đây.
Cô ấy chẳng biết có nghe không mà vẫn cứ rửa chén. Cuối cùng, cô quay lại nhìn tôi:
- Tại em biết mình dễ nuôi. Hổng dụ cũng uổng. Ở ngoài chợ, muốn ăn như thế thì mình làm sao?
- Chỉ còn có cách là vào đây. Thèm quá mà không vào được thì… nằm chiêm bao.
Nói xong tôi mới chợt nhớ, quả là cuộc sống thị thành chưa phải là đáp ứng hết mọi tiện nghi và yêu cầu của cuộc sống. Hay là tại tôi đòi hỏi quá cao. Chắc không phải vậy. Giản đơn thôi mà. Thôi, phải cùng cô ấy vào nhà thôi. Tôi ngồi uống trà nhìn xuống bờ sông. Thấy gió đùa những ngọn dừa, làm cho ánh nắng phản chiếu trên lá lấp lánh, nhảy múa, đong đưa. Đang miên man với những hồi tưởng của ngày tôi mới đến đây. Tôi nghe bước chân cô ấy đến gần. Tôi quay lại, cô ấy vừa mới tắm xong, đang dùng khăn lau khô mái tóc. Tóc thật đầy, dài quá thắt lưng, mượt mà, đen nhánh. Tôi đứng dậy, đến bên cô nói nhỏ:
- Mình để anh lau tóc cho.
Cô mở to mắt nhìn tôi, rồi đưa cho tôi cái khăn. Tôi cầm lấy khăn, nâng lấy tóc, dìu cô đến ghế. Một mùi hương nhè nhẹ. Ôi lại là lá bưởi, hoa chanh. Tôi từ tốn lau từng món tóc. Chậm rải, nhẹ nhàng. Khi tóc đã khô, tôi lấy lượt chải tóc cho cô. Khi xong. Hốt nhiên tôi nhớ, lúc còn nhỏ, mỗi khi hè đến tôi từ Rạch Giá về Cái Mới Lớn. Tôi thường hay chải tóc cho mẹ, tôi đã đòi và được mẹ dạy tôi bới tóc, kèm thêm một câu “ Số con làm mọi vợ. Ai đời con trai mà học bới tóc“. Nói vậy nhưng mẹ vẫn dạy. Và mãi đến sau này, khi có dịp là tôi bới tóc cho mẹ tôi. Bây giờ, thì tôi đang nâng trên tay một mái tóc thứ hai trong đời. Như vô thức, Tôi cẩn thận rẻ ngôi ngay ngắn. Và tôi bới tóc và cô ấy nhìn qua tấm gương soi. Mái tóc rất đầy, dài nên không cần tóc mượn. Tôi bới hơi thấp dưới cỗ áo và cố tình để lại món tóc che đi cái sẹo nơi mặt. Khi mọi thứ xong xuôi. Tôi nghiêng người nhìn, thì cô ấy đứng dậy ôm chầm lấy tôi và ngước nhìn, đôi mắt long lanh, đôi môi mấp máy:
- Làm sao mà mình biết bới tóc.
- Mẹ dạy. Tại anh muốn làm mọi vợ. Mẹ dạy mà nói anh như thế. Em thấy mẹ nói đúng không?
- Ai biểu mình nghe lời mẹ làm chi? Mà mình có bới tóc cho chị không?
- Mẹ dạy thế nào. Anh làm thế ấy. Làm sao dám cãi.
- Em hỏi mình có bới cho chị không?
- Không. Cô ấy tóc ngắn. Anh chỉ chải thôi.
- Mình ác với em.
Mình ác với em. Câu nói này cô thường nói với tôi. Hiểu làm sao cho đúng đây. Nếu tôi nhớ không sai thì câu nói này, cô ấy nói với tôi lần đầu tiên nó như thế này; Em… em thương anh quá anh ơi. Anh… anh ác với em. Lúc đó là một đêm trăng, cô ấy nói sau khi chúng tôi ân ái ngoài đồng. Cô thương tôi nhiều lắm vì một cái lý do ngộ nghĩnh là tôi ác với cô. Mà tôi ác làm sao nhỉ? Ôi. Không biết hôm đó thằng Hậu có nghe má nó trách phiền ba nó không đây.
- Mình ơi!
- Gì nữa đây?
- Sao mình hổng nói gì hết vậy?
Tôi không trả lời và cúi xuống… để cho cô ấy có dịp mà trách phiền tôi. Bước vào tuổi năm mươi ba với một hình tích như cò ma. Thế mà tại sao tôi thấy mình như trẻ lại ở tuổi đôi mươi. Con người này khi ở xa xa thì thơm thơm, đến gần gần thì lại hóa nồng nàn. Thôi thì, mấy đứa nhỏ đã đi chơi, nhà chỉ còn hai vợ chồng già. Chắc lại phải ác với cô ấy nữa đây. Quả đúng như thế. Trong cảm xúc tuyệt vời, tôi lại nghe “Em… em thương mình quá. Mình ơi. Mình ác với em“. Có khác lúc xưa một chút. Vì ngày xưa là tình sâu, bây giờ cũng vẫn tình sâu mà còn thêm… nghĩa nặng
Ôi. Sao mà cái sự cố Y2K tuyệt diệu dữ vậy cà? Và tại sao lại không viết một giòng nào nhỉ?
- Chải tóc cho em trong ngày Xuân
Anh nâng niu từng ngụm hương nồng
Để trộn lẫn mùa Xuân vào trong tóc
Chải tóc cho em trong ngày Xuân
- Những sợi tóc dài như là mây
Những sợi tóc dài như cơn say
Bay lượn quanh đời anh bất trắc
Trói lòng anh cứ ở mãi nơi này
- Ngoài kia trời Xuân thật trong
Mà ở trong đây anh bềnh bồng.
Từ mái tóc em dịu dàng xưa cũ
Ngoài kia thêm nắng Xuân hồng
- Có nghĩa là anh chìm trong em.
Anh chải hoài cho đắm đuối thêm
Nên chưa vội bới tóc em thành búi
Anh chải hoài, chải tóc cho em
Qua tết các đơn đặt hàng tấp nập gởi tới. Tôi lại trở về với công việc. Không tìm ra người phụ giúp, tôi đành phải làm một lúc một ba công bốn việc. Ngồi máy để thiết kế, điều động thợ thực hiện và giao dịch với khách hàng kiêm luôn thu hồi nợ, ký kết hợp đồng… Cứ thế mà quay. Cuộc sống về vật chất lúc này thì thoải mái. Nhưng lại thêm lo, mà chẳng biết lo cái gì? Có việc thì cứ làm, tiền có thì cứ có. Nhưng khổ nỗi, đã qua bao nhiêu đận đói nghèo. Tôi chưa bao giờ tập được cái tính thương tiền. Tôi lại phải thu xếp lên Sa Đéc thăm ông bà ngoại bé Lương và rước hai mẹ con về. Những ngày ở Sa Đéc tôi cũng được sự chăm sóc quá ư đặc biệt. Tôi cũng dành thời gian chở hai mẹ con đi thăm thú nơi này nơi khác, mua một ít quà cáp biếu xén những người lớn tuổi của bà con bên vợ. Chở vợ con vô Bình Tiên thăm lại ngôi đình nơi tôi suýt chết. Đến vườn quýt bà cả Hương, nơi tôi bị bắn bể cạnh lỗ tai… Lên cả Mỹ An Hưng mò vào nơi tôi dính một bàn chông. Tất cả đã thay đổi theo thời gian. Những màu xanh vẫn còn đó, thậm chí xanh hơn vì mang theo vóc dáng yên bình. Những giây phút ấy, chúng tôi thực sự vui vẻ. Mái tóc ngắn của vợ tôi không còn làm tôi bực bội.. Thôi tóc nào cũng tóc, ngắn hay dài thì có hề chi. Và những khi ôm cô ấy trong tay, tôi biết những cảm xúc của vợ tôi chìm khuất đâu đó thật nhẹ, thật mỏng manh. Thế nên một kẻ đa đoan như tôi phải thật lắng sâu lòng mới mong cảm nhận. Và tôi đã làm được. Ôi. Có phải thiên niên kỷ mới, nên với tôi cái gì cũng mới. Cũng phải thôi. Có ai cảm nhận được cái khoảnh khắc diệu kỳ của giao thừa thiên niên kỷ như tôi. Nhưng có ai lại ray rức như tôi. Đèo bồng khổ lắm ai ơi.
Em không còn mặc để đi chơi
Bán thơ nhân dịp anh ra chợ
Đành gởi anh mua chiếc mới thôi!
Hàng bông mai biếc màu em thích,
Màu với hàng, em đã dặn rồi.
Còn thước tấc, quên! Em chửa bảo:
Kích tùng bao rộng, vạt bao dài?
- Ô! Nghe hỏi mà yêu nhỉ!
Thước tấc anh còn lựa hỏi ai.
Rộng hẹp, tay anh bồng ẵm đó,
Ngắn dài, người mới tựa bên vai !
[iii] Lối chơi chữ vùng Nam Bộ ghép hai phức từ: tiếng Khmer “tâu na” có nghĩa là đi đâu; và tiếng Việt “biệt vụt“ có nghĩa là thiệt xa. Câu này được hiểu là “đi đâu mất biệt”
[iv] Tiếng địa phương; có nghĩa là một mình. Ở các vùng quê tỉnh Kiên Giang thường hay dùng
[v] Vô Đề của Lý Thương An
[vi] Một ca khúc của Trịnh Hưng, không nhớ tên.
[vii] Câu thứ bảy trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét