Người theo dõi

Thứ Sáu, 29 tháng 1, 2016

PHÍA BÊN KIA SÔNG PHẦN BA - CHƯƠNG X-

PHẦN III


CHƯƠNG X

NGỦ THẬP TRI THIÊN MỆNH ?


         Đi vào cái tuổi năm tư
Vài sợi tóc trắng tưởng như mình già.
        Mùa xuân đầy ngát hương hoa,
Mình như xuân vậy mà già được ư ?
        Dẫu cho thêm nữa mấy mươi
Vẫn mùa xuân ấy nên như không già.

Ờ. Hôm nay hai mươi tám tết. Lại tết. Công việc ngập đầu. Tôi còn phải đi thu nợ về cũng để trả nợ. Mười lần xách chiếc xe cà tàng chạy suốt hai mươi lăm cây số từ Rạch Giá đến Bến Nhứt để lấy tiền làm bảng hiệu cho một cây xăng, để nhận lấy mười cái hẹn lần sau. Hai triệu rưỡi. Số tiền không nhiều nhặng gì so với bề thế của cây xăng, nhưng với tôi là khá lớn. Ấy vậy, mà họ vẫn hẹn những mười lần. Đến lần thứ mười một cũng chẳng có một đồng, mà còn hẹn tiếp. Tôi nỗi quạu. Thế là một trận cự cãi diễn ra. Cuối cùng tôi nhận được một câu rất dễ nổi dịch :
- Ông có giỏi thì gỡ bảng mang về. Tôi không có tiền.

Đến nước này thì tôi đành chịu. Nhưng chẳng lẽ về không. Cái tính chằng gây của tôi lại nổi lên. Tôi tìm cách leo lên và gỡ cái dấu huyền của chữ “Cửa hàng“ nhét vào túi, rồi tuột xuống, đứng nhìn cái “Cửa hang” và sau đó tuyên bố một câu lãng nhách:
- Rồi. Thế là xong. Anh em nhà bây yên trí. Hai triệu rưỡi này kể như tao cúng cô hồn.
Rồi chẳng cần nghe ai trả lời trả vốn. Tôi lên xe vọt về Rạch Giá. Lạ một điều là trên đường về đầu óc nhẹ tênh. Không tiếc rẻ, không tức tối. Con đường như thênh thang trước mặt. Gió có vẻ xuân hơn và trời cũng trong hơn.
Mấy tháng sau “Cửa Hang Xăng Dầu” tổ tịa mà tôi chẳng biết lý do. Tôi lại cứ buồn buồn khi nghĩ đến. Không phải buồn vì mất hai triệu rưỡi. Mà buồn vì mình cư xử quá vội vàng. Biết đâu người ta đang gặp khó khăn trong công việc làm ăn. Câu chuyện trở thành một đề tài bàn tán của nhiều người.
Tôi đã dán mấy câu thơ trên ngay cửa ngôi nhà mới xây như là để xác định và củng cố một thái độ lạc quan của mình trước cuộc sống. Nhưng tôi không ngờ tôi phải tự trấn an mình trước những tai biến khác. Sức khỏe vợ tôi càng lúc càng trở nên phức tạp sau lần phẩu thuật thứ ba, tiếp theo đủ loại thuốc đông, tây, nam, bắc, chỉ còn thiếu thầy pháp, thầy bùa là đủ bộ. Lại một mùa xuân nữa. Tôi bắt đầu nghĩ đến mùa xuân. Một phần vì như mọi người là thích. Nhưng với tôi còn có một điều là những ngày cuối năm có một điều gì đó đặc biệt, từ trong niềm vui, nỗi buồn, từ trong những khắc khoải và hạnh phúc. Tôi vào xuân không yên ả.
Ban đầu. Cái ý nghĩ “không muốn già” của tôi mang tính cách của một nụ cười lạc quan. Thậm chí có một số bạn bè chế diễu là tôi muốn “cưa sừng làm nghé”. Tôi cười cười không xác nhận bất cứ điều gì. Nhưng đến lúc này thì nó lại trở thành “không dám già”. Bởi vì, nếu thế thì cái gánh nặng mà tôi mang vác trên vai sẽ chất lại cho ai, khi mà có những đôi vai vốn đã nặng rồi, những cái còn lại thì nếu không quá yếu thì cũng quá non. Đành phải lên gân vậy.

Tôi lại lên Sài Gòn để ký hợp đồng mới, thanh lý hợp đồng đã nghiệm thu xong, mua vật tư và chuyến đi này có mang một háo hức mới. Chuyến đi đầu tiên của tôi qua cầu Mỹ Thuận, sau khi khánh thành. Quả tình cây cầu đẹp thật. Đẹp như tranh vẽ ấy. Được cho phép đậu lại trên cầu, tôi cảm thấy khoái, nhưng cũng lấy làm lạ khi nhìn thấy lưu lượng xe qua lại cầu khá lớn mà số xe đậu lại khá đông. Đứng trên cầu để nhìn ngắm, để cảm nhận sự diệu kỳ của thiên nhiên, của trí tuệ và sức lao động của con người thì đã thiệt. Nhưng dừng đâu, đậu đó thì quả là hơi… kỳ dị. Tôi đứng nhìn con sông Tiền và nhìn chung quanh. Gió lồng lộng. Dù rằng độ cao chỉ là hơn bốn mươi mét, nhưng một màu xanh với nhiều sắc độ trải dài theo hai bên bờ sông và nhiều nhiều thứ nữa thấp thoáng, lấp loáng tạo nên một màu sắc diệu kỳ. Tôi chợt nhớ đến những gì nhìn thấy và cảm nghĩ của mình khi ngồi trên chiếc C.47 từ Sài Gòn về Rạch Giá. Cái màu xanh huyền hoặc này và những thứ xen lẫn trong đó, mà khi ấy tôi gọi là Màu Bình Yên. Và giờ đây trong một tầm nhìn giới hạn hơn thì nó đã trở thành một Màu Bình Yên thật sự. Mười phút ngó quanh đủ để cho tôi cảm nhận nhiều thứ.
Giữa năm đầu tiên của thiên kỷ thứ ba. Tôi thực sự gặp khó khăn lớn. Mấy lần phẩu thuật trước đã không xử lý rốt ráo và hậu quả là lần này, bệnh tình vợ tôi thêm nặng. Đưa vợ vào bệnh viện tỉnh. Không hiểu gì lý do gì, ở đó không có một quyết định nào, cứ liên tục chích thuốc giảm đau. Tất nhiên là tôi chẳng biết gì. Khi hỏi thì được trả lời chung chung và sức khỏe vợ tôi càng lúc càng suy kiệt. Tôi đành phải đề nghị chuyển lên tuyến trên. Đã không được đáp ứng mà còn bị chửi té tát vào mặt. Thế là tôi đành phải thuê xe ngoài. Khi đưa vợ tôi lên xe thì bị cán bộ bệnh viện chận lại đòi tiền viện phí. Lạ thật. Tôi vẽ bảng hiệu cho ai đó chưa đạt yêu cầu mà đòi tiền thì liệu ai trả nhỉ? Thế mà trong hoàn cảnh này tôi lại phải móc túi đóng tiền.
Đưa vợ tôi lên bệnh viện Chợ Rẩy phẩu thuật lần thứ tư. Mang theo chỉ có sáu triệu đồng, sau khi thanh toán tiền xe và làm xong thủ tục nhập viện là bay biến hai triệu rưỡi. Ngồi ở đâu cũng như ngồi trên chảo lửa. Những ngày ngắn ngủi ở đây, tôi chứng kiến không biết cơ man nào là tình đời ấm lạnh. Cũng cái hoạt cảnh muôn thuở của bệnh viện (?). Tiền. Đưa bệnh nhân đi xét nghiệm hay chuyển phòng đều phải Tiền. Lên lịch mỗ, cũng thế Tiền. Thuốc, máu, bông băng, gạc, kim tiêm Tiền. Tắm táp, giặt giũ, thay grapTiền, tiền, tiền Tất cả, đều hiện thành một con số cụ thể. Tôi chấp nhận hết. Và đây là lần đầu tiên trong cuộc đời mình, tôi nhận ra được giá trị tuyệt đối của đồng tiền. Nhất cử nhất động, đồng tiền được mang ra giải quyết. Và phải giải quyết một cách chỉnh chu. Điện thoại của bệnh viện, bóc lên để xuống bèo nhất cũng bốn ngàn đồng. Người ta kiếm tiền trên nỗi đau của người khác. Vợ tôi lên giường phẩu thuật với bệnh gì thì tôi không biết. Nhưng có điều tôi biết chắc chắn là cô ấy bị cắt mất một quả thận vì bị nhiểm độc do sử dụng thuốc giảm đau quá liều. Một cơn đau hai bệnh viện và câu khẩu hiệu kiểu thực tế mà tôi đã trải qua. “Lương Y Như Từ Mẫu “. Nhưng từ mẫu đi đâu để tình người lạnh ngắt. Rốt cục tôi đi đến kết luận “Lương y như dao mỗ “. Tính phen này thì thua. Nhưng rồi, cả anh em hai bên; bên chồng, bên vợ dốc lòng tương trợ. Bạn bè ba bề, bốn phía góp vào. Một gói tiền của một người dấu mặt. Và một khách hàng, có cửa hàng bán điện thoại di động, từ dưới Rạch Giá gởi lên cho cái Simens C.30 với simcard trả trước 500.000 đồng kèm theo lời dặn “Khi nào bà ấy hết bệnh tính sau“. Ôi tình đời ấm áp, làm lòng tôi thêm nặng nghĩa ân. Những ngày ở đây, đối với tôi cái bệnh viện này như bị nung nóng. Nhưng tôi lại thoát khỏi cái cảnh phải ngồi tính toán từng đồng. Một việc làm mà khả năng tôi không hề có.
Đã thế bên nửa kia của quả địa cầu, hai chiếc máy bay của bọn khủng bố tông vào một tòa nhà, tòa nhà sụp xuống, hơn ba ngàn con người vong mạng một cách lảng òm chỉ trong vòng mấy mươi phút. Ồn ào dăm bữa, rồi mọi việc cũng qua. Ông trời vô tâm thiệt. Chuyện như thế mà vẫn bình thản cho qua. Đúng là “ Thiên hà ngôn tai”.
Khi vợ tôi rời phòng mỗ và vào phòng hồi sức, tôi bước ra khỏi bệnh viện và đi tìm một quán ăn. Ăn uống xong, tôi mới thấy mình mới thật là mình. Gần sáu giờ đồng hồ tôi như là kẻ mộng du quẩn quanh khu nhà chờ đợi. Tôi đốt một điếu thuốc vừa nhả khói vừa nhìn quanh. Bổng có tiếng hỏi phía sau lưng :
- Ông anh là người ở tỉnh lên nuôi bệnh?
Tôi quay lại nhìn, xế trưa nên quán chỉ mình tôi. Tôi nhìn người hỏi. Ông ta nhìn tôi và như đang chờ câu trả lời, tôi gật đầu:
- Vâng.
- Thế, ông anh ở tỉnh nào?
- Kiên Giang.
Ông ta có vẻ ngập ngừng:
- Tôi là chủ quán. Tôi muốn hỏi ông anh điều này. Nếu như ông anh biết thì nói dùm.
- Vâng. Anh cứ hỏi.
Ông ta vẫn tiếp tục rào đón:
- Thực ra. Đây là vấn đề riêng tư. Nhưng tôi hơi ngài ngại. Bởi thế nên nếu có gì không phải, ông anh cũng bỏ qua cho.
Thấy ông có vẻ rào đón. Tôi nói:
- Anh cứ hỏi? Nếu tôi biết, tôi sẵn sàng.
- Cán ơn ông anh. Ông anh có biết ai ở Kiên Giang cũng khoảng độ tuổi ông anh, anh ấy tên là Nguyễn văn Hiền. Trước ngày giải phóng, hình như anh ấy là Cảnh Sát Dã Chiến.
Tôi giật mình. Tôi nhìn kỹ ông ta, gần sáu mươi, trông khá điển trai nhưng đi khập khiểng và cánh tay phải có một vết sẹo to tướng. Mình gặp ở đâu nhỉ? Tôi tự hỏi thế. Nghe cách hỏi của ông ta khá thân thiện. Cuối cùng tôi nói:
- Vâng tôi có biết. Ông anh ngồi đi. Ngoài những gì ông anh vừa nói. Ông anh có biết gì thêm về anh Hiền đó không?
Ông ta bước đến ngồi đối diện tôi rồi nói:
- Thực tình thì tôi không biết mặt anh Hiền. Nhưng nếu như ông anh hỏi tôi quen như thế nào với anh Hiền thì cũng khó cho tôi.
- Thế thì anh hỏi anh ta làm gì? Thú thật với anh. Những người có dính dáng đến chính quyền Sài Gòn rất ngại khi gặp người lạ tìm đến. Nên tôi cũng khó lòng cho ông anh biết gì thêm.
- Vâng. Tôi biết. Nhưng tôi kể cho anh nghe thế này. Tôi vốn là bộ đội. Năm 1970 tôi là cán bộ tiểu đoàn. Trong một trận đánh ở Kiên Giang. Tôi bị thương nặng ở chân, mà lúc đó lính Quốc Gia đánh rát quá, nên anh em chỉ băng bó rồi đành để tôi ở lại một mình trong cái chòi hoang và chỉ có một trái lựu đạn. Khi đơn vị rời đi được khoảng vài giờ. Tôi cũng chưa gặp được ai thì nghe súng nổ nhiều, có phi pháo và cả bộ binh nữa. Tôi biết đơn vị tôi đang gặp khó khăn. Rồi tôi lại dính một viên đạn mồ côi của trực thăng vào cánh tay phải. Không có thuốc men, nên tôi buột cánh tay lại để bớt mất máu và đành ngồi chờ xem có gặp ai đó. Khi trời đã tối thì anh Hiền không biết từ đâu mò tới. Tôi rút chốt trái lựu đạn với quyết định là cưa hai. Nhưng trái lựu đạn của Mỹ có khoen an toàn phụ. Nhưng lúc đó quá mệt nên tôi quên hay là gì gì đó tôi cũng không rõ. Tôi buông trái lựu đạn mà cũng như không. Không hiểu tại sao anh ấy không bắn tôi mà còn băng bó lại vết thương ở tay. Anh ấy còn dặn dò tôi nhiều thứ và để lại một ít thuốc men. Rồi anh ấy bỏ đi sau khi chúc tôi may mắn
Tôi ngắt lời :
 và bỏ quên lại cái nói sắt, có ghi tên anh ta bằng bút nỉ trên vải bọc với hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương.
Ông ta trố mắt nhìn tôi. Xong rồi chồm tới nắm vai tôi :
- Vậy anh là anh Hiền. Trời ơi tôi hỏi thăm anh không biết bao nhiêu người rồi. Thế mà không ngờ… Trời không phụ tôi?
- Vâng tôi đây. Xin lỗi, anh tên gì?
- Giang. Thực ra khi anh bỏ đi rồi. Tôi cũng không biết mình ra sao nữa. Cứ là đúng lời anh dặn. Nhưng cái kiểu tập trung hít thở thật sâu quả tình hay thật. Sao mà anh biết thứ đó vậy?
- Đọc trong sách. Nói đại với anh chớ tới giờ tôi vẫn chưa ứng dụng lần nào?
Như chợt nhớ ra, anh hỏi:
- Ấy chết. Anh lên đây nuôi ai vậy.
- Bà xã.
- Chị nhà bây giờ ra sao rồi?
- Bà ấy đã mỗ xong. Hiện nằm ở phòng hồi sức.
Anh ấy thở dài:
- Lúc anh băng bó tôi xong. Anh rời đi. Anh chúc tôi may mắn. Lời chúc đó đã thành hiện thực. Thôi thì. Tôi và cả gia đình tôi thành tâm cầu chúc chị mau lành bệnh, anh gặp nhiều may mắn.
- Vâng. Vợ chồng tôi xin cám ơn anh.
- Cám ơn khỉ gì. Hồi đó tôi có cám ơn anh đâu.
- Còn có ai ở trong ấy với chị?
- Có mấy đứa cháu ở trong ấy. Nhưng cũng chỉ đứng bên ngoài thôi. Anh yên tâm, có gì thì cháu nó điện cho tôi ngay.
Anh ấy trở giọng buồn buồn:
- Thú thật với anh. Sáng hôm sau, tôi nhìn thấy cái nón sắt. Tôi biết là của anh, tôi ráng với lấy khúc cây gần đó khều vào và biết được tên và đơn vị anh. Để tránh rắc rối, tôi lại lột lấy miếng vải bọc, rồi cố sức ném cái nón xuống cái mương gần đó. Mãi đến xế tôi gặp được mấy người dân đi ngang. Tôi kiệt sức, một phần vì mất máu, nhưng có lẽ là vì đói khát thì nhiều hơn. Họ mang tôi vào nhà và báo cho lực lượng địa phương. Ở đó được mươi ngày, đơn vị cử người tới và mang đi.
- Không phải là tôi cố tình để lại đâu. Chẳng qua là tại cái chòi của anh ở trong bụi bình bát nên tới lui vướng víu. Tôi lột ra để đại đâu đó. Khi đi, cập rập nên quên. Còn vụ viết tên lên quân trang quân dụng thì chẳng qua là để khỏi lộn lạo. Quân trang, quân dụng của lính thì anh biết mà. Cái nào như cái nấy.
- Hôm đó, lực lượng anh đông không?
- Bảy đứa.
- Vậy mà nghe loáng thoáng, tôi cứ tưởng là các anh đông lắm. Làm lúc đó tôi lo ngay ngáy. Gặp tốp khác là tiêu và uổng công anh.
Tôi cười. Anh ấy tiếp:
- Bây giờ tôi đề nghị anh thế này. Cả nhà anh đến đây, cơm nước, tắm táp ở đây cho đến ngày chị nhà lành bệnh. Không phải lo chuyện tiền bạc. Còn bây giờ thì chị đang ở phòng hồi sức, anh về bên ấy cũng chẳng làm gì. Thôi thì anh em mình nhậu. Anh đừng từ chối. “Em ơi lửa tắt bình khô rượu. Đời vắng em rồi say với ai” Tôi nhớ mãi. Sau ngày hòa bình tôi hỏi người này người khác khá lâu mới biết tên tác giả là ông Vũ Hoàng Chương. Ờ quên. Để tôi kêu bà xã tôi.
- Em ơi, em à. Em…
Một người đàn bà phốp pháp bước ra, vừa đi vừa nói:
- Cái gì mà kêu giật ngược vậy. Nghe ông kêu tôi bằng em. Tôi muốn nổi ốc.
Chẳng quan tâm câu nói của vợ. Anh ấy nói:
- Đây. Anh Hiền mà tôi nói với bà mấy chục năm nay. Bổng dưng ảnh lù lù tới đây nè.
Sau một thoáng ngạc nhiên. Chị đon đả:
- Mèn ơi. Ông nhà tôi, mỗi khi nhìn cái tay là nhắc anh. Rồi ấm ức là không thể xuống dưới mà tìm anh. Thấy ai ở miền Tây lên là hỏi có phải người Rạch Giá. Mà gặp người Rạch Giá rồi thì hỏi anh. Ảnh cứ ân hận hoài về việc buông trái lựu đạn. Rồi cũng mừng là nó không nổ.
Anh ấy lại giục;
- Thôi ở đó mà lu loa. Biết rồi thì dọn ra một sòng cho anh em tôi đi.
- Uống vào thì than nhức mình. Anh Hiền biết không. Hai cái câu thơ gì đó. Mỗi lần ông nhà tôi xỉn mà nhớ anh là ổng đọc. Can hoài không được. Anh Hiền. Nhậu với ông nhà tôi vài ly nghen. Bữa nay gặp anh Hiền tôi cho ông qua.
Chúng tôi lại rù rì, hỏi thăm nhau về việc làm ăn, gia cảnh. Anh cho tôi xem những vết sẹo hai vết thương. Tôi không ngờ là hậu quả của nó đến như thế. Cả tay và chân bị thương của anh đều ngắn hơn bình thường năm, sáu phân. Đến khi sòng nhậu dọn lên. Rót đầy hai ly rượu cho hai người, anh nâng lên rồi nói:
- Anh Hiền. Lời nói cảm ơn này thật muộn màng. Phải hơn ba mươi năm mới được thốt lên.
Tôi nói mà không biết phải biểu lộ như thế nào:
- Không sao, bởi vì cả người nói và người nhận đều còn nói được, nghe được. Thế là mừng rồi.
Anh cười ha hả:
- Ồ cái này thì hay thật. Nào vô.
Uống cạn ly rượu. Hốt nhiên. Nỗi buồn phiền, lo toan của tôi mất đi. Bởi vì ly rượu này không phải là ly rượu của say sưa, mà là ly rượu của một thứ tình Ôi không biết làm sao để nói. Anh ấy lại tiếp:
- Hình như hôm đó anh cũng có gặp và băng bó cho một cô gái nữa phải không ?
- Vâng. Trước anh độ nửa tiếng.
- Anh Hiền biết không? Bao nhiêu năm. Tôi cứ lực bực trong lòng. Không hiểu là anh còn ở Việt Nam hay ra nước ngoài. Đôi khi nghĩ quẫn là sợ anh không còn. Lúc đó, bọn lính lác tụi mình chết như rạ. Cứ mỗi một tình huống là một cảm giác khác nhau. Trong khi cuộc sống thì quá khó khăn. Mà tôi thì không có điều kiện tìm anh. Nên cứ hỏi thăm mãi mà cũng chẳng có tin tức gì. Cũng có người nói là biết anh. Nhưng không rõ anh ở đâu?
Tôi cũng không biết phải nói gì với anh, đành im lặng mà chịu trận. Rồi lại uống, rồi anh lại tiếp:
- Tôi cứ suy nghĩ mãi về điều này. Anh em mình đã đi qua một cuộc chiến tranh. Mỗi người một phía. Chúng tôi khoác lên người một sứ mạng giải phóng dân tộc. Nghe thì quá to tát. Chứ thật ra, ở đâu thì theo đó. Theo riết rồi quen. Nên với các anh em lính Sài Gòn, dưới mắt chúng tôi là một đối tượng không thể nào tha thứ. Nhưng từ khi gặp cái sự cố đó. Tôi cứ thắc mắc mãi. Tôi trông mong gặp anh, ngoài việc cám ơn còn có một điều nữa để hỏi. Dĩ nhiên là không dám nói với ai. Từ việc anh cứu giúp tôi đến thuốc men anh để lại, tôi cũng dấu biệt. Mà cũng lạ thật, tôi chưa bao giờ có ý nghĩ anh là một người của chúng tôi cài vào hàng ngũ địch. Phải thật lâu sau tôi mới nói với vợ tôi. Trong chiến tranh, những ngộ nhận, những nghi ngờ gây chết người rất dễ xảy ra. Trong chiến tranh người ta nói láo hết mức, từ chuyện nhỏ đến chuyện to. Riết rồi thành tật. Và bây giờ xin hỏi anh, nếu có gì không phải thì bỏ qua cho. Xin hỏi anh thế này. Anh nghĩ gì về chúng tôi lúc đó.
- Thực ra thì tôi cũng không nhớ rõ thời gian đó mình nghĩ gì? Tôi chỉ nhớ một điều là giận dữ khi thấy đồng đội mình chết. Trận nào thắng thì ngậm ngùi khi nhìn thấy các anh chết mà gia đình thì không biết ở đâu. Để rồi sau đó là nhậu. Nhưng quả tình tôi thật sự nổi quạu, thậm chí hận thù, một điều mà tôi không bao giờ muốn, khi nhìn thấy những người dân vô tội bị chết khi các anh phá cầu, gài mìn, pháo kích Nhưng khi nhìn thấy những nạn nhân cũng là dân thường do đồng đội tôi gây ra. Lúc đó tôi không hiểu được tại sao các anh và chúng tôi lại làm thế. Nhưng rồi tự an ủi mình bằng cái ý nghĩ “Ôi. Chiến tranh mà. Bom bay đạn lạc là chuyện thường tình”. Thậm chí còn khốn nạn hơn khi nghĩ “ Giết lầm hơn tha lầm” Bây giờ nghĩ lại mới thấy chẳng có một lý do nào để biện minh cho hành động đó. Ấy thế mà chúng ta vẫn làm và vận dụng mọi lý do khiên cưỡng nhất để tự bào chữa cho mình. Tôi cũng biết trong thâm tâm của tất cả những người lính của hai bên đâu ai muốn thế bao giờ. Có thể vì thế mà những hành động xem ra có vẻ bất thường của tôi như là một hành động tự làm an lòng mình.
- Trường hợp của cô gái ấy thì được đi. Nhưng của tôi thì tại sao anh làm vậy?
- Tôi cũng chẳng biết nói sao đây? Chúng tôi bị lạc đơn vị. Nên giúp anh tức là tự giúp mình. Với lại bắn anh thì sợ du kích biết. Mà lụi anh bằng lưỡi lê thì tôi không làm được. Cắt cỗ gà còn không dám.
Anh cười :
- Tôi không tin. Bởi vì anh bình tỉnh đến mức kỳ lạ. Khi thấy trái lựu đạn. Nếu đổi lại là tôi hay bất cứ một ai khác thì anh sẽ lãnh nguyên băng. Chừng nào chết hẵn hay. Sau này, tôi đặt trường hợp này cho nhiều người, nhưng không ai tin là một chuyện như vậy có thể xảy ra. Dù người đó là Quốc Gia hay Việt Cộng.
- Lúc thấy trái lựu đạn dưới chân là tôi gần như cứng cả người lại, dù khi bước vào tôi cũng có nghĩ là anh sẽ làm thế. Bởi vì nghe đồng đội nói là mấy tay Việt Cộng rất khoái chơi cái trò cưa hai này. Nhưng tôi cũng không tin lắm. Có ai dè anh làm thiệt.
Anh lại cười:
- May mà tôi dở ẹc. Muốn cưa hai mà không mở khoen an toàn phụ.
- Sau khi về đến nhà. Tôi cũng nghĩ như thế và lấy làm lạ ở mình. Và đến giờ này, tôi cũng không hiểu tại sao. Có lẽ, khi nghe tiếng rên rỉ. Cái ý niệm cứu giúp, còn sót lại khi tôi giúp cô gái, ý nghĩ đó lớn hơn mọi tình huống. Với lại lúc đó tôi thấy trái lựu đạn vô hại. Thực ra khi nhét trái lựu đạn vào túi, tôi thực sự nổi cáu. Rồi nhìn thấy đôi mắt anh long lanh dưới ánh hỏa châu, nhưng cũng không kém vẻ thất thần. Sự bình tỉnh của tôi lúc đó có lẽ do quán tính. Bởi vì nếu là ý thức thì mọi cái đã xong. Ôi cái ý thức quái quỷ. Nhưng cũng chẳng biết có phải như vậy không?
- Nhưng thôi. Dù sao thì việc đã qua, tôi và anh vượt qua cái chết chỉ trong tích tắc. Dù thế nào thì đối với tôi, anh cũng là một người rất nhân ái. Lòng nhân ái đã cứu sống hai anh em mình. Không phải, cứu sống tôi.
- Theo tôi nghĩ thì không phải vậy. Nhân ái thì bất cứ con người nào cũng có. Hoàn cảnh sống, môi trường sống làm cho nó tăng lên hay bị triệt tiêu. Nhưng đó chưa phải là tất cả. Như hoàn cảnh của anh và tôi. Đúng ra nó phải diễn ra theo đúng cái logic của nó theo hai hướng sau đây: Thứ nhất trái lựu đạn nổ; Nó không nổ thì tiếp theo là một loạt súng nổ. Nhưng trong cuộc sống nó lại có một điều khác nữa cũng logic không kém. Cơn đau đớn của anh, làm cho anh không thể thực hiện cái việc gạt cái khoen an toàn phụ bằng ngón cái của tay trái, hoặc là anh quên. Tiếp theo sau là ý muốn cứu giúp anh đã nảy sinh trong đầu tôi khi nghe tiếng rên rỉ của anh, nó lớn hơn hết. Mà ý muốn đó xuất phát từ sự an toàn của tôi và đồng đội tôi. Anh cũng biết mà trong chiến tranh, khu vực đó, mỗi một người dân là một Việt Cộng. Chính cô gái mà tôi cứu cũng là một giao liên mà mãi sau này tôi mới biết. Hình như không có lòng nhân ái trong chuyện này.
Anh lại rót và chúng tôi lại uống. Đặt ly xuống anh lại có vẻ trầm ngâm, rồi lại hỏi:
- Dưới mắt anh, những đồng đội của anh hay nói rõ hơn những người lính Quốc Gia có tàn ác không?
Không trả lời mà tôi hỏi lại:
- Theo anh thì như thế nào?
- Trước khi gặp anh thì tôi nghĩ thế. Nhưng từ khi xảy ra chuyện đó thì tôi nghĩ lại và nghĩ cũng không ra. Nhưng không còn tin vào định kiến của mình.
- Điều đó phải thôi. Các anh và chúng tôi khó lòng mà hiểu nhau được. Bởi vì, có ngồi lại được với nhau đâu. Khi chiến tranh chúng mình đối đầu nhau. Ai chịu nghe ai nào. Hòa bình lập lại. Các anh là người chiến thắng. Các anh đang say. Hình như đến giờ vẫn còn. Cũng phải thôi. Còn chúng tôi mang mặc cảm của người thua trận. Mang cho tới chết. Bây giờ, anh đã hỏi thì tôi nói. Chúng tôi cũng như các anh vậy. Nên hư, xấu tốt đủ đầy. Thấy chuyện nên, chuyện tốt cũng làm. Thấy hư, thấy xấu, dù biết đấy, nhưng cũng nếm. Cái thứ này coi vậy chớ nó hấp dẫn lắm. Cũng như ly rượu mình uống đây. Biết uống vào là lủng phổi, xơ gan đấy. Nhưng cứ uống. Còn trong chiến tranh thì vấn đề sống còn là một lý do vững chắc nhất để bảo vệ cho mọi hành động của mình. Chắc anh cũng thường nghe câu nói  “ Nếu mình không giết nó, thì nó giết mình” hoặc khốn nạn hơn là “ thà giết lầm hơn tha lầm “. Anh đâu có biết là hôm đó. Tôi và lính tôi cãi nhau một trận ra trò về cái việc giết anh hay giúp anh. Nhưng tôi thắng, có thể vì lòng nhân ái, mà cũng có thể vì sự an toàn của họ, vì tôi là chỉ huy của họ.
Anh im lặng nhìn tôi thật lâu, rồi lại rót, rồi cả hai cùng uống. Uống xong anh nói:
- Anh nói điều này với bao nhiêu người rồi.
- Chỉ với anh thôi.
- Anh có nghĩ là nên nói cho mọi người cùng biết chứ?
- Không.
- Tại sao?
- Tôi cũng không biết. Nhưng chắc chắn là không. 
Cả hai lại nâng ly. Và anh nói:
- Tôi biết. Anh không sợ gì cả. Nhưng quả tình nó còn có một điều gì đó ngăn cách chúng ta. Thế thì phải làm gì đây?
- Tôi nghĩ là không cần phải làm gì cả. Anh em mình đã chẳng hiểu nhau rồi sao?
- Nhưng chỉ hai anh em mình thì chưa đủ. Thực tình mà nói, dù hiện nay những hận thù trong chiến tranh thì cũng đã phai nhạt nhiều rồi. Nhưng những người như anh, như tôi. Họ nhìn nhau, cư xử với nhau đâu phải như anh em mình. Có vẻ thân tình đấy, nhưng dè chừng. Anh nghĩ xem có chán không. Tôi có ông sui là thiếu tá chính quyền cũ. Ông ta cũng nhậu nhẹt ra trò. Nhưng tôi mời nhậu thì ông ta chối từ. Chối từ thật lịch sự. Một đôi khi có tiệc tùng, giỗ quảy mời nhau đến. Thì trao đổi dăm câu cho phải phép, rồi thôi. Riết đâm chán. Không biết ông ta sợ gì tôi?
- Anh thông cảm cho. Những gì anh em mình nói được và hiểu được cũng là hậu quả của chiến tranh. Tôi và anh, trong hoàn cảnh đối nghịch nhau mà có một cơ duyên. Nhưng liệu trong suốt bao nhiêu năm tàn khốc ấy, có được bao nhiêu cơ duyên như thế. Hiện tại. Anh có một cái quán ăn để sống. Tôi có một cái nghề để sinh nhai. Những người khác cũng thế. Chẳng ai còn lo anh pháo kích, phá cầu, đào đường, gài mìn. Chẳng ai còn sợ tôi đi càn, ném bom, bắn pháo vô tội vạ. Điều kiện sống đã có, bình an đã có. Gặp nhau, nhắm thấy được thì chén rượu, chén trà, không được thì thôi. Còn việc ông sui của anh. Theo tôi nghĩ, ngoài việc này có lẽ là do tính cách xen vào. Nhưng thôi, cứ để cho mọi người trong vị trí của mình hãy lo cho chỉnh chu cái vị trí đó là ổn cả. Có một điều chúng ta luôn luôn hiểu mà chúng ta lại quên.
- Cái đó là cái gì?
- Việt Nam. Anh và tôi và tám mươi triệu con người đều biết rằng mình đang sống trên đó.
Anh ngữa cỗ ra cười ha hả:
- Thôi thôi. Tôi hiểu cả rồi. Anh kể ra cũng dữ thiệt. Thảo nào mà ông trời cho mình sống. À quên. Tôi đã một lần tìm để cám ơn một người nữa. Nói cho anh nghe chơi.
Tôi không hiểu:
- Anh nói sao. Ở đâu mà lắm ơn nghĩa thế ?
Anh cười rất sảng khoái, rồi tiếp:
- Tôi tìm ông hộ tịch viết sai chính tả tên tôi. Ba tôi đặt tên cho tôi là Diệt Gian, không biết ổng sửa lại hay ổng viết sai mà thành Việt Giang. Mà lúc nhỏ tôi có để ý đâu. Tới sau này, lớn lên tôi mới biết cái tên cúng cơm của tôi là Diệt Gian khác một trời một vực với Việt Giang. Cũng may ông ấy còn hào phóng cho thêm chữ G. Không thì chết tôi.
Tôi bật cười khi nghe anh nói về cái tên của mình:
- Chà. Cái tên không mà cũng gặp nhiều sự cố. Mà lúc này anh tìm gặp ông này thì hơi khó. Năm nay ổng cũng sắp cả trăm. Liệu ổng có nhớ nổi không?
Anh lại cười:
- Nghe cái kiểu anh nói, thì anh chắc sợ ai đó chết lắm. Già gần trăm tuổi thì được bao người. Và bây giờ, ông ấy cũng đã mất lâu lắm rồi. Anh biết khi nghe tôi hỏi, ông ấy trả lời làm sao không? Ông ta bảo “Diệt gian thì phải làm, chứ nghe cái tên Diệt Gian là bọn gian sợ quá rồi chết hết sao? Ba chú tính lầm. Rủi chú nhát hít thì diệt cái nỗi gì? Đó là chưa kể cái việc nhận định ai gian, ai ngay chưa chắc đã rạch ròi. Diệt ẩu có mà mang quả báo”
- Thế là ông ấy sửa lại, chứ phải viết sai?
- Đúng. Ông ta còn nói là “giòng sông Việt” nghe hay ra phết. À mà anh có gặp cô gái đêm đó không?
- Hơn một năm sau đêm đó. Cô ấy có tìm ra tận nhà trả lại cái mền và mang cho hai con gà.
- Anh có biết hiện giờ cô ấy ra sao không?
Tôi đành trả lời nước đôi:
- Cũng lập gia đình và con cái đàng hoàng. Với lại, cùng tỉnh mà nên thỉnh thoảng cũng có gặp.
- Cô ấy coi vậy mà hay hơn tôi. Bổng nhiên anh trầm giọng xuống. Anh Hiền này. Có chuyện này, tôi nói anh đừng phiền. Hình như cuộc sống của anh không được thoải mái lắm.
Tôi cười:
- Con còn nhỏ, vợ thì đau yếu liên miên. Anh nghĩ xem, tôi còn ngã nào mà thoải mái?
- Không phải thế. Tôi ở gần bệnh viện mà. Tôi thấy có nhiều người gia đình có người thân đau yếu. Họ vẫn ngon lành như thường, dù là có lo lắng đấy.
Tôi cũng chẳng biết phải nói thế nào. Chẳng lẽ hét to lên là mình ngon, hay là đi kể khổ. Anh lại tiếp:
- Anh Hiền có biết lúc xảy ra vụ đó tôi cưới vợ được bao lâu không? Tôi theo đơn vị rày đây mai đó gần hai năm mới đảo về quê. Ba tôi mừng quá, tức tốc nói với thủ trưởng tôi cưới vợ cho tôi liền, rồi muốn đi đâu đó thì đi. Thủ trưởng hơi ngần ngừ, nhưng ba tôi nói quá, với lại cũng thấy tôi là con một nên đành phải nghe. Thế là ba tôi sắp xếp cái đám cưới tốc hành. Tôi thì chỉ thấy loáng thoáng vợ tôi thôi, chớ chưa nói với nhau được câu nào. Vừa cưới xong chưa được nửa buổi là được lệnh hành quân. Tôi nắm tay vợ tôi mà lập bập hai ba tiếng gì đó rồi đi. Chưa đầy một tháng sau thì dính và gặp anh. Lúc cầm trái lựu đạn cưa hai với anh, tôi không nhớ vợ tôi một chút. Nhưng khi anh rời đi rồi, tôi nhớ bà ấy vô cùng. Thế là tôi nghe lời anh, tôi tập thở. Cơn đau dịu dần. Cũng nhớ lời anh nói là có ba bốn đơn vị. Tôi lại lo gặp họ. Nhưng tôi nghĩ không lẽ mình chết. Bởi vì nếu chết thì đã chết rồi. Thế là ý chí sống còn bùng lên mãnh liệt. Chỉ ý chí thôi, chớ lúc đó tôi còn lết đi đâu được. Vậy mà vẫn sống.
Sự việc gợi cho tôi một ít tò mò:
- Thế rồi. Bao lâu anh mới gặp lại chị?
- Sau khi đơn vị tìm gặp tôi. Họ đưa tôi về một quân y viện của Khu. Tôi ở đó hơn năm mới khỏe hẵn. Trong khi chờ về đơn vị. Tôi được phân công ở quân y viện ấy và công tác ở đó mãi đến ngày giải phóng mới gặp lại đơn vị cũ. Gần như chẳng mấy người biết tôi. Lúc này tôi mới gặp bà ấy. Hơn năm năm, tưởng đâu bà ấy có chồng khác. Ai dè bả vẫn chờ. Anh biết không? Trông mong cho đã, tới chừng gặp lại thì run, mà tay chân miệng mồm làm như cứng ngắc. Bởi vậy, nên phải co ro, cóm róm gần cả tiếng đồng hồ mới dám đụng tay, đụng chân. Tính từ lúc ra đi cho đến cái hun đầu tiên dành cho bả là năm năm chín tháng mười một ngày, mười tám giờ, chín phút. Không nhớ là bao nhiêu giây lẻ
Tôi bật cười:
- Trời đất. Anh nhớ kỹ đến thế à?
- Hổng nhớ sao được anh? Suốt thời gian ấy, tôi chỉ nhớ  độc có một thứ đó. Anh coi. Thời của mình, mấy người cưới nhau mà quen biết trước, nhất là ở trong ruộng. Nên nghe nói cưới vợ thì nôn, gặp phải bà vợ đẹp còn nôn ác. Lúc hai đứa đứng sát một bên, lâu lâu tôi làm bộ kề tai nói nhỏ với bả câu gì đó, chẳng qua là để ngửi cái mùi thơm thơm tỏa ra từ cái gò má hồng hồng, chớ dám làm gì đâu. Thiên hạ rần rần. Tính xong rang rồi tôi hun bả một cái cho đã thèm. Có ai mà dè phải đợi đến bao năm. Cũng may là hồi đó, chứ như bây giờ thì có mà kiếm cái gò má khác. Mà thương tật như tôi thì kiếm cái gò má “second hand” là may. Ý. Bậy nè, gái lỡ thời hay người gãy gánh. Nói mấy bả “second hand”. Mấy bả chửi cho bằng thích. Thôi mời anh.
Đặt ly xuống, anh kể tiếp:
- Tôi ở đơn vị được khoảng hai năm thì ra quân vì lý do sức khỏe và về công tác đoàn thể ở địa phương. Nhưng sức khỏe kém dần lại phải hưu non. Bây giờ con cái lớn rồi và đã có gia đình riêng. Hai vợ chồng với cái quán. Cuộc sống cũng khá.
Anh lại nhìn tôi, mãi một lúc sau anh nói:
- Chắc lại phải nói cám ơn anh lần nữa. Mà nói cám ơn suông trong lúc anh đang khó  khăn thì
Tôi biết anh muốn nói gì:
- Anh đừng bận tâm. Anh em mình mới gặp, xin anh đừng để tôi khó xử. Còn việc của tôi. Anh yên tâm, tôi thừa khả năng vượt qua khó khăn. Dù hiện tại bộ vó của tôi không được tinh tươm lắm.
Tiếng điện thoại lại reo. Đến giờ thăm bệnh của phòng hồi sức. Tôi từ giả anh về bệnh viện. Anh tiễn tôi và luôn luôn dặn dò, cả nhà cứ qua cơm nước thoải mái và còn dặn dò khi nào có lên thì ghé nhậu chơi. Anh không thể xuống Rạch Giá được vì sức khỏe.
Khi vợ tôi rời phòng hồi sức. Mấy cô em vợ ở lại chăm sóc để tôi trở về nhà để xem cái nhà còn nóc hay không và tìm coi có gì còn có thể đem bán hay đi cầm. Vừa mở cửa nhà, tôi thấy một cái thư nằm ngay ngạch cửa. Nhặt lên xem thấy tên người gởi lạ hoắc, lạ huơ, nhưng lại đúng là thư của mình. Nhìn qua dấu bưu điện thì cái thư đã nằm ở ngạch cửa nhà tôi khoảng năm ngày. Tôi mở thư:
Nha Trang, ngày…
Anh Hiền.
Thế là đã hơn năm từ ngày em đưa mẹ em đến tìm anh. Phải nữa năm sau mới xác định được mộ của anh Đình. Anh ấy được chôn cất mà chẳng có hòm rương chi cả, một tấm nylon cũng không, đã thế mà còn bị trói. Xương sọ của anh vỡ nát. Những thứ có thể nhận diện được là sợi dây chuyền bằng bạc có đính cây thánh giá mà mẹ em mua cho anh ấy khi anh ấy về đơn vị. Chúng em phải hốt cốt anh ấy vào ban đêm. Nhờ sự hướng dẫn của một ông cụ khoảng tuổi mẹ em. Anh ấy đã về với gia đình, với mẹ. Cám ơn anh và những người có lòng. Ba tháng sau mẹ em ra đi thanh thản mà bên cạnh chỉ có dì của em và bức chân dung anh ấy trong lòng. Hôm nay chị em em mới thu xếp được để về. Nghĩ ra thật không phải khi không đến thăm anh một lần nữa. Công việc, nỗi vui mừng và nhiều thứ nữa đã làm cho chúng em thành kẻ vô tình. Định gởi cho anh và ông cụ ấy một ít quà mọn. Nhưng cuối cùng chúng em thấy rằng làm như thế là tổn thương đến tấm lòng của anh và những người đã giúp đỡ chúng em. Chúng em sẽ đến thăm anh chị và gia đình khi thuận tiện. Một lần nữa xin chân thành cám ơn anh. Chúc anh và gia đình khỏe mạnh, hạnh phúc.
                       Em gái của anh Đình.
Tôi thẩn thờ xếp lại lá thư. Mọi cảm xúc của niềm vui nhưng không ít ngậm ngùi của người khác và nỗi buồn của chính mình đang hòa lẫn vào nhau làm cho đầu óc tôi quánh đặt rồi chợt trống rỗng ra. Và sau đó một ý nghĩ kỳ cục lại hiện ra. Giá như kèm theo bức thư kia là một món “quà mọn”. Trời ơi. Tôi hết biết tôi rồi.
Ngay tức khắc, tôi nhận ra ngay cái thực tế của mình đang phơi bày trước mắt. Nhà cửa lộn xộn, tiệm vẽ ngỗn ngang. Khách hàng thưa dần rồi vắng hẵn. Thu nhập không còn mà tiền vẫn phãi chi ra. Đến đây là đỉnh điểm. Đầu óc tôi thì cứng lại. Hết đi về nhà, rồi bước qua tiệm vẽ. Tất cả bộn bề mà vắng lặng, quạnh hiu. Thầy thợ vắng hoe nên có đủ không gian để chứa một đống nợ nần. Không hiểu tôi đào ở đâu ra tiền. Và cũng không hiểu tại sao tôi lại còn có một khoảng trống trong lòng để mà xót xa cho những người không quen biết của vụ 11.9. Bổng dưng, tôi nhìn cái bàn thờ ông Thần Tài và ông Địa trong góc nhà. Bụi bám nhện giăng, hương tàn khói lạnh. Bao nhiêu con người trên nhân gian này hàng ngày kêu réo, gọi mời, năn nỉ ỉ ôi phù hộ độ trì, mà hai ông thì rộng lòng nhân ái, chạy đầu này, quày lại đầu kia. Tất bật, túi bụi phù hộ nhân gian. (?!) Nhưng thiên hạ đàm trùng thiên dã, chỉ hai người thì làm sao cho xuể. Còn nhà tôi lại ở trong hẽm khó tìm, chứ hai ông nào nỡ để cho tôi Đốt cho hai ông mấy nén nhang mà lòng tôi buồn vô hạn. Vậy mà tôi vẫn còn nhớ được mấy câu thơ trên bàn thờ Thần Tài của ông mì gõ để mà cười khan. Mà phải vậy thôi, bởi vì cũng không biết buồn cái gì đây? Thế mới quái. Thôi thì, trước khi nhờ đến hai ông. Tôi phải tự nhờ mình trước. Mở cửa tiệm vẽ, trang trí lại cho tinh tươm. In và phân phát một hộp card visite có thêm cái số điện thoại di động (nhờ vợ đau mà có). Chuẩn bị lại bộ vó cho tinh tươm bằng cách hớt tóc, cạo râu và chọn bộ đồ oách nhất ủi phẳng phiu để mặc vào kèm với đôi giày cũ mèm vừa đánh xira bóng hới. Sau mấy ngày chào hàng, tiếp thị cũng lãnh được mấy lô hàng thuộc dạng bèo bèo. Nhưng cũng được. Tôi quên mất chuyện anh Giang.
Nhận được tin vợ tôi xuất viện. Tôi lại trở lên Sài Gòn. Trước khi về, tôi chợt nhớ và qua từ giả vợ chồng anh Giang. Hai vợ chồng hè nhau phiền trách là chẳng thấy ai qua, rồi tìm vào thăm thì không gặp tôi nên chẳng biết đâu mà lần. Cuối cùng, tôi đành phải nhận một giỏ quà gồm đường sữa, thuốc bỗ và nhiều món nữa với lời hứa khi nào lên Sài Gòn thì phải ghé qua chơi.  Rồi khi xe chạy ra khỏi Phú Lâm lại nhận được một cú điện thoại của chị Giang báo cho biết là trong cái giỏ ấy có một ít tiền để dành cho vợ tôi bồi dưỡng Tôi thật sự bàng hoàng. Tôi đã nhận được quá nhiều những thứ mà lúc bình thường thì không nên nhận. Nhưng tôi vẫn nghe ấm lòng khi nghĩ rằng; nếu như trong cuộc đời mà tôi cứ phùn mang trợn mắt với mọi người, chắc có lẽ giờ này tôi khó lòng vượt qua cơn khốn khó. Bổng nhiên cái khẩu hiệu “lương y như dao mỗ“, mà tôi gán ghép cho các bệnh viện, bị phai mờ. 
Tất cả những gì dành dụm được cùng nhau rủ áo ra đi. Càng lúc tôi càng lún sâu vào nợ nần. Đó là một điều tất yếu. Khi mà quỹ thời gian bị mất, vốn liếng không còn mà tiền thì cứ phải chi ra. Chưa kể những khó khăn khác đổ vào khi mà năng lực hoạt động của cơ sở bị suy giảm dần, nếu không muốn nói là rơi tự do. Thợ thầy nghỉ gần hết, thu hẹp công việc làm ăn Sự cố gắng đã vắt kiệt sức tôi, nhưng tình hình coi bộ vẫn chẳng khá gì hơn. Tôi không hiểu cái gì đã làm cho tôi đứng vững? Mới hơn một năm trước, chuyện ký một hợp đồng năm bảy chục, thậm chí cả trăm triệu là chuyện bình thuờng thì giờ đây tìm kiếm được một hợp đồng dăm ba triệu bạc là một việc quá khó khăn.

Tôi lại tiếp tục cày, như cày thì đã cùn, trâu thì lại yếu, nên mọi việc vẫn cứ lôm côm, chỗ cạn, chỗ sâu, chỗ thì bị lõi. Cũng may, một số khách hàng quen biết vẫn tìm đến vì thấy tôi đã quá te tua. Trong lúc lu bu lang bang như thế, tôi lại có ý định rong chơi như là một cách để thư giản (!?). Nhưng không thể thực hiện được vì nhiều lý do, trong đó có một lý do quan trọng nhất là tiền. Vâng, đi chơi thì phải có tiền. Tiền lúc này có giá trị vô song. Nó giúp tôi trả được nợ, bôi trơn công việc làm ăn, bảo đảm cuộc sống gia đình, bồi dưỡng vợ tôi mau phục hồi sức khỏe và tôi đi nhậu (?). Nhưng nó không đến, hoặc đến theo cái kiểu nhỏ giọt, dù mồ hôi thì đổ ròng ròng. Ai nói mồ hôi dễ bán đâu?. Tuy vậy, thỉnh thoảng tôi cũng cố mon men vào chuyện rong chơi xem sao? Cuối cùng cái lý do không tiền không còn đứng vững. Nó là một thứ khác, rất nhiều thứ. Nên tôi chỉ có thể ghi nhận mà không thể xác định nổi là cái gì:
                   Nhiều khi cũng muốn đi chơi,
Chơi cho bậm trợn cho người biết tay.
      Nhưng kiểu chơi ngày hôm nay,
Lủi vào lắm chuyện bầy hầy. Hết ham.
      Chơi thơ thì lại hâm hâm,
Chơi nhạc thì cứ ầm ầm như bom.
      Chơi rượu, la hét om xòm,
Chơi tình không aids cũng banh chành nhà.
      Thức khuya chơi  ánh trăng ngà,
Nhưng đèn cao áp nhạt nhòa vầng trăng.
      Dấu chân lem mặt chị Hằng,
Chơi  mây lại có khói lằng ngoằn theo.
      Chơi sông, rác đã thay bèo,
Chơi hoa, hoa nhái nên nghèo sắc hương.
      Cuộc chơi xem đã hết đường,
Núi, sông, trăng, gió, biển, rừng… quá dơ.
      Và người, mấy kẻ mộng mơ.
Đường chơi sạch trụi, nên ngơ ngẩn nhìn.
      Thế thôi. Thôi thế cũng đành,
Hâm hâm. Cứ thế! Một mình mình hâm.
Thì ra là vậy. tôi vẫn thường hay nhìn ngó quanh quanh, từng bị những lời trái khoáy dộng vào tai. Dù vậy, tôi vẫn không phản ứng, không phải vì sợ mà không còn hơi sức. Tôi phải giải quyết những khó khăn của riêng mình mà không phải chạm một ai. Cuộc sống dù gì thì cũng luôn luôn có lắm điều bất cập. Thôi hãy để cho cuộc đời tự giải quyết lấy.
Còn tôi, tới cái việc chơi mà cũng Hết pin hay là không tương thích? Làm xong bài thơ, tôi mới thật sự lạ lùng cho mình. Không hiểu tại sao tôi lại viết được một cách ngon ơ một bài thơ có cái nội dung chẳng giống chút nào cái hoàn cảnh hiện tại của mình. Quên hẵn đi cái hiện tại khốn khó của mình để nghĩ về những điều mà nhiều người gọi là “trời ơi đất hởi” Tôi có điên không? Tôi đã rất nhiều lần như thế. Thôi thì cứ xem như là một cách thư giản, hay đúng hơn là một cách tìm quên, tự an ủi. Tôi lại viết, viết liên tục, viết những gì mình nghĩ ra, những gì mình suy luận được. Đúng sai, trúng trật, hay dở thế nào mặc kệ. Viết.  Viết bất chợt trên cái khăn giấy, viết trong khi đang ngồi vẽ đồ họa trên chương trình Corel Draw. Hay có khi đang chạy đi đâu đó, tôi dừng xe lại ngoáy ngoáy vài giòng. Dần dần tôi viết trên Microsoft Word hay Word Pad. Bổng dưng, cái ngòi thơ sau bao nhiêu năm bí rị, rồi sau đó thì rò rỉ từng giọt nay đã thành giòng từ bao giờ tôi cũng không hay. Dù còn lắm ngoằn ngoèo. chưa được mượt mà cho lắm. Đấy, nợ nần như thế, công việc làm ăn khó khăn như thế, chuyện nhà lu bu như thế. Vậy mà tôi vẫn cứ rong chơi, vẫn cứ lơ mơ như thế. Và thỉnh thoảng bí rị, nên tôi đọc lại những bài thơ mình viết. Ôi cỏ thì nhiều mà hoa chẳng có bao nhiêu. Đã thế mà là hoa kém sắc, ít huơng. Cũng phải thôi. Tôi chỉ thích hoa bầu, hoa bí, hoa mua nói chung là hoa dại. Nên tìm đâu ra sắc, lấy gì có hương. Ngoài những việc này, thay vì tích cực đi tìm kiếm khách hàng thì tôi lại chui đầu vào sách. Mà sách của tôi thì chỉ là thi ca, văn học, lịch sử. Đọc chết bỏ, đọc quên thôi. Đọc rồi thì đọc lại… rồi tiếp tục lơ mơ với những trang viết của mình. Có lẽ nhờ thế mà tôi yên tĩnh được trước những khó khăn của mình. Để khi dư được một ít tiền để trả nợ thì tôi lại dành ra một ít mua sách tiếp.

Vợ tôi hồi phục rất chậm vì cái tật biếng ăn. Vài cơn gió chướng thổi về. Lại sắp hết năm. Đang loay hoay với những khó khăn ấy, thì tôi nhận được một cú điện thoại đề nghị tôi cung cấp cho một lô bảng hiệu với chất lượng cực kỳ. Diện tích trên 60 mét vuông. Tổng giá trị gần hai mươi triệu đồng. Và hẹn ngày giao tiền cọc và cung cấp nội dung bảng hiệu. Đúng ngày hẹn có người đến tìm giao cho tôi nội dung bảng hiệu và trả đủ tiền, hẹn ngày lắp đặt. Rồi với lời dặn là lắp đặt phải có mặt tôi. Được thôi. Đang khó khăn mà gặp khách hàng lớn và sộp như thế này thì quả là may mắn. Quả tình là tôi mừng thật. Khi người khách ra về, tôi xem lại nội dung và lên maquètte. Tôi lấy làm lạ với cái tên “ DNTN.XD BA HIỀN. THẠNH YÊN. AN BIÊN – ĐT…“ Ôi tay nào mà dám trùng tên với mình vậy ta. Mình “ hai“  Hiền mà đã te tua, hắn tới “ba” Hiền. Bộ muốn nghèo tàn mạt hả?  Còn cái địa chỉ có vẻ mơ mơ hồ hồ. Thế thì biết đường nào mà giao. An Biên thì biết rồi, nhưng cái tên xã thì lạ hoắc. Lúc này, chia tách xã tứ lung tung. Tên mới, tên cũ cũng quăng tứ lung tung như thế. Nhưng thôi làm xong gọi điện hỏi. Vừa ngay lúc đó điện thoại reo. Nhấc điện thoại. Một giọng nói quen quen, và tôi nhận ra:
- À thì ra là mình.
- Em định cho mình hay sớm. Nhưng ba bảo thôi cận cận ngày mới cho mình hay. Mình vô để cưới vợ cho thằng Hòa. À chị thiệt khỏe chưa mình?
- Khoẻ rồi. Mà cưới vợ cho con ở đâu và bao giờ ?
- Ở Gò Quao. Còn mười một ngày nữa. Mình vô trước hai ngày nghe mình. Em biết mình lúc này quá lu bu nên qua mặt mình. Mình đừng giận em nghe.
- Thôi được. Anh sẽ thu xếp để vào. Ba thì nói vậy, em hiểu vậy, nhưng mình cũng phải cho anh hay sớm hơn. Mà mình đang ở đâu vậy ?
- Em đang ở Thứ Ba. Thôi nghe mình.
Tôi định hỏi thêm nhưng cô ấy đã cúp máy. Tôi nhẩm tính; chín ngày nữa lắp dàn bảng này. Chuẩn bị sẵn sàng. Sau khi lắp bảng xong là qua bên ấy ngay. Cũng may, không có dàn bảng này, thì mình mệt với cái đám cưới. Thiệt tình. Nhè lúc khó khăn mà thằng nhóc con lại đòi vợ. Đây là lần đầu tiên tôi nhẩm tính cách sử dụng số tiền mình đang có.
Đến trước ngày hẹn một hôm tôi định điện hỏi địa chỉ chính xác để mang bảng đến lắp, thì nhận được điện thoại báo cho biết là họ sẽ đem tàu đến chở bảng và cả người theo lắp đặt. Thế cũng hay, mình đỡ phải lu bu. Đúng là khách sộp thật, chắc có lẽ tiền Việt Kiều nên sung độ đây. Tôi chuẩn bị hai thứ cho một chuyến đi. Lâu lắm rồi. Từ ngày xuống ăn tết với mẹ con cô ấy, đến nay đã gần hai  năm. Trong khoảng thời gian ấy, tôi có quá thừa những điều kỳ cục để chỉ gặp cô ấy một lần khi tôi bất ngờ ghé thăm cô Chín lúc đi ngang chợ Thứ Ba.
Sau khi dặn dò mọi chuyện và nhờ cô Út buổi tối ra ngủ với vợ tôi và con bé. Tôi cho xe chở mọi thứ xuống tàu.
Tôi thực sự không còn thì giờ đâu mà nhận ra chiếc tàu chạy ra sao và chạy đường nào. Cảm giác của tôi là nhộn nhạo trong lòng. Cái đám cưới này tôi đến dự như một khách mời. Nhưng nếu là một ông chủ hôn thì tôi làm sao đây? Tôi nằm trên võng mà nghĩ vẫn vơ. Đủ thứ lo âu nảy ra trong đầu. Cho tới khi chiếc tàu quẹo vào con rạch nhỏ thì tôi ngờ ngợ. Nhưng nghĩ ở khu vực này con rạch nào cũng na ná như nhau. Tàu ghé lại tôi chui ra khỏi mui và tôi chết đứng. Tất cả phơi bày ra trước mắt. Ôi. Bà vợ bé của tôi. Tôi xách cái cartable mà hai chân bước không muốn nổi. Trong khi ba mẹ con mặt mày rạng rỡ, tíu tít đón mừng tôi. Thì một cơn giận trào lên trong lòng. Tôi có cảm giác như mình bị sỉ nhục. Tôi mang cái bộ mặt lạnh tanh lên nhà, mặc cho thợ thầy làm gì đó thì làm. Ngôi nhà thì vẫn vậy. Nhưng lần này thì cái không khí đầm ấm mà tôi luôn luôn mong ước để tới, đã bị cơn giận dữ ào ạt xua đi. Tôi rút thuốc hút liên tục mà không nói một lời nào. Không hiểu việc gì xảy ra. Thằng Hoà, thằng Hậu cứ nhìn tôi. Cuối cùng cả hai đứa cùng lên tiếng;
- Ba sao vậy ba?
Tôi cố trấn tỉnh:
- Ba không sao. Chỉ hơi mệt một chút. Hai con ra chỉ chỗ cho thợ để tạm mấy tấm bảng. Ba muốn nói chuyện với má con.
Khi hai con đi khỏi, cơn giận tôi lại bùng lên. Tôi phải thật sự cố gắng, để khỏi phải hét:
- Mình hãy cho tôi biết. Tôi là chồng của mình, là cha của hai đứa con này, hay là thằng cha căng chú kiết nào đây? Mình trả lời tôi đi.
Mặt cô ấy từ từ xanh lại, miệng lắp bắp:
-  Mình… mình nói gì em không biết.
- Mình thuê tôi làm bảng hiệu cho mình phải không? Được. Tiền mình trả đủ. Bảng tôi đã giao. Lắp đặt xong. Tôi về. Chấm hết.
Tôi nói như cạy đất cục để bờ mẫu. Cô ấy chợt đổ sụp xuống. Ôm chặt lấy chân tôi và khóc. Những giọt nước mắt chỉ làm dịu đi chớ không thể nào xóa hết cơn giận của tôi. Tôi cúi xuống đỡ cô ấy đứng dậy và nghiêm giọng:
- Mình đứng dậy đi. Anh còn có công việc phải làm. Đã nhận tiền của khách hàng thì phải làm cho tinh tươm, nhanh chóng. Còn việc của anh sau khi lắp xong bảng là…
Tôi không dám nói hết ý mình, bước nhanh ra cửa và qua chỉ cách lắp đặt cho thợ và dặn dò làm cho thật kỹ lưỡng, chắc chắn, và tranh thủ để tám giờ sáng mai lắp bảng chính.
Tôi ngoắc Hòa và Hậu ra xa rồi bảo :
- Hai con ở đây coi mấy chú cần gì, thì đáp ứng cho họ. Kể cả việc cơm ăn, nước uống phải cho tinh tươm. Mấy chú không uống rượu các con đừng mời. Chuẩn bị sẵn sàng nơi cho các chú ấy nghĩ ngơi. Ba có việc phải bàn với má các con.
Tôi trở vô nhà. Cô ấy ngồi trên võng như thất thần. Tôi đến kéo ghế ngồi kế bên, cố gắng nói bằng cái giọng dịu dàng nhưng sao mà gay gắt quá:
- Việc của vợ chồng mình nó khác hơn người ta. Anh biết mình thương anh, thấu hiểu những khó khăn của anh. Nhưng đâu phải mình cư xử với anh như thế. Có thể anh không có tiền làm bảng hiệu cho mình và các con. Nhưng ít ra mình cũng phải để cho anh có được một lời. Anh biết mình thương anh. Nhưng mình thương kiểu đó, thì chết anh. Ai là người mang tiền cho anh, mình nói cho anh nghe. Người ta đồn đãi, rồi đơm đặt quá nhiều về vợ chồng mình rồi. Bây giờ mình làm cái kiểu này, rồi ai bịt miệng không cho họ nói mình mướn anh làm chồng. Những lời đó thấu tai con. Con nó sống làm sao? Chúng nó làm con của vợ chồng mình là một điều bất hạnh rồi. Em biết không. Vợ chồng mình đến với nhau đã là oái oăm rồi, thì tụi mình ráng chịu. Mình hiểu ý anh nói chưa? Anh biết, tất cả những gì mà mình có hiện nay là mồ hôi, nước mắt, là công sức của chính mình. Anh chưa bao giờ mó tay vô hay đóng góp bất cứ một cái gì? Bao nhiêu điều tiếng đang râm ran. Mình chịu đựng bao nhiêu năm chưa đủ sao, mà mình lại làm như thế? Mình thương con, thì cũng cho anh thương. Một chút xíu thôi. Được không?
Tôi nói như ma đuổi, không đầu không đuôi. Cô ấy thì thất thần nhìn tôi, rồi ấp úng:
- Mang tiền cho mình là con anh Thuật. Em đã bàn kỹ với nó. Em sợ mình không lấy tiền, mà lúc này thì mình quá khó khăn. Chị thì đang cần tiền để dưỡng bệnh. Còn chuyện mình nói thì em hiểu. Em biết lỗi em rồi. Mình đánh, em cũng chịu. Miễn mình hết bực bội thì thôi. Từ hồi nào tới giờ chưa bị chồng đánh. Thử một lần cho biết với người ta. Nhưng mình đừng giận em. Mình quá khó khăn, nợ nần lu bu, vốn liếng không còn. Thôi cứ kể như mấy tấm bảng thì mình cho mẹ con em. Còn tiền thì mình coi như em giúp cho chị và con.
Tôi hoàn toàn bất ngờ trước lập luận của cô ấy, đúng là “hung dữ” thiệt. Nó trấn áp cơn giận và tính quân tử Tàu của tôi một cách vô cùng hiệu quả. Tôi vẫn cố vớt vát:
- Mình học cái kiểu ăn nói đó ở đâu vậy? Được rồi, muốn huề phải không? Thôi. Việc đó xử sau. Bây giờ thì đưa cái khăn cho anh.
Cô ấy lấy cái khăn đưa cho tôi. Cầm lấy cái khăn, tôi nghiêm giọng bảo :
- Đưa mặt đây, anh lau nước mắt cho. Đụng tới một chút là khóc. Mình không còn là con nít nữa đâu? Tối, khi mấy con đã ngủ. Rồi biết tay anh..
Cô ấy ngước mặt và vén tóc cho tôi lau nước mắt. Tất cả phơi bày và chờ đợi. Tôi cố ghìm lại, lau thật nhẹ nhàng, hay đúng hơn là một sự vuốt ve. Rồi đưa khăn lau mặt mình, và sau đó nhét cái khăn vào túi quần, một mình bước ra sau hè. Bởi vì tôi biết là ở đó, những bức bối trong lòng sẽ được cơn gió mang đi.
Mảnh vườn con sau nhà vẫn vậy với mùa nào thức ấy và những con bướm đỏm dáng, những con ong cần cù bay tới bay lui. Chúng làm cái nhiệm vụ được tạo hóa ủy thác cho là giao duyên cho cây cỏ. Những cây bưởi, cây chanh bây giờ đã lớn và cành lá không còn quặt quẹo nữa. Bên trong những chiếc lá ấy là một phần của cái phức hợp làm cho tôi mê đắm. Những nhánh lúa vừa cong trái me đang nhuốm những màu vàng trên chót lá và những hạt đầu bông. Cơn gió dấp dới đùa cái hương thơm thật nhẹ ấy lan tỏa, lan tỏa. Chỉ có những người thương nhớ ruộng đồng mới có thể nhận ra. Và tôi thì thương nhớ nó, yêu nó xiết bao. Những hạt lúa này như con tôi vậy. Chúng nó đang chuẩn bị góp mặt vào cuộc sống với một trách nhiệm thật sự của bản thân. Cũng như chính những hạt lúa đem đến no lành cho đời sống. Và tôi đã biết có rất nhiều đám cưới được tổ chức vào khoảng thời gian lúa cong trái me cho đến cuối năm. Bây giờ thì sự trồng trọt đang có những chuyển đổi mới, không theo mùa, mà theo yêu cầu của cuộc sống. Đã bao nhiêu đời, người ta tựa lưng vào thiên nhiên để sống. Hôm nay người ta quay mặt lại, phùng mang trợn mắt và buộc thiên nhiên theo ý mình, để sống. Ai đúng, ai sai đây? Thiên nhiên và con người. Cả hai đều có cái lý và đã có hành động của mình. Nhưng việc lập gia đình vào dịp cuối năm đã trở thành một nếp sống văn hóa. Cái nếp ấy đã làm cho biết bao nhiêu trái tim rung động khi gió chướng về. Và tôi đã đi chệch khỏi nếp này khi cưới vợ vào tháng năm. Rồi khi tôi quyết định làm đám cưới với cô ấy trong ngôi nhà này trong một hoàn cảnh và thời điểm không giống ai. Ôi. Tôi luôn luôn ngược ngạo với đời (!?). Và bây giờ thì lãnh đủ. Thế mà tôi lại trách người.
Tôi lặng yên và cảm nhận. Tôi bị màu xanh của cây lá mê hoặc từ ngày còn bé thơ. Tôi thích thú theo dõi sự trưởng thành của cây lá. Tôi chìm đắm trong mùi hương, trong thì thầm và cả những chuyển động dập dờn của nó. Trong cuộc đời mình, tôi chưa bao giờ thật sự trồng một cây, chăm sóc một cành, một bông hoa và cũng chưa từng canh tác một mảnh ruộng nào cho chính bản thân. Dù đó là những ước mơ cháy bỏng trong tôi. Những diễn tiến của mảnh ruộng từ lúc cày ải cho đến khi thu hoạch xong, tất cả cuốn hút tôi, mê hoặc tôi. Đó là bất hạnh cho tôi. Nhưng không có nghĩa là tôi không hạnh phúc. Tôi đang hạnh phúc đây. Bởi vì những khát khao đang trở thành hiện thực. Mà cái hiện thực này lại về phía những người mà cả đời tôi mến yêu. Với tôi thế là quá đủ. Vậy thì tại sao tôi không hạnh phúc nhỉ? Tôi quên sạch những bức bối âu lo, quên luôn cả cơn giận trào lên ban nãy. Cơn gió chướng với những đặc trưng của nó luôn luôn mang đến cho tôi những cảm giác diệu kỳ. Bổng nhiên có một mùi rơm rạ mới hoà lẫn với mùi phân trâu. Ôi cái mùi hôi hôi, khăng khẳng có thể làm cho người ta ghê, nhưng với tôi thì tuyệt diệu. Tại sao lại thế?  Tôi đưa mắt nhìn quanh, bâng quơ tìm kiếm.
Trong cuộc đời. Có một thời gian dài tôi đã nghĩ một cách đơn giản là mình muốn sống, thì ít nhất mỗi ngày, mình phải ăn hai bữa cơm. Và khi no thì yên tâm để mà lo hàng trăm thứ đầu cua tai nheo khác. Nhưng không rõ tự bao giờ thì tôi đã hiểu là không phải vậy. Tôi sống được là nhờ những bữa cơm mà những người chung quanh tôi ăn. Bởi vì không ai có thể chịu nỗi khi nhìn người khác đói, nhất là những người thân. Điều này rất ư đơn giản, thế mà mấy chục năm qua tôi mới biết. Đừng bảo tôi phải giải thích tại sao? Bởi vì chỉ cảm nhận chứ không thể nào diễn đạt được rạch ròi, dù bao giờ tôi cũng là một tay hay lý sự. Tôi đã viết ra điều này trong thư tôi gởi cho hai đứa con tôi. Chúng nó lặng thinh không trả lời gì. Nhưng nhìn cách sống của chúng thì tôi nhận ra là chúng cố gắng làm theo, mà còn làm giỏi hơn tôi nữa là khác. Bổng dưng tôi nhớ mẹ tôi. Lúc sinh thời bà thường hay giúp người này, cho người khác viên thuốc, lon gạo, dúm tiền hoặc những bộ quần áo cũ Nhưng khi chúng tôi sử dụng đồng tiền có vẻ quá trớn thì bà thường nhắc nhở và thậm chí la rầy. Tất nhiên anh em chúng tôi không dám phàn nàn gì, nhưng nếu vô tình nhăn mặt là bà không vui. Nhiều lần như thế bà nói với chúng tôi “ Có của để giúp người là điều dễ. Không có, đi xin, đi vay mượn là điều khó. Các con muốn dễ thì làm ăn cho chí thú, tiêu xài cho đúng mực “. Tôi nghe lời mẹ và cố làm theo, nhưng xem ra không tinh tươm lắm. Nhưng cô ấy và hai đứa con tôi thì có vẻ như khá chu đáo. Dù chưa bao giờ con dâu gặp được mẹ chồng. Cháu nội chưa bao giờ gặp được bà nội. Tôi đưa mắt nhìn về hướng Cái Mới Lớn. Chỉ là một khoảng trời cao rộng đến mênh mông. Ôi từ đây qua đó chỉ cách một giòng sông. Thế mà tôi thì ở bên nào. Phía bên kia sông hay phía bên này.
Cô ấy đứng cạnh bên tôi từ lâu, lặng yên. Sự việc vừa rồi tôi thật sự giận dữ, lý trí thì bảo vậy, nhưng chưa bao giờ tôi có thể giận cô ấy được. Tính cách của cô ấy có thể làm cho ai đó chán ngấy. Nhưng với tôi là một quyền lực vô biên. Cuối cùng, tôi hiểu ra là cô ấy là một phần đời sống của tôi. Để bây giờ cô ấy đứng đây. Tôi ôm cô ấy vào lòng như ôm một người bạn thân lâu ngày gặp lại. Tôi đang cảm nhận những rung động trên cái thân thể ấy. Nhưng cảm giác rất ư mới mẽ đang lấn át tôi. Cái cảm giác của những người bạn pha trộn cái cái cảm giác của vợ chồng và của con người đang xích lại gần nhau. Một thứ cảm giác êm đềm, bềnh bồng nhưng sâu lắng, gần gũi thân quen như khí trời có pha lẫn một mùi hương. Tôi siết chặt người vợ này, người bạn này và con người này, trong vòng tay, hít thật sâu cái không khí tuyệt diệu vào cho đầy buồng phổi, nghe mình trẻ ra, nghe mình bềnh bồng trong không gian lồng lộng của quảng trời xanh, cánh đồng xanh và những rặng cây xanh trước mặt. Với tôi, cô ấy đang thay mặt cho cả nhân gian và đến với tôi bằng một thân tình, bằng một nhân tình.
Cuộc sống trong một đất nước thanh bình đã có những đổi thay nhanh chóng và con người thì cũng thế. Nhưng vợ tôi và cô ấy thì không, ngoài những tiện nghi thật sự cần thiết, nhưng hiện đại hơn thì cả hai chấp nhận. Hai người đàn bà của tôi không phấn son, không nước hoa, cái gọi là mỹ phẩm mà họ sử dụng là xà bông, dầu gội và kem đánh răng. Riêng cô ấy thì có thêm lá bưởi, hoa chanh. Ngoài ra không có gì khác và tôi cũng quen như thế, rồi thích như thế và tự bao giờ đã trở thành nhu cầu bức thiết. Một thoáng mộng mơ, giữa hạnh phúc đầy hiện thực, nảy ra trong đầu tôi:
       Trăm năm em ở nơi này,
Mây đùa, gió lượn hương bay khắp cùng.
      Đến vầng trăng cũng chập chùng,
Sương theo đêm xuống đầy lòng đắm say.
      Em  ru  cơn  gió  lay  lay,
Mang hương em ướp thơm lời ca dao.
      Em nương theo ánh nắng đào,
Làm cho đôi má ngọt ngào tuổi xuân.
      Chiều buông, em đến giòng sông,
Mùi hơi vọng cổ ấm lòng thuyền qua.
      Khói lam quấn quýt mái nhà,
Bữa  cơm  chiều  lại  đậm  đà  hương  em.

Chúng tôi đứng như thế lặng yên. Gió vẫn đùa trên thảm lúa và nắng tháng mười thì bao giờ cũng thế. Rực rỡ, nồng nàn. Nó không mang đến cái cảm giác chói chang như cái nắng tháng tư. Hay là nếu đời người chỉ có một năm thôi. Thì chúng tôi đang ở tuổi tháng mười. Vâng, một lứa tuổi mà con người ngại ngần khi nói đến. Có lẽ chúng tôi cũng thế. Nhưng chẳng lẽ mãi âu lo. Những hạt lúa non đang no dần làm bông lúa cong cong và cơn gió làm cho chúng tỏa hương làm cho tôi ngây ngất. Cô ấy nữa, cũng đang tỏa hương làm cho tôi say đắm. Thế nên, nắng tháng mười hôm nay đẹp. Vâng, thật đẹp.
Đã lâu lắm rồi, tôi đã có quá đủ lu bu nên không còn hơi sức đâu mà nháy mắt cô này, đẩy đưa cô nọ. Nhưng nó cũng làm cho tôi chợt nhớ đến câu ca dao “Ta về ta tắm ao ta. Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn “. Tôi có những hai cái ao. Hơi nhiều! Mà cái nào cũng quen, nhưng không thông thuộc lắm, sâu hoắm. Sớm hay muộn gì rồi cũng hụt chân (?) Và cái đám cưới này. Một cái đám cưới không đơn giản cho tôi chút nào cả. Từ vị trí của tôi trong ngôi nhà này cho đến việc giải quyết về bên nội của thằng Hòa. Cô ấy nói từ lâu, ngày con nó lập gia đình cô ấy sẽ trầu rượu qua mời. Tôi có cảm giác mình sẽ hụt chân ở cái ao này. Không biết còn có sự cố nào nữa không? Đó là chưa kể về các anh em, bà con nội ngoại của cô ấy mà tôi chỉ nghe nói chớ chưa một lần gặp mặt.
Hòa. Hậu đứng từ sau lưng chúng tôi tự bao giờ. Nhưng có lẽ chúng không hiểu cái gì đang xảy ra. Nên chúng cũng yên lặng đứng nhìn cha mẹ chúng. Nắng vẫn chan hòa, rực rỡ.
Cô ấy. Không. Cơn gió, chính cơn gió đẩy tung mái tóc cô ấy phả lên mặt tôi và mơn man gọi tôi về với thực tế. Tôi quay lại nhìn cô. Cô ấy hơi đẩy đà so với cái tuổi bốn mươi sáu. Nhưng thân thể ấy rắn chắc, cứng cõi như tính cách của cô ấy. Nhưng trước tôi, trong tôi sao quá đỗi êm đềm. Cái khuôn mặt thách thức ấy giờ đây pha thêm một chút ngạo mạn. Thế mà khi tôi sẵng giọng, thì lại sẵn sàng để làm tôi câm họng bằng một thứ khác, nhẹ và mềm như tơ trời, uy lực vô song. Nghĩa là sao?
- Ba. Tiếng thằng Hòa gọi nhỏ.
Tôi quay lại nhìn hai đứa. Con tôi đây, chúng nó lớn hết rồi. Tôi cười nhẹ. Hỏi con:
- Có gì không con?
- Ba má vào nhà. Ba má làm tụi con sợ.
- Ừ thì vào. Nhưng ba má có làm sao đâu?
- Thằng Hậu nó buồn hiu. Nó nói ba giận má.
Tôi nhìn Hậu thấy mắt nó ươn uớt. Tôi nói với cô ấy:
- Anh có giận mình không? Nói cho hai con nó nghe.
Thay vì trả lời tôi, cô ấy dụi mặt vào ngực tôi. Tôi đỡ nhẹ cô ấy ra :
- Thôi con nó cười đấy. Mấy con coi, má con như thế làm sao ba giận được. Thôi nào, cùng với ba má vào nhà.
Mâm cơn đã được dọn lên. Thịnh soạn hơn thường ngày, rất thịnh soạn là đàng khác. Nhưng nơi ghế tôi ngồi thì một tô canh đọt choại và một thứ làm cho tôi không tin vào mắt mình, mấy con cá rô cỡ bằng bốn ngón tay kho muối, những lát ớt đỏ thắm rực rỡ trên nền muối trắng tinh và cái nồi đất đen ngòm làm rực rỡ cái màu trắng tinh và thơm ngát của cơm gạo trắng tép. Tôi quay sang nhìn cô ấy và hỏi:
- Cái gì đây? Mình muốn gì ở anh?
Cô ấy đỏ mặt nhìn tôi:
- Em không biết. Con nó nói mình rất thích ăn cá rô kho như vậy?
Tôi quay sang Hậu, thằng nhóc nhìn tôi cười tủm tỉm:
- Con cũng không biết. Con nghe cô Út nói và dạy cho con. Con về nói lại với má.
- Cái gì? Cô Út nào?
Thằng bé ấp úng. Cô ấy nói tiếp:
- Mình đừng rầy con. Không biết ai chỉ cho con. Nó tìm đến nhà. Hỏi đại. Ai dè cô Út nhận cháu. Lúc nó về khoe, làm em hết hồn.
Những giận hờn biến đi để nhường chỗ cho hạnh phúc tràn về. Tôi nhìn mấy mẹ con. Trong lòng rộn lên một cảm giác rất khó tả.
- Ba. Má ơi! Ông bà ngoại và ông bác, bà cô vô. Có cậu mợ tư nữa. Tiếng thằng Hòa vọng lại từ ngoài sân.
Chúng tôi buông đũa bước ra đón mọi người. Và cái anh chàng mang tiền đăt bảng thì tay xách nách mang. Chúng tôi chào hỏi mọi người, nhưng khi đến mẹ cô ấy thì tôi không biết phải mở miệng ra sao. Đành gật đầu chào. Bà ấy nhìn tôi mà không hiểu bà ấy nghĩ gì? Không chào lại và không một tiếng nào.
Mọi người vào hẵn trong nhà, rồi tất cả lại quây quần bên mâm cơm. Người trước tiên nhận ra các món ăn quái chiêu mà cô ấy dọn cho riêng tôi là ba cô ấy. Ông nhìn cô ấy và hỏi:
- Út. Ai ăn mấy món đó vậy con?
Cô ấy nhìn tôi và trả lời:
- Ba sắp nhỏ đó ba.
Ông nhìn tôi :
- Hôm nay nhà thiếu gì món, mà con lại ăn như thế?
Tôi cười cười :
- Vợ con cho ăn gì? Con ăn nấy. Thưa ba.
Cô ấy tròn mắt nhìn tôi:
- Mình đó nghe. Chiều theo ý mình mà mình còn nói oan cho em.
Mọi người cùng cười, ngoại trừ mẹ cô ấy. Bác Năm nhìn tôi nói mà không rõ nói với ai:
- Ăn uống cái kiểu này làm sao mà trong lòng thanh thản được.
Ba cô ấy lên tiếng:
- Thôi, mọi người ăn cơm đi. Thằng chồng con út. Con cũng ngộ thiệt. Thèm những món mà ai nhìn thấy cũng nổi gai ốc. Cực chẳng đã mới ăn.
Tôi im lặng không nói gì. Bởi vì ông ấy không hiểu được tại sao tôi lại muốn ăn như vậy. Bữa cơm thật sự ngon lành đối với tôi. Cái món đặc sản của tôi không ai rớ tới như là để dành riêng và nó thực sự là king rice. Không hiểu cái gì đã khiến cho cô ấy kho một ui cá kho y như là mẹ tôi vậy. Không lẫn vào đâu được. Bổng một ý nghĩ thoáng nhanh trong đầu và làm tôi nhói đau. “Phải chi… “.
Cô Chín nhìn tôi :
- Thằng Hiền này. Mày, theo tao biết, là thằng bán trời không mời thiên lôi. Thế mà tại làm sao con Út nó muốn gì được nấy. Mày nói thử cho tao nghe.
Tôi ấm lòng vì cây hỏi này, bởi vì ít ra cũng có người muốn hiểu được tôi. Tôi nói nhỏ :
- Thưa cô. Tại vì vợ con không muốn gì cả?
Mẹ cô ấy lên tìếng :
- Mấy người nói chuyện, tôi không biết gì hết.
- Bà mà biết để làm gì? Ba cô ấy đâm hơi.
- Thôi. Hai ông bà mà xáp lại là cứ móc họng. Ăn ở với nhau kiểu đó mà có tới năm sáu mặt con kể cũng ngô. Làm vợ, làm chồng như mấy người, tôi không biết để làm chi? Ngày hôm nay mà cũng không để cho mấy đứa nhỏ vui một chút. Giọng cô Chín hơi sẵng, quay sang tôi bà ấy tiếp. Tao năm nay hơn sáu mươi tuổi rồi, dù không có gia đình. Nhưng chưa thấy có một cặp nào như tụi bây. Thằng chồng thì không phải thuộc dạng đèo bồng mà có vợ bé. Con vợ thì làm bé, mà làm theo cái kiểu chẳng giống ai. Tao cứ lo ngai ngái cái chuyện tụi bây um sùm trời đất. Bấy lâu nay tao chuẩn bị để không nhìn mặt tụi bây. Nhưng tới bây giờ thì vẫn êm ru. Ôi sao mà khó hiểu. Nhưng thôi. Được vậy thì ráng giữ cho như vậy.
Bà ấy nói một hơi và chấm dứt bằng một tiếng thở ra. Bà ấy nói vậy chứ thực ra mà làm sao bà ấy không nhìn mặt chúng tôi được. Những đầm ấm mà ngôi nhà này có được là nhờ bà. Chính bà là người an ủi, có lúc vừa bao biện, vừa khuyên nhủ, bảo ban ba mẹ con cô ấy trong những tháng ngày khó khăn. Chính bà là người hiểu rõ và thông cảm cho tôi nhiều hơn ai hết. Bà là người mồm miệng ào ạt, nói năng dữ tợn. Nhưng với mọi người bao giờ cũng cư xử bằng sự dịu êm.
Bữa cơm chấm dứt. Khi mọi người đang túm tụm vào nhau thì tôi bước sang cây xăng và đứng nhìn. Và tôi thực sự hốt hoảng, cô ấy bán được bao nhiêu mỗi ngày, mà xây dựng một cây xăng quy mô thế này. Tất tất đều đúng theo quy cách về mặt kinh doanh và an toàn phòng chống cháy… Nó nuốt của cô ấy bao nhiêu tiền và tiền ấy ở đâu? Ít nhất cũng hơn ba trăm triệu. Chưa kể vốn lưu động. Nếu là tiền của chính cô ấy, thì cô ấy làm gì để có, khi mà cô ấy chỉ có mười lăm công ruộng và cái tiệm tạp hóa. Tôi biết có một cơ may nào đó trong cái nền kinh tế phập phù này, đại loại như giá hàng hóa, xăng dầu đột ngột tăng khi cô ấy vừa mới nhập hàng. Có thể thế và cộng với sự cần kiệm và chí thú đã tạo nên cho cô ấy một cơ ngơi, mà bản thân tôi cũng không tài nào làm được. Tôi thật sự không hiểu? Tôi đưa mắt nhìn quanh, cuộc sống đã đổi thay. Cái vùng quê hẻo lánh này trở nên đáng yêu hơn và có lẽ sẽ phức tạp hơn. Nhưng nhìn lại ngôi nhà, cơ sở làm ăn và sự trưởng thành của hai thằng bé đã làm tôi yên tâm. Cái yêm tâm lớn nhất chính là tính cách của chúng. Có thể chúng giống tôi mọi thứ nhưng có hai thứ không giống; tính lơ mơ và kiểu cách ngang ngược bọc nhung. Đây là cái từ mà bác Năm gọi tôi.
- Ba. Tiếng của Hậu kêu tôi.
Tôi quay lại nhìn nó. Con tôi đây. Ở tuổi hai mươi mốt. Nó có vẻ hơn tôi nhiều mặt. Tôi nhìn con. Nó quá giống tôi. nhưng trong ánh mắt nó có ẩn chứa một thứ mà người ta gọi là kiêu ngạo. Điều này không biết có giống tôi không, bởi vì chưa bao giờ tôi nhìn thấy mắt mình. Tôi choàng tay qua vai con. Cái hơi ấm của tuổi trẻ làm tôi hạnh phúc.Tôi hỏi:
- Con học hành ra làm sao ? Nói cho ba nghe.
Nó không trả lời tôi, mà tỏ lộ một ý muốn làm cho tôi muốn chết giấc. Tôi không nói được gì.
- Con… con gặp cô Út. Con nói thiệt hết cho cô Út nghe. Cô Út mừng lắm, rồi sau đó buồn hiu. Cô Út nói con giống ba. Cô Út cũng nói là ba thích ăn cá rô kho muối, mà chỉ có bà nội kho ba mới ăn.
- Việc này là ý muốn của ba. Cái việc con trở về cái nôi của mình, sớm hay muộn gì rồi cũng xảy ra. Nhưng trong hoàn cảnh này. Ba xin lỗi con, xin lỗi má con. Ba cám ơn má con và con về món ăn vừa rồi
-  Con chỉ muốn gặp em con.
- Ba biết những mong ước cháy bỏng của các con. Nhưng…
- Con chỉ muốn cho ba hiểu tấm lòng của tụi con. Anh hai qua mấy lần, mà ông bà nội anh ấy không nhận. Hôm trước má có qua mời đám cưới mà cả nhà nhận thiệp nhưng nín thinh. Con mới về, thấy anh hai buồn hiu. Con hỏi má mới biết. Hồi hôm hai anh em con ngồi nói chuyện. Anh hai nói khi nào ba dẫn con về nội. Anh hai cũng đi theo. Anh hai nói, nếu không có ba không biết má và anh hai giờ này ra sao?
Tôi không biết trả lời con thế nào, đành lãng sang chuyện khác:
- Thôi con. Để ba dặn mấy chú một chút rồi cha con mình có việc phải làm.
Sau khi hướng dẫn cặn kẻ một lần nữa cho ê kíp thợ lắp ráp và chỉnh sửa hai bảng hông. Cha con tôi hý hoáy dán chữ decal lên các cây bơm rồi treo các bảng cấm lửa, không hút thuốc… đúng theo quy định của cơ quan PCCC. Vừa làm, hai cha con tôi vừa rù rì chuyện này, chuyện kia. Chuyện sinh hoạt, chuyện làm ăn của tôi, chuyện học hành của con, công việc làm ăn của cô ấy. Về chuyện này Hậu không biết nhiều lắm. Nhưng qua những lời kể không đầu, không đuôi của con, tôi cũng có thể hình dung ra là cô ấy răm rắp làm theo những gì tôi muốn. Nhất là khi Hòa nghỉ học, với sức trẻ, có kiến thức và lòng hiếu thuận. Mấy mẹ con cùng nhau tạo dựng ra cái cơ ngơi này.
- Mình ơi. Chiều rồi. Ba và bác Năm đợi mình nè. Mình nói mấy chú nghỉ tay, ăn cơm
Tiếng cô ấy vọng sang. Tôi nhìn đồng hồ đã gần năm giờ chiều. Ngó qua nhà, cái dáng dấp mập mập tròn tròn và khỏe khoắn của cô ấy, đang khuất dần sau cái chái. Tôi nôn nao trong lòng. Lạ nhỉ? Tôi bảo thợ nghỉ tay chuẩn bị ăn cơm, rồi cha con tôi trở qua nhà. Bác Năm và mọi người đang ngồi chung quanh sòng nhậu chờ tôi. Tôi bước vào, rồi bổng nhớ ra, tôi bảo Hòa vào phòng lấy chai rượu trong cartable. Tôi khui chai rượu và rót ra một ly mời ông già vợ :
- Thưa ba má. Ly rượu này đúng ra con phải rót ra mời ba má từ cách đây hơn hai mươi năm. Bây giờ dù là quá trễ, nhưng con xin ba má nhận cho và chấp nhận cho vợ chồng con.
Ông nâng ly lên, run run nói :
- Ba cám ơn. Chính con chớ không ai khác mới có thể tạo dựng cho con út và mấy đứa cháu ngoại của ba được ngày hôm nay. Ba uống là uống mừng cho các con, chớ nhận con thì ba nhận lâu rồi.
Ông nâng ly uống phân nữa, còn phân nữa ông đưa cho bà, bà lại đẩy sang ông :
- Thì ông uống hết đi.
- Bà không uống cũng được. Bà nhận lúa, nhận tiền của vợ chồng nó, chớ ngoài ra bà có biết nhận thứ gì nữa đâu? Ông nói móc họng. Bà ấy hứ ông một tiếng rồi quay mặt đi.
Ông đưa ly lại cho tôi. Ly thứ hai tôi mời bác Năm:
- Vợ chồng con mời bác Năm một ly. Chúng con cám ơn bác đã giúp đỡ và xem chúng con như con cháu trong nhà.
Bác nhận lấy ly rượu uống cạn, đôi mắt già nua ương uớt. Tôi biết ông nhớ thằng Thuật. Tôi rót rượu mời mọi người một ly. Tới phiên thằng con trai của Thuật. Tôi bảo:
- Chú mày tự rót lấy mà uống. Cứ uống xong đi, rồi tao tính sổ mày. Tới giờ tao còn chưa biết mày tên gì?
Hắn nhìn tôi cười ngượng nghịu :
- Bác thông cảm cho con. Con làm theo lệnh mà. Con tên Thà.
Ông anh vợ của tôi nhìn tôi cười :
- Dượng út trách nó làm gì. Dượng trách là trách tui nè. Tui nghe con út nó nói muốn dành cho dượng sự bất ngờ. Thế là tui bày mưu cho nó với thằng Thà. Nói thiệt tới giờ này tôi mới biết dượng. Nhớ lại Tết năm đó dượng qua thăm ba má, tôi lại không có nhà. Tôi cứ anh ách. Dượng giỏi thiệt đó nghe. Tôi là anh nó, mà em út te tua không mó tay vô giúp em nó được cái gì. Dượng cứu nó hai ba bận. Dượng ngon thiệt.
Mọi người hè nhau đưa tôi lên mây xanh, ngoại trừ bà già vợ của tôi. Không khí ấm lại. Nhưng tôi thì trong lòng trống không. Tôi có linh cảm là bên nội thằng Hòa sẽ đến, lương tâm tôi bảo tôi phải trả nó về với cội nguồn, nhưng tình cảm của tôi thì bảo khác. Hơn nữa trả con mình về cho người ta thì phải trả bằng cách nào đây, mà giữ lại thì giữ làm sao? Tôi chịu và cứ rót, cứ uống. Bác Năm là người nhận ra trước tiên. Ông lên tiếng:
- Hiền này. Rượu này là rượu dữ. Tao mới mấy ly là muốn quắc. Thế mà mày sao vậy? Tự nãy giờ tao thấy mày uống liên tu bất tận.
Tôi nín thinh. Ba cô ấy thấy tôi có vẻ khác thường. Chắc ông hiểu phần nào, nên bảo:
- Chồng con út này. Tao biết bây hơi khó xử chuyện bên nội thằng Hòa. Nhưng chuyện gì cũng phải từ từ. Tao thấy bây uống mà tao phát sợ. Thủng thẳng tính con. Con Út, đưa nó vào nghỉ đi.
Cô ấy dìu tôi vào phòng. Cái mùi tóc ấy làm tôi tỉnh lại một chút. Cô ấy lấy khăn lau mặt cho tôi, vừa lau, vừa nói:
- Mình uống gì mà dữ vậy? Từ hồi nào đến giờ, em có thấy mình uống rượu đâu? Em nói rồi, mình giận em thì mình muốn làm gì em cũng được, chớ mình như vậy thì chắc em chết.
Tôi gắt lên :
- Mình im đi cho anh nhờ. Chính mình chớ không ai khác. Mình đang giết anh, giết từ từ giết từ…
Tôi chìm trong cơn say, trong hương tóc, trong tiếng rấm rứt của cô ấy.
Khi tôi tỉnh lại thì đã tám giờ tối. Nằm nhìn lên nóc nhà giữa những tiếng rộn ràng từ bên ngoài vọng vào. Từ lâu tôi mơ màng không biết mình là ai, là cái gì trong ngôi nhà này. Thì hôm nay cái cảm giác ấy lại lớn hơn bao giờ hết. Tôi đã khai không biết bao nhiêu là con mương cho cái vườn trầu. Nhưng coi bộ nước vẫn cứ không thông.
Cái nhu cầu trở lại cội nguồn, tìm về với máu thịt là một nhu cầu lớn hơn mọi nhu cầu. Nhưng tôi lại không làm được cho các con tôi. Cái gì đã trói buộc chân tay của một người cha như tôi vậy. Cái gì đã khiến cho thằng Hòa, thằng Hậu, chúng nó không thể đương nhiên trở lại cái nơi mà ở đó nó hình thành. Cái gì đã khiến tôi có mặt nơi đây trong nỗi dày dò và phía bên kia sông vợ tôi đang lần từng bước một với cái thân thể tan tác vì bệnh tật. Cái gì đã khiến, khi đi học về con bé lại phải lên nhà chú nó bưng mâm cơm về cho hai mẹ con. Và tôi thì đứng ở đâu trong một đống câu hỏi này. Khi ở phía bên này thì lại nhớ phía bên kia. Ở bên kia thì nhớ lại bên này.
- Mình thức rồi hả? Mình ra rửa mặt rồi húp một miếng cháo là khỏe lại ngay. Ba nói vậy đó.
- Không mình để anh nằm một chút nữa. Mình lại đây.
Cô ấy bước lại, nói nhỏ :
- Có gì không mình?
- Sau khi đám cưới cho con xong. Mình…mình bỏ anh đi. Coi ông nào được được mà chết vợ đó. Ưng đại đi.
- Nói cái gì đâu không? Con nó nghe được nó lại cười cho. Bây giờ tỉnh chưa?
- Rồi.
- Nếu tỉnh thì hôn em một cái đi. Từ hồi xuống tới giờ cứ lo cự nự em không ?
- Không .
- Em hôn đại.
Cô ấy ập vào người tôi bằng hết sức lực của mình. Mùi tóc, mùi mồ hôi và hàng trăm thứ khác xộc vào mũi tôi. Tất cả các mùi ấy tỏa ra nỗi khát khao như giông bão. Và tôi thua. Nghĩa là tôi phải đáp ứng. Nhưng cô ấy vùng khỏi tôi rồi bỏ đi. Tôi không hiểu cái gì đã xảy ra. Mọi lần đâu có như thế. Bao giờ cô ấy cũng tinh tươm khi đến bên tôi. Cô ấy đã đi rồi mà cái mùi ấy vẫn còn phảng phất quanh đây. Tôi thích thú. Nhưng không hiểu. Ôi đàn bà và… ôi cả đàn ông.
Cái quan hệ vợ chồng của chúng tôi là như thế đó. Có quái lắm không khi mà con cái đã ngần ấy tuổi rồi? Chúng tôi vẫn cư xử với nhau như là một cặp tình nhân vụng trộm. Hoàn cảnh và tính cách đã làm cho chúng tôi không giống ai. Không biết có phải là hạnh phúc không? Nhưng chí ít nó cũng là một niềm vui. Xin đừng có ai như chúng tôi. Bởi vì xót lắm khi phải đối diện với cái thực tế mà đã bao nhiêu năm qua chúng tôi phải chịu đựng.
Tôi bước qua cây xăng, Tất cả đã xong chỉ còn bảng chính, mấy tay thợ của tôi nhìn tôi cười. Một tên nói nhỏ :
- Ông thầy ghê thật. Làm với ông đã ba bốn năm nay mà không biết gì cả. Thế bà này lớn hay nhỏ. Hai thằng con ông giống ông thiệt nghen.
- Thế thì bọn mày có cần tao phải nạp sơ yếu lý lịch không? Vợ cả, vợ hai, cả hai đều là vợ cả. Thôi, việc ai nấy lo. Bảng chính sao rồi ?
- Bảng chính đã sẵn sàng, ông thầy bảo mai ráp. Ông thầy này. Bà này mà ra chợ vài tháng là ăn đứt thiên hạ.
- Tao bảo thôi. Chơi luôn bảng chính đi. Xong lấy vải đỏ phủ lại. Nhắm kịp không?
- Dư sức. Bảng chính chỉ có tám cây bu lon.
- Bụp đi. Mai về sớm. Đứa nào không nhớ vợ thì ở lại nhậu với tao. Nhưng nhậu hay không gì thì cũng nín.
Lúc này hàng xóm đến khá đông. Tôi nhờ mọi người tiếp tay. Không đầy nửa giờ sau. Mọi thứ đâu vào đấy. Cô ấy luôn quấn quýt bên tôi. Sau khi kiểm tra lại hệ thống đèn. Tôi chuẩn bị mọi thứ rồi bảo cô ấy:
- Mình lại đây.
Cô ấy bước đến, tôi chỉ cái cầu dao điện và nói:
- Mình cầm cái cầu dao rồi nghĩ về những mong ước của mình, xong rồi đẩy lên.
Khoảng một phút trôi qua, trông cô ấy có vẻ thành kính và hơi căng thẳng. Cô đẩy cái cầu dao lên. Tất cả đèn bật sáng lên. Và ánh mắt cô ấy cũng sáng lên như thế.
Tôi trở qua nhà. Ôi người đâu mà lắm thế. Không quá hai giờ, tôi bận bịu bên cây xăng. Thế mà khi trở lại thì chòi rạp, bàn ghế đã xong. Tôi không lạ chuyện này, ở vùng quê là thế, tất cả mọi người thể hiện rất rõ cái tính cộng đồng. Nhất là trong các dịp quan, hôn, tang, tế. Khi tôi bước vào, một vài người chào tôi, một số khác thì xầm xì. Loáng thoáng đâu đó tôi nghe nói :
- Thằng cha này ngoài cái việc ăn mặc tinh tươm, thì đâu có gì dữ dội lắm đâu mà bà út khẳm dữ vậy ta? Ốm nhách như con cò ma. Ấy thế ai mà trừng nhướng với bà ấy một vài phát là bị bà ấy choảng ngay.
- Nghe nói thằng chả quê ở đâu ngoài Rạch Giá. Hồi mới tiếp thu trôi nổi vào đây bị bà Út bắt giò. Tính khí ngang như cua. Già trẻ bé lớn gì mà nói nghịch lỗ tai là thằng chả phang lại tuốt luốt. Ngoại trừ bà Út.
- Nghe đâu ông ta hồi đó đi lính ngụy, thấy bà Út bị thương ông ta băng bó cho còn để lại thuốc men đủ thứ? Nếu không có ổng chắc bà Út ngủm cũ tỏi chớ chẳng chơi. Mà ngộ nghen. Ai mà nói với thằng Hòa, nó không phải con ổng là nó chơi tới bến luôn.
- Ông nói chơi hoài. Lúc ấy bà Út làm giao liên.
- Thế mới có chuyện nói.
Và, và nhiều thứ nữa. Tôi biết tôi đang là một mục tiêu cho mọi người bàn tán. Bởi vì sự xuất hiện của tôi không giống lẽ thường. Trong khi cô ấy lại là một hiện tượng cũng khá bất thường trong một làng quê hẻo lánh này. Tất nhiên. Trong sự bàn tán ấy có vô số điều không đúng. Nếu có đúng thì hơi quá đáng. Phải chấp nhận thôi. Tôi đứng bên hông rạp chỉ cho Hoà, Hậu cùng các bạn nó sắp xếp và chuẩn bị mọi thứ. Trong lúc đang lăng xăng, thì tôi bổng nghe những tiếng ồn ào im bặt. Mấy cha con nhìn ra thấy có hai ba người đang dẫn hai ông bà già đi vào. Ba cô ấy mặt như đanh lại nhưng vẫn bước ra mời vào. Tôi nhìn vào, thấy mọi người có vẻ như chùng lại, những tiếng nói cười rôm rả được thay thế bằng những lời xì xào. Cô ấy bước ra nhìn sững một lát rồi đến chào:
- Thưa ba má mới qua.
Tôi nghĩ thầm “ Thì ra ông bà nội thằng Hòa”.
- Không dám. Lại một giọng đâm hơi. Sao? Nghe nói có ba thằng Hòa gì đó vô phải không. Cô kêu đến gặp tôi.
Thế là họ vào cuộc ngay tức khắc, không kịp ngồi vào bàn, không thăm dò, không rào đón đắn đo. Tất cả như đã chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc quyết đấu. Mặt cô ấy như tái lại khi tôi bước đến,:
- Thưa hai bác, cháu đây ạ.
Cả bốn người nhìn tôi. Tôi không hiểu trong cặp mắt họ, tôi là cái gì? Sau khi ngắm nghía thỏa thuê. Ông già vào đề ngay:
- Chú nói thằng Hòa là cháu tôi. Thế thì bằng chứng đâu?
Tôi thật sự nổi nóng. Trong khi có giọng nói của ai đó “Cha vụ này căng đây “. Cố ghìm lại tôi nói:
- Thưa hai bác và các anh chị. Hãy ngồi xuống và uống một ly nước với vợ chồng cháu đã.
Khi tất cả đã ngồi yên, nhưng không ngó ngàng gì đến những ly nước được rót ra:
- Rồi, chúng tôi đã ngồi rồi đây, chú trả lời đi.
- Tôi cũng xin mạn phép hỏi lại, thế thì cái gì có thể phủ nhận thằng Hòa không phải là cháu nội của hai bác?
Bà nội thằng Hòa đang nhai trầu bỏm bẻm, vội đưa tay quẹt ngang:
- Cái giấy khai sanh của nó mang tên cha là tên của chú mà. Nó không phải là con chú thì con ai? Tại sao lại đùa đẩy cho hai vợ chồng già này?
Tôi chỉ cần có thế:
- Thưa hai bác, các anh chị và bà con có mặt ở đây. Không có một con người nào trên thế gian này được sinh ra đời mà không có cha cả. Con nó có một thời gian ở trong cái hoàn cảnh cay đắng ấy. Người cha thật sự của con đã bị chiến tranh cướp đi. Và những người có trách nhiệm thì chỉ có một người mẹ. Vâng. Chỉ một người mẹ với tấm thân đầy thương tích, ôm giọt máu của mình quay quắt với biết bao khốn khó và tủi buồn. Cháu nó lớn lên không nguồn cội, không khai sinh, nên đành phải dựa vào cái gốc bá vơ là tôi đây. Và với tên cha bá vơ ấy, ngày hôm nay con nó trưởng thành. Con người, ai cũng có cội nguồn. Tôi thúc giục vợ tôi và con nó đến nhận ông bà nội. Để cho con nó biết giòng họ, gốc gác. Còn cái việc đưa ra bằng chứng, thì việc này không phải là việc của tôi.
- Có bằng chứng thì tui nhận, không thì thôi.
Trên thế gian này không có việc gì cực khổ và nặng nhọc bằng việc kềm chế cơn giận đang trào lên. Và tôi đang khổ sở vì việc ấy. Tại sao họ lại làm thế. Họ muốn cái gì? Tôi không thể nào hiểu nổi. Nhưng tôi cố hết sức để có một giọng điệu từ tốn: 
- Thưa hai bác, nhận hay không là quyền của hai bác, là phúc phận của con nó. Tôi nuôi dưỡng nó tới ngần này, thì cái việc nó là con ai thì vợ chồng tôi không còn quan tâm lắm. Bởi vì, chúng tôi là cha con, pháp lý công nhận và trong tấm lòng của cha con chúng tôi không bao giờ nghĩ khác. Gia đình này; hai vợ chồng hai đứa con trai, ngày mai thêm một đứa con dâu và sau này là một đứa nữa, rồi hai bầy cháu nội. Đây là một gia đình. Những thành viên trong gia đình này luôn luôn toàn tâm toàn ý xây dựng và bảo vệ. Điều này, đã được thực hiện từ lâu và không bao giờ ngơi nghỉ. Nhưng anh ấy, chính anh ấy mới là việc cần giải quyết cho ngày hôm nay, anh ấy mất khi con nó còn trong bụng mẹ. Cha con không bao giờ gặp nhau. Do đó, cái quan hệ huyết thống này lại càng không thể phủ nhận. Hai bác nhận cháu hay không? Điều này cũng không quan trọng. Cái quan trọng là con nó có xem hai bác là ông bà nội hay không, có xem anh ấy là cha hay không, mới là điều đáng nói? Nếu con nó không nhận, nó là thằng bỏ đi. Như vậy nó có xứng đáng với sự nuôi dạy của vợ chồng tôi không? Xứng đáng với giòng máu nó mang trong người hay không? Nhưng nó nhận và thèm được tôn kính ông bà, cô chú. Con nó mong muốn ngày nó lập gia đình, hai vợ chồng nó thắp nén nhang và cúi xuống đặt cái lạy đầu tiên cho cha đẻ của nó. Con nó phải làm như thế. Bởi vì cái cây mà chặt bỏ đi một vài cành hay thậm chí đốn sát gốc như bạch đàn thì vẫn sống, nhưng cành lá xum xuê mà bứng gốc đi thì cây ấy sống vào đâu? Bởi thế ngày hôm nay, vợ chồng tôi thỉnh hai bác và các anh chị qua đây, để nhận cháu và uống cho nó ly rượu mừng. Nhưng nếu mọi người chê là rượu lạt mà không uống thì vợ chồng tôi xin được mạn phép nghĩ rằng “Không vì thế mà kém vui hơn“. Nhưng tôi biết hai bác và các anh chị đây đã nhận cháu nó, nếu không nhận thì tội gì mà bỏ công qua đây. Và hương hồn anh ấy nữa. Dù đang ở nơi nào đó, dù sự việc hôm nay như thế nào, anh ấy cũng đang nôn nao chờ đợi tiếng gọi của con mình.
Mọi người “Ồ“ lên. Tôi nghe ai đó nói “ Đúng là danh bất hư truyền, mỗi tiếng nói ra, mới nghe nhẹ như gió, nghĩ lại thì nặng như búa bổ “. Tôi nhìn họ, mặt mày đờ ra. Tôi nhìn cô ấy, nhìn con tôi. Mặt cả hai trắng bệch, nhưng trong hai đôi mắt ánh lên sự hài lòng, vì những ẩn ức của họ đã được tôi nói ra. Và đâu có ai biết rằng tôi đang kiệt sức. Hai chân tôi run lẫy bẫy. Tôi phải cố ghìm lại. Cuối cùng. Ông lão cũng lên tiếng :
- Ít ra chú mày cũng nói ra một cái lý mà tao nghe lọt được vào lỗ tai. Tao giận nó, vì nó nhận giặc làm cha. Con Việt Cộng mà nhận lính ngụy làm cha dễ gì tao chịu mậy. Nhưng thôi. Bây giờ thì hết giặc rồi (?) Hòa đâu. Đến ông nội bảo này. Ông rút trong bọc ra một khung ảnh đưa cho cháu nội của mình rồi tiếp. Đây là ảnh của ba con. Từ đây việc nhang khói, giỗ quảy cho ba con, con có bổn phận phải lo.
Hòa bước tới đứng cạnh ông, hai tay nó run run nhận tấm ảnh. Đôi mắt tinh anh của chàng trai vừa mới trưởng thành đầm đìa nước mắt. Nó nhìn người thanh niên trong ảnh và cảm giác gì xảy ra trong lòng nó thì tôi không làm sao mà hiểu được. Rồi nó nhìn sang tôi và cô ấy. Cô ấy như thất thần nhìn lại hình ảnh của một người mà từ lâu rồi hình như cô không nhớ nữa. Còn tôi, phải rất cố gắng lắm mới nói được với con:
- Những gì con mong đợi đã tới. Ba con đã về với con. Con chờ một lát. Cha con mình đem ảnh ba con đặt lên bàn thờ.
Hòa thẩn thờ nhìn tôi, nước mắt đoanh tròng, rồi ôm ảnh của cha mình vào lòng. Không hiểu những giọt nước mắt kia nó khóc cho ai. Ông già quay qua bảo cô ấy, giọng nói trở nên từ tốn:
- Con lấy cho ba mượn chai rượu.
Tôi cố hết sức để nói với cô ấy :
- Mình vô mở cái cartable của anh lấy chai rượu mới ra. Hòa, con chờ ba một chút.
Cô ấy quay đi như cái máy rồi trở ra mang theo chai rượu đặt lên bàn. Tôi cầm chai rượu đưa cho ông nội của Hòa. Ông một tay cầm lấy chai rượu, một tay nắm lấy tay tôi :
- Cám ơn cháu. Rồi ông quay sang cô ấy. Con cùng với thằng Hòa đặt tấm ảnh ba nó lên bàn thờ đi.
Tôi vội nói:
- Xin phép hai bác. Đúng ra chai rượu này cháu kính hai bác và ông bà nhạc cháu uống trước. Nhưng đây là trường hợp quá đặc biệt. Xin hai bác và ba má cho vợ chồng cháu xin trước ba ly rượu để mừng anh ấy về nhà đoàn tụ với con.
Ông nội thằng Hòa vừa đưa chai rượu vừa nhướng mắt nhìn tôi:
- Tao hỏi thật. Mày là con cái nhà ai. Mày muốn làm màu hay tấm lòng mày muốn thế?
Tôi nhận chai rượu từ tay ông mà không trả lời, chỉ nói:
- Xin phép bác. Vợ chồng cháu cám ơn hai bác.
Chúng tôi mang chai rượu quay đi. Tất cả gần một trăm con người yên lặng chứng kiến giây phút thằng Hòa trở về cội nguồn. Còn tôi, sau cơn giận dữ là một thoáng cảm động và sau đó là nhộn nhạo trong lòng với một ý nghĩ là mình vuột mất hết tất cả. Tôi có quá ích kỷ không? Tôi có cảm tưởng là tất cả mọi người đang có mặt ở đây đang chăm chú nhìn tôi với nụ cười chế diễu và phủ nhận sự có mặt của tôi ở nơi này. Tôi nghi ngờ về việc làm của mình. Tôi đã đúng hay sai. Đúng ở chỗ nào và sai ở chỗ nào. Tôi không hiểu. Ôi tại sao tôi không hiểu? Tôi rót rượu vào ba cái ly đặt lên bàn thờ anh ấy, muốn nói một điều gì đó, nhưng không thể dù chỉ là một lời khấn thì thầm. Khi chúng tôi và Hòa trở  lại. Ông nội Hòa cầm lấy tay nó, run run :
- Hòa con. Con là cháu nội của ông. Bấy lâu nay ông bà không ngó ngàng tới cháu. Điều này là không phải. Con có buồn ông bà nội không? Tiếng ông già như vướng lại, rồi sau đó là thằng Hòa:
- Thưa nội, con không dám. Con mà như thế là ba má con không vui lòng. Hòa trả lời rất cung kính.
Ông nội của Hòa nhìn tôi :
- Chú mày cũng khéo dạy đấy. Coi bộ nhận đứa cháu nội này mệt lắm đây. Thôi thì thế này
Ông dừng lại rồi rút trong áo ra cái phong bì lớn và tiếp:
- Đây là cái sổ đỏ mang tên con, tên Nguyễn Hiền Hòa. Ông bà nội tặng con mười công ruộng mừng ngày con lập gia đình. Đáng lý ra ngày mai có mặt cháu dâu mới đưa. Nhưng thôi, đưa luôn hôm nay để mai khỏi phải móc tới, móc lui.
Rồi quay sang tôi ông tiếp:
- Chú mày liệu việc như thần. Dám chắc ngày hôm nay tao qua nhận cháu. Chú mày giỏi, giỏi thật.
Tôi giật mình lí nhí cái gì mà mãi sau này tôi cũng không nhớ. Chỉ khi tôi quay sang Hòa:
- Thôi. Con nhận cho ông bà vui lòng. Còn sau này, vợ chồng con sử dụng thế nào thì tùy con. Ba má tuyệt đối không có bất cứ một ý kiến nào về việc này. Kể cả khi con để lại cho ông bà nội dưỡng già. Bây giờ con rót rượu cho ông bà nội và cô chú đi con.
Hòa làm theo, đôi tay trẻ trung khỏe mạnh ấy run run. Ai đó phải phụ giúp nó. Cuối cùng nó cũng có được ly rượu tràn đầy và thành kính đưa cho ông nội. Cầm ly rượu trên tay. Ông đưa sang cho ba má cô ấy bằng hai tay, rồi trịnh trọng nói:
- Anh chị sui, tha lỗi cho vợ chồng tui nghe. Thôi, tôi với anh chia hai.
Hai ông già cạn ly. Thằng Hòa lại rót tiếp, lần lượt từng người. Cuối cùng ông cầm ly rượu đưa cho tôi, nói:
- Chú mày kể ra cũng thuộc loại dữ dằn đấy. Tao ghét chú mày, vì chú mày và con Út cấu kết nhau làm khai sinh cho thằng Hòa, để cho mày giựt thằng cháu nội của tao (?). Vì thế mà tao không cho thằng Hòa nhận tao là ông nội. Tao nói thiệt, hôm nay, tao qua đây để ăn thua đủ với chú mày đấy. Rồi sau đó mới nhận cháu. Bởi vì trong thâm tâm tao chưa bao giờ xem mày là chồng con Út, là cha của thằng Hòa. Nhưng chú mày dữ thiệt, chơi tao một vố thẳng cẳng. Tao thua mà phải tâm phục, khẩu phục. Đáng lý ra là ly rượu này tao phải bán lúa ra mua, để mà xin lỗi ông bà sui tao và xin lỗi chú mày. Nhưng bây giờ tao lại lấy rượu của chú mày để làm chuyện đó. Điều này hơi ngược ngạo. Nhưng thôi. Đời mà mậy, xuôi hay ngược cũng do mình. Thế thì bữa nay xuôi chèo mát mái hết nghen. Thôi thì chú mày vô “một chăm phần chăm” coi. Từ chối là chú mày còn giận tao đó. Nhưng có điều này, trước khi uống ly rượu này. Tao nói cho chú mày biết thằng Hòa, dù rằng nó là cháu nội của tao, nhưng vẫn là con của chú mày. Vĩnh viễn nó là con chú mày. Bởi vì, có rất nhiều mặt tao không cãi được. Nhất là cái khai sinh. Cũng không cần thiết phải làm lại. Tao chấp nhận cái khai sinh này và cái tên nó đang mang. Cái tên nghe cũng được đó chớ. Bởi thế tao mới ghi vào sổ đỏ. Thôi vô.
Tôi như vừa tỉnh lại, đưa cầm ly rượu trên tay mà thấy tức cười :
- Dạ cháu đâu dám. Vợ chồng cháu cám ơn bác.
- Vậy thì “một chăm phần chăm”.
- Thưa bác. Nhưng hồi trưa cháu làm một chập xỉn quá. Bác cho phép vợ cháu tiếp.
Ông ngữa mặt cất lên giọng cười hào sảng, hoàn toàn khác với cái giọng gay gắt ban đầu:
- Cái thằng Hèn chi con dâu tao mê mày là phải. Ly rượu có chút xíu cũng kiếm cớ chia cho vợ một miếng. Rồi hai vợ chồng bây. Vô
Tôi đưa ly rượu cho cô ấy. Cô đưa lên miệng lóng ngóng một hớp nhỏ, rồi trả lại tôi. Tôi uống cạn. Để cái ly xuống. Tôi thấy mặt cô ấy đỏ lên. Cái cảm giác trống không, nhộn nhạo đã bị xua đi. Cái hương vị nồng ấm của rượu mang theo một thoáng mơ hồ rồi rõ dần. Sự nồng ấm của tình đời. Thì ra ông già chằng gây chơi một chút. Tôi quay ra nói với mọi người :
- Xin cám ơn bà con cô bác, đến chung vui với gia đình chúng tôi. Rượu ít lòng nhiều, Xin cô bác vui lòng nếm môi mừng cho cháu nó. Hòa, Hậu rót rượu đi các con.
Sau khi mỗi người uống một chung rượu. Tôi đã thực sự bình tỉnh, và cảm thấy là mình cần phải làm cái gì đó nên bảo Hòa:
- Hòa. Con lại đây cho ba bảo này.
- Dạ. Thưa ba.
Tôi hỏi con :
- Con có còn nhớ bài hát mà lúc ba dạy con lúc ba mới gặp má con và con không ?
Hòa nói bằng một phấn kích.
- Dạ. Con nhớ.
- Lúc đó con hỏi ba tại sao phải yêu nhiều người đến thế, mấy người đó là ai? Con chỉ biết có má và ông ngoại. Ngày hôm nay con đã biết hết những người và những gì cần phải yêu thương. Phải hơn hai mươi năm ba mới có một lời giải thích rạch ròi cho các con. Con hát lại cho mọi người cùng nghe. Và để sau này còn dạy cho cháu nội của ba.
Hòa chưa kịp trả lời thì thằng Hậu lên tiếng:
- Con cũng được anh hai dạy cho bài hát đó. Ba cho con hát chung với anh hai. Anh hai chờ em lấy cây đàn.
Tôi chưa kịp trả lời nó vội chạy đi rồi nhanh chóng trở lại với cây đàn guitar. Thế là tôi đàn, hai thằng con tôi hát:
“ Nếu hỏi rằng em yêu ai. Rằng em này em yêu ba. Rằng em này em yêu mẹ. Yêu chị, yêu anh. Yêu hết cả nhà. Nhưng nhất là em yêu mẹ cơ.
“ Nếu hỏi rằng em yêu ai. Rằng em này em yêu ông. Rằng em này em yêu bà. Yêu cậu, yêu cô. Yêu hết họ hàng. Nhưng nhất là em yêu bà cơ.
“ Nếu hỏi rằng em yêu ai. Rằng em thì yêu quê hương. Rằng em thì yêu mái trường. Yêu thầy, yêu cô. Yêu hết bạn bè. Nhưng nhất là em yêu cô giáo cơ”…
Mọi người cùng vỗ tay theo nhịp. Chúng, rồi bạn bè chúng hát đi hát lại nhiều lần rồi bài hát vui tươi, dí dỏm vang lên “ Hai con thằn lằn con hè nhau cắn nhau đứt đuôi. Cha thằn lằn buồn hiu bèn kêu đến mắng cho. Anh em nên thương nhau. Đừng nên cắn nhau hoài “. Đến khi tôi buông đàn xuống. Mọi người vỗ tay tán thưởng trong khi ông nội của Hòa ngồi im lặng. Lưng bàn tay chai sần, mang theo cái màu thời gian đen đúa, nhăn nheo, len lén đưa lên dụi mắt. Và tôi, bổng dưng nghe lòng nhẹ hổng, tôi hoàn toàn đúng trong việc này. Dù gì chăng nữa thì thằng Hòa vẫn là con tôi. Điều này đã được khẳng định từ lâu. Nó có một giá trị vĩnh hằng. Tôi biết thế. Vậy mà trong một giây phút mẫn cảm tôi đã để lòng mình xáo động. Trong khi đó bọn trẻ bắt đầu chương trình văn nghệ tự phát.

Tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng bét. Khát khô cả cổ họng. Cô ấy đã đẩy tôi vào trong rồi nằm chắn bên ngoài. Tôi ngồi dậy định đi tìm nước uống, thì cô ấy lồm cồm ngồi dậy, giọng ráo hoảnh :
- Mình đi đâu vậy ?
- Anh khát nước quá.
- Mình ngồi đó đi. Em lấy cho.
 Cô ấy bước xuống mở tủ lạnh, lấy cho tôi ly nước. Tôi nốc một hơi sạch bách. Khi đưa cái ly lại cho cô ấy tôi mới biết đó là ly chanh đường. Nước làm cho tôi tỉnh lại một chút, rồi tôi cảm thấy đói. Hình như suốt từ sáng hôm qua tới giờ tôi chỉ có một chén cơm. Tôi định nói, nhưng cô ấy thì rõ hơn cả tôi :
- Mình nằm nghĩ một chút đi. Em hâm lại cháo cho mình ăn
Thoáng một cái cô ấy mang cho tôi một tô cháo không chê vào đâu được và tôi ăn nhanh cũng không kém dù rằng cháo đang nóng. Mồ hôi vã ra, cô ấy lại lấy nước cho tôi uống. Lấy khăn lau mặt cho tôi, và khi cánh cửa đã khép thì cô hoàn toàn khác. Cô ấy chiều tôi mọi thứ nhưng ân ái thì không. Cô ấy năn nỉ tôi :
- Người ta nói khi say rượu thì không nên
- Ai nói?
- Em đâu biết.
Và tôi biết cô nói đúng. Thôi không cho thì thôi. Tôi chợt nhớ ra và hỏi cô:
- Sao em đặt tên cây xăng là Ba Hiền.
- Đâu phải em. Thằng Hòa đặt. Em thấy ngồ ngộ. Em hỏi nó. Nó nói “ Con là Hiền Hòa, em con là Hiền Hậu. Hiền Lương. Thế là anh em con ai cũng hiền. Vậy thì lấy tên là Ba Hiền “. Nhưng mà em thấy cha con mình đâu có ai hiền ?
- Hiền để cho mình ăn hiếp à. Và rồi từ cái tên đó mình với thằng Thà cấu kết nhau đưa anh vào bẫy phải không? Mới nhìn cái tên cây xăng anh nghĩ là thằng cha mắc dịch nào đó trùng tên. À bữa mình gọi điện thoại cho anh, mình ở Xẻo Rô hay ở Xẻo Kè?
Cô ấy đỏ mặt, nín thinh.
- Mình học nói láo từ bao giờ vậy?
Cô ấy ấp úng :
- Tại anh tư với thằng Thà.
Tôi làm mặt nghiêm:
- Hồi trưa hôm qua anh dặn mình làm cái gì nhớ không?
Cô ấy ngợ ra một chút, rồi nói :
- Bộ mình tính đánh đòn em thiệt hả ? Vụ này mà bà sui nghe được thì mắc cỡ chết.
- Có lỗi thì bị đòn. Việc gì phải mắc cỡ.
- Lu bu quá em quên. Thôi em cúi xuống mình đánh bằng cái gì cũng được.
Tôi phì cười :
- Mình điên thật rồi. Hết chuyện đòi lại đòi ăn đòn. Sau này khi mình làm cái gì đó, nói qua với anh một tiếng. Anh luôn chiều ý mình. Mình làm mà anh không hay biết. Tới lúc đổ chuyện ra anh biết nói làm sao cho khớp đây. Vợ chồng không tin nhau, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Người ta coi ra gì? Mình nói với thằng Thà, nó mà để cái vụ này lộ ra thì anh vặn họng nó. Không phải anh sĩ diện. Mà anh sợ cho con.
- Em biết mình thương em, thương con mà. Ờ há. Vợ chồng mà nói chuyện trớt quớt kiểu đó kỳ thiệt mình hén. À em nói cái này mình nghe. Hồi hôm lúc mình nói xong. Ông bà nội thằng Hòa nhận nó. Mấy bà trong bếp bà nào bà nấy le lưỡi hít hà. Họ nói với em là “ Chồng bà cái miệng bén như dao, nói đâu ra đó. Hai ông bà hết chối”
- Cái gì mà ghê thế.
- Chưa hết đâu. Còn mấy cha sồn sồn ở đàng trước chọc em te tua luôn “ Hèn gì tụi tui muốn bà, thằng nào thằng nấy canh me muốn trỏm lơ con mắt mà bà cứ ngó ngang. Bà đi đâu mà bà dụ được ổng vậy “ Em phang lại ngay “ Ổng dụ tui đó. Tại mấy ông dở mà còn la “.
- Trời đất. Anh dụ em hồi nào ?
- Hồi đắp cho em cái mền đó.
- Bộ mình thương anh từ lúc đó lận à?
- Vậy chớ hồi nào? Con gái người ta mới lớn. Có biết cái gì đâu? Mà mình đưa cái mùi đàn ông vô mũi nữa. Làm nhớ muốn chết, mà lại nhớ khơi khơi nữa mới ác chớ. Bộ cái mền đó mình đắp hoài không giặt hả. Hôi rình. Đủ thứ mùi.
- Rồi sao mình không giặt. À. Anh biết rồi, mồ hôi của anh hôi rình mà mình cũng ghiền được. Ngộ ghê hén.
- Thôi à nghen… Hổng có nhắc. Em ghiền đó. Chồng em, em ghiền đó, được hông?
- Nhưng lúc đó anh có là chồng của mình đâu?
- Ừ hén. Quả là cái mùi gì mà kỳ cục. Em tính giặt mấy lần, nhưng mình mẩy ê ẩm, mấy vết thương chưa lành, nên để vậy đắp miết, rồi…
- Rồi khi lành bệnh sao hổng giặt?
- Giặt uổng. Mất hơi rồi kiếm lại ở đâu?
- Rồi mình để vậy tới bây giờ?
- Hông. Tới lúc mình vô nhà em được ba bốn bữa em mới giặt. Nhưng lúc trước thì thỉnh thoảng em phơi nắng, rồi xếp cất.
- Vậy sao mình đem trả cho anh.
- Em kiếm cớ ra gặp coi mặt mũi mình ra sao vậy mà. Ai dè mình xấu hoắc mà ốm nhom.
- Thấy vậy, mình chán quá về ưng ba thằng Hòa.
- Vậy chớ mình có chị rồi. Bộ giựt ngang được à. Cô trở giọng buồn buồn. Thiệt tình là khi gặp lại mình, em tính giựt luôn. Mình biết hông, lần đầu tiên chui đại vô nằm bên cạnh mình em run muốn chết. Năn nỉ mình cách gì mình cũng hổng chịu, em nằm đại lên mình mình mà tay chân tê cứng lại hết, sợ mình tống cho em một đạp là ê cả mặt. Ai dè… mình cũng thương em dữ hen. Mình biết hông lúc mình hun vô mặt em một cái, em hết biết trời đất gì cả. Rồi mặc tình mình làm gì thì làm. Em nín thinh chịu trận. Sau đó nghĩ lại sao mà nó kỳ quá, gây phiền lụy cho nhiều người quá, em làm không được, nhưng buông ra thì lại khó hơn. Em tính theo kiểu liều mạng, thôi thì lấy được mình giờ nào hay giờ nấy. Nào có ngờ đâu cái số của em, mà cũng tại mình. Mình nhét thằng Hậu vô bụng em làm dính chấu cho tới giờ. Cái này là tại mình chớ đâu phải tại em. Má thì chửi te tua, hàng xóm thì xì xào đủ thứ. Em cũng thây kệ, miễn lấy được mình thì em vừa bụng rồi, cực khổ thế nào em cũng chịu. À mà quên, em tệ thì thôi à. Chị khỏe nhiều chưa mình, con được bao lớn rồi? Hổng biết giờ nào anh em nó biết nhau. Em nói mình nghe mình đừng có giận em. Chị bệnh như vậy mình lo muốn hụt hơi luôn. Vậy mà mình nín thinh hổng nói cho em một tiếng. Cô thở ra một cái thiệt dài, làm như thở tiếp cho tôi
- Bà ấy bây giờ đỡ nhiều. Còn con thì quá nghịch ngợm. À mà tại sao chuyện nhà của anh, mình biết hết trơn vậy. Tôi nói lảng
- Mình hỏi ngộ nghe à. Chồng của em thì sướng khổ thế nào em phải biết chớ. Mà mình cũng kỳ. Cái gì mình cho em, em có mừng muốn chết. Rồi cô ấy giơ tay lên. Nè cái đồng hồ nè. Chỉ đi đâu em mới đeo. Rồi quần áo của em, của con. Rồi tiền học nữa. Thế mà em cho mình, mình quạu đeo, nhìn thấy phát sợ. Em thì không sao? Cùng lắm vài bữa em nguôi nguôi. Tội nghiệp cho hai đứa. Lúc mình mới về, hai đứa ra Rạch Giá thấy mình đứng tòn teng trên cây thang. Hai đứa không dám kêu, tới khi về nhà, con hối em bán lúa mang lên cho mình. Tới khi thấy mình mua được xe chở con đi chơi, hai đứa mừng húm. Nhất là thằng Hậu lóc chóc, đòi vài bữa lên gặp ba, để ba chở đi chơi. Em nói mình đừng giận, ráng lo cho chị và con. Nếu túng ngặt quá cho em hay. Chớ thấy mình bao biện, cực khổ quá em không chịu nổi. Mình mà bệnh nữa thì vợ hai bà con ba đứa, bỏ lại ai nuôi.
- Ai nuôi được cứ nuôi. Thôi. Sáng rồi để anh ra coi mấy đứa nó chuẩn bị khai trương ra sao?
- Chưa mà. Còn sớm. Tới chín giờ lận. Với lại mấy đứa nó chuẩn bị xong hết rồi. Hễ nói tới chuyện của mình là mình kiếm cớ. Chồng con gì mà nói hổng chịu nghe lời?
- Trời đất. Bộ muốn anh đóng trang thờ bà hả. Quạu rồi nghen. Thôi, dậy đi chớ. Con cái lớn rồi mà cứ xà nẹo với nhau hoài.
- Mình đó nghe. Nói xấu em không. Mình không vô, em xà nẹo với cái gối chắc.
- À. Ai mà bày cho em cái trò vừa khai trương cây xăng, vừa cưới vợ cho thằng Hòa vậy?
- Ba với anh Tư. Sao vậy mình ?
- Hai đứa mình làm luôn đám cưới lần hai nữa cho nó đủ lu bu. Mình thiệt là tình.
Cô ấy tròn mắt nhìn tôi :
- Vậy thì em nghe lời mình. Đám cưới tụi mình hồi đó có mời ai đâu?
Tới phiên tôi há hốc mồm:
- Mình giỡn với anh đó hả? Rủi anh hổng chịu rồi mình làm sao?
- Em biết mình chịu mà. Mình thương em dữ lắm, phải không mình?
- Không?
- Thương đại đi. Em đẻ cho mình một đứa con gái.
- Đẻ đi rồi mới thương.
- Hổng thương thì làm sao sao đẻ. Nhưng thôi đừng có rầy em mà. Nghe mình hỏi là em muốn run. Năn nỉ mà. Thương đi, rồi em đẻ cho.
Không để cho tôi trả lời. Cô ấy bịt miệng tôi bằng một chất liệu mà keo 502 cũng phải chào thua về hiệu quả. Nhưng trời thì đã sáng bạch rồi, nhà ngoài thì người ta rần rần làm sao mà thương

Mấy ông lão đang ngồi uống trà. Thấy tôi ra bác Năm cười :
- Đêm hôm mày làm dữ mậy.
- Mấy chả ép quá trời bác Năm ơi. Mỗi mâm vài ly. Một hồi cháu đi tuốt.
Ba cô ấy lên tiếng :
- Chồng con út mày uống dữ thiệt. À mấy chai rượu ghê thật. Anh sui uống nó thấy làm sao anh sui?
Ông nội thằng Hòa cười tít mắt :
- Tui đẩy có bốn năm cái. Lật gọng. Mà ngộ anh, nằm ngủ một lát thức dậy tỉnh queo. À mà chồng con út này. Rượu đã thiệt mậy. Bao nhiêu một chai vậy?
- Bốn trăm tám một chai. Thưa bác
- Trời đất. Hơn mười lăm giạ lúa. Một công mua không được hai chai. Theo sức mày uống tới quắc cần câu, được bao nhiêu?
- Khoảng nửa chai thưa bác.
- Trời đất. Tiền nào chịu nổi mậy.
- Lâu lâu gặp bạn bè mới uống. Chớ ngày nào cũng uống có mà sạt nghiệp. Với lại tụi cháu đâu có thì giờ. Mà nhậu nhiều thì có ích lợi gì đâu bác. Hao tiền, mất sức.
Bác Năm chen vào :
- Mày nói sao đâu. Chớ cái kiểu uống của mày tao thấy phát dội.
Nhìn đồng hồ. Tôi mời tất cả mọi người
- Thôi con mời tất cả mọi người qua dự lễ khai truơng.
Mọi thứ được sắp đặt sẵn sàng. Tôi mời ông bà nội, ngoại của Hoà thắp nhang. Rồi vợ chồng tôi. Và sau đó thằng Hoà nghiêm túc nắm sợ dây giật mạnh. Tấm vải đỏ chấp chới rơi xuống. Thế cây xăng đã được khai trương. Và thằng Thà cứ bơm không thể hở tay. Cô ấy hoàn toàn có lý.
Tôi mất cả một buổi sáng để cho mấy ông già truy vấn hết chuyện nọ, đến chuyện kia, nhưng tuyệt nhiên không ai nhắc tới việc gia đình tôi. Họ đã có những cư xử cần thiết. Xin chân thành cảm ơn.
Gần như tôi không làm gì được cứ phải từ bàn này sang bàn khác. Tình hình này không biết cô ấy ngày mai đãi đằng ra sao. Tôi muốn hỏi cũng không dứt ra được. Buổi cơm trưa dọn lên, gần một chục mâm. Tôi phải viện dẫn mọi lý do để từ chối. Vậy mà khi dứt ra là đi không muốn nổi. Cô ấy vừa lau mặt cho tôi, vừa chắc lưỡi hít hà:
- Mình đó nghe. Ai mời cũng vô, ai đưa ly cũng cụng là ngày mai anh quẹp luôn cho coi. Em nếm có một miếng mà muốn xé họng. Ngon cái chỗ nào mà uống dữ vậy hổng biết nữa? Thấy ai mời mình là em nhói trong bụng mà mình thì cứ tỉnh queo nốc hết ly này sang ly khác.
- Nè. Nói nhỏ cho mình nghe. Anh làm bộ say đó. Anh nằm chút xíu, rồi vô đây cho anh hỏi cái vụ đám cưới ngày mai. Đi đi. Với lại uống say thì hổng được
- Ý. Mình cũng thế thần ghê hén. Nhưng tối em mới nói được. Ở ngoài công việc lu bu quá trời.
- Vậy mình lo công việc của mình đi. Mình bảo thằng Hậu vô anh biểu.
Cô ấy quay đi. Một lát sau Hậu vào. Tôi chỉ ghế cho con ngồi :
- Hậu này, từ sáng tới giờ ba thấy con buồn. Có gì nói cho ba nghe.
Nó im lặng nhìn tôi, một lát sau mới nói lí nhí :
- Thưa ba. Con muốn ba giúp cho con
Tôi ngạc nhiên:
- Chuyện gì? Con nói cho ba nghe xem.
- Việc học của con. Những gì con học ở trường thì rất tinh tươm. Nhưng nghe những thực tế mà chị hai kể lại con cảm thấy có điều gì đó không ổn?
Tôi nhìn nó, thực ra thì tôi hiểu một phần khi mà phải chứng kiến quá nhiều việc oái oăm xảy ra trong ngành Giáo Dục. Tôi bảo:
- Nào điều gì không ổn con nói cho ba nghe xem?
- Thưa ba, thực ra thì việc học của con không có gì. Nhưng nghe chị hai kể là khi ra dạy thì như thế này. Tiền học phí, dạy thêm, phí xây dựng, sổ vàng Cả những chuyện nhỏ nhặt như phát thưởng cuối năm cũng kêu gọi phụ huynh. Thậm chí, giấy thi, giấy kiểm tra cũng phải đóng tiền. Cho điểm thì chạy theo thành tích bất kể sức học của học sinh, chương trình dạy thay đổi liên tục, nhồi nhét kiến thức theo kiểu rập khuônVà nhiều thứ nữa, những điều đó làm tạo ra một gánh nặng mà không phải gia đình học sinh nào cũng kham nổi, chất lượng dạy và học không cao và nó cũng làm cho vị trí của những thầy cô càng lúc càng bị thấp đi một cách thảm hại trước mắt học trò. Đó là chưa kể đến năng lực của thầy cô bị thui chột vì những chuyện lỉnh kỉnh ngoài việc dạy dỗ. Con không hiểu những người lãnh đạo ngành giáo dục có còn nhớ những gì trong những ngày còn đi học hay không. Những điều họ học được, nhìn thấy được trong suốt quảng đời học sinh của họ, chẳng lẽ lạc hậu hết hay sao? Thưa ba, liệu sự lựa chọn của con có sai không?
Tôi biết con tôi muốn nói gì. Tôi thật sự ngạc nhiên khi nghe con tôi trình bày, những điều con tôi nói hoàn toàn đúng. Nhưng với vị trí của một sinh viên, liệu nó hiểu điều này có quá sớm không. Tôi nhẹ nhàng nói với con tôi:
- Ba rất mừng khi thấy con thật sự lớn rồi. Những điều con băn khoăn là chính xác. Nhưng trong cuộc sống, con nên có một niềm tin. Trước nhất là hãy tự tin vào bản thân mình. Sự cố gắng của con dù có lẻ loi cũng không phải là vô ích. Đừng vì những việc con cho là không ổn rồi từ bỏ con đường mình đã chọn. Những mặt lôm côm này rồi cũng bị cuộc sống phủ nhận và đào thải thôi. Ba chỉ sợ là đến khi đó thì con đã bị tha hóa, hoặc không còn đủ tâm lực nữa. Con có hiểu ý ba không? Tiền bạc là cần thiết, rất cần thiết nhưng chưa phải là tất cả. Ba biết cái nghịch lý trong cuộc sống hôm nay là tiền lương. Người ta đòi hỏi mọi người phải làm việc thật nhiều, thật có chất lượng, mà đồng lương thì không đủ sống. Thế nên mọi việc hóa lu bu. Việc này, bằng một cách nào đó, ba má sẽ tạo mọi thuận lợi cho các con. Những gì mà má con tạo dựng được các con sử dụng một cách đúng mực thì cả đời cũng chưa hết. Còn những thực tế trong công việc mà các con đã lựa chọn, thì tự thân các con phải giải quyết mà không cần phải lo toan về việc áo cơm, mà nếu như có phải lo toan thì cũng đừng quá đặt nặng. Đó là lợi thế của chị em con. Ba nói thế này, thay vì cố làm ra tiền để có thể giúp đỡ ai đó, thì chị em con cứ toàn tâm toàn ý với công việc. Ba má và anh hai con làm hậu cần. Bởi vậy, trước nhất con phải cố gắng học cho thật giỏi. Ngoài ra, trong cư xử với mọi người chung quanh phải hòa nhã, chừng mực. Tư cách của một ông thầy chẳng những cần phải thể hiện trong trường học mà còn trong mọi môi trường mà ông thầy ấy hiện diện. Bởi vì các học trò của các con sẽ có thể nghe các con nói chuyện và nhìn thấy các con hành xử bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào. Và ba không muốn con đeo một cái mặt nạ. Con phải thật sự là con với cái nhân cách thật sự của con. Đừng ra vẻ đạo cao đức trọng trước mắt học trò, rồi tự buông thả mình ở một nơi khác. Muốn như thế thì con phải có một tấm lòng. Tấm lòng đối với công việc của mình, các đồng nghiệp của mình, học trò của mình. Con làm được như vậy là con tự giúp mình hoàn thành những tâm huyết.
Hậu nhìn tôi và trả lời khá nghiêm túc, nhưng hơi lém lỉnh:
- Thưa ba. Con hiểu. Con hứa với ba. Chúng con sẽ cố gắng. Con nghĩ những điều ba vừa nói với con chắc con phải nói với chị hai. Con thấy chị hai coi bộ bực bội lắm. À con có chuyện này muốn nói với ba. Anh hai đang học Đại Học mở. Nhưng anh hai dấu má, dấu con. Chắc anh hai sợ ba má lo. Hình như ảnh sợ thua chị hai.
- Thế à. Nếu thế thì ba yên tâm và thật sự vui mừng. Nhưng cái lý do mà con nói ra ba thấy một điều không ổn lắm. Anh hai con sợ má con lo thì đúng rồi. Còn việc vợ chồng lại là một việc khác và ở đó không có chuyện hơn thua. Con người có nhiều kiến thức thì bao giờ cũng tốt. Đây là điều mà anh hai con đang cố gắng. Con cũng phải thế. Hiểu không? Còn việc chị hai con, con không phải lo, để khi nào có dịp ba sẽ giải quyết. Nhưng trước nhất, con có thể nói những ý kiến của ba vừa mới nói với con.
- Dạ. Còn việc má thì ba khỏi lo. Ba nói một má làm theo hai.
Tôi nhìn con:
- Sao con biết.
- Chắc như vậy đó ba. Ba hỏi má xem. Tụi con cũng vậy luôn. Thằng bé khá lém.
- Vậy thì ráng lên. Không có sự cố gắng nào vô ích cả, ngoại trừ sự cố gắng dành cho những việc không đáng làm. Thôi ra coi tiếp anh con làm cái gì đó. Ngày mai rất nhiều việc. Ra bảo má vô gặp ba một chút.
Hậu đứng tần ngần một lát rồi ấp úng :
- Ba…
- Gì nữa đây ?
- Con… nghe thầy Trung nói ba làm thơ hay lắm.
Tôi thật sự bối rối, bạn bè bậy thiệt, chuyện hôi rình như vậy mà cũng nói với sấp nhỏ:
- Thầy Trung.
- Dạ. Có lần anh hai dẫn con ra Rạch Giá gặp thầy Trung. Thầy Trung nói rất nhiều về ba. Ba đọc cho con nghe một bài đi ba. Thầy Trung đọc cho con nghe bài thơ ba đăng báo đó. Còn thêm mấy bài khác nữa. Anh hai và con chép lại. Tụi bạn con, chúng nó khoái quá, đứa nào cũng thuộc hết trơn.
Tôi chới với, nhưng ấm lòng, tôi xoa đầu con:
- Trời đất. Bài thơ đó Đúng. Ba biết làm thơ. Nhưng ba làm xong đụng đâu bỏ đó, nên không còn nhớ được bao nhiêu? Với lại chẳng hay ho gì? Thôi. Việc này ba đáp ứng cho con sau. Bây giờ đi kêu má con cho ba.
- Dạ. Con đi ngay. Ba đừng quên nghe ba.
- Ba không quên. Con yên tâm. À còn chuyện này. Ba hỏi con. Anh hai con vào học đại học bằng cách nào?
- Con không rõ lắm. Nghe nói chị hai giúp ảnh ôn thi. Khi thi đậu. Anh hai lại sợ ba má không lo nổi, với lại khi con đi Cần Thơ rồi, nên anh hai không muốn má ở nhà một mình. Nên anh hai chọn cách ấy.
Tôi nghe nhộn nhạo trong lòng. Nhưng sau đó lại là một niềm vui trong lòng tôi. Tôi bảo con:
- Như vậy thì cực cho anh hai con. Thôi con ra ngoài xem coi có gì thì làm tiếp cho anh hai con.
Khi Hậu ra ngoài thì cô ấy vào, người đượm cả mồ hôi :
- Mình kêu em?
- Mình làm gì mà mình mẩy mồ hôi không vậy?
- Tàu về, em mang đồ nấu lên. Xong rồi.
- Ngày mai rước dâu, mình chuẩn bị ra sao ?
- Sáng năm giờ mình đi. Qua tới bên ấy, làm lễ xong là về. Khoảng chín giờ thì tới nhà. Rồi làm lễ tại nhà xong khoảng mười một giờ là đãi khách. Mình khỏi lo mà. Bác năm lo liệu chu đáo lắm.
- Mai mốt đám cưới thằng Hậu mà mình cho anh hay kiểu này, chắc anh bỏ mình luôn.
- Thôi mà, nghe mình kêu là em muốn run, mà mình cự  nự em hoài. Còn thằng Hậu chừng nào nó muốn vợ, thì em giao hết cho mình. Mình bảo sao em làm vậy.
- Thôi. Anh hỏi chuyện này. Hồi đám nói, người ta hỏi ông sui đâu, rồi mình trả lời làm sao ?
- Em nói mình đi làm ăn xa không về kịp.
- Không ai hỏi gì nữa à?
- Không. Mà sao vậy mình?
- Không sao cả. Thôi mình đi lo công việc đi.
Cô ấy ngần ngừ một lát rồi quay đi. Và tôi ngồi yên giữa cái ồn ào của bên ngoài vọng vào. Tôi cảm nhận được một cách cay đắng về vị trí của tôi trong hai cái gia đình được gọi là bên vợ. Từ ngày ra tù đến giờ chỉ có một lần duy nhất tôi lên Sa Đéc là có sự chuẩn bị rõ ràng. Đó là lần lên thăm bé Lương lúc chào đời, còn lại chỉ là những lần tiện việc ghé qua. Tôi vẫn cư xử đúng mực với bên vợ tôi. Thậm chí, quá mức nữa là khác. Nhưng trong trong thâm tâm thì tôi lại có mặc cảm là mình lừa dối họ. Tôi chăm sóc, quan tâm ông bà ngoại của cháu như chăm sóc ba mẹ tôi. Nhưng vẫn có một thứ áy náy nào đó gậm nhấm và hoàn toàn không thanh thản. Thế nên, những chuyến viếng thăm ấy rất ngắn. Càng tỏ lộ sự quan tâm nhiều chừng nào, tôi càng thấy sượng sùng nhiều chừng ấy.
 Còn ở đây, bước chân tôi đến chỉ giới hạn trong ngôi nhà này. Tôi biết rõ họ hàng của cô ấy, nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ đến một lần viếng thăm. Chỉ là một vài lời hỏi thăm hoặc thỉnh thoảng vài món quà nhỏ gọi là. Tất cả mọi thứ, tôi chỉ làm một đôi lần, còn thì cô ấy nhân danh tôi lo liệu với một câu nói lặp đi lặp lại “ Ba thằng Hòa gởi lời hỏi thăm” “ Ba thằng Hòa gởi cho” . Thậm chí, tôi chỉ đến nhà ông bà ngoại của thằng Hậu có một lần. Sự áy náy, cái mặc cảm luôn luôn dày xéo tôi. Chỉ có nhà cô Chín là tôi đến tương đối thoải mái vì cô ấy dù miệng thì rổn rảng, nhưng lại biết tận tường và cảm thông tuyệt đối cho chúng tôi. Bây giờ là đám cưới của thằng Hòa, tôi sẽ phải đối diện với bao nhiêu là khó khăn.
- Mình làm sao vậy? Ba đang chờ mình
Tiếng cô ấy làm tôi sực tỉnh. Tôi yên lặng đứng dậy bước ra ngoài. Cô ấy nhìn theo, tôi nghe có tiếng thở dài. Ôi tại sao cô ấy lại biết tôi nghĩ gì? Tôi có bao giờ nói với cô ấy ý nghĩ của tôi đâu? Và tôi biết tại sao cô ấy biết.
Khi tôi bước ra thì trời đã sắp tối. Cái rạp khoảng hai trăm mét vuông đã kín đặc cả người. Không hiểu cái gì đã khiến chúng tôi cặp kè nhau và tỉnh queo đi qua ngang cái rừng người ấy. Nhìn khuôn mặt đầy vẻ thách thức của cô ấy, tôi hiểu ngay tại sao cô ấy làm vậy, Bà vợ bé này không còn là bà vợ không đơn giản mà là một bà chằn (?!). Ấy vậy mà hai mươi mốt năm nay tôi nhớ đến quay quắt với việc thương nhớ một bà chằn. Tôi hiểu những con người chân chất nhưng lắm chuyện này, sẽ bỏ qua mọi chuyện khi họ có nụ cười. Đấy, bất cứ nơi nào trên cái đồng bằng bao la này cũng đều như thế. Bổng nhiên những suy nghĩ nặng nề ban nãy biến đi, khi nhớ ra mọi người sẽ không chấp nhứt gì, chẳng qua là tôi bầy hầy nên cạn nghĩ… Tôi biết, tất cả những con người có mặt ở đây đều biết tận tường về tôi và cái quan hệ vợ chồng của chúng tôi. Chỉ có cái bản mặt của tôi thì chỉ có một số ít biết thôi.
Khi tôi vào bàn giữa, thì đủ cả các bậc trưởng thượng. Ba mẹ cô ấy hỏi tôi:
- Chồng con út, ngày mai rước dâu làm sao đây con?
Tôi bán cái một cái rẹt :
- Thưa ba. Chúng con sắp xếp thì được rồi. Nhưng làm sui lần đầu chắc là lọng cọng, sợ không phải phép. Với lại hôm nay có rất nhiều niềm vui. Tôi nhìn qua ông bà nội của thằng Hòa rồi tiếp. Hai bác đây và con nó đã sum họp một nhà. Nên vợ chồng con xin hai bác và ba má sắp xếp cho cháu nó được nhờ vào phúc đức của ông bà nội ngoại. Bổn phận là con cháu, vợ chồng con chỉ được phép lắng nghe và vâng lời ạ.
- Phải đấy. Chồng con Út nó vậy là đúng. Một ai đó lên tiếng.
Hai ông bà sui cũ mèm mà mới cáu thì khoái tỷ bắt tay vào việc. Tôi nhìn họ và chợt nhận ra một điều. Chính những sĩ diện hảo huyền, mà dân Nam Bộ gọi là chằng gây, đã tác động không biết bao nhiêu số phận, cho đến nhận ra thì quá muộn, may mà trường hợp này lại không muộn lắm. Khi mọi việc xong xuôi. Tôi xin phép ra ngoài thì anh tư của cô ấy gọi :
- Dượng út. Lại đây.
Tôi vừa ngồi xuống thì anh ấy nói ngay :
- Tôi phải nói với dượng mới được, không thôi cứ lực bực trong bụng hoài.
Tôi hơi bất ngờ :
-  Có gì không anh tư?
- Dượng út này. Cháu nó bây lớn, tôi mới biết mặt mũi dượng ra sao? Mấy hôm nay muốn nói với dượng vài câu mà sao thấy ngài ngại. Thực ra hồi con út nó xáp vô dượng, tôi bực lắm. Mấy lần tôi tính vác phảng qua. Nhưng bị ba cự quá trời. Tới khi dượng bỏ đi, rồi nghe con Út có chửa thằng Hậu, tôi lại cành hông thêm một chập nữa. Tới chừng, tôi qua thấy miếng ruộng con Út, tôi cũng nguôi nguôi. Rồi từ đó đến giờ, chỉ nghe nói thôi chớ có biết mặt em rể tròn méo ra sao. Nên tôi tính đám cưới thằng Hòa nè, chỉ cần dượng nói xóc một câu thôi là tôi quậy tới bến. Đến khi thấy dượng giải quyết cái vụ thằng Hòa, tôi đả quá, rồi xìu luôn. Đó là tôi chưa kể vụ dượng lèo lái cho anh Tư Lụa qua cua cái vụ trốn quân dịch một cách ngọt xớt. Thôi. dượng bỏ qua hén. Phải nói là dượng dữ dằn thiệt đó. Ông nội thằng Hòa là khét tiếng xứ này về cái tật chằng gây, thế mà gặp dượng là vô khuôn ngay. Dượng đưa ổng lên mây xanh, dượng đưa ổng xuống sông. Bay lên, hụp xuống mấy chập. Vậy mà làm ổng khoái. Khi không có được thằng cháu nội ngon lành. Cháu mình mà bắt người ta nuôi. Tới lúc khoái quá muốn nhìn lại mà còn làm bộ. Nói thiệt với dượng nghe. Cô dượng mà khố rách áo ôm nghen. Sức mấy?
- Anh nói gì vậy anh Tư ? Chẳng qua là tôi nói trúng ý bác ấy thôi. Với lại mấy người lớn tuổi mình xuống nước một chút thì êm re. Cự cãi làm gì cho mang tiếng, chẳng những thế còn làm khổ cho con. Còn với bác ấy. Anh mà tài khôn là anh đi đứt với ổng. Anh biết hồi đó mỗi lần bà nội mấy đứa rầy tôi, anh biết tôi nói làm sao không?
- Dượng nói làm sao ?
- Mấy tháng nay bị thiên hạ chửi oan không. Hôm nay nghe má chửi trúng phóc. Con nhẹ người ra. Thế là đủ sức cày tiếp.  Má tôi cười. Xong.
Có tiếng ai nói :
- Tôi mà có thằng con giống tính ông chắc tôi chết.
Anh tư nói:
- Sao mà chết?
- Làm thấy mẹ luôn để nuôi nó, thì chết. Mấy thằng mắc dịch của tui nói một, cãi một, nói mười, cãi mười. Riết rồi tôi chẳng buồn lo đến nữa. Khỏe re
Cả bàn cười rần. Khi cháo khuya dọn ra, tôi tìm cách lỉnh mất. Mọi người táo tác đi tìm. Nhờ cô ấy tiếp tay. Tôi thoát.
Bổng đâu cô Chín nhìn thấy, gọi tôi:
- Chồng con út. Vào nhà. Tao nói chuyện với mày một chút.
- Dạ cô Chín.
Vừa vào nhà trong chưa kịp ngồi, bà buông ngay lời trách cứ :
- Tao nghe con Út nói là mày cứng đầu, ngang ngạnh, chẳng biết sợ ai. Tới nay tao mới thấy. Mày làm cái gì tao cũng chịu, nhưng có một cái làm tao bực mình. Cái vụ mày cự nự con Út về việc tiền bạc và mấy tấm bảng hiệu gì đó? Mày làm như vợ con mày là ai không bằng. Tao biết, mày tự ái. Làm thằng đàn ông hai vợ, mày muốn mày ngon hả. Dù cháu tao nó nhắm mắt, nhắm mũi thương mày, làm bé, làm mọn. Nhưng nó vẫn là vợ, là con của mày. Cái bụng của nó đâu phải bằng cây đâu mà khi thấy mày khổ lại không nhúc nhích. Thế thì nó đưa cho mày cái gì mày cũng cự. Mày muốn làm người ngon lành hả. Không ăn bám vợ con hả? Được. Vậy tại sao hồi đó không ở một mình. Có vợ làm gì? Mà lại còn hai vợ nữa. Rốt cuộc rồi cái tự ái của mày, mày báo hại người ta. Vợ con mày ngoài ấy lúc thiếu, lúc hụt. Mày thì quay như bong vụ. Mẹ con con Út trong này nhìn mày, lòng dạ rối bời. Hai con vợ của mày, nó không bỏ mày là vì cái tình. Mà mày thì… hết nói nổi. Mày ngon dữ há. Vợ bé của người ta thì bòn rút của chồng từng cắc từng đồng. Còn con Út thì không như vậy. Mày không vừa bụng phải không? Tụi bây gặp nhau là số phận của tụi bây. Thương nhau thì giúp đỡ lẫn nhau. Mày bày đặt, bày điều cho nó làm ăn. Mày không chê bỏ nó khi nó thương tật, mày an ủi nó khi nó khó khăn. Không có cái miệng của mày nó được như hôm nay à? Thế nó mới thương mày. Thấy mày vất vã thì nó phải đỡ đần lại cho phải đạo. Tại sao hồi đưa thằng Hậu lên Cần Thơ học. Cái gì mày cũng lo. Thằng Hòa muốn cái gì cũng có. Bao nhiêu mày cũng móc mà cháu tao có nói gì đâu? Là vì lúc đó mày làm ăn được. Còn bây giờ mày te tua đến thế? Thử hỏi nó làm sao chịu nổi? Vậy mà mày làm cái kiểu tao thấy mà phát ghét. Sao hồi đó mày không để cho nó chết đi. Hay để cho nó nay quơ thằng này, mai hốt thằng kia. Tao nói thiệt tao chẳng có thương yêu gì mày đâu, chẳng qua là tao sợ cháu tao mang cái tiếng bất nghĩa. Nên tao binh nó đó, mày làm gì được tao? Còn cái vụ của thằng Hòa nữa. Mày anh hùng thiệt hay anh hùng rơm. Trả lại hả? Tao thì đừng hòng. Tụi bây làm cái chuyện ruồi bu. Mười công đất hả? Vợ chồng bây đủ sức mua cho nó một trăm công.
Không đợi tôi trả lời vốn gì cả. Bà ấy phủi đít cái rẹt bỏ đi. Tôi đưa mắt nhìn quanh, thấy bóng anh Tư Lụa thấp thoáng. Tôi nghĩ thầm lại phải lo phân trần với chị Tư nữa đây.

Khi khách khứa đã giảm. Cô ấy xuất hiện trước mặt tôi với cái dáng vẻ của một người hoàn toàn hài lòng. Cô ấy sà vào lòng tôi :
- Mình nói câu nào em nghe cũng hay hết trơn. Thằng Hòa nó nói không có mình, nó không biết phải ăn nói với ông bà nội và cô chú của nó ra sao. Mấy bà trong bếp nói mình ghê lắm. Miệng mồm như vậy chắc là bồ bịch lung tung. Có thiệt không mình?
- Hai bà là muốn ngộp thở. Thêm nữa có mà chết. Thôi đừng nói chuyện đó nữa. Mà này, bộ mình kêu cô Chín dũa anh đó hả?
- Đâu có. Tại mình không biết. Cô Chín mà nói thì như trời giáng hụt.
- Nhưng đúng ý mình phải không. Thấy anh một mình ở đây, nên hè nhau ăn hiếp. Thôi vụ này tính sau. Còn vụ cái bàn thờ của ba thằng Hòa. Tại sao mình không để bên đây?
- Em để bên cây xăng. Em lập cây xăng đó là cho vợ chồng nó. Đám cưới xong là tụi nó dọn qua ở bên đó. Còn tất cả những gì còn lại thì thuộc về thằng Hậu. Cha đứa nào đứa ấy lo.
Tôi hết hồn :
- Mình nói bậy cái gì vậy? Đứa nào cũng là con. Mình phân biệt kiểu đó là mình xúi anh em nó hục hặc với nhau. Từ đây về sau anh còn nghe mình nói cái kiểu này là không xong với anh. Anh nói lại một lần nữa. Thằng Hòa, thằng Hậu, con bé Lương. Chúng nó là anh em. Là con cái của mình. Mình hiểu không?
Cô ấy quýnh quíu lên :
- Thôi mà. Em chỉ nói chơi thôi mà mình cũng rầy em. Thôi vuốt giận mình nghe. Em không nói nữa, không bao giờ dám nói, mà cũng chẳng để trong bụng nữa. Thiệt tình. Nói chệch với mình một tiếng là không xong.
Tôi quả tình hơi lo. Ba đứa con này mà không thuận thảo với nhau thì tôi ngủm chắc hai con mắt mở trao tráo. Cô ấy lại tiếp:
- Em nói thật mình nghe. Khi nhìn thấy cái hình của ba thằng Hòa, em thấy trong bụng nó làm sao ấy. Giận không ra giận, mà thương chẳng ra thương.
- Lại bậy nữa. Chuyện như vậy mà mình cũng nói ra được. Không sợ con nó buồn. Mai kia mốt nọ anh ngủm, tới chừng thằng Hậu ra bê tấm ảnh về, mình cũng vậy luôn. Nè giỗ quảy của anh ấy, mình phải làm cho tinh tươm, nghiêm chỉnh. Nhớ sai vợ chồng thằng Hòa qua thỉnh hai bác và các cô chú nó. Thanh Minh cũng thế. Sau đám cưới, nhớ sai con tìm xem mồ mả anh ấy ở đâu?
Cô ấy lại ấp úng:
- Mình không ghen à?
- Mình hôm nay làm sao vậy, cứ nói toàn chuyện lu bu. Đàn ông mà ghen tương, thiên hạ cười cho thúi mặt. Thôi. Mình lấy cái túi xách cho anh. Mình dẹp ở đâu anh kiếm hoài không thấy.
Cô ấy mở tủ lấy cái túi và cái cartable. Vừa để lên giường vừa hỏi;
- Mình mang cái gì mà lủ khủ vậy? Em tính soạn ra mà lu bu quá rồi quên.
Tôi soạn ra lấy bộ veston đưa cho cô ấy máng vào tủ. Mở cartable tìm gói tiền, cô ấy cười nói :
- Mình tìm gói tiền phải không? Để em lấy cho, mà mình mang theo làm gì nhiều vậy? Mà lại không cho em hay. Thằng Hòa vô lấy chai rượu, nó thấy, nó đưa cho em cất.
- Nếu vậy thì mình cất luôn đi. Anh mang cho mình làm đám cưới thằng Hòa.
- Cái gì ? Em đâu có thiếu. Mình thiệt là tình,
Tôi lừ mắt nhìn cô ấy :
- Con nó kêu anh bằng gì? Nói vậy chứ không trả lại nghen?
Cô ấy nhào vào lòng tôi ôm lấy cỗ :
- Thôi. thôi mình đừng có trợn mắt lên với em. Mình nói thì em nghe, mình bảo thì em làm. Được chưa? Giọng cô bổng nhỏ lại. Bây giờ mình còn bảo em làm gì nữa không?
Cô ấy ngước mặt nhìn tôi. Tôi nhìn vào đôi mắt ấy. Tôi biết chỉ lâu hơn một giây thôi là tôi không thể nào kiểm soát được mình. Tôi nói nhanh:
- Anh còn muốn bảo mình làm nhiều thứ nữa, Nhưng trước nhất là mình đứng dậy đi. Mình càng ngày càng nặng, anh càng ngày càng yếu, anh bồng hết nổi rồi. Bên ngoài người ta lu bu. Nghe lời anh đi.
Cô đứng dậy, nhìn tôi :
- Không biết bao giờ mình mới hết cực
- Thôi à. Kiếm cớ để nhỏng nhẻo hả. Cực gì mà cực. Ngồi gõ trên vi tính không, chớ anh có làm gì đâu. Em lấy cái áo ngày mai em mặc đi rước dâu, mặc vào cho anh xem.
Cô ấy mở tủ áo ra. Tôi tròn mắt :
- Mấy cái áo anh mua cho mình cách đây sáu bảy năm, cũ mèm. Mà hồi đó em ốm hơn bây giờ.
- Đâu có cũ, em mới may mà. Mình nói để cho em đi cưới vợ cho thằng Hòa. Cô ấy nói tỉnh queo.
- Rồi khi ai mời em đám tiệc thì em mặc cái gì ?
- Một tủ nè, mình thấy không. Toàn là thằng Hòa mua cho em.
Tôi biết, không phải cô ấy không hiểu tôi muốn nói gì. Và tôi đánh giá bà vợ của tôi hoàn toàn không sai. Bà chằn, một bà chằn đáng yêu. Cô ấy trút bỏ bộ quần áo đang mặc và mặc bộ quần áo ấy cho tôi xem. Cô nhờ tôi gài dùm nút áo, tôi làm việc này với cái cảm giác sắp bị bà chằn ăn thịt. Sau khi mặc xong bộ quần áo của ngày mai. Cô ấy bới lại tóc cao lên và tôi phát hoảng thật sự, với cái vẻ khiêu khích toát lên trên cái dáng vẻ, nhất là khuôn mặt của cô ấy với cái vết sẹo. Tôi thẩn thờ nói nhỏ:
- Quá đẹp rồi, Ngày mai nhớ mình trang điểm nhẹ một chút nghe ?
- Mình nói mình không chịu được mùi son phấn mà?
- Nhưng anh ráng chịu một chút có sao đâu ?
- Em không bao giờ để cho mình phải chịu đựng em, dù chỉ một giây. Với lại mình nói là em đẹp rồi không cần trang điểm nữa.
Tôi ngạc nhiên :
- Ghê vậy ta. Nhưng mình đừng nên bới tóc cao như vậy. Anh thấy…
- Mình thương em là được. Ngày mai đám cưới của con. Em cũng xem đó là đám cưới của vợ chồng mình. Em chiều mình nhiều rồi đó nghe. Mình chiều em một chút coi.
Thế là tôi lại thua. Cô ấy lại hỏi:
- Mình thấy em làm sao? Bà già chồng này có ngon lành không ?
- Đẹp. Quá đẹp nữa là khác.
- Quỷ. Ủa mà quên nữa. Mình mặc bộ đồ của mình vào đi.
- Chi vậy ?
- Để em xem, em có đẹp hơn mình không? Từ hồi đó tới giờ em chưa thấy ai mặc đồ như vậy. Chỉ thấy trên ti vi thôi.
Tôi lại phải choàng bộ veston vào, mà phải có chemi, cravate, mang giày vớ cẩn thận. Khi mọi việc xong xuôi. Cô ấy nhìn và bảo tôi :
- Mình mặc bộ đồ quá đẹp. Em tưởng đâu là ông nào. Ai dè coi kỷ lại là chồng em. Mình ra ngoài với em một chút cho mấy đứa nhỏ lé mắt chơi. Nghe mình.
Tôi hiểu tâm trạng cô ấy, một niềm vui quá lớn làm cho cô ấy trẻ ra và bộc lộ hết không cần phải đắn đo. Trong niềm vui ấy, có một thoáng lo lo. Một quá khứ ngắn ngủi chợt hiện về làm cho cô ấy sợ mất tôi, mất một người mà cô ấy đã đặt trọn lòng thương khi chưa biết mặt. Ôi đàn bà khó hiểu thật. Họ yêu thì bất kể đất trời. Thảo nào. Khi ghen tương nó mới dữ dằn đến thế. Mà khi họ hết yêu thì mức độ khủng khiếp cũng chẳng kém gì. Cô ấy chưa ghen cũng như không bao giờ nghĩ là sẽ không yêu tôi nữa. Nhưng đã có những tín hiệu cho biết; khi nó tới thì… Tôi không dám nghĩ tiếp. Tốt nhất là ngăn chận từ xa, bằng cách là chẳng có gì. Cô ấy có quyền làm thế, một mình tay xách nách mang nuôi hai đứa con và thương nhớ một ông chồng chỉ có một nửa yêu thương. Cô ấy đã vượt qua mọi khó khăn tưởng chừng như không thể. Nhìn cô ấy líu lo khoe mẽ, tôi vừa lạ lùng, thích thú, vừa nhộn nhạo trong lòng.
Tôi lại nghe theo lời cô ấy như đã bao lần nghe theo. Khi chúng tôi bước ra. Người nhìn thấy chúng tôi trước nhất là thằng Thà, rồi thằng Hậu la lên:
- A. ba má trình diễn thời trang.
Mọi người xúm lại. Kẻ nói thế này, người nói thế khác. Và không bỏ lỡ cơ hội. Hai thằng con, một thằng cháu xúm nhau chụp ảnh. Cô ấy mang một niềm vui ngất trời. Tôi nghe tiếng cô Chín trong cái ồn ào kia :
- Vợ chồng bây già rồi mà y như là con nít.
Tôi nghe tiếng già mà gai gai cả người. Bổng tiếng thằng Thà:
- Hai bác hôn nhau một cái cho tụi con chụp một bức ảnh làm kỷ niệm. Cô ấy hết hồn toan bỏ chạy. Nhưng không kịp, tôi nắm tay cô ấy ghịt mạnh vào lòng. Nói nhỏ:
- Cứ hôn, không việc gì phải sợ.
Chúng tôi hôn nhau và chỉ biết có thế. Khi buông nhau ra thì mọi tiếng ồn ào tăng lên gấp ba gấp bốn. Cô ấy bỏ chạy vào phòng. Đến khi tôi vào, thì cô ấy ngồi trên giường, nước mắt đầm đìa trên khuôn mặt đỏ bừng rạng rỡ. Thấy tôi cô ấy cúi mặt xuống nói nhỏ :
- Mình… thương em thiệt hả?
Tôi biết cô ấy muốn nói gì, tôi ngồi xuống bên cô ấy :
- Em thấy sao?
- Mắc cỡ muốn chết. Mình ác với em. Làm như con nít
- Ác đâu mà ác. Thì cũng như mọi lần thôi. À không, hơn mọi lần chớ phải không mình. Công khai mà mình hén.
Cô ấy cố gắng trấn áp sự xúc động:
- Bộ hơn thiệt hả mình, lúc đó em hết biết mình mẩy ở đâu? Mắc cỡ muốn chết. Đứng chịu trận. Rồi cô ấy hỏi qua chuyện khác
- Mình ơi. Em hỏi mình cái này nghe. Từ ngày mình gặp chị đó cho tới ngày má mất. Má có rầy la gì chị không ?
- Chi vậy?
- Hỏi cho biết mà.
- Không.
- Chị bao giờ cũng làm đúng theo lời má dạy?
- Khi thì có, khi thì cũng không làm theo.
- Má không nói gì sao?
- Có chớ. Nhưng má rầy anh.
- Mình có làm gì đâu mà rầy ?
- Tại anh không biết dạy vợ.
Bổng nhiên giọng cô ấy mơ màng :
- Hổng biết, nếu em được làm dâu má, mình có bị má rầy không há?
- Hổng rầy mình đâu, mà đập anh bằng củi bửa, về cái tội đèo bồng.
Tôi chợt nhận ra là mình nói hớ, nhưng không kịp nữa rồi. Cô ấy đổ gục trong tay tôi. Tôi dìu cô ấy xuống giường và an ủi, xin lỗi. Tôi không nói được một lời nào cho ra hồn cả. Tôi làm đủ mọi điều để cho cô ấy quên đi. Rồi mọi việc cũng qua, vì cô ấy yêu tôi mà. Mà tôi thì vô tình xúc phạm cô ấy quá nặng nề. Cuối cùng cô ấy lại là người chiến thắng :
- Thôi nghe mình. Đừng giận em nghe mình. Ai biểu hai đứa mình thương nhau ẩu tả làm chi. Ờ há. Mà đã thương nhau thiệt tình thì có biết ẩu, biết tả là cái gì đâu? Cứ đâm đầu miết vào nhau. Ừ quên nữa. Em có chuyện này muốn nói với mình.
Giọng cô ấy lại trở nên buồn buồn:
- Ba, rồi má mất. Em và các con không thể tới. Nhưng mẹ con em đều để tang. Từ đây về sau, mỗi lần đám giỗ ba má, mình nhớ thắp nhang giùm cho em và các con. Nhớ nghe mình.
Tôi thực sự chưa bao giờ nghĩ tới điều này, để rồi giờ đây nghe cô ấy nói. Tôi thực sự tê điếng trong lòng và đành gượng gạo trả lời:
- Anh biết. Thôi mình thay đồ ra rồi ngủ đi, mai còn thức sớm, mười một giờ rồi. Anh ra xem lại mọi thứ, rồi anh vô sau.

Mọi người đang chuẩn bị rước dâu. Khi cả hai mặc xong áo quần. Cô ấy bảo tôi:
- Mình bới tóc cho em. Như hôm mình vô ăn tết với em.
Tôi nhìn cô. Trong ánh mắt ấy đang cần sự yêu chiều. Thôi thì phải làm đúng lời mẹ nói. Khi tôi đang bới tóc cho cô ấy thì cô Chín bước vào nhìn thấy. Thay vì bước ra thì cô Chín đứng nhìn. Khi tôi nắn búi tóc xong xuôi, vuốt cái bánh lái cho thật mượt. Cô bắt đầu rổn rảng một hơi :
- Cái thằng, mày học bới tóc từ bao giờ. Đã thế còn bới đầu lèo. Ừ mà tướng con Út, bới như vậy là đẹp đấy. Cỗ nó cao, tròn mà lại trắng. Chà còn để một lọn tóc che cái thẹo nữa. Tao chịu hai đứa bây. Còn con Út đã làm sui rồi mà còn giở trò ỏng ẹo. Chuyện như vậy mà cũng bắt chồng làm. Thiệt hết biết.
Tôi cười cười không nói còn cô ấy thì buông một câu làm tôi phải ráng mà nín cười:
- Cô mà có chồng sợ hổng chừng còn dữ hơn con.
- Hứ. Mày còn trả treo với tao hả? À mà cái thằng Cứ như vậy đi, rồi chết cái thân mày.
Không hiểu sao tôi lại nói:
- Chết bỏ. Cô Chín ơi. Vợ muốn thì phải chiều thôi.
- Ừ. Giỏi lắm. Vợ hai, con ba. Chiều riết nó mới cà tong cà teo như thế.
Nói xong bà bỏ đi một nước, nhưng cũng cố vọng lại:
- Ở đó mà cù nhầy. Người ta chuẩn bị xong rồi đó.
Chúng tôi nhìn nhau, rồi cô ấy bảo tôi:
- Xong hết rồi mình hén. Thôi đi. À quên, mình hôn em một cái coi. Cho mặt mày tươi tắn đặng đi làm sui.
Nói thì nói vậy. Nhưng tôi có hôn cô ấy được cái nào đâu. Chỉ có cô ấy thôi. Mạnh mẽ. Tham lam. Mà dễ thương hết biết.
Khi chúng tôi bước ra. Mọi người, hầu hết là các bà, các cô, nhìn cái đầu tóc của cô thì ít mà nhìn tôi thì nhiều. Sau đó là khúc khích, thầm thì. Thì ra là cô Chín…
Cơn gió chướng tháng muời thổi trên giòng sông mênh mông. Cơn gió ấy thổi bay đi bao nhiêu bức bối trong lòng tôi. Ôi thiên nhiên mến yêu con người quá đỗi, mà con người thì mới tệ bạc làm sao? Bình minh sắp đến với tín hiệu là một vầng sáng chói lọi ở đàng đông. Tôi ngồi trên mui tàu, hít thật sâu từng ngụm không khí trong lành. Bình minh trên giòng sông này vô cùng rực rỡ và có phải chăng cuộc đời cũng đang có một bình minh. Tiếng sóng rì rào của giòng sông không bị chìm đi trong tiếng máy nổ rầm rì. Bởi vì tiếng sóng trên giòng sông kia đang hòa nhịp trong tiếng sóng lòng tôi. Thời gian như đứng lại với tôi. Tàu chạy đến gần Xép Ba Tàu, giòng sông như mênh mông ra và khung trời thì rực rỡ lên, những vệt lá dừa nước rõ dần và cái dãy ngân hà đang chảy dưới chân tôi. Lấp lánh, lấp lánh đến vô tận. Nếu ai đó bảo tôi đừng yêu giòng sông này nữa thì hãy bảo là tôi nên chết có lẽ hiệu quả hơn.
Và tôi liên tưởng đến những làng quê, những cánh đồng ẩn khuất sau rặng dừa nước của hai bên bờ sông ấy. Giờ đây không còn những dấu tích của một thời bom đạn, những vết thương đã liền sẹo. Những tấm lòng đang rộng mở dần ra và đã cùng chung tiếng thì thầm của gió, của tiếng sóng trên sông. Từng con người ở hai bờ sông ấy cảm nhận điều này bằng một cách nào đó của riêng mình. Tôi cũng thế, bởi vì tôi có nhiều lý do để qua lại giòng sông này. Trong đó có một lý do hình như không giống ai. Và bây giờ bởi lý do đó tôi đang đi qua giòng sông.
Tàu ghé lại, tôi đưa mắt nhìn cái thị trấn nhỏ xíu ven sông. Vẫn thế, nhưng hơn ba mươi năm rồi không đến. Mọi người trên nhà ùa ra đón đàng trai. Chợt tôi sững người lại. Cái tay mặc bộ veston hết ý kia trông quen quá. Mình gặp tay này ở đâu nhỉ? Hắn nhìn tôi và trong ánh mắt ấy có cái gì hơi ngờ ngợ. Nhưng thôi lo việc làm sui cái đã. Khi vào bàn, ông mai bắt đầu làm việc thì hắn nhìn tôi đăm đăm rồi hỏi nhỏ cô ấy cái gì đó. Cô ấy. À không. Vợ tôi. Vợ tôi cười, quay sang tôi bảo :
- Xin giới thiệu với anh chị sui, đây là ông nhà tôi. Hôm đám nói hai con vì bận việc nên không có mặt.
Ông sui tôi nhìn trân trân. Bổng bật lên :
- Trời ơi Hiền. “Ông Văn Sử Địa“. Ôi.“ Ngài Công Dân”. Phải mày không? Tao là Bầy nè. Bầy ở Thầy Quơn nè
Tôi sững cả người, cái hỗn danh này đã hơn ba mươi năm rồi tôi mới nghe lại :
- Trời đất. Bầy. Tao với mày làm sui?!
Hai ông sui ôm choàng lấy nhau, ngửa cỗ ra cười mà nước mắt ràn rụa. Cả đám cưới nhìn chúng tôi. Hai bà sui, con dâu, con rể và mọi người. Ai nấy chưng hửng. Nhưng rồi, mọi người hiểu ra và họ cứ để cho chúng tôi biểu lộ bằng hết sự vui mừng của tình bạn bè bao nhiêu năm gặp lại.
Thế là mọi việc được thực hiện một cách chóng vánh, khi mà chúng tôi nhớ tới cái vai trò của mình.
Lúc xuống tàu. Khi ngồi lại với nhau, hai ông sui nhắc hết chuyện này tới chuyện khác của thời còn đi học. Chúng tôi nhớ ra ngày tôi đưa anh sui của tôi và Thuật xuống tàu về quê. Tôi kêu Thà đến và hỏi ông sui của tôi :
- Mày biết thằng này không ?
- Tao đâu biết?
            - Con trai của thằng Thuật đó. Tôi quay sang Thà. Cháu chào bác đi. Hai bác và ba con là bạn học với nhau hồi còn học trung học đó.
Cả hai chào nhau, rồi khi Thà đi nơi khác, tôi nói nhỏ với ông sui tôi:
- Thằng Thuật nó chết năm 1971, sau thằng Bích một năm. Thằng nhóc hồi nãy còn trong bụng. Nay nó về ở với vợ chồng tao. Lát nữa qua bển mày sẽ gặp vợ thằng Thuật.
Rồi tôi kể cho nó nghe về chuyện của Thuật, của Bích. Bầy chắc lưỡi hít hà. Rồi chợt nhớ ngày hôm nay là ngày vui của bọn trẻ, chúng tôi đành ngậm ngùi cho qua.
Thế rồi, bạn bè lâu ngày gặp lại nên cứ mày mày, tao tao suốt. Hai bà sui tới nhắc :
- Mấy ông cứ tao tao, mày mày. Cả hai họ gái trai cười mấy ông kìa. Sui gia cái kiểu gì mà kỳ vậy ?
Bầy cười ha hả:
- Bà với chị sui đừng có cười tụi tui. Làm sui cái kiểu này ngàn năm có một đấy. Tôi cho mấy bà hay trước. Chút nữa đưa dâu qua tới bển, làm lễ xong, ai về thì về. Tôi với bà ở lại. Chơi cho tới bến rồi bắt thằng rể đưa về sau.
Tôi đưa mắt nhìn thoáng qua bà sui và nói thầm trong bụng “Lại một bà chằn nữa đây “. Tôi hỏi Bầy :
- Này. Mầy được mấy đứa?
- Con anh, con em, con chúng ta. Chín đứa. Còn mày.
Tôi trố mắt nhìn ông sui:
- Trời đất. Có cái vụ này nữa sao
Bầy bảo tôi :
- Số phận thôi. Chớ ai mà muốn. Thôi tao với mày lên mui. Ở dưới này ồn quá. Lên trển hai thằng tâm tình. Qua bển rồi lu bu, rồi cụp cảng một hồi là hết nói.
Chúng tôi leo lên mui. Chỉ có một vài người trên ấy. Hai thằng đang tìm chỗ đặt đít vì sợ dơ bộ đồ lớn thì Hậu mang chiếc chiếu lên;
- Má bảo mang lên cho ba và bác ngồi.
- Trải ra đi con. Con trai thứ ba tao, em kế của thằng rể mày đấy. Mày thấy tao đúc y khuôn không ?
- Tao biết nó. Nghe nói nó học giỏi lắm. Học chung với thằng thứ năm của tao ở Cần Thơ mà. Nó hộ tống cho anh hai chị hai nó qua nhà tao mấy lần. NHưng bây giờ mới biết nó là con mày. Ê thằng nhóc này coi bộ cũng không thua gì mày hồi nhỏ.
- “Con hơn cha nhà hết nóc” mà mậy. Này, tính ra lòng vòng rồi cũng gom chung một sàn hết hén. Mày kể cho tao nghe khi mày nghỉ học mày về, mày làm gì? Tại sao còn có cái vụ con anh, con em, con chúng ta?
- Tao về được một năm. Mấy cha nội này nè, rủ tao theo mấy chả. Ba mẹ tao thì sinh nhiều nhưng nuôi được có một mình tao. Ổng tức quá ổng đặt tao tên Bầy. Tao đi theo mấy ổng. Ba tao muốn chết giấc. Có một thằng chọi lõi, mà bom đạn thì sáng trời, mày nghĩ coi ổng không chết giấc sao được. Năm 65, 66 mà loi choi như tụi mình, nhảy lưng tưng một hồi là “dưng cơm cho lục“. Chắc có lẽ mấy ổng thấy hoàn cảnh như vậy, mấy ổng đưa tuốt tao vô trong cứ. Ở trỏng thì êm hơn ở ngoài ven. Được hai năm, tao thương con nhỏ giao liên. Tổ chức biết, kiểm điểm cho một trận, vì tìm hiểu mà không thông qua tổ chức. Nhưng sau thấy khó bề dứt được mấy ổng tuyên bố cho luôn. Tới chừng ba tao hay, ổng vô nhìn hai đứa tao rồi chịu trận. Thấy vợ tao cái bụng chong bóc. Ổng hốt về Thầy Quơn để lo sinh đẻ. Ai dè nhè ngay ngày vợ tao sanh, hai thằng cùng một lúc. Thì bom nó dập cho một trận te tua. Mọi người nháo nhào đi tránh bom. Tới khi trở lại thì vợ tao làm băng, mất máu quá nhiều, nên đi luôn. Hai thằng nhóc thì cứu được. Tao có hay biết gì đâu? Lâu lâu ba tao vô. Hỏi, thì ổng ậm ừ cho qua chuyện. Tới ngày thống nhất, tao về thì mới biết. Lúc đó hai thằng nhỏ đã bốn năm tuổi rồi. Tao phải dụ khị ba bốn bữa nó mới chịu kêu tao bằng ba. Tao buồn quá trở về đơn vị, sau đó họ phân công tao về công tác ở Cà Mau. Một thân một bóng nơi xứ người, ngày hai buổi làm việc, cơm tập thể, nhà tập thể. Được đồng nào gởi về cho con đồng nấy.
- Rồi làm sao mà gặp được bà này?
- Tao cứ việc cơm cơ quan, áo nhà nước đâu được ba bốn năm gì đó. Tao gặp bà này. Chồng bà ấy là sĩ quan, đi cải tạo bị cảm chết. Hàng ngày bà ấy đặt cái tủ thuốc lá, với cái lò than bán bánh tét nướng, chuối nướng, xéo xéo cơ quan tao. Vừa bán vừa trông con. Thỉnh thoảng tao qua mua thuốc hút hay bữa nào đói bụng thì mua chuối nướng, bánh tét nướng ăn. Thấy bà ấy coi bộ hay hay, tao nói đại là tao thương. Ai dè bà ấy thương tao thiệt. Thế thì hai đứa xáp vô. Tao thì te tua, tàn tịch với cơ quan. Bả thì bầm mình, bầm mẩy với gia đình. Cái số của tao làm sao đâu? Hai lần cưới vợ hai lần làm kiểm điểm. Mà có êm đâu. Bà ấy dính bầu rồi, tao mướn nhà, hai vợ chồng dọn về. Còn tao thì kể như xong. Cán bộ quèn thiên thu. Ba tao xuống nhìn qua ngó lại một hồi ổng gạt nước mắt quay về. Không thèm nói với tao một tiếng mà nói với bả “Con thương nó thì nuôi nó đi. Chớ ba nuôi hết nổi rồi.”.
Thế là vợ chồng dắt díu với nhau. Làm thấy ông bà ông vãi mà vẫn bữa đói, bữa no. Oải quá. Tao bỏ công tác, năm 85 hai đứa về Gò Quao tá túc với dì năm tao. Con anh, con em, con chúng ta là một bầy bảy đứa. Thay ba tao, thực hiện ước vọng của ổng, làm tao muốn ná thở. Nhưng nhờ ba tao nuôi hai thằng của bà trước, nên cũng đỡ một phần, thỉnh thoảng trước về thăm con, sau đó xin gạo. Thấy tao te tua tàn tịch, dì năm tao cho được mười công ruộng. Ba tao cho được chiếc xe Honda cà tàng. Thế là hàng ngày chạy xe ôm, tới mùa làm ruộng. Được hai năm cất được cái chòi thì vừa lúc đó bà ấy tuôn ra một cặp. Tao hồn phi phách tán. Hai bà hai cặp. Trời ơi ngó xuống mà coi. Tức quá tao đặt tên hai thằng nhỏ là Trần văn Trời, Trần văn Ơi.
Tôi cười nôn cả ruột:
- Phải hai thằng nhóc chừng mười một, muời hai tuổi đó không?
- Nó đấy.
- Hai thằng nhóc ngon lành như vậy mà mang hai cái tên như vậy là chết tụi nó rồi. Mày thiệt tình.
- Đâu có mậy. Tao mới nói thôi. Bà ấy cự quá chừng, may mà chưa làm khai sanh. Nhưng có lẽ nhờ thấu tai ổng mà ổng cho bà ấy nghỉ.
- Mày điên. Đẻ kiểu đó sạch ruột rồi, còn gì nữa mà chẳng ngưng. Mà cũng tại mày thôi. Trách ai?
- Ấy vậy mà hên nghen mậy. Ngay lúc đó chị ruột của bà ấy ở bên Mỹ gởi về cho được một ngàn. Mày biết không? Tao mừng hết lớn. Từ hồi nào giờ có thấy tiền đô đâu, tao cầm mười tờ một trăm đô, tao cứ tưởng là giấy gì đâu, y như là nhản thuốc. Không dám cho ai thấy, không dám lú ra xài. Tới ngày bà ấy cứng cáp. Tao bàn với bà ấy là mua thêm ruộng. Lúc đó đất cũng rẽ. Tao đổi tiền, mượn ba tao thêm ít nữa, mua được hai chục công. Năm sau tao trả tiền cho dì tao để nhận luôn muời công mà dì ấy nói là cho. Rồi con cái lớn dần. Thoải mái chưa được bao lâu. Ba má tao bỏ đi hết. Rồi tới dì năm tao. Trong những ngày cuối đời của ba má tao, rồi dì năm, một tay bà ấy chăm sóc, muốn gì có nấy, chu đáo mọi bề. Con của dì năm, hay tin dì ấy mất, từ Mỹ về, trả cho tao hết chi phí tang ma, còn chìa thêm cho bả một ngàn nữa. Hai thằng nhóc lớn của tao thì thương bả hơn thương tao. Toàn bộ tiền lo đám cưới cho con Tạo, anh em nó chung hết. Bà ấy cự tụi nó, tụi nó cãi lại um sùm. Lần đầu tiên tao thấy bà ấy thua, mà lại thua hai thằng con ghẻ. Chớ với tao thì bà ấy ăn đứt. Đất cát ruộng vườn của ba má tao để lại, bà ấy cho hết hai thằng lớn. Bây giờ tụi nó có gia đình hết, cũng có chút đỉnh để dành, tao cũng mừng. Ê tao được ba thằng cháu nội nghe mày. Hết xẩy luôn.
- Rồi làm sao mà mày có cái tên Trần văn Đàn.
- Cũng mấy ông này. Mấy ổng chê tên tao nghe kỳ cục. Mấy ổng sửa lại cho tao. Mấy ổng thấy tao đờn cổ nhạc mướt rượt. Mấy ổng đặt tao tên Đàn. Tới chừng chết danh rồi, sau này tao nằm ngẫm nghĩ, thì đúng là cái số. Bầy hay Đàn gì thì thứ nào cũng lủ khủ. Ờ tao nói cái này cho mày nghe, Nghe xong rồi bỏ nghen. Con dâu của mày là con của bà ấy.
- Cái gì ? Tôi chới với
- Nó là con của bả. Con nhỏ quẩn quanh theo bà ấy ở cái lò than bán chuối nướng đó. Mày biết không, nó thương tao lắm. Quần áo của tao, tao thích ăn món gì. Là một tay nó không? Không ai biết tao là cha ghẻ đâu. Cho đến khi cách đây hai năm. Khi ruộng nương xong rồi. Một mình tao, không cho bà ấy hay, mò xuống trại Cải Tạo nơi anh ấy chết, Ảnh họ Trần, tao cũng họ Trần, tao nói tao là em ruột, xin hốt cốt anh ấy mang về để nằm sau vườn nhà tao. Hai mẹ con khóc quá chừng. Lúc đó mọi người mới biết. Phải vậy thôi Hiền ạ. Trong đời tao có việc này làm tao tâm đắc nhất. Bữa đó tao với ảnh say tới bến. Rót cho ảnh một ly, tao một ly. Cứ thế cho tới quắc cần câu.
Tôi không thể nào diễn tả được cảm giác của tôi. Lặng người đi một lát tôi nói với Bầy :
- Tao có cái này nói cho mày nghe và mày cũng ngồi cho vững nghe.
- Cái gì mà dữ vậy ?
- Thằng rể của mày đó.
- Nó làm sao ?
- Nó cũng là con của vợ tao. Việc lấn cấn với bên nội của thằng rể mày, tao mới giải quyết xong ngày hôm qua. Từ nhỏ đến giờ có biết mặt cha đâu? Bên nội không nhìn nhận mãi cho đến ngày hôm qua. Ông bà nội nó mới qua nhận cháu, có mang theo tấm ảnh của ba nó với một cái sổ đỏ. Tao lại phải lập cho nó cái bàn thờ. Tội nghiệp nó ôm cái ảnh của cha ruột mà cứ nhìn tao. Nước mắt ròng ròng. Tao cũng không biết nó khóc ai; cho ba nó hay cho tao. Còn lòng tao thì chết điếng. Con của mình bổng dưng không còn là của mình nữa.
Nó đực mặt ra nhìn tôi. Tôi nhìn nó. Hai thằng nhìn nhau rồi nhào tới ôm nhau cuời ha hả, cười quên thôi. Thế là chỉ hai bà vợ làm sui, còn bọn tôi thì ăn ké. Mấy người ngồi trước mui tàu không hiểu gì cả. Hai bà không biết chui lên từ bao giờ. Nhìn chúng tôi rồi nhìn nhau. Cuối cùng bà sui tôi bảo :
- Bộ ông với anh sui khùng hết rồi hả?
Chúng tôi ngưng cười. Bầy nói :
- Bà với chị sui vô trong đi, nắng dữ lắm, chuyện bạn bè của người ta. Nè bộ nghe lén hết chuyện tụi tui rồi hả?
- Giữa sông giữa suối mà mấy ông làm chuyện khuất lấp được thì giỏi đấy.
Hai bà nhìn nhau lắc đầu rồi chui vào trong. Rồi tôi kể cho Bầy nghe về những những trôi nổi của cuộc đời tôi, về cái chết của Thuật, về chuyện tôi gặp cô ấy và việc thằng Thà. Tôi cũng nói cho nó nghe về những cảm giác của tôi khi qua lại giòng sông này. Luôn cả cảm giác bây giờ. Có một thoáng ngậm ngùi. Rồi Bầy lên tiếng :
- Cái Mới, Gò Quao. Thầy Quơn, Xẻo Kè có cách nhau bao xa đâu mà tụi mình cứ lêu bêu mãi. Kẻ mất người còn. Hơn ba mươi năm gặp lại. Trong cuộc đời ai mà chẳng có những vết thương. Mà đâu có vết thương nào mà chẳng lành đâu. Nhưng cái vết sẹo thì còn lại đó. Có lúc quên đi, dù rằng nó luôn hiện diện. Và bây giờ những cảm nghĩ của mày về giòng sông này, phải chăng là những ước mơ thời tuổi nhỏ đang trở thành hiện thực. Cây cầu ấy chắc chắn không phải chỉ để nối dài thêm chuổi xót xa. Nó như là hiện thực mà tao và mày đang làm. Đó là nhịp cầu nối những cuộc đời. Con Tạo, con dâu mày, nó dạy học ở Xẻo Kè, nhiều khi nó muốn về nhà mà bị trễ ghe tàu, thì thằng rể tao đưa về. Lúc đầu chỉ lãnh cái nhiệm vụ đưa thôi. Riết rồi kiêm thêm cái nhiệm vụ đón. Tao thấy thằng rể tao làm nghiêm túc quá. Tao giao cho nó lãnh cái nhiệm vụ nuôi con dâu của mày luôn. Mà nghĩ cũng ngộ nghe mậy.
- Cái gì mà ngộ nữa đây.
- Tao ở bên này bờ lại trôi sang phía bên kia. Mày thì ở phía bên kia lại bỏ giò qua phía bên này. Rồi bây giờ tới hai đứa nó. Không biết tại làm sao mà lại lủm bủm bơi qua, bơi lại một giòng sông.
- Ừ nhỉ. Nhưng thôi, có giòng sông nào mà chẳng hai bờ. Có lẽ phải bơi qua bơi lại như vậy nó mới vui. Chớ bờ ai nấy ở thì buồn có mà chết. Thôi hồi nãy mày hứa rồi. Lát nữa lễ lạc tiệc tùng xong. Anh chị sui ở lại. Chiều, tao cho thằng Thà đưa về. Bởi vì mình còn rất nhiều điều để nói với nhau và với cái cặp này.
- Ở thì ở, nhưng tao nghe mày kêu vợ chồng tao bằng anh chị sui sao tao mắc cười quá. Tao thấy mày với tao gọi nhau là anh “ngược” có vẻ đúng hơn.
- Đừng nói vậy tội nghiệp con. Thôi xuống dưới. Tàu vô vàm rồi.
Vừa lom khom đi xuống. Bầy vẫn cư oang oang:
- Tội nghiệp gì mậy. Mình thương yêu tụi nó. Lo lắng cho tụi nó đàng hoàng. Tụi nó cũng nên người hiếu thuận. Điều này đâu phải ai cũng làm được. Cứ la lên cho thiên hạ biết. Ngu sao mà nín thinh. Mày càng nín thiên hạ càng có dịp xầm xì. Mày biết không, cả xứ Gò Quao khi biết con Tạo là con của bà ấy, người ta tha hồ mà rầm rì. Cha con tao xuống mối cái rụp. Nó cần cái gì tao lo, tao cần cái gì nó lo, kể cả đi mua cho tao gói thuốc hay ly café. Đám giỗ anh ấy tao lo. Đám cưới nó, hai thằng con của tao lo. Thiên hạ im bặt.
- Tao hết ý kiến. Bởi vì tao còn lộn xộn hơn cả mày gấp trăm lần.

Tàu ghé lại, tôi bước lên trước và tôi hết hồn. Tôi không ngờ cô ấy tổ chức một cái đám cưới to đến như thế. Khoảng bốn trăm con người đang đứng kín bờ sông. Khi cô ấy bước lên đứng cạnh tôi. Tôi hỏi nhỏ :
- Bộ mình mời hết huyện An Biên hả ?
- Mình lại kiếm chuyện rầy em nữa rồi.
Cô đưa tay vuốt ngực tôi nói câu to, câu nhỏ:
- Để em vuốt áo thẳng cho. Vuốt giận nghe. Chiều em đi mà.
Tôi nhìn cô ấy:
- Thôi, anh lại thua mình nữa.
Khi làm lễ lạy họ. Cầm ly rượu của con trên tay, sự xúc động làm cho tôi phải rất lâu mới nói được với con:
 - Ba má rất vui mừng và cám ơn hai con. Hai con đã cố gắng rất nhiều để có được ngày hôm nay. Ba má mong rằng hai con có đầy đủ sức khỏe và nghị lực để đi cho hết con đường hạnh phúc vừa được mở ra. Ba má uống ly rượu này với tấm lòng tràn đầy hạnh phúc. Một lần nữa ba má cám ơn hai con.
Tôi quay sang cô ấy:
- Mình uống đi, cho con nó vui. Nếu không nổi, anh tiếp.
Cô ấy nhìn tôi, mặt hồng lên, rồi nâng ly uống cạn.
Buổi lễ rồi cũng nhanh chóng hoàn tất. Tôi bảo Thà đến mời mẹ và cậu nó đến. Tôi sắp xếp cho tất cả ngồi chung bàn. Tôi giới thiệu cho mọi người biết nhau và giải thích sơ qua về sự quan hệ bạn bè của chúng tôi. Vừa lúc đó thì Trung và một người nữa bước tới. Tôi vừa ngạc nhiên vừa mừng. Chúng tôi ôm choàng lấy nhau. Tôi nói:
- Cám ơn mày. Trung. Tao với thằng Bầy làm sui. Bầy ơi. Bầy. Thằng Trung vô nè.
Bầy chạy tới. Thế là ba thằng chúng tôi tay bắt mặt mừng. Trung nói:
- Giới thiệu với tụi mày đây là Hiệu Trưởng trường cấp ba của thằng Hòa, Hậu đấy. Tao nhận cái thiệp nó đưa cho, làm tao hết hồn.
Tôi quay sang nhìn cô ấy :
- Em mời Trung mà không nói với anh một tiếng.
- Em quên. Với lại
Tôi mời tất cả vào bàn và giới thiệu từng người. Bao nhiêu năm gặp lại hè nhau tâm tình, hè nhau nổ, tiếp theo là những ngậm ngùi nhớ về Thuật, Bích… Thoắt đó mà chúng tôi đã không còn trẻ nữa. Cái thoắt ấy nghe như ngắn ngủn, mà ngắn thật, nhưng chúng tôi đã bước qua cái ngắn ngủn ấy bằng một con đường đầy những gian truân dài thậm thượt. Hôm nay, ngày vui của bọn trẻ. Hạnh phúc của chúng thì cần chờ đợi thời gian để thử thách. Và khi bọn chúng bước lên thềm thử thách ấy thì lại là một hạnh phúc đã được khẳng định của tuổi già chúng tôi. Chúng tôi từ tốn nhâm nhi, nhắc nhớ nhau từng kỷ niệm vui buồn không phải để trách đất than trời, hay nghênh ngang khoe mẽ mà để nhắn nhủ nhau cố mà sống cho yên vui. Trung thỉnh thoảng đưa mắt nhìn tôi. Trong cái ánh mắt của mấy ông thầy giáo thường thì khó hiểu dù chúng tôi là bè bạn. Tôi cũng biết Trung đang nhìn, đang nghe và đang nhận xét về cuộc tình kỳ cục của tôi, dù tôi cũng có thể tự khách quan một chút để có thể đoán ra những ý nghĩ của Trung, nhưng lúc này tôi không làm được. Kể cả Bầy cũng thế, dù là bạn bè và bây giờ là sui gia, và tôi đã kể cho nó nghe tận tường nhưng trong ánh mắt nó có cái gì đó hơi lạ lùng khi nhìn tôi và cô ấy. Nhưng rồi vai trò của người chủ hôn, tôi không có nhiều thời gian.
Khi tôi đưa vợ chồng Hòa đến bàn của Trung chào chú bác họ hàng. Trung thay mặt cho cả bàn đứng lên chúc cho hai cháu, Trung làm cho tôi thật sự ngạc nhiên. Trung nói:
- Bác thay mặt cả bàn, đọc bài thơ mà ba cháu đã làm từ rất lâu. Từ thời bác và hai ba của các cháu còn đi học. Hai cháu nghe và hiểu như thế nào thì lời chúc mừng hạnh phúc của bác gởi đến hai cháu như thế đó.

        Giòng sông luôn đổ về tây,
Mỗi ngày hai lượt khi đầy khi vơi
        Rong chảy ngược, ròng chảy xuôi
Vẫn chuyên chở những cuộc đời lại qua.
         Nối cho gần lại bến xa,
Nối cho đằm thắm mọi nhà với nhau.
        Thì thào sóng vỗ đêm thâu,
Nắng bình minh rạng rỡ màu tình yêu.
        Bập bềnh cơn gió đùa theo,
Tiếng lòng hòa tiếng nước reo mạn thuyền.
        Đưa nhau về chốn bình yên.
Cho xanh màu lá, cho nguyên vẹn lòng
       Mồ hôi pha mặn nước sông,
Ngọt hơi Vọng Cổ mênh mông điệu tình
Tôi cũng không ngờ tôi đã có một bài thơ như thế. Tôi thực sự xúc động. Ôi bạn bè tôi. Cô ấy nhìn tôi lạ lùng và hạnh phúc. Bầy thì đứng bật dậy, bắt tay tôi nói như hét:
- Hiền. Anh sui. Nhân danh những người hai bên bờ sông này. Cám ơn mày. Cám ơn anh sui. Tao khoái nhất là hai câu chót “ Mồ hôi pha mặn nước sông. Ngọt hơi Vọng Cổ mênh mông điệu tình”. Quá đã.
Thế là ông sui tôi hét hò bọn trẻ tìm một cây đàn ghita phiếm lõm rồi chơi luôn mấy câu vọng cổ Gánh Nước Đêm Trăng. Giọng hát khàn đục vì thời gian, vì rượu. Nhưng vẫn ngọt ngào sâu lắng một tâm tình và tiếng đàn ngọt lịm kia, tiếng đàn đã tạo thành một cái tên. Tất cả hòa quyện vào nhau. Quả tình tìm một người có khả năng tự đàn cho mình hát vọng cổ là một điều hơi khó. Nhưng bạn bè tôi, sui gia tôi đã đem hết tấm lòng mình để làm và làm được. Ôi những tấm lòng dành cho cuộc sống và dành cho tôi. Gia đình của tôi.
Bổng Trung nói với tôi :
- Hiền này. Hôm nay ba thằng mình gặp nhau, mà mày với thằng Bầy lại làm sui. Thôi tao đề nghị mày nên dọn một mâm riêng cho những thằng không có mặt ở đây, nhưng quan trọng hơn là những thằng đã chết. Kể như ba thằng mình mời cả bọn cùng nhậu và mày làm ngay một bài thơ cho tình bè bạn. Được không?
Bầy vỗ tay hoan nghinh. Tôi đồng ý và kêu cô ấy chuẩn bị cho ba chúng tôi một mâm mới thật tinh tươm, chén đũa càng nhiều càng tốt. Tôi bước lại dàn vi tính gõ một mạch, chỉnh sữa lại một ít. Không hiểu sao lại nhanh thế. Tôi in ra một hơi năm sáu bản. Khi mọi việc đã chuẩn bị xong xuôi. Tôi đưa cho Trung, Bầy mỗi thằng một bản và bảo:
- Ba thằng bọn mình cùng đọc. Nội dung bài thơ thì khi đọc tụi bây biết phải làm gì?
Tôi mời anh năm Đất và đưa cho anh một bản rồi nói:
- Thuật là bạn của chúng tôi. Anh Năm là người cưu mang vợ con của Thuật. Chúng tôi xin được phép là bạn của anh. Nếu anh Năm xem chúng tôi là bạn. Anh có thể xem bè bạn của chúng tôi như là bè bạn của anh Năm. Trái lại chúng tôi cũng xin được phép như thế.
Năm Đất cầm lấy bài thơ liếc qua và run run nói:
- Mấy ông anh chơi kiểu này. Quả tình từ trước đến giờ tôi mới thấy. Nhưng hay. Tôi đồng ý cả hai tay. Xin cám ơn đã xem tôi như bạn bè.
Một chai rượu mang ra và bốn cái ly. Cả một đám cưới nhìn bè bạn chúng tôi bày trò. Sau khi rót ra bốn ly rượu. Chúng tôi  nâng ly lên, bắt đầu e hèm:
Bạn bè thằng bận, thằng xa,
Thằng hay đau yếu, thằng ra xứ người.
Thằng già háp tóc trắng tươi,
Thằng thì đứt bóng nhớ ơi! Thêm rầu.
Ngày nào đàn đúm với nhau
Giờ đây có rượu. Bạn đâu? Vắng rồi.
Để dành thì sợ rượu ôi?
Thôi đem ra uống cho rồi. Kẻo quên. (uống)
Người nhìn, cứ tưởng buồn tênh,
Chẳng qua thấy nhậu mình ên.Ngỡ là…
- Ly này, dành cho thằng xa, ( Rót )
Để mày nhảy mũi.Nhớ ra rồi về.
(Cùng uống cho những thằng xa)
- Ly này, thằng bận mê mê, ( Rót )
Mày mau xong việc để về với tao
(Cùng uống cho những thằng đang bận làm ăn)
- Ly này, uống cho thằng đau, ( Rót )
Cố mà hết bệnh. Để tao với mày.
(Cùng uống cho những thằng bệnh)
- Tiếp thằng già háp một ly, ( Rót )
Mai kia sung độ thì mày tiếp tao.
(Cùng uống cho những thằng già háp)
- Ly đây thằng ở phương nào
Nâng lên chia sớt nỗi sầu xa quê
(Cùng uống cho những thằng xa quê)
- Mời thằng đứt bóng.
Đau tê,
Chút tình bè bạn. Rót về hư không.
(Cùng chế rượu xuống đất cho những thằng đã chết).
- Ly tao, tao rót sau cùng, ( Rót )
Nâng lên uống cạn mà lòng nao nao.
(Cùng uống cho mình. Rót tiếp)
Cái thời cả bọn… Hôm nào…
Gặp là nhậu nhẹt. Xôn xao tiếng cười.
(Cùng uống cho tất cả bạn bè)
Giờ chia năm, bảy hướng đời.
Mỗi thằng mỗi một phương đẩu đâu?
Bạn bè không gặp đã lâu,
Thôi nâng ly để … Tao, tao. Mày, mày. ( rót và uống)
Cứ xem như đã đủ đầy,
Dốc chai giáp quận. - Hết  mày. Tới  tao. (rót và uống cho đến hết chai )
Đến ly sau cùng, chúng tôi nhìn nhau xúc động và hình ảnh từng thằng hiện ra trong đầu tôi; Thằng đi xa: Trang văn Ngọc Điện, Nguyễn văn Vân, Lữ Hòa Cung, Danh Ty, Tạ Duy Luân, Trần Chí Thiện, Danh Điểm Những thằng biệt mù san dã hay còn lại thì quẩn quanh đâu đó trong cái thị xã nhỏ xíu, nhưng chẳng mấy khi gặp nhau: Hải, ba bốn thằng Kỳ, Minh, Nam, Thạnh, Lương, Từ Và buồn thay những thằng chết cũng chẳng ít ỏi gì: Lê văn Đạm, Huỳnh văn Thuật, Lý Minh Bích, Trần Thanh Tường, Từ Kim Hoàng, Thạch Quốc Hoàng, Lê Minh Trung, Ngô văn Long Còn già háp, đau yếu hay còn sức bon chen thì Ôi thôi. Sao mà nhiều thế. Nhưng những khuôn mặt ấy tươi cười rạng rỡ nâng ly cùng chung góp niềm vui với một thằng mỏng cơm nhất bọn.
Tôi cứ tưởng là khi chấm dứt màn này, mọi người sẽ cười rần. Nhưng không phải vậy. Cả đám cưới như chùng xuống khi nhìn thấy chúng tôi mời rượu bạn bè. Và hình như trong số đó có nhiều người hưởng ứng.
Cuộc chiêu đãi bạn bè này đã đẩy cả bọn tôi vào chỗ khó. Một lần nữa cô ấy đã giúp tôi tránh một bàn thua thấy rõ. Mọi người lôi mấy bài thơ ấy ra làm cái cớ để mời rượu. Họ nhìn bạn bè chúng tôi, gia đình tôi bằng một đôi mắt cảm thông sâu sắc. Cô ấy lại luôn luôn viện dẫn là tôi bị chột bụng không thể uống được nhiều (?). Ấy vậy mà gần nữa thùng bia cũng lần lượt chui vào. Cứ mỗi bàn nửa ly. Và cứ râm ran những bàn ra tán vào về đám cưới, về một bữa chiêu đãi bè bạn không giống ai, về vợ chồng tôi. Từ những câu tôi nghe tiếng được tiếng không ấy. Nó xác minh khá chính xác vị trí của tôi trong ngôi nhà này. Nó xác minh là bà vợ nhỏ của tôi đúng là một “bà chằn”. Bà chằn đáng yêu.
Khi đã giản đi bớt thì đã hai giờ chiều. Những người được mời ở lại được cô ấy thu xếp chỗ nơi nghỉ ngơi tươm tất. Trung và thầy hiệu trưởng ra về. Khi tiển Trung xuống đò, nó nhìn tôi, nói nhỏ:
- Mày thua là phải Hiền ơi. Bà vợ này, ai mà vào làm chồng thì cũng phải ngất ngư thôi. Tao chẳng biết mày hên hay xui. Thôi. Cái đó tùy mày xem đó là sự hưởng thụ hay chịu đựng. Nhưng tao nghĩ, hình như mày đang hưởng thụ. Từ những hành động cho tới ánh mắt nhìn. Bà ấy đều dành hết cho mày, không để rơi vãi bất cứ nơi đâu, dù một tí. Tao biết mày và thằng Bầy đều làm sui ké. Nhưng hai đứa nhỏ hình như không chịu vậy. Tụi mày giỏi thật đấy. Và tao chọn bài thơ của mày để chúc mừng tụi nó là đúng quá rồi.
- Cám ơn mày. Trung. Tao không ngờ tao có một bài thơ như thế.
- Bài thơ này mày làm khi tụi mình làm bích báo[i] cuối năm đệ tứ. Tao không hiểu tại sao mà tao khoái nó đến nhập tâm. Có lẽ vì mỗi năm đôi lần tao đều qua lại giòng sông này, gắn bó lòng mình với nó. Trước kia tao thường hay mang bài thơ ấy để làm ví dụ khi dạy học trò cách làm thơ lục bát. Bởi vì thích một phần, một phần nữa là niêm luật thì không sai một ly, âm vận thì hầu hết là chính vận, chỉ có vài câu là mày sử dụng thông vận, nhưng khi đọc lên khác biệt không còn. Từ ngày làm hiệu trưởng đến giờ thì tao quên bẵng. Mười năm tao không đọc nó. Bổng dưng hôm nay tao nhớ lại. Bài thơ này của mày tao không biết có hay hay không, nhưng với tao thì mỗi lần đọc lên, là một lần tao cảm động. Sẵn đây, tao nhắc lại chuyện này nữa và cám ơn mày.
- Chuyện gì?
- Chuyện thằng Hòa học đại học tại chức. Rốt cuộc thì mày là thằng hiểu tao, chớ không phải tao là thằng hiểu mày.
Tôi cười trừ:
- Mày chỉ muốn giúp cháu nó thôi. Tao không hiểu cái lủ nhóc con nhà mày, nhà tao nó có ta thán về việc làm con tụi mình không nhỉ?
- Tao không biết. Nhưng nó có trách thì chịu. Nhưng hiện tại thì chưa. Thôi. Đừng nói việc con cái nữa. Còn bài thơ nhậu, mày cho tao xin để làm kỷ niệm. Từ lâu tao cứ nghĩ mày là một thằng lơ đễnh, nhất là lơ đễnh với bạn bè. Nhưng không phải vậy. Mày nghĩ đến và trân trọng bạn bè nhiều hơn tao tưởng. Bởi vì, nếu không có điều đó mày không thể làm bài thơ nhanh và cảm động đến thế. Tao nghe một số người nói thường gặp mày hay ngồi uống rượu một mình. Thì ra là mày nhớ đến tao, nhớ đến bạn bè. Chẳng qua là mày không đủ tiền nên chẳng dám rủ rê ai. Tao xin lỗi mày.
- Mày xin lỗi tao? Vì cái gì?
- Tao cũng không rõ. Tao chỉ cảm thấy hình như đã từ lâu tao nhìn mày bằng một cặp mắt nghi ngờ, khi thấy mày có tới hai gia đình. Không biết mày đúng hay sai. Nhưng bây giờ thì tao thấy mày hơi đẹp trai.
Thay vì phì cười với câu nói đùa. Tôi chỉ biết nhìn Trung và thầm cám ơn bè bạn đã hết lòng tô điểm cho đẹp lại một cuộc đời luôn luôn xấu hoắc của tôi. Trung lại tiếp:
- Còn nữa. Việc tụi mình tổ chức một cú tảo mộ bạn bè. Điều này, tao cảm nhận là bọn mình hôm đó có lỗi với những đứa đã ra đi. Và đó là lý do mà tao đề nghị mày mời rượu bạn bè. Quả tình tao hơi liều vì gây khó cho mày. Nhưng mày đã làm được. Mày nói đúng. “ Đem tình bè bạn rót vào hư không “.
- Sao hôm nay mày nói nhiều thế ?
- Tao không rõ. Có lẽ là Chà biết nói sao đây? Nhưng còn một việc nữa. Tao cần phải nói với mày. Cái này là tao làm dùm cho một số bạn bè.
- Còn gì nữa?
- Thực ra, chuyện của mày bọn tao biết hết. Trong số bạn bè có một vài thằng cho là mày thuộc dạng “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản“. Nhưng sau này thì tụi nó hiểu là mày chẳng qua chỉ là làm đúng theo những gì mà lương tâm mách bảo. Chứ nếu như mày mà đi theo mấy ông này thì chắc tao phải “ Đem tình bè bạn rót vào hư không “. Với mày, có lẽ không bao giờ có khái niệm đó. Lúc chưa tiếp thu thì mày đi lính nhưng luôn luôn phản đối chiến tranh. Khi không còn tiếng súng thì mày lại ở tù vì tội chống Cộng. Chẳng qua là mày trân trọng một cuộc sống yên bình. Mày không khoái những trò quá khích>
- Chuyện đã qua bao nhiêu năm rồi. Thế thì mấy thằng mắc dịch đó muốn nói gì?
- Tụi nó nói hồi lúc trước tiếp thu kìa. Tụi nó xin lỗi mày. Còn về sau này, nếu có gặp nhau thì nhắc nhớ và cười. Thế thôi.
Tôi cũng không biết phải nói gì. Đường đi của lương tâm đôi khi cũng gây nhiều ngộ nhận. Thảo nào anh chàng Việt cộng Trần Việt Giang không dám nói với ai về việc tôi băng bó cho anh.

Tôi gặp cô ấy trong phòng. Hai đứa nhìn nhau cười, mệt và hạnh phúc:
- Anh quá mệt. Mình cho anh hôn một cái.
- Em cũng vậy. Nhưng nhanh nghen.
Chúng tôi ghì lấy nhau và không thể nhanh được. Sự ham muốn bốc lên nhưng chúng tôi biết là không thể. Nên cả hai buông vội nhau ra. Cả hai đỏ mặt nhìn nhau. Cười và hiểu ý nhau. Cô ấy nói nhanh :
- Mình ra ngoài đi. Em đang thay quần áo mà mình ở đây là không xong.
Vừa lúc ấy Hậu kêu :
- Ba. Ông ngoại muốn gặp ba.
- Ngoại ở đâu con?
- Ngoại ở bên cây xăng.
Tôi bước qua, thấy gần một chục người nhìn lên tấm bảng hiệu cây xăng. Ông Nội thằng Hòa thấy tôi, hỏi ngay :
- Thằng chồng con út. Mày uống rượu cái kiểu gì mà thấy phát dội vậy mậy?
- Chắc có lẽ là hôm nay có quá vui. Thưa bác.
- Ừ bữa nay vui thiệt. À. Mà tao hỏi mày. Mày và con dâu tao. Đứa nào dụ dỗ đứa nào? Mày nói cho tao nghe ?
- Dạ. Cái này chắc là số mạng quá bác. Tôi nói phân đôi.
- Tao cũng nghĩ như thế. Mày đừng tưởng tao không quan tâm đến mẹ con nó. Tao biết chuyện của tụi bây chớ. Biết rành nữa là khác. Nếu không là tao quậy tới bến. Chẳng qua là tao để coi tụi bây ra làm sao? Cái vụ thằng Hoà không đi học được ở cấp ba là do tao đó. Tao làm vậy thử coi tụi bây làm gì? Ai dè đâu tụi bay qua ngọt xớt. Chẳng những qua chuyện đó thôi, mà tụi bây còn qua mặt thiên hạ một cái vù. Tao khỏi phải thực hiện kế hoạch hai. Tao hỏi thiệt mày có giận tao hông?
Giận người dưng đi bụp cháu nội mình. Nghe ông nói, tôi nóng máu, mà không biết phải làm sao, nên đành phải nói:
- Nếu cháu giận bác thì ai giận cháu. Đã có 
Ông xua tay :
- Mày đừng có nói chuyện đó. Tao mà ở trong hoàn cảnh mày, sợ hổng chừng tao làm còn quạu hơn nữa là khác? Mày nói đi, lúc đó mày còn làm khác được à. Tao giận mày vì tao tưởng mày là cái thằng ba trợn. Để cho con dâu tao cái bầu rồi biến mất. Nhưng rồi mày lo cho mẹ con nó tới nơi tới chốn. Kể ra mày cũng cao tay, nhưng phải nhớ một điều là đã đa mang rồi thì phải khéo liệu lường. Vợ chồng tao qua đây trước là nhận cháu sau nữa là xin lỗi và cám ơn mày. Nhưng tao mở đầu gay cấn như thế để xem coi vi vảy của mày ra làm sao chớ nào phải hơn thua sĩ diện gì đâu?
- Dạ cám ơn bác. Cháu cố gắng
- Ờ mà tao nghe nói là mày với ông sui mày và thằng con của cha già năm là bạn học à.
- Dạ phải. Thưa bác.
- Tao nói thật với mày. Tao với anh sui, ngồi nghĩ hoài không hiểu tại làm sao mà con Út nó giàu ngang xương. Nhưng hôm nay là tao hiểu.
- Thưa bác. Tuy là vợ chồng có con, có cái với nhau. Nhưng cháu đến với vợ cháu như thăm bẫy. Cháu có giúp gì được đâu. Chẳng qua là nhờ cô ấy siêng năng, tiện tặn.
- Chú mày nói giỡn. Mày thử mang một thúng tiền vào coi. Mẹ con nó mà không biết lo cũng đi tuốt. Mày là thằng bày ra nhiều chuyện cho mẹ con nó chớ ai khác đâu mậy? Nhưng mày thuộc loại cao tay đó nghe. Cái tính khí con nhỏ này cũng không vừa. Tao nghe nói có một lần mày đang ở tù, mà mày cấm tiệt cái vụ cho vay lấy lãi là nó cạch luôn. Từ đó nó thấy ai thiếu thì cho mượn không? Thiên hạ đồn rực cái lỗ tai. Giỏi. Giỏi, mày giỏi thiệt. Mày làm sao mà khiển được nó vậy? Tao nói thật cho mày biết, ở cái xứ này người ta kêu nó là ông Út không đấy. Đàn bà gì tính khí như đàn ông. Tao nghe anh sui nói. Hồi chị sui sanh nó, cái rún của nó tới nửa tháng mới rụng. Hèn chi
- Dạ cháu bày ra là vì cháu nghĩ như thế cô ấy mới có thể nuôi hai thằng bé được, mà cháu cũng đỡ phải lo. Còn việc ăn nên làm ra là do cô ấy. Còn việc cô ấy làm theo ý cháu là tại vì cô ấy thương cháu, không muốn cháu buồn. Chỉ có vậy.
- Chuyện vợ bé, vợ mọn mà mày làm gọn hơ mậy. Thiên hạ mà dính vào cái vụ này là rùm trời chớ mày nói chơi à. Tao có nghe loáng thoáng, nhưng hôm nay gặp mày, tao mới tin. Chớ tao hỏi tới hỏi lui, mỗi người nói một kiểu. À mà này. Hồi lúc vợ chồng thằng Hòa rót rượu cho mày. Mày nhận chung rượu, mày cám ơn vợ chồng nó. Vậy nghĩa là sao? Cả một đám cưới mấy trăm con người đang thắc mắc.
- Có gì đâu. Thưa bác. Ông bà ngày xưa có nói một câu thế này “ Ông trời sinh con, mẹ cha sinh tánh”. Vợ chồng cháu gặp nhau và rồi sống mãi trong cái cảnh éo le. Biết mình là tấm gương xấu. Nên cố gắng mà dạy dỗ khuyên nhủ con. Cũng may là anh em nó nghe lời. Nên mới được tổ chức cái đám cưới này. Mình không cám ơn nó thì bác xem, tui cháu  phải cám ơn ai. Mấy đứa nhỏ mà trâu trắng trâu đen thì cháu có nước mà độn thổ. Đó là chưa kể cái cảnh vợ chồng thằng Hoà tự tổ chức đám cưới ngoài đống rơm.
Ông trố mắt nhìn tôi:
- Chú mày Ông bà nào mà nói cái câu như vậy. Người ta nói “ Cha sinh con, trời sinh tánh “. Mày ăn nói ngược ngạo mậy. Như ba thằng Hòa tao đâu có dạy cho nó cái kiểu lấy vợ ngoài đống rơm đâu. Chẳng “trời sinh tánh” là gì?
- Thưa bác. Không phải cháu cãi bác đâu. Trường hợp của anh ấy là do thời cuộc. Anh ấy có ngang ngược gì đâu. Còn cái câu nói đó cháu xin giải thích thế này. Con người ai muốn sinh con xấu xí hay tật nguyền. Nhưng đã sinh ra thì là con mình. Có người muốn con trai mà cứ đẻ toàn con con gái hay ngược lại. Thế thì có phải là trời cho sao thì chịu vậy. Còn “cha mẹ sinh tánh”, thì bác nghĩ xem. Cha mẹ sáng say, chiều xỉn mà bảo con đừng nhậu, cha mẹ thì đánh bài thổi lỗ mũi không ra mà dạy con đừng cờ bạc thì làm sao mà nó nghe. Muốn con mình đừng làm gì thì mình đừng làm cái đó. Muốn con mình làm sao thì mình làm trước y như vậy. Đó không phải “cha mẹ sinh tánh” là gì. Bởi thế cho nên vợ chồng cháu cám ơn thằng Hòa là quá phải rồi. Con nó biết nghe lời cha mẹ dạy và làm theo điều phải, điều tốt và bỏ qua không bắt chước điều sai trái của vợ chồng cháu.
- Mày Chú mày dữ thiệt. Nhưng cũng hay. Thôi tao yên lòng về thằng cháu nội này rồi. Làm cha ghẻ như mày quả là hơi lạ. Mà tao coi bộ thằng Hòa, hổng chừng là con ruột của mày. Nè ý tao là nó xem mày như cha ruột. Đã thế có lần không hiểu con Út tức tối chuyện gì mà nó bảo là nó lấy mày rồi đẻ thằng Hòa. Tao tin ngay. Mà tao đã tin thì phải đúng. Thế là tao quậy. Nhưng tới chừng nhớ lại thằng nhỏ lúc mới sinh, con Út đặt tên là thằng Bỏ. Ngẫm nghĩ tao thấy mắc cười. Thiệt tình. Mắc cái chứng chằng gây nên tao trớt quớt. Còn con Út thì nói năng vong mạng.
Ông ngưng lại một chút, rồi tiếp:
- À hỏi mày chuyện này. Mấy bữa nay lu bu rồi quên. Khoảng năm 1970, lúc đó ở ngọn Tây Sơn[ii] có một ông già cũng cỡ tuổi mày bây giờ, bị mấy thằng CSDC đập cho mấy báng súng, hộc máu mũi, máu mồm. Lúc nó tính đập tiếp thì có một thằng lại can. Hai thằng cự cãi một hồi thiếu điều muốn bắn lộn. Tao hỏi thật, thằng can không cho đánh ông già đó phải là mày không?
Tôi nhìn sững vào ông và thật tình cũng không nhớ rõ người đàn ông đó? Chuyện đã xảy ra ngót nghét ba mươi năm bổng hiện ra rất rõ ràng từng chi tiết một:
- Có phải lúc đó khoảng ba giờ chiều phải không bác ?
- Ừ khoảng đó. Như vậy chính là mày phải không?
- Có phải ngày hôm đó có một đứa bé chết nữa?
- Vụ đó tao có nghe. Nhưng không thấy.
- Như vậy thì cái người can đó là cháu. Mà sao bác biết.
- Cái thằng cha bị đánh đó là tao nè. Bữa đó thằng con tao đội lục bình núp dưới rạch Tây Sơn. Nó thủ cây B40. Nó tính bắn, nhưng lại sợ tao chết, rồi khi nghe như vậy. Rồi nhìn thấy cái thằng mang súng lục tỏ vẻ hơi kiêng kiêng mày. Nó ráng nhìn mặt mày, rồi nó thấy cái bảng tên trên miệng túi, mà lính tụi bây không bỏ dấu. Nó nói với tao lập bập không rõ ràng gì? Hiên, Hiền, Hiến, Hiển gì đó, không biết đâu mà lần. Hôm qua nó nhìn mày, nó ngờ ngợ, nên nó kêu tao hỏi mày.
Tôi hỏi lại ông :
- Thế thì bác bị nhốt bao lâu mới được về ?
- Khoảng đâu ba tháng. Mà tao hỏi thiệt mày nghe. Tại sao mày làm như vậy?
- Có gì đâu bác. Bởi đánh một người không một tấc sắt trong tay, mà lại còn bị trói nữa là cái chuyện vô duyên. Hơn nữa chẳng oán thù gì?
- Nếu bữa đó, khi bắt tao mà có cây súng thì sao?
- Thì cháu đi chỗ khác cho ai làm gì đó thì làm.
- Vậy tại sao mày lại tha thằng con của cha già năm?
- Tại vì nó là bạn bè.
Ông cười ha hả:
- Vậy thì mày ngon. Biết làm cái việc nên làm và biết tránh cái việc không nên làm. Nhưng cái nào thì mày cũng là một thằng biết điều và gan góc.
Rồi ông bổng trầm giọng lại :
- Mày dạy thằng Hòa hát mấy bài hát đó hồi mày mới gặp mẹ con nó à ?
- Dạ.
- Rồi ngày hôm qua mày bảo nó hát lại là ý gì?
- Cháu muốn chỉ cho con nó thấy là cứ yêu mến hết tất cả mọi người đi, đừng nên giận, ghét ai cả. Đó là một điều rất tốt cho cuộc sống của bản thân. Con nó đã làm theo và hôm nay, ngày vui của nó, những người thân yêu nhất đã hiện diện đầy đủ để chúc mừng. Cháu muốn xác định cho con nó một lần nữa là “Trong cuộc sống không có ai có thể đem lòng ghét bỏ để đáp lại sự thương yêu”. Bởi vì, khi cháu dạy cho con nó hát bài hát này, chung quanh nó chỉ có mẹ nó, thỉnh thoảng một ông ngoại khó nghèo, tới lui thăm cháu mà quà cáp thì chỉ có mấy củ khoai lang và một tấm lòng. Con nó sẽ buồn tủi xiết bao. Nếu nó lớn lên trong sự tủi buồn ấy, bác nghĩ xem, cháu nó sẽ cư xử với mọi người chung quanh ra sao? Thành ra, cháu dạy cho con nó bài hát ấy với một hy vọng mọi việc sẽ tốt hơn.
- Rồi mày đặt tên cho nó là thằng Hòa. Nguyễn Hiền Hòa. Cái tên nghe được đó chớ. Và mày cũng muốn chỉ cho tao thấy là việc tao giận hờn, ghét bỏ mẹ con nó là sai.
- Thưa bác. Cháu đâu dám.
- Mày coi vậy mà nhát. Tao sai bét ra rồi. Sợ gì mà không ừ đại đi. Hay là mày muốn làm màu. Kể ra mày cũng dữ dằn đấy. Mày chơi tao sát ván. Chém tao liên tiếp bốn năm phảng mà quay bề sống không. Thôi xin lỗi mày nghe. Hồi lúc mới qua đây là tao vũ trang đầy mình đó chớ. Nhưng coi bộ chẳng ăn thua. Mày ngon.
Tôi chưa kịp trả lời. Ông chắp tay sau đít bỏ đi, miệng lẫm bẫm cái gì đó. Thế đấy. Cuộc sống làng quê có những nét đặc trưng như thế. Không quen thì sẽ thấy hơi kỳ kỳ, nhưng tôi thì thấu hiểu, đã quen và trong chừng mực nào đó thì tôi yêu cái kỳ kỳ này. Tôi bổng nhiên cảm thấy có lỗi. Bởi vì hôm đó tôi bảo mấy đứa con tôi hát bản nhạc đó nhằm xác định lại cho các con thấy những gì tôi dạy chúng là không sai, nhưng không ngờ lại chạm vào ông ấy. Ba cô ấy đứng yên không nói gì mà mê mãi nhìn ngó cây xăng Khi ông nội của Hòa bỏ đi, ông quay lại hỏi tôi :
- Con tính chừng nào về?
- Chắc ngày mốt. Thưa ba.
- Sự chăm sóc cho vợ con ngoài ấy không lơ là được, Con bỏ đi lâu thế này, ba thấy không ổn. Cái chuyện hai đứa bây, ba bức rức mãi. Thôi con cái lớn hết rồi. Tụi bây liệu mà dứt khoát với nhau đi. Tính khí con Út mạnh mẽ lắm, con không cần phải lo. Ư. Ba nghe con Út nó nói, con mang tiền vô đưa cho nó lo đám cưới thằng Hòa. Nó đâu có thiếu mà con lại làm vậy? Ngoài ấy, con muốn ngất ngư rồi. Con Út nói với ba mà nó khóc. Lúc con làm ăn được. Chuyện học hành của hai đứa nhỏ, con lo hết mà ba có nói gì đâu? Nói cho cùng, hai đứa bây, đứa nào tính khí cũng giàng trời. Thế mà không dập dầu chảy máu. Ba cũng lấy làm lạ
- Con nào cũng con, con không lo cho thằng Hòa, ba nghĩ xem ông bà nội nó nghĩ gì? Nếu sau này, thằng Hậu cưới vợ, thì vợ con lo làm sao cũng được, con chiều ý hết. Còn việc tụi con, con cũng nghĩ như thế. Nhưng nếu con dứt luôn là cô ấy sụp mất. Ba đâu có biết, nghe nói con vô đám cưới thằng Hòa cô ấy không ngủ ba bốn đêm. Thấy con vô, cô ấy mừng như con nít thấy mẹ đi chợ về.
- Thì cũng tại con một phần. Phải chi con như đàn ông người ta thì có chuyện gì đâu? Nó buồn vài bữa rồi thôi. Nhưng nó thì như thế đó mà con thì toàn tâm toàn ý với nó. Mà phải chi con rảnh rang gì. Ba bề bốn phía loay hoay mà con cũng cố cho êm bên này, đẹp bên kia. Bây giờ con dứt ngang thì nó sụp là cái chắc. Nhưng đeo thẹo hoài thì khổ cho nhiều người. Thôi chuyện của bây. Tính sao thì tính. Còn cái vụ ông nội thằng Hòa thì ba coi bộ êm rồi đó. Ba nói thật. Ông ấy không nhận thằng Hòa, ba còn mừng là khác. Nhưng nghe con nói với ông ấy như vậy ba nghe đã cái lỗ tai. Nhưng thôi. Ở đời gieo nhân nào gặt quả nấy. Con người mà không làm điều ác, thì người ta muốn ghét cũng không được. Còn ông ta, cũng chẳng làm điều gì xấu, chẳng qua là cái tính chằng gây. Thật ra ba cũng giận lắm. Nhưng thấy ông ấy đưa cái sổ đỏ ra là ba xuống cái ọt. Không phải vì mười công đất, mà vì ông ấy đã chuẩn bị việc này từ khá lâu và chấp nhận con là ba của thằng Hòa.
Tôi tìm cách chuyển sang chuyện khác:
- Thưa ba. Bộ vợ con cứng đầu lắm hả ba?
- Còn phải nói. Từ lúc biết ăn, biết nói tới giờ, nó muốn làm gì thì làm, có ai mà can nó được. Đàn bà con gái gì mà tính khí ngang ngược. Ấy là nó dốt nát, nó mà có một chút chữ nghĩa nữa thì ai mà chịu nổi. Mấy anh chị của nó cũng kiềng mặt nó luôn. Từ cái việc nó ưng ba thằng Hòa, rồi sau này lấy con. Một mình quyết định. Đúng sai, trúng trật gì thì cũng một mình gồng gánh. Chẳng một tiếng than van. Được cái là biết điều. Bởi vậy khi nó xáp vô với con là ba ăn ngủ không yên. Nhất là lúc gặp con ban miếng đất, rồi hàng lô, hàng lốc việc khácCũng may con cao tay. Con thấy đó, nó tổ chức cái đám cưới như thế này là nó làm cho lợi gan với bên nội thằng Hòa.
Tôi cũng không biết phải nói gì, những linh cảm về bà vợ bé này đã được xác nhận. Nhưng có lẽ vì yêu tôi quá mức nên cô ấy để cho tôi muốn làm gì thì làm. Tôi nói với ông :
- Thôi. Vô ăn cơm, ba. Chiều rồi.
Vì tình bè bạn, vợ chồng Bầy đã ở lại. Vì nỗi vui mừng khi nhìn lại đứa cháu lạc loài, ông bà nội và các cô chú của Hoà cũng chưa về. Vì tình cảm dành cho người đã khuất, vợ chồng năm Đất cũng nấn ná lại với chúng tôi. Tất cả vào mâm cơm như là một tâm tình. Những thắc mắc, những kỷ niệm một thời vui buồn được khơi gợi, nhắc nhở để cảm thông hơn. Bữa ăn thực sự là một niềm vui.
Lúc này, hai vợ chồng anh Tư Lụa đến trước mặt tôi. Anh Tư thì cười cười, còn chị Tư thì trợn mắt:
- Tại sao lại là chú?
Tôi cũng cười cười:
- Dượng út chớ. Chị Tư.
- Chưa dám đâu. Ngày hôm qua. Anh Tư ảnh chỉ chú rồi nói chú là chồng cô Út nó làm tôi chưng hửng. Thiệt hết biết. Tại sao chú chui vô đây rồi làm cái chuyện gì kỳ vậy? Tôi nói thiệt mấy bữa nay tui nóng lắm rồi đó.
Tôi chưa kịp phân trần thì anh Tư lên tiếng :
- Bà nó mới thiệt là kỳ.
- Kỳ là kỳ làm sao?
- Tôi giải thích cho bà nghe bao nhiêu lần, kể cho bà nghe bao nhiêu lượt. Hồi dượng nó cứu con Út, giúp cho tôi nào phải đâu mong được cái cảnh trớ trêu này. Tại em mình, tại hoàn cảnh, chớ tại dượng nó đâu.
Chị trợn mắt nhìn anh :
- Còn ông thì tại ai?
- Tại bà. Tôi đã nói là ba tôi chỉ có mình tôi là trai, bà tha cho, mà bà có chịu đâu. Làm tôi phải bỏ người tôi thầm thương, trộm nhớ. Này bà nhìn xem cô dượng nó cũng biết thân biết phận lắm chớ. Kêu chú Hiền nó bằng dượng Út đi.
Chị liếc xéo anh một cái rồi phủi đít bỏ đi, miệng còn lẩm bẩm :
- Dượng? Vượn tay dài. Ở đâu thò cũng tới. Đàn ông mấy người được cái lộn xộn. Thôi thì dượng dượng út đó.
Ai nấy cười rần.
Lần này thì chú thằng Hòa bước tới, tay cầm ly, tay kia vịn vai tôi, miệng nói:
- Anh Út này. Anh cho phép tôi nói một vài lời.
- Xin anh cứ nói.
Anh ta cầm cái ly giơ cao :
- Trước tiên là anh em mình cưa đôi cái này xong, thì nói người ta mới tin.
- Được thôi.
Cả hai cưa đôi và anh bắt đầu e hèm:
- Trước tiên là lời xin lỗi anh chị. Từ trước tới nay ba má tôi và các anh em tôi luôn có những suy nghĩ không tốt về anh chị. Từ những nghĩ suy không đúng ấy, có nhiều lúc làm cho thằng Hòa phải buồn tủi. Nhưng hôm nay rõ ra thì hơi muộn màng. Nghĩ thiệt bậy hết sức. Trong khi anh chị lo lắng cho cháu nó đủ điều, vậy mà bên nội lại còn nhào vô phá đám. Đã vậy, hôm nay biết rõ anh là người ơn của gia đình. Thiệt tình, cả nhà tôi áy náy vô cùng. Thôi anh chị bỏ qua cho. Phen này chắc tôi cạch luôn cái tính chằng gây.
- Thôi được rồi anh ba. Vợ chồng chúng tôi chưa hề có bất cứ một ý nghĩ phiền lòng nào đối với hai bác và các anh chị. Hôm nay là ngày vui của cháu. Những chuyện qua rồi, không nhắc nữa. Còn chuyện ơn nghĩa thì có gì đâu. Tôi làm vậy là chẳng qua để cho mình an lòng trong cuộc sống vậy thôi. Bây giờ tôi với anh cưa hai một ly nữa. Cưa xong, thì mọi cái kể như xong. Xin mời tất cả mọi người cùng nâng ly.
Tất cả mọi người cùng nâng ly. Không một ai nói gì. Một sự cảm thông lan tỏa trong mọi tâm hồn. Và khi tôi nhìn vợ chồng Hòa. Những giọt nước long lanh trên đôi mắt của cặp vợ chồng son. Tôi biết những giọt nước xuất xứ từ đâu.

Các ông bà lão coi bội hơi mệt, dù chỉ ngồi nghe bọn chúng tôi rổn rảng với nhau rồi cười. Cô ấy thu xếp cho người đưa về, hoặc là tìm chỗ để nghĩ ngơi, Vợ chồng anh chị tư tính về nhưng cũng không về được. Vợ chồng anh tư Lụa cũng thế. Đến khi tôi nhìn lại thì tất cả đã dọn dẹp tinh tươm tự bao giờ. Các bà xem có vẻ hợp nhau. Chúng tôi thì vẫn rì rào kể cho nhau những buồn vui, sướng khổ, những trăn trở về con cái, về cuộc sống. Mấy chú của Hòa và cả những tay đã từng một thời ngắm nghía cô ấy, bắt đầu dành cho chúng tôi những tình cảm nhất định. Họ mặc nhiên chấp nhận cái quan hệ vợ chồng của chúng tôi. Mỗi người kể cho nhau nghe về những khó khăn, nguy hiểm của mình trong thời chiến tranh và cùng nhau cười vui vẻ. Cái khái niệm về Quốc Gia hay Việt Cộng đã phai nhòa theo thời gian. Sự nhắc nhớ lại chỉ nói lên những kinh nghiệm sống chứ không phải để đố kỵ, căm thù. Chỉ còn lại một điều duy nhất là giòng sông và những người sống hai bên bờ của nó.
Bầy kéo tôi bờ sông, hai thằng tìm một chỗ vắng và nó xuống giọng y như Trung:
- Hiền này, tao thực sự chới với về chuyện của mày. Tại sao mày lại dính vào cái việc này. Mày hay là bà ấy. Hồi sáng trên mui tàu mày nói, mà tao nghe tiếng được tiếng không, tao lại tưởng là chắp nối như tao. Với lại quá mừng vì lâu ngày tụi mình mới gặp lại, nên tao không để ý. Ai có ngờ mày nối thêm chớ có chắp cái khỉ mốc gì đâu.
- Tao cũng không biết tại ai. Nhưng mày xem, tính cách của cô ấy như vậy, tao làm sao dứt được. May mà tao cố gắng kềm chế, không thì một bầy như mày, tao chẳng biết ra sao?
Bầy thở ra một tiếng dài ngoằng:
- Thằng Trung nó nói với tao khá đầy đủ về cuộc sống của mày hiện nay, tao chưng hửng. Cái gì mà hên, xui, may, rủi vo tròn một cục như vậy. Không hiểu cuộc sống xô đẩy hay là tại mày. Thực ra bạn bè với nhau, nhưng bọn mình xa nhau lâu quá. Từ thời mới lớn, ý thức chưa đầy đủ, rồi chiến tranh ào tới, tan đàn xẻ nghé, thằng mất, thằng còn, biết bao biến thiên trong cuộc sống, trong tấm lòng. Để rồi đến khi sắp ngủm mới gặp lại nhau. Thú thật với mày. Khi mới gặp lại, quả tình tao có hơi lo, không hiểu có gì thay đổi trong từng đứa hay không và nó tác động như thế nào đến tình bè bạn. Như quả tình là tao lo hảo. Hồi trưa, tham dự bàn nhậu với bạn bè bằng cách đọc thơ của mày, tao vô cùng cảm động. Tao bậy hết sức, không mời thằng nào ngoài Rạch Giá hết. Nhưng rồi cũng gặp lại mày, thằng Trung và vợ con thằng Thuật. Nhưng rồi, thấy cái cảnh một kiểng hai huê, tao oải dùm mày. Trường hợp của tao dẫu có ngậm ngùi nhưng đỡ rắc rối hơn. Bây giờ lại là sui gia với nhau mà con mày, con tao lại là con người khác, dù bọn nó hiếu thuận. Thế mà tao cảm thấy làm sao ấy?
Tôi nín thinh nhìn Bầy. Bầy lại thở ra:
- Vụ này hai bác biết không? Vợ mày nữa.
- Ba tao thì chắc biết. Mẹ tao, thì tao chẳng rõ. Nhưng cả hai ông bà mất hết rồi. Còn vợ tao thì có lẽ là không?
- Tao nói thiệt, hồi mày đi lính tao có biết, rồi khi tiếp thu tao trông ngóng từng thằng. Những khi về Rạch Giá. Tao hỏi thăm ai cũng e dè, thế là một mình tao lội lang thang trên đường phố vắng hoe mong gặp thằng nào đó, nhưng vô phương. Tao có đến bến tàu, nơi tụi bây đưa tao và thằng Thuật về quê. Bến tàu không còn và tụi bây mất biệt. Thế rồi tao tìm đến trường này, trường nọ tìm lại thầy cô, kẻ mất, người còn, người đi đâu không rõ. Kỷ niệm thì đầy, tìm người chia sẻ thì không. Tao có gặp thằng Trung mấy lần. Tao thì nghèo, nó thì đói, hỏi thăm mày thì nó nói không biết mày ở đâu? Tao tính mày vọt rồi, hỏi thằng Bích thì mới biết nó chết, hỏi thằng Thuật thì chẳng ai biết, ai dè nó ngủm từ đời tám hoánh nào rồi. Tao chán quá, nên ít khi ra Rạch Giá, với lại cũng chẳng có tiền để đi. Bây giờ biết được thằng nào còn thì mừng, thằng nào ngủm thì buồn. Còn chuyện ai thì phần số nấy. Nhưng kể ra mày dấu cũng khá kỹ. Từ đây qua Cái Mới Lớn sát một bên nách. À. Mày thì cũng lạ, sau bao nhiêu năm, những lu bu của cuộc đời lại không làm mày thay đổi mấy. Tóc đen mun và vẫn ốm nhách như ngày nào. Mày làm sao mà hay vậy?
- Mày hỏi vừa vừa. Cái gì mà hết câu này sang câu khác. Thôi thì cứ thứ tự đi. Vụ này mà la lên có nước chết. Với lại cũng may là từ ngày ra tù, tao về sống hẵn ở Rạch Giá. Cái cảnh sống bên này mà nhớ phía bên kia mệt lắm Bầy ơi. Cũng may là bà sui mày lành tính chứ không thì tao có nước độn thổ. Tao tính dứt bao nhiêu lần nhưng không thể. Thôi. Còn việc vóc dáng, tóc tai không thay đổi thì làm sao mà tao biết, có lẽ là tại tao ít ăn. Với lại lo riết cũng không giải quyết được gì? Thôi thì cứ đụng đâu làm đó, làm phờ cả râu rồi lăn ra ngủ.
Bầy lắc đầu :
- Thằng Trung nó tinh lắm, nó nói cái cung cách của mày và bà ấy cư xử với nhau như thế thì trời mà chặt cũng không dễ gì đứt. Nghe vợ tao nói mấy bà xầm xì xậm về cái việc mày bới đầu cho vợ mày. Chuyện này thì cũng thường thôi. Nhưng hồi đó kià, chớ bây giờ mà mày làm chuyện này thì chết bà sui tao.
Tôi cười cười:
- Mày coi. Tao có lo lắng gì được cho mấy mẹ con đâu? Chẳng qua là vài việc nhỏ nhặt ấy thôi.
- Chuyện chết người không mà mày cho là nhỏ. Hai thằng con mày khai báo với tao sạch trụi rồi. Tao cũng có để ý. Hình như bà ấy được sinh ra là để cho mày. Thằng Trung nói đúng khi nó đọc bài thơ của mày. Tao nghĩ, khi mày viết bài thơ này không nghĩ tới số phận mà chỉ là diễn đạt cảm xúc của mình trước giòng sông. À. Mà con Tạo nó có biết không ?
- Tao cũng không biết. Bộ thằng Hòa không nói gì à?
- Tao hỏi nó mấy lần về ba nó. Nó trả lời là mày đi làm ăn xa, thỉnh thoảng mới về thăm mấy mẹ con. Tao có lấy làm lạ. Cơ ngơi như thế mà còn đi đâu? Nhưng không tiện hỏi. Ai có dè như vậy? Sau ngày đám nói chỉ có vợ tao qua đây, chớ tao mà qua thì có lẽ tao biết được rồi. Mà hồi nãy bọn nó công nhận là đã biết hết, thế mà không đứa nào hé răng. Thôi về phần tụi nó thế là tốt. Tụi nó thương nhau thiệt tình nên không giấu giếm với nhau.
- Thôi, mỗi thằng mỗi cảnh. Dù sao tao với mày cũng là sui gia. Hôm nào mày rỗi rảnh ra Rạch Giá tao nói hết cho mày nghe, nhưng nhớ cẩn thận, mày mà kêu tao là anh sui là kẹt ngay. Bà ấy vừa mới chịu phẩu thuật lần thứ tư, vừa xuất viện. Thôi khuya rồi, để tao sắp xếp đưa vợ chồng mày về. Nếu vợ mày có nghi ngờ gì thì mày liệu mà nói dùm tao. Thiệt tình, bạn bè lâu ngày gặp lại rồi thành sui gia mà tao xui mày nói dóc. Đúng là lu bu.
- Mày khỏi lo, lu bu khỉ gì, sui gia họ tâm tình với nhau và tao nghĩ họ đã biết sạch hết rồi. Họ có chung cảnh ngộ nên dễ cảm thông. Với lại ông trời khiến mà, mấy thằng đàn ông bọn mình thì hay lộn xộn đấy, nhưng dù sao cũng là cây cột cái. Làm gì thì làm, thẹo vít, cong queo gì cũng được, nhưng đừng để mối mọt nó ăn. Chỉ tội cho mấy bà, tìm cây cột riêng thì cũng lắm hên xui, mà xài chung thì cũng oải, mà không có thì… buồn thấy mẹ. Cái mà tao lo chính là chuyện vợ con mày ngoài ấy. Mong sao cho cái bộ ba của mày đừng cụp cảng với nhau. Buồn lắm. À. Nghe nói vợ mày bệnh nặng lắm. Bây giờ ra sao rồi.
- Khỏe rồi. Nhưng được như cũ thì hơi khó.
Bầy đứng dậy vỗ vai tôi như trấn an và im lặng cùng tôi vào nhà.
Tuổi tác không cho phép chúng tôi thâu đêm suốt sáng. Vợ chồng tôi phải thu xếp nhờ người đưa họ về. Chia tay. Mọi người ai cũng mệt nhưng vui. Tôi và Bầy cầm tay nhau, rơm rớm vì quá nhiều niềm vui không nói hết, dù loáng thoáng đó đây một chút ngậm ngùi.
Đúng như tôi dự đoán về những tình huống không giống ai mà tôi phải đối phó trong cái đám cưới này. Thậm chí, tôi còn gây ra thêm. Nhưng bây giờ thì mọi việc đã qua. Êm đẹp. Thậm chí rất êm đẹp. Có một thứ hạnh phúc rất khác đang len nhẹ vào cái thân thể mệt mỏi rã rời này. Tôi chấp nhận nó một cách sảng khoái.
Khi đã còn lại với nhau thôi. Cô ấy nhanh chóng đi vào giấc ngủ vì mệt, vì hạnh phúc tràn bờ. Nhìn cô ấy nằm ngủ, khuôn mặt đầy thách thức ấy biến đi đâu mất. Còn lại là sự dịu dàng, cam chịu. Cái thẹo kia như cũng biết thu mình lại, nhẫn nhục trước những niềm vui và nỗi buồn của người mang nó. Hơi thở cô ấy nhẹ nhàng hoà quyện trong cái mùi tóc không lẫn vào đâu được. Đây là lần đầu tiên cô ấy nằm ngủ trước mắt tôi mà ăn mặc chỉnh tề. Nhưng những chìm khuất cũng đang tỏa ra một sức hút đầy uy lực. Không  mãnh liệt, dữ dội như mọi khi, mà chìm lắng trong ước vọng của cái tuổi tháng mười. Tôi biết cô có thể xây lại căn nhà này theo cái kiểu của những người dư dã bạc tiền. Nhưng cô ấy không làm, để vậy như là một lời kêu gọi tôi về. Bởi vì có một lần tôi nói tôi thích một ngôi nhà như thế, dù hơi mắc công vài năm lợp lại một lần, nhưng được cái mát mẽ. Và cô ấy cũng thích thế. Nhưng cái trách nhiệm và bổn phận khác đang giữ chặt chân tôi. Hơn hai mươi năm tôi làm thằng đàn ông đèo bồng. Tôi đã và đang trả giá. Sự ray rức đã bào mòn lấy tôi hơn bất cứ những khổ cực gian truân nào khác. Tôi hưởng thụ hạnh phúc bằng một tấm lòng không thanh thản. Vợ tôi không như cô ấy. Nhưng lại là một cái bóng không thể thiếu của tôi, một cái bóng làm cho tôi nên một con người. Cả hai người đàn bà đã mê hoặc tôi bằng một thứ vũ khí không đủ uy lực để giết một con kiến. Thế mà tôi đã thua một cách thảm hại. Tôi có linh cảm là vợ tôi đã biết. Vì không như mọi lần là ghen tuông là khóc lóc, là giận dữ. Có thể vì thế mà tôi cứ nghĩ rằng vợ tôi không biết, không hay. Đã một đôi lần vợ tôi nói bóng gió xa gần “cho ông bỏ tật nghèo mà ham“. Tôi thì có tật giật mình, nên lừ mắt hỏi ”Em nói gì?“. Cô ấy cười cười rồi bảo “Không có tiền mà thấy cái gì cũng ham“. Những lúc như thế, tôi thực sự không hiểu ý vợ tôi nói gì? Nhưng tôi cứ vô tư vì có cái tính ăn to, xài lớn. Thấy cái gì khoái thì mua, thì làm mà không cần hiểu là nó hao tốn bao nhiêu?
Bây giờ thì tôi lờ mờ hiểu.
Tôi không ngủ được dù rất mệt. Tôi nhẹ nhàng ra khỏi phòng. Nhà ngoài mọi người đã ngủ. Chỉ còn lại bọn trẻ đang đàn ca. Tôi lại bước ra sau nhà, nhìn những vệt lúa vàng lấp lóa dưới trăng. Tôi vươn vai hít một hơi dài cái không khí lành lạnh đang ngập tràn trong không gian thoáng đảng. Tôi bước xuống cầu ao, vốc nước rửa mặt. Làn nước mát lạnh làm cho tôi tỉnh táo và bớt mệt hơn. Không hiểu tại sao cái tửu lượng kém cõi của tôi lại tăng lên một cách bất ngờ. Để giờ đây cái khung cảnh huyền hoặc nhưng rất hiện thực này lại cũng cứu vớt tôi. Tôi được sinh ra, rồi lớn trong sự bao bọc của nó mà. Cái gốc gác nông dân tưởng rằng đã mờ nhạt trong tôi vì những tất bật bon chen. Nhưng khi khập khiểng đi qua từng nẻo đường đời, thì nó vẫn âm ỉ trong lòng và giờ đây bừng bừng sống dậy. Trong những ngày tháng tội tù, Hình ảnh của những cánh đồng lúa bạt ngàn đã giúp tôi, an ủi tôi và bơm thêm cho tôi nghị lực để mộng mơ, để thấy rằng mình tồn tại. Đầu óc đầy những rối rắm được thanh thản lại cũng nhờ nó. Nhưng cuộc sống đẩy đưa làm cho tôi luôn luôn là kẻ đứng nhìn. Hên lắm mới được một cú ăn ké ngoạn mục như bây giờ.
Bây giờ thì tôi ở đây, những ngày qua khi gặp đủ mặt mọi người, từ quen tới lạ. Những thắc mắc về sự hiện diện của tôi ở đây gần như bị quét sạch. Tất cả mọi người đâu ai thành kiến gì về tôi, chẳng qua là vì thiếu sự tiếp cận, thiếu sự giải bày. Tôi thật sự là một con người may mắn chăng? Bởi vì, từ trong tiềm thức đã chỉ bảo cho tôi một cách giải bày bằng hành động, nên khi chỉ cần một lời nói ra thôi là mọi việc trở nên rõ ràng. Mà cái gì đã tạo thành tiềm thức ấy. Những lời giáo huấn của ba mẹ tôi chăng? Những lời dạy bảo của các thầy cô giáo và những người đáng bậc cha chú chăng? Hay là những quyển sách mà tôi đọc chăng? Hay rốt cùng là chính ở nhân cách, tấm lòng của họ, của những con người tôi đã từng gặp trong suốt cuộc đời mình? Có thể là một vài, cũng có thể là tất cả. Đúng rồi. Như thế đấy. Xin ngàn lần cám ơn cuộc đời và những người đã từng hiện diện ở đó. Thì ra cuộc sống có lắm chân tình, nhưng tại mình trốn nó. Không bao giờ có cây roi cho người chạy lại. Chỉ có những vòng tay, dù cho người chạy lại đó là ai, xấu xa tới cỡ nào, ác độc ra sao? Hãy chạy lại bên mọi người khi còn có thể, ở đó có hơi ấm mà. Thực ra khi còn súng đạn đầy mình tham dự vào cái trò chơi chết người ấy, việc tôi cứu giúp người này, người nọ của tôi chẳng qua là tôi muốn cho lòng tôi yên ổn, giấc ngủ tôi nhẹ nhàng. Một thái độ vì mình nhiều hơn vì người. Nhưng cuộc đời thì lại có cái lý lẽ riêng của nó, rất sòng phẳng. Không bỏ sót một hành động của ai cả. Thế thì liệu khi cuộc đời sòng phẳng với tôi như thế này, rồi những ngày sắp tới, khi hai bà vợ này gặp nhau thì sẽ sòng phẳng theo cái kiểu nào đây. Hiện thực của tôi cũng sòng phẳng như thế ấy. Ở phía bên này sông thì phải nhớ phía bên kia sông. Rốt cuộc rồi, tôi không hiểu là tôi ở phía bên nào? Hay là như ông sui tôi nói phải lủm bủm bơi qua, bơi lại một giòng sông, mỗi bờ một bến. Chắc là đúng, tôi bơi lủm bủm chứ làm sao mà nhẹ nhàng, thanh thoát những mái chèo.
Tôi mang những ý nghĩ này men theo bờ mẫu đi vòng theo mảnh ruộng. Dù là đêm, nhưng trăng quá sáng nên tôi nhận ra có khoảng hai công được trồng bằng một giống lúa mà tôi không ngờ được. Trắng Tép. Cô ấy tìm ở đâu ra? Nó đã tuyệt giống từ lâu. Dù gạo rất ngon, nhưng năng xuất thấp, thời gian canh tác dài. Khi mà vì cái đói, cái nghèo và cả những ý muốn làm giàu nhanh chóng, người ta đã hối thúc cây lúa trổ nhanh, chín lẹ và cho nhiều hạt. Tất nhiên là cơm ăn vào nó cứ nhàn nhạt miệng làm sao đâu. Có gì ngon bằng những giống lúa đủng đỉnh tuân theo nhịp vận hành của thời gian, đã từng một thời làm thơm ngát cả nhân gian. Cứ tưởng đâu đã lùi sâu trong quá khứ Ai ngờ nó vẫn còn hiện diện ở đây, khiêm tốn, ít oi, nhưng vẫn làm đầy một vầng trăng hạnh phúc. Những hạt lúa no tròn bóng mẫy, đọng ướt sương đêm. Tôi ngớ người ra, những lần vào đây tôi đều được ăn cơm bằng loại gạo này mà. Và mới đây thôi, tôi vẫn còn ngửi được cái mùi hương đằm thắm ấy lan tỏa và bao bọc quanh tôi. Thế mà tôi lại quên. Tôi mân mê từng bông lúa, cảm nhận sự kỳ thú lan tỏa trong lòng. Có phải chăng cô ấy là người duy nhất trên nhân gian này còn biết gởi một tấm lòng vào hạt lúa. Tấm lòng đó dành cho tôi. Một ý nghĩ hoang tưởng lại nảy ra. Tôi muốn tan ra, hòa lẫn vào những bông lúa đang dập dờn trong gió, lấp lóa dưới trăng và ngát hương. Trong một thoáng tôi không còn là tôi nữa cho đến khi những sợi tóc và hơi thở cô ấy lất phất vào phía sau cỗ áo. Tôi biết là cô ấy đã đến. Hay thật. Không hiểu cô ấy ra từ lúc nào. Tôi quay lại. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Cô ấy giụi đầu ngực tôi, một hơi ấm mang theo cái cảm giác của những giọt nước. Tôi nói nhỏ:
- Mình làm sao vậy?
- Em sợ.
- Minh sợ cái gì ?
- Em sợ mình say rồi té xuống…
- Tưởng chuyện gì. Lội qua sông Cái Lớn, anh còn chưa chết nữa mà. Mấy cái mương con này thì làm gì anh được.
- Mình cái gì cũng coi thường hết. Mình tưởng mình còn trẻ lắm sao? Nửa đêm, nửa hôm như thế này còn chui ra ngoài sương, ngoài gió.
- Anh không ngủ được. Rọ rạy một hồi sợ mất giấc ngủ của mình. Thôi thì ra ngoài đi lòng vòng.
- Mình thiệt là tình. Vậy thì kêu em thức dậy. Em nói chuyện cho nghe một hồi là ngủ tuốt.
- Thôi. Nếu vậy thì mình vô nhà .
- Chi vậy ?
- Đặng cho mình dỗ anh ngủ.
- Rồi à. Muốn kiếm chuyện hả?
- Ở ngoài này mình không cho.Vô nhà mình hổng chịu. Anh làm sao bây giờ?
- Thôi thì vô. Như không lội xuống ruộng. Mình mẫy thấy mà ghê.
 Tôi ôm lấy cô ấy hôn túi bụi lên mặt, vừa hôn vừa nói:
- Ghê nè. Ghê nè.
- Hông à nghen.
Mới được mấy tiếng thì im bặt. Cô ấy bấu chặt lấy tôi bằng cả tấm thân, đôi môi và mái tóc. Không còn một khoảng trống nào cho tôi cả. Tôi bị chìm ngập trong cô ấy. Tôi dập dềnh giữa giòng sông hạnh phúc. Có tiếng sóng bập bềnh vọng lại trong tôi. Những phản ứng của tôi chỉ làm cho tôi chìm sâu, chìm sâu hơn. Ánh trăng rất hiện thực nhưng huyền ảo, huyền ảo dần lên cho đến khi chúng tôi tan biến vào trong đó. Tôi nhớ lại những cảm giác tuyệt vời của đêm trăng ấy, cái vầng trăng đã dẫn dắt chúng tôi đến những hành động thiêng liêng nhất để cho con tôi hiện diện. Và giờ đây, tiếng gió rì rào trên đồng lúa đã trở thành một lời ru, trong khi tôi đang ôm chặt cô ấy trong lòng và hai hơi thở đang hòa quyện cùng nhau. Trong hơi thở có mùi thơm của những hạt gạo trắng tép.
Vừa bước lên bờ đê sau nhà, chúng tôi cứng cả người. Vợ chồng Hòa và Hậu đứng nhìn chúng tôi. Tôi trợn mắt :
- Giờ này tại sao mấy con còn đứng đó làm gì?
Vợ chồng Hòa cười tủm tỉm quay vào nhà. Thằng Hậu láu lỉnh :
- Ba má làm tụi con hết hồn.
- Thôi. Vô nhà. Ngủ.
Thằng nhóc le lưỡi rồi chạy mất.
Tôi dìu cô ấy vào nhà, xem lại đã gần ba giờ sáng. Tôi biết cô ấy muốn gì khi nói lung tung như thế. Có thể trong rất nhiều giấc mơ cô ấy đã thấy tôi và khi tỉnh giấc thì… Rồi… cuối cùng là một câu nói nhỏ, thật nhỏ vào tai tôi, giọng lập bập và run rẫy như cơn gió đang lật phật những tàu lá chuối bên hè:
-  Mình mình ơi!
-  Gì mình?
-  Mình còn say không?
-  Hết rồi
-  Mình còn mệt không? Hay em pha sữa cho mình.
-  Thôi. Mắc công lắm. Anh hết mệt rồi.
-  Em em nói, mình mình đừng cười… em nghen.
-  Mình nói đi.
-  Mình mình để em, đe em em chiều mình.
Tiếng gió bấc đang lật phật những tàu lá chuối bên hè.

Tôi thức dậy thì đã hơn mười giờ. Mình mẩy gần như ê ẩm. Tôi không có thói quen dậy muộn. Nhưng mấy ngày qua rượu và mới đây tôi đã vắt hết sức để cho cô ấy chiều tôi. Gần hai năm rồi tôi không sinh hoạt yêu đương, có nghĩa là ngần ấy thời gian tôi không đến. Những khó khăn từ bốn phương tám hướng đổ về. Phần thưởng duy nhất dành cho tôi, là một giấc ngủ đúng bảy, tám giờ cho một ngày và những bữa ăn đầy cố gắng. Cơ thể và tâm trí không có đủ thời gian và sức lực để mà đặt ra bất cứ thứ nhu cầu nào khác. Nên khi cô ấy cuốn hút tôi vào, thì tôi như một chàng trai mới lớn. Cả cô ấy cũng thế. Nhưng điều đó vượt quá cái khung đang trên đà lão hóa của tôi. Ba bốn sô nhồi vô một chảo. Tôi mỉm cười với cái ý nghĩ này mà không một chút lo toan. Dù tôi cũng nhận ra là sự thái quá sẽ gây ra cho sức khỏe của tôi nhiều phiền phức. Từ trước đến giờ tôi chưa bao giờ làm một việc gì theo đúng cái quy trình tự nhiên cả. Kể cả thời gian trong tù, vốn là một nơi có một chừng mực nhất định nào đó, nhưng tôi cũng tuân theo bằng cách bữa đực, bữa cái. Khi cô ấy vào với cái khăn chườm nước ấm trên tay. Tôi yên lặng đón nhận sự chăm sóc. Cô ấy chăm sóc cho tôi như chăm sóc cho ông chồng đang nằm liệt giường bằng một thái độ ân cần, nhẫn nại cùng với đôi mắt lấp lánh hạnh phúc. Tôi chợt rùng mình, nếu phải lâm vào trường hợp đó thì chết quách còn hơn. Nhưng rồi cái ý nghĩ tiếc nuối lại len vào, không phải tiếc nuối cái cuộc đời, mà tiếc nuối một tấm chân tình mà không nỡ buông xuôi. Bổng nhiên tôi hiểu ra. Đó là cái lý do để cho những người lâm vào hoàn cảnh như thế không thể dứt áo ra đi, cố núm níu lấy những hơi thở heo hắt và một hy vọng mong manh.
Khi mọi việc đã xong cô ấy nhìn tôi. Nhận được những ánh mắt ấy làm tôi phát hoảng. Xanh biếc. Ôi màu mắt của hơn hai mươi năm trước dưới ánh trăng trong đêm ban đất. Lỡ cô ấy dính bầu thật thì quả là tai họa. Dù hiện tại, khả năng của cô ấy khi phải nuôi một đứa bé là dễ dàng, nhưng việc mang bầu ở cái tuổi này là không đơn giản. Hậu quả là vợ tôi bây giờ đang tan tác vì bệnh tật. Cô ấy ngồi xuống và hỏi nhỏ:
- Mình ơi. Mình làm sao vậy.
Tôi bật ngồi dậy, hết hồn:
- Anh làm sao ?
Cô ấy đỏ cả mặt ấp úng hỏi tôi:
- Bộ lâu lắm rồi hả mình?
- Ừ lâu lắm rồi.
Cô ấy thở dài:
            - Tội nghiệp mình. Có hai bà vợ mà cũng như không. Không ai chăm sóc cho mình cả, chị ấy đau yếu thì chẳng nói làm chi, còn em thì
- Tại anh ham, anh ráng chịu. “Một vợ nằm giường lèo. Hai vợ nằm chèo queo” mà.
- Mình cứ nói như vậy hoài. Lo toan riết nên ốm nhom, ốm nhách. Mình chẳng chịu lo gì cho mình hết. Thôi từ đây, thèm gì thì ăn nấy, ăn cho nhiều vào. Hay là hàng tháng em sai con mang gạo trắng tép ra cho mình. Có gạo ngon ăn cơm cũng nhiều hơn. Khi nào mình nhớ em thì mình vào. Hay là bây giờ có điện thoại rồi. Mình điện vào, em sai con ra rước mình.
- Thôi. Chiều anh lần nữa nghen.
- Mình điên thiệt rồi. Bộ muốn chết hả? Cô ấy lại thở dài. Chỉ tại em. Biết mình có gia đình rồi mà lủi đầu vào thương đại. Báo hại mình.
- Bây giờ con cái lớn hết rồi thì hối hận và kiếm chuyện chê anh ốm đặng bỏ anh phải không?
- Hổng phải vậy? Tại em thương mình thôi, mà mình có mập được hồi nào đâu mà chê.
- Thôi không nói nữa. Anh đói. Cho anh cái gì ăn đi cho bớt ốm.
- Vậy thì ra ăn cháo. Mình ra là có ngay, em đang để trên bếp. Ăn xong đi. Rồi mấy đứa nhỏ nó hài tội của mình.
- Trời đất. Nuôi nó lớn, rồi nó làm thịt cha nó à.
- Ai biết đâu nó? Thôi để em mặc quần áo vào cho.
- Thôi mình ra trước đi. À khoan đã. Mình đó nghe, ba nói hết với anh rồi. Đàn bà gì mà ngang ngược vậy? Nè có sui gia rồi. Hiền hiền lại một chút. Thiệt là tình, nghe ba nói anh phát run.
- Mình khỏi run. Em chỉ hiền với mình và những người làm phải thôi. Ai mà ngang với em một, em ngang lại mười. À mình ơi. Cái vụ mình bới tóc cho em đó.
- Ừ. Rồi làm sao?
- Mấy bà la quá trời.
- La làm sao?
- Mấy bà ấy bảo em ráng mà giữ mình cho thiệt kỹ. Để hở ra mấy bả ăn cắp.
- Rồi mình tính làm sao?
- Chắc phải nghe lời mấy bả thôi. Giữ chặt vào. Mình vô đây là em chẳng cho ra khỏi cửa.
Vừa dứt tiếng, cô ấy bỏ đi ngay. Tôi biết tại sao cô ấy, nói lung tung như thế. Tôi ngồi dậy thay quần áo xong rồi bước ra. Cả nhà đang ngồi quanh mâm cơm chờ tôi. Tôi nhìn lại đã hơn mười một giờ. Đứa con dâu lễ phép đứng dậy khoanh tay :
- Thưa ba dùng cơm ạ.
- Thôi ngồi xuống đi. Má con chuyển giao cho con cái nhiệm vụ này từ bao giờ vậy. Mới hôm kia, má con còn nói “mời mình ăn cơm”.
Cả nhà quây quần bên mâm cơm. Tôi nhìn con dâu mà tưởng như nằm chiêm bao. Tôi già đến thế sao? Trong ánh mắt và điệu bộ của nó có vẻ gì rất quen thuộc trong ngôi nhà này. Trong cái ánh mắt lấp lánh ấy có thấp thoáng những nét tinh nghịch. Tôi ngồi xuống :
- Thôi cả nhà ăn cơm. Ủa vợ chồng thằng Thà đâu con?
Hậu trả lời :
- Anh Thà bơm xăng, một lát nữa ảnh ăn sau. Chị Thà hồi hôm đưa Bác Năm về Nhà Ngang.
Cô ấy múc cho tôi tô cháo trắng và đẩy dĩa cá rô kho tiêu cho tôi :
- Mình ăn hết tô cháo này là khỏe liền. Hồi đó mà em biết mình nhậu như hủ chìm thì đừng có hòng.
Thằng Hậu phản ứng ngay ;
- Con hổng chịu. Má không lấy ba thì con làm sao?
- Thì má lấy ông khác.
- Chỉ có ba mới chịu nổi muỗi cắn.
- Nhưng bây giờ hết muỗi rồi.
- Con lại càng không chịu. Con chịu ba. Ba là số một.
Hòa chen vào :
- Má mà càng nói, nó cãi với má tới chiều cho má coi. Bao lớn rồi. Còn một năm nữa là thầy giáo, mà như là con nít. Ăn cơm đi. Thằng này, ba phải nẹt nó vài trận mới được ba ơi.
- Thôi mấy con ăn cơm đi.  Hậu đừng có nghịch ngợm nữa. Con nhỏng nhẻo với má hơi nhiều đó. Đừng có tưởng ba không biết.
Tôi ăn xong tô cháo. Mồ hôi vã ra, người tôi như khỏe lại. Cô ấy lấy khăn lau mặt cho tôi. Mấy đứa nhỏ nhìn nhau cười. Khi xong tôi hỏi cô ấy :
- Mình có cần phải xỉa răng cho anh không. Diễn hết mọi vai cho con, cho dâu xem. Đặng chúng nó cười.
Cô ấy lườm tôi :
- Nhiều ông muốn như vậy lắm đó. Nhưng em chỉ lo cho mình thôi. Đứa nào dám cười. Em bẻ răng.
Tôi nhìn mấy đứa, thay vì cười thì vợ chồng Hòa đang đùn đẩy nhau. Tôi hỏi :
- Hai đứa con làm cái gì vậy?
Hòa không trả lời tôi mà bảo vợ nó :
- Em nói với ba thì hay hơn anh.
Tôi ngạc nhiên:
- Nói cái gì? Đứa nào cũng được.
Vợ thằng Hòa đứng dậy khoanh tay :
- Thưa ba. Chuyện của ba má. Ba cho phép vợ chồng con và em Hậu có ý kiến.
- Chuyện của ba má mà các con có ý kiến? Nào, ý kiến gì? Nói cho ba nghe coi.
- Thưa ba. Ba cho phép con mới dám nói.
- Chuyện của ba má. Mà các con chỉ xin phép ba. Không xin phép má nghĩa là sao?
Con bé run lên. Hòa đỡ lời cho vợ:
- Má đã đồng ý rồi. Thưa ba.
- Chà con dâu mới về nhà chồng thì đã có ngay ý kiến. Giỏi. Ba thích thế. Vợ thằng Hòa thay mặt phải không ? Vậy con nói đi. Nhưng ba nói trước, dù gì cũng là tình cha con, ý kiến cũng nên nhè nhẹ thôi. Ba già rồi, nặng quá ba không gánh nổi.
- Thưa ba. Từ một hoàn cảnh bất thường mà chúng con phải chịu đựng khi còn quá nhỏ. Ba má con bên ấy. Rồi ba và má bên này đã cố gắng hết sức mình để nuôi dạy chúng con và mang đến cho chúng con hạnh phúc hôm nay. Nhưng bên cạnh hạnh phúc đó, trong khối người có cái quan hệ thân tình này có ba người có một hạnh phúc không trọn vẹn. Chính điều đó làm cho ông ngoại và bà cô, rồi má, vợ chồng con, em Hậu và có thể ba con bên ấy nữa, không yên tâm. Ba người ấy là ba, má lớn và em Lương. Xin ba đừng ngắt lời con. Bởi vì nếu ba ngắt lời là chúng con sẽ khóc và không nói hết được ý mình.
Thưa ba. Ba và ba con là bạn bè thân thiết. Rồi cuộc sống đã xô đẩy mỗi một người có một quá khứ riêng, mà quá khứ nào cũng đầy giông bão. Hơn ba mươi năm mới gặp lại và trở thành sui bạn. Trời không phụ ba và ba con. Nhưng trường hợp của ba thì khác. Những khó khăn của má, của anh Hòa, của em Hậu. Ba đến và ba giải quyết ổn thỏa từng thứ một. Từ miếng cơm manh áo, đến những khao khát của tấm lòng. Ba cho hết, như là một sự hy sinh. Trong khi ba thì những ray rứt riêng tư, suy cho cùng thì cũng không riêng tư gì lắm, cứ hành hạ ba hết ngày này sang tháng khác. Và ba chịu đựng một mình. Chúng con hiểu. Trong cuộc sống riêng tư của người này có thể không làm người khác hài lòng. Nhưng trong trường hợp này cần phải xét lại. Thưa ba, chúng con đã biết điều này từ lâu, đã suy nghĩ và đã đến lúc chúng con phải tỏ rõ bổn phận mình. Thưa ba. Có một khoảng không gian riêng của ba và ở đó ba đang gặp khó khăn khi đi tìm miếng cơm, manh áo cho cả nhà và thuốc men cho má lớn. Ba tự xoay sở một mình. Các cô chú toàn tâm toàn ý giúp ba, nhưng phải trong một chừng mực, bởi vì ai cũng có những lo toan riêng. Trong khi đó ba đã làm tất cả cho má và các con. Nhưng má và các con chỉ được đứng xa mà nhìn ba xoay sở giữa bao nhiêu là khó khăn. Má chỉ biết khóc thầm. Anh Hòa và em Hậu đứng ngồi không yên và con, mới bước chân về đây, thì cũng vậy. Ba không nhận bất cứ thứ gì của má, của chúng con. Chúng con biết tại sao ba làm như vậy. Chúng con xin lỗi ba. Quan điểm của ba về cung cách ứng xử, chúng con không dám có ý kiến. Thậm chí, còn phải tuân theo một cách nghiêm chỉnh. Hơn nữa, hai cái biệt danh mà ba có thời còn đi học rất ấn tượng, đã làm tăng thêm sự ngưỡng mộ trong lòng chúng con về người cha của mình. Ba đã dạy cho chúng con cái cách để sống. Ba nói là “Con người sống được không phải do hai bữa cơm mà mình ăn, mà là do những bữa cơm của những người chung quanh ăn“. Chúng con phải suy nghĩ rất lâu mới hiểu là tại sao phải như thế. Khi hiểu ra, chúng con khắc ghi và cố gắng làm đúng điều này từng giờ, từng phút. Những bữa cơm đầy thiếu thốn của ba, má lớn và em Lương thì má và chúng con làm sao chịu được. Vì vậy hôm nay. Chúng con xin được phép nói lên những lời này. Xin ba vui lòng cho phép chúng con chia sẻ với ba. Khi làm được điều này. Má và chúng con sẽ có cuộc sống toàn vẹn hơn.
Tôi nhìn cô con dâu này và không ngờ mình lại lâm vào trường hợp này. Ai dạy nó hay là sự trong sáng của tấm lòng chưa bao giờ vẩn đục vì những so đo, tính toán của cuộc đời. Nhưng nó đã nói bằng lời nói của nó, lập luận của nó. Tại sao không là thằng Hòa? Ngày đầu tiên về nhà chồng mà cô con dâu này xem chừng như đã hiểu hết mọi ngóc ngách của ngôi nhà này. Cũng hay. Bà già chồng như thế mà con dâu cũng phải như thế cho nó hợp lẽ. Mẹ chồng, con dâu, mỗi người nhìn về tôi, cư xử với tôi bằng một cái nhìn, một tính cách và một vị trí hoàn toàn khác, họ đang liên minh lại để đấu tranh với tôi. Thêm một bà chằn nhí. Được thôi:
- Thôi, thôi. Điều hai con muốn nói thì ba biết rồi. Ba già rồi sức vóc còn bao nhiêu. Mấy mẹ con ăn hiếp lão già này thế nào mà chẳng được. Con nói hết rồi phải không?
- Thưa ba. Còn ạ.
- Thế thì con nói tiếp đi.
- Thưa ba. Anh Hòa và con thương nhau, rồi hôm nay là vợ chồng. Chúng con tìm hiểu nhau và không giấu giếm nhau bất cứ điều gì, rồi trong những ngày qua sự hiện diện của ba với những gì đã xảy ra đã mách bảo cho chúng con biết rằng: Ba là hạnh phúc của chúng con. Dù đang ở trong hoàn cảnh rất tế nhị, Nhưng ba đã đem đến cho cho ngôi nhà này và vợ chồng con một số phận. Một số phận đẹp, như là bài thơ thầy Trung đọc để chúc mừng hạnh phúc của chúng con. Ba làm ra những câu thơ này khi chúng con chưa có mặt trên đời, với một mơ ước thật đẹp. Và những ước mơ ấy, thay vì ba thực hiện cho mình thì ba lại dành hết cho chúng con. Nhưng làm chúng con xúc động lại bài thơ ba làm theo lời yêu cầu của thầy Trung. Ba viết rất nhanh, rất mượt, chứng tỏ tấm lòng ba luôn luôn nhớ về, nghĩ về những người bạn của ba, trong đó có ba con và những người cùng thế hệ với ba. Vợ chồng con mãi mãi nhớ ơn ba. Thay vì những lời giáo huấn mang tính chung chung. Ba mang đến cho chúng con một tấm gương soi bằng chính tấm lòng ba, bằng bài hát đầu đời ba dạy cho anh Hòa, cho em Hậu và chắc chắn là cũng có con trong đó.
Tôi hoàn toàn không ngờ mình có cô con dâu như thế:
- Ba cám ơn những gì các con đã làm và đang nghĩ về ba. Nhưng nhớ đừng có nói lung tung, người ta cười và bảo mèo con khen mèo già dài đuôi. Nhất là thằng Hậu. Bởi vì sao? Ước mơ của ba, những ngôn ngữ của ba dù có thế nào thì cũng chỉ là một điều gì đó rất mơ hồ. Các con hiểu ba nói gì không? Thôi con ngồi xuống.
- Dạ. Con xin phép ba.
Tôi đưa mắt nhìn tất cả :
- Thế thì Hòa. Con muốn nói gì với ba.
- Thưa ba hai vợ chồng tâm đầu hợp ý mà ba. Chuyện này chúng con tính lâu rồi. Chỉ có vụ bài thơ và quan hệ của ba và ba vợ con là mới. Nhưng riêng con, thì con đã có những suy tính ngay lần đầu tiên con gặp ba. Lúc đó con còn chút xíu và trong đầu óc còn non dại ấy, con hiểu ngay, ba là ba của con. Một người cha không thể thiếu trong đời. Con chỉ đơn giản như thế.
Tôi nghe một cái gì đó nhói lên trong lòng. À thì ra vậy, chúng tìm hiểu nhau rất kỹ càng và sự việc hôm nay đã được lên kế hoạch hẵn hoi. Ôi con với dâu. Bọn chúng lớn nhanh hơn tôi tưởng. Và tôi phải rất cố gắng kềm chế lại những xúc động:
- À. Thì ra vậy. Thế thì các con đã nói được điều mình muốn nói mà không khóc phải không? Nhưng ba có lẽ phải khóc đây. Khóc vì cảm động trước tấm chân tình của má con và lòng hiếu thảo của các con. Khóc vì mừng các con đã trưởng thành. Khóc vì cuộc sống này dành cho ba biết bao nhiêu điều tốt đẹp. Trong những giọt nước mắt này có cả niềm vui và những nỗi buồn. Ba biết các con sẽ tìm một lý lẽ để biện minh cho ý muốn của mình. Ví dụ như là các con cần phải phụng dưỡng cha mẹ cho trọn đạo làm con. Điều này thì được đấy, nhưng chưa phải bây giờ. Ba vẫn còn đủ năng lực để giải quyết những khó khăn cho mình. Ngày ba má cần các con phụng dưỡng còn xa mà. Các con đòi hỏi cái quyền này hơi sớm đấy. Các con đừng lo. Ba không từ chối các con điều gì cả, ngoại trừ những điều sai trái. Ý muốn của các con hoàn toàn đúng. Nhưng các con hãy cho ba sử dụng quyền phủ quyết một lần. Được không? Thế nên việc các con muốn quan tâm và chia sẻ với ba thì làm cách này này. Hãy sống cho đàng hoàng, ngay ngắn. Yêu thương và cảm thông cho tất cả mọi người. Nào các con hiểu ý ba chưa? Cái khó khăn lớn nhất mà ba đang muốn thực hiện là tạo điều kiện để các anh em nhìn nhận nhau trong tình cảm thuận hòa.
Lúc này thằng Hậu đứng lên :
- Thưa ba. Điều đó làm chúng con nhót ruột. Nên anh chị hai có một món quà nhỏ gởi cho em Lương gọi là để làm quen. Mong ba nhận và mang về cho em dùm anh chị hai. Rất nhỏ. Thưa ba. Ba yên tâm. Hai cái biệt danh của ba thời còn đi học, bắt đầu từ hôm nay, luôn luôn nhắc nhở cho chúng con không dám giở trò.
Tôi nhìn Hậu, thằng con này của tôi thì đúng phóc một trăm phần trăm, không giống mẹ nó một tí nào? Và xem ra bọn chúng khoái hai cái hỗn danh cũ mèm và vô tích sự của tôi từ thời còn mang đầy ước vọng. Tôi cảm thấy ấm lòng.
Hai vợ chồng Hòa móc ra một phong bì và đưa cho tôi. Cầm lấy cái phong bì dán kín. Tôi hỏi :
- Cái gì trong này mà dán kín mít vậy. Ba xem được không ?
- Chẳng có gì thưa ba. Một cái thư và một chiếc nhẫn năm phân bằng vàng 24. Ba yên tâm. Chúng con biết mình phải viết cái thư đó bằng lời lẽ ra sao? Nhưng chúng con dán kín, không phải vì không muốn ba xem, ba có thể xem ngay cũng được. Nhưng lời lẽ con nít chỉ sợ làm cho ba phải buồn cười. Vợ thằng Hòa trả lời.
- Thôi được. Ba nhận. Còn gì nữa không? Ủa cái thư gì mà dài thế?
- Thưa ba. Vợ chồng con cám ơn ba. Thư làm quen mà ba. Phải viết cho hơi dài dài một chút. Ba yên tâm. Con biết là con phải viết như thế nào, để em không phải thắc mắc. Và má lớn không bận tâm. Con bé trấn an tôi.
- Hồi nãy thì má và các con. Tại sao bây giờ chỉ là hai vợ chồng con cám ơn ?
Con dâu tôi cười lém lỉnh:
- Ba mới nhận của chúng con. Khi nào ba nhận của má và em Hậu thì má và em Hậu cám ơn ba sau.
Thằng Hậu lại cất tiếng :
- Thưa ba. Con không có gì cả. Con chỉ biết có một chuyện là anh chị hai, con và em Lương. Tất cả đều là con của ba.
- Chỉ vậy thôi à ?
- Dạ.
- Con cũng khá miệng lưỡi đấy.
- Con cám ơn ba. Con là con con trai cưng của “Ông Văn Sử Địa“ mà ba.
Hòa đưa mắt nhìn Hậu :
- Em lãi giở trò?
- Thôi con. Hôm nay vui vẻ, con đừng rầy la em, hôm khác ba tính sau. Tôi quay qua cô ấy. Còn mình nữa, có gì không?
Cô ấy rút ngay gói tiền mà tôi mang vào, để lên bàn:
- Mình mang số tiền này về lo cho chị và con. Hồi nãy mình đã hứa với các con.
- Tiền gì vậy ?
- Tiền mình mang vô làm đám cưới cho thằng Hòa. Em lo được cho con. Em nhận ngay số tiền này nếu như em thiếu. Nhưng mình thì phải ráng, mà thấy mình ráng thì em chịu không nổi. Mình thương em, thì mình đừng làm em khổ. Mình cho em hết lòng với mình một lần đi. Nghe mình.
Không đợi tôi lên tiếng, cô ấy bắt đầu sụt xịt. Và cái tính quân tử của tàu trôi mất biệt. Tôi lập bập:
- Thôi mà. Già rồi mà còn nhỏng nhẻo. Không sợ con dâu nó bắt chước à. Thôi thì anh mang về. Đừng có như vậy nữa. Con nó cười.
Tôi quay lại bảo các con tôi:
- Bây giờ thì ba đã nhận đủ hết rồi. Ba nghỉ được chưa? Kẻo thôi mẹ các con khóc lên thì ba lại dỗ không kịp.
Cả bọn nó đồng thanh trả lời:
- Thưa ba. Hết rồi ạ.
Tôi nắm tay cô ấy đứng dậy:
- Thôi, mấy ngày hôm nay mình mệt lắm rồi. Đi nghỉ ngơi đi.
Tôi nghe loáng thoáng tiếng thằng Hậu :
- Thế là thành công mỹ mãn. Mấy giọt nước mắt thôi mà lụy cả anh hùng?
Tôi đưa cô ấy vào phòng. Khi trở ra thấy vợ thằng Hòa đang dọn dẹp, tôi hỏi :
- Chồng con với thằng Hậu đâu rồi con.
- Dạ anh Hòa qua trông cây xăng cho anh Thà ăn cơm. Còn em Hậu mới đây mà ba. Để con kêu nó. Hậu ơi, Hậu à. Ba kiếm nè em
- Dạ. Nó chạy ra. Con nè ba. Ba kêu con.
- Hồi nãy con nói gì “Nước mắt lụy anh hùng“ gì đó, nói lại ba nghe?
- Con nói, nói má khóc là ba…
- Ba làm sao ?
- Là là ba thua.
Nói xong nó bỏ giò chạy mất. Cô con dâu bưng mâm quay đi và tôi biết nó đang cười. Tôi đứng nhìn quanh căn nhà. Tất cả mọi thứ gần như không thay đổi chỉ có cái là rộng lớn hơn. Đồ đạc trong nhà thì vẫn y như vậy, nhưng có thêm cái giá sách và một dàn vi tính Nhưng những tiện nghi của cuộc sống hiện đại thì có đủ nhưng lẫn khuất đâu đó. Tôi bước lại gần nhìn lên giá sách và yên lòng. Điện, đường, trường, trạm đã xua lủ muỗi mòng trở về nơi hoang dã. Sự bình yên đã xóa dần những dấu vết của chiến tranh. Tất nhiên. Cuộc sống đổi thay nhiều. Nhưng cô ấy và hai con vẫn cố gắng lưu giữ lại những gì có thể. Những thứ đó là kỷ niệm, nhắc nhớ một thời khó khăn và cũng là một thời bắt đầu của sự đắm say liều lĩnh. Tôi thật sự bất ngờ khi nhìn thấy mấy bó đăng được bó lại cẩn thận và cái đó hứng tép treo trên xiên nhà. Mấy cây đèn dầu được lau chùi sạch sẽ và để trong cái tủ cạnh bên cái hộp ngày nào mà bên trong có những miểng bom. Tất cả hiện về như một giấc mơ. Thế mà đã gần ba mươi năm. Biết bao nhiêu sóng gió trong cuộc đời, biết bao nhiêu buồn vui. Chúng tôi đã đến với nhau trong một hoàn cảnh không giống ai. Rồi dan díu với nhau theo một kiểu cách cũng không giống ai. Bổng nhiên tôi nghe tiếng sóng của giòng sông đang rì rào bên tai. Bao nhiêu con người đã sinh ra và lớn lên, rồi chết đi vì một lý do nào đó bên hai bờ của giòng sông. Có ai giống tôi chúng tôi không? Tôi mơ ước một nhịp cầu. Nhưng hiện tại chỉ những chuyến đò khi được, khi không. Một thời cách ngăn của giòng sông thì đã qua lâu rồi. Nhưng một thời cách ngăn của chúng tôi thì… tất cả chỉ là một giấc mơ khó có khả năng hiện thực. Hay là như lời ước nguyện của cô ấy, để cuối cùng là một chuyến đò đưa cô ấy đến bên tôi và chúng tôi mãi mãi bên nhau khi đã trở thành hai phiến đá u hoài. Tất cả cái gì liên quan đến tôi trong quá khứ, từ cái poncho laine cho đến cái cuối cùng là một nắm xương tàn của tôi, cô ấy luôn luôn trân trọng. Cái gì đã xui cho cô ấy làm như thế? Trong khi tôi thì luôn luôn ít khi nhớ mà lắm khi quên.
Ai xui thằng Bầy là Việt Cộng, lại đi ăn đời ở kiếp với một người là vợ góa của viên sĩ quan quân đội Sài Gòn. Ai xui tôi là một cảnh sát chính quyền Sài Gòn lại dan díu với một cô giao liên Việt Cộng. Rồi chúng tôi lại gặp nhau sau gần ba mươi năm và trở thành sui gia. Sự trớ trêu của cuộc đời hay là sự hàn gắn lại thương tật của chiến tranh. Cái nào là đúng đây? Có lẽ không cần bàn cãi nữa. Phía trước là tương lai, là con cái chúng tôi. Giòng sông ơi xin hãy bình yên mãi mãi. Để cho hiện tại này và tương lai ấy đừng bao giờ là quá khứ của chúng tôi. Đừng bao giờ phải chịu đựng những cú vượt sông mang theo dáng dấp của tử thần.
Tiếng cô ấy từ phía sau lưng:
- Mình chọc em, rồi mình bỏ em ra ngoài này.
- Mình này. Tôi nói mà không quay lại. Có dâu rồi nghen.
- Em nhỏng nhẻo với mình chớ với ai đâu. Cô ấy ngưng một lát. Ờ mà kỳ thiệt hén. Nhưng hổng được, với mình mà không nhỏng nhẻo là không xong. Nhờ rưng rưng một chút mà xong việc.
- Thì ra là mình dọa anh đó phải không? Tôi quay lại.
- Mình có tin là em khóc nữa không. Kỳ này chẳng những khóc mà còn giẫy nữa.
Tôi lắc đầu chào thua. Có một con dâu làm nề. Cô ấy đang ăn hiếp tôi đây.
- Thôi mình vô nằm nghỉ đi. Anh qua cây xăng một chút.
- Mình qua bên ấy làm gì ? Hai đứa nhỏ mới đám cưới.
- Và bên này, mình muốn hai đứa lớn cũng mới đám cưới. À. Anh nghe ông nội thằng Hoà nói ở đây người ta nói mình là đàn ông.
Cô ấy cười cười bỏ đi, rồi trở lại với một ly nước trên tay:
- Mình uống nước đi. Từ ngày mình trồng mấy cây dừa đến giờ. Chẳng mấy khi em tự tay chặt cho mình một trái nào. Dừa thì mình trồng, con nó bẻ, em chặt và bưng cho mình. Mình uống nghen. Cho mát.
- Chưa uống thì đã mát rồi. Mà mình không trả lời anh.
- Mình uống nước đi. Ai gọi em làm sao cũng được. Nhưng mình thì không, mình chỉ được quyền gọi em bằng mình thôi.
- Nếu có ai đó cũng gọi mình bằng mình thì sao?
- Mình lại khùng nữa. Uống nước dừa của em đi, cho mát. Mình hén.
Chúng tôi nhìn nhau. Trong ánh mắt tinh nghịch hiếm thấy của cô như vươn ra một sợi dây cuốn tôi vào. Tôi không nói gì, nhận lấy ly nước dừa để lên bàn và bảo cô ấy ngồi cạnh bên tôi. Tôi choàng tay qua vai cô:
- Mình làm sao thế?
- Em làm sao ?
- Bộ mình tính sinh con cho anh nữa à?
- Ai biết? Mà mình kỳ ghê. Em chỉ muốn có mình bên cạnh để chăm sóc cho mình, được ngày nào hay ngày nấy. Chứ bộ
- Mình này, lớn tuổi rồi sinh đẻ không tốt lắm đâu? Với lại mẹ chồng và con dâu cùng sinh một lượt thì ngộ lắm à nghen. Vợ chồng mình nênvới lại Anh mệt.
- Mình điên thật. Đẻ hay không là do mình chứ đâu phải tại em. Thôi đi, hổng nói chuyện ấy nữa. Nói chuyện nhậu nhẹt của mình nè, thấy cái kiểu nhậu của mình em muốn xanh máu mặt. Hổng biết làm sao mà chị chịu nổi, chứ em hả thì vô phương? Tại quá thương mình nên mấy bữa nay liều mạng ngủ chung. Chớ nằm kế cái hủ hèm nó hôi rình. Nếu hết ngày này sang tháng khác chắc khùng luôn.
Cô trở giọng dỗi hờn cũng dở ẹc như mọi khi :
-  Nhậu cho cố mạng vào rồi than mệt. Mình mà chết vì cái kiểu gì thì em còn than khóc. Chớ mình mà chết vì rượu thì một giọt nước mắt cũng không có.
- Thôi mà. Tại ngày vui của con. Anh không uống thì làm sao? Hổng lẽ chồng cô Út mà tệ thế à?
- Mình đó. Hơn thua cái kiểu gì không hơn thua. Đi hơn thua cái kiểu nhậu. Nghe người ta khen mình cái gì em cũng nở mũi, nghe người khen mình nhậu dữ là em muốn lộn ruột. Hình tích thì ốm nhom mà uống thấy sợ. Rồi bây giờ lại than là không khỏe. Hai vợ mà không biết lo. Mình chưa nằm chèo queo là may lắm.
- Trời đất. Bữa nay nói nghe ngộ hén. Thôi, tối nay anh ra võng nằm chèo queo thử một lần xem có chết ai không?
- Mình ngon đi thử coi. Mình cư xử với em kiểu đó còn được. Chớ với chị là không xong. Ở với người ta cho đã, rồi khi bệnh hoạn thì ra võng nằm. Mình mà làm kiểu đó em bỏ mình luôn.
- Chà. Mình giở giọng chị cả nghe coi cũng êm dữ ha.
- Ai biểu mình bầy hầy làm chi. Thôi nghen. Đừng uống rượu nữa nghen mình. Để cho tỉnh tuồng, khỏe khoắn mà làm ăn và chăm sóc cho chị và con chớ.
- Và chiều chuộng mình nữa. Phải không ?
- Mình điên thiệt. Em chỉ lo cho mình thôi. Chớ em có gì đâu. Em đâu có bắt mình phải chiều em. Tại tự ý mình chớ bộ.
Bổng nhiên cô ấy chuyển giọng :
- Mình ơi.
- Cái gì nữa đây?
- Em tính như vầy. Mình xem có được không? Vợ chồng anh năm Đất có cho thằng Thà một ít tiền, vợ chồng nó không dám xài, để dành cất nhà, nhưng không có đất. Em tính mép bên kia cây xăng, mình còn một miếng khoảng một góc ba công tầm cắt[iii]. Em tính cho vợ chồng nó cất nhà. Còn lại cho vợ nó chăn nuôi trồng trặt cái gì đó. Mình thấy được không?
Tôi thật sự ngạc nhiên :
- Ý của thằng Hòa, thằng Hậu thế nào ?
- Mình khỏi lo. Em bảo sao con nó chịu vậy. Mình biết không? Vợ chồng thằng Thà đổ không biết bao nhiêu là mồ hôi cho cây xăng rồi. Em tính, nếu như nó có nhà cửa đàng hoàng, thằng Thà đứng bán xăng, thằng Hòa trả lương đàng hoàng. Vợ nó chăn nuôi, trồng trặt thêm, cộng với năm công ruộng em cho hồi năm ngoái thì vợ chồng nó sống khỏe mà còn có dư dã để chăm sóc cho bác Năm và lo cho con cái sau này.
Tôi không thể nói được cảm giác của mình. Cô ấy làm việc này theo bản tính nhân hậu của cô ấy hay vì tôi. Cô ấy không còn là một người đàn bà bé bỏng của tôi nữa. Cô ấy đã trở thành một người khác. Tôi im lặng nhìn cô ấy.
- Nghe mình. Mình ừ với em đi. Cô thúc giục.
Tôi chỉ còn biết nói:
- Mình tốt với anh quá.
Cô ấy tròn mắt nhìn tôi:
- Sao lại tốt với mình? Em chỉ lo cho Bác Năm và vợ chồng thằng Thà thôi mà. Dù gì anh Thuật cũng là bạn của mình, của anh sui. Còn bác Năm, nếu như không có bác ấy thì làm sao mà em gặp được mình.
- Thôi được. Cái gì mình cho cháu nó thì phải giấy tờ đâu đó đàng hoàng để tránh những lu bu sau này. Con mình thì bây giờ tốt đấy. Nhưng sau này biết con nó ra sao?
- Mình nói gì đâu không? Hổng lẽ con mình như vậy?
- Anh cũng không nghĩ, không mong con mình như vậy. Nhưng anh muốn đâu đó phải rõ ràng. Sai thằng Hòa đi làm giấy tờ cho vợ chồng thằng Thà, luôn cả năm công đất mà mình cho. Có như vậy vợ chồng cháu nó mới yên tâm mà chí thú làm ăn. Chứ làm ăn mà cứ hồi hộp hoài thì làm ăn sao được.
- Ừa hén. Mình nói cái gì cũng đúng hết trơn. Em…
- Em làm sao nữa?
- Em thương mình mà mình thì ác với em
Cô ấy lại dụi đầu vào ngực tôi. Nặng như một tảng đá và êm ái, mềm mại như nhung.
Tôi chợt nhớ ra và hỏi cô ấy:
- Mình tìm ở đâu ra giống Trắng Tép vậy?
- Chi vậy mình?
- Giống ấy gạo ngon, nhưng không trúng lắm.
- Em làm có hai công. Chịu khó chăm sóc, tới mùa cũng được ba bốn chục giạ. Để dành khi nào mình vô em nấu cơm cho mình ăn. Hoặc khi nào em nhớ mình, em nấu em ăn. Em biết mình thích ăn cơm gạo Trắng Tép mà. Mình nói với em hồi lúc em mới gặp mình.
- Không cho con ăn à?
- Hông. Cái gì của mình với em thì không ai chen vào được.
Tôi mỉm cười:
- Thế thì thằng Hậu chen vào ngã nào?
Cô ấy giẫy lên :
- Mình nói xấu em. Tại mình. Hổng phải tại em.
- Phen này thì mình ác với anh.
Một ai đó đã nói một câu như thế này “Người đàn ông bị người đàn bà cuốn hút bằng sự thông minh, bị mê hoặc bằng nhan sắc và bị giữ chặt bởi sự cảm thông” Thế thì tôi bị cái gì đây? Nghĩ cho cùng thì tôi bị cả ba. Mà ba cái của cô ấy lại không giống ai, nó tự có chớ không phải nhận được từ sự giáo dục nào, nó phát huy rất chậm, nhẹ nhàng, nhưng đầy uy lực. Tất nhiên. Ba yếu tố ấy chỉ có giá trị với tôi thôi. Và khi đã bị như thế mà toan dùng ý chí để chống lại thì quả là điên. Thế mà tôi cả gan để cho cái ý nghĩ điên rồ ấy mấy lần len lõi vào đầu? Tôi đã qua hàng năm hơi xa và cô ấy sắp bước vào. Nhưng chúng tôi bao giờ cũng nghĩ mình còn trẻ khi đến với nhau. Cái hạnh phúc đến bất kỳ làm cho chúng tôi cảm thấy cái giá trị lớn lao của nó. Chúng tôi làm mọi thứ để khỏa lấp những ray rức nhớ thương. Cô trông chờ ở tôi một lần nổi giận mang tính cách đàn ông và tôi trông đợi ở cô một sự hờn mát với cái giọng chanh chua(?). Nhưng hình như cả hai không thể làm được. Chúng tôi không có lý cớ, không có thời gian. Điều đó sẽ làm cho những người cùng tuổi ganh tị và bực bội? Thế là chúng tôi đành như thế đó. Chiều nhau hết mực và cũng hết mực đắm say. Tôi cố gắng để ở lại với cô ấy thêm một hôm. Hậu đã đi Cần Thơ. Vợ chồng Hòa thì bên cây xăng, Thà thì loanh quanh đâu đó chỉ xuất hiện trong ngôi nhà mênh mông tĩnh lặng này vào giờ cơm.
- Thôi. Mình mệt lắm rồi vào nằm nghỉ đi. Anh xem lại coi nhà cửa thế nào. Mấy ngày nay lu bu, thấy đó chớ không biết ra làm sao?
- Hông. Mình vào đây thì mình ở đâu, em ở đó. Mình đi đàng trước, em đi đàng sau. Mấy bà lỡ thời ở đây ghê lắm, mà bà nào cũng đẹp hơn em cả. Chồng em, em giữ. Chồng em, em chiều. Đến giùm đám cưới mà bà nào cũng lo nhìn ông chủ hôn không. Em hồi hộp muốn chết. Đã vậy theo hỏi em là mình bới đầu cho em cái kiểu gì mà trông vào thấy chết người như chơi. Có bà còn định nhờ mình bới giùm. Cô Chín ác thiệt, khoe tùm lum.
- Mình chịu cho anh bới dùm không?
- Hông à nghe. Không phải em nhỏ mọn. Chớ mấy bà đó mà đụng tay đụng chân vào là chết chồng em.
Đây là lần thứ hai tôi nghe cô ấy giở giọng ghen tương. Nhẹ thôi, cũng làm tôi nhột, mà phải nhột thôi vì cái quá khứ đầy những lu bu, nhưng hạnh phúc và lo lo:
- Mình điên thiệt rồi. Họ hốt nhúm xương sườn này về để làm gì? Mà liệu họ có giành nổi với mình không?
- Biết đâu được. Có một bà lo nhìn mình mà xắc thịt trúng ngón tay. Ai nấy xúm nhau chọc. Thế mà bà ấy nói tỉnh queo là phải đứt ra luôn là lấy miếng thịt đó nấu cho mình nhậu.
- Mình thiệt tình. Nói cái gì nghe thấy mà ghê. Ăn miếng đó vào, anh thành cọp.

Tôi bước đến khởi động máy vi tính. Những tư liệu học tập, trong công việc làm ăn, giá thành và bảng vẽ thiết kế xây dựng cây xăng hiện ra trên màn hình làm tôi yên tâm. Cái làm tôi cảm động nhất là những folder, file đều mang những cái tên có liên quan đến tôi, cô ấy và tất cả những gì liên quan đến ngôi nhà đơn sơ này. Cả những shortcut cũng được đổi thành những cái tên như thế. Mới đọc qua những cái tên ấy, những ai đã từng gõ tan tành mấy chục cái keyboard và lăn mòn cả một bầy chuột, chắc sẽ rất buồn cười. Nó quê trớt, nhưng đậm đặc tính gia đình. Và tôi lại gõ lóc cóc trên keyboart:
Chấp chới mãi giòng sông đi vô tận,
Lọc tâm hồn trong suốt, sóng lao xao.
Lòng đắm say tím màu hoa say đắm,
Thương trôi ra để gây nhớ. Trôi vào.
Sông lấp lánh theo vầng trăng ảo diệu,
Thuở hoang khai lồng lộng gió vô ưu.
Thầm thì mang hơi ân tình thơm ngát,
Nhịp lượn lờ khi trời đất yêu nhau.
Anh cũng thế và em thì cũng thế,
Sóng trườn theo cồn sóng mãi êm đềm.
Con cá chẽm quẫy đuôi chào trăng sáng,
Nặng ân tình nên không vượt vũ môn.
Sóng ngây ngất phủ trùm bờ ân ái,
Hương tóc còn thơm mãi bến đam mê.
Chén huyền hoặc nâng lên và uống cạn,
Giọng Hoài Lang dẫn dắt ánh trăng về.
Những chiếc thuyền chở theo niềm hạnh phúc,
Đi hay về cũng ăm ắp yêu thương.
Trăng tuôn mãi ước mơ vào nhân thế,
Dù sóng xô triệu triệu nhịp vô thường.
Vẫn cứ thế giòng sông trăng chảy mãi,
Sóng thân quen mang hơi thở chân thành.
Hồn cất cánh tung bay theo giọng hát,
Hơi Hoài Lang dấp dới điệu Xuân Tình.
Chà bài thơ này mà thằng Trung đọc được chắc mặt nó nhăn như khỉ ăn ớt. Còn thằng Bầy, ông sui tôi thì lại rổn rảng cho mà xem. Không hiểu tại sao tôi viết thế, rồi mấy đứa con tôi sẽ nghĩ gì khi đọc những giòng này. Quả tình, từng ngày gặp cô ấy và đến khi thằng Hậu có mặt. Tôi chỉ dành cho cô ấy tình cảm thương thương. Nhưng rồi một thứ khác, không nhận diện được, từng lúc, từng lúc thấm vào, khi thì nhẹ hều, khi thì nặng trịch. Để giờ đây, cái tâm hồn già nua này mới cảm nhận được một cách khá rõ ràng cái mà người ta gọi là tình yêu. Mà cũng chẳng biết hình thù nó ra làm sao, chỉ biết được có một điều duy nhất là nó nặng quá. Ấy thế mà sao rất đỗi êm đềm. Đã bao nhiêu lần, khi cô ấy trong vòng tay tôi, tôi đều nghe thấy tiếng sóng vỗ chập chờn và mang theo cái cảm giác của một đêm trăng nhập nhòa đang đùa đẩy tôi lênh đênh qua giòng sông ấy. Và sau những phút giây hạnh phúc là trong lòng bức bối vì cái cảnh bên này, bên kia. Cũng may, một bên chưa biết, một bên thì yên lặng. Ôi muốn tìm đến những bến bờ hạnh phúc người ta phải đi qua bao nhiêu giòng sông, bao nhiêu con đường và bao nhiêu mơ mộng. Và tôi và cô ấy, mỗi người một phía bờ của giòng sông. Ba mẹ tôi cũng thế, nhưng đâu có gì trắc trở như tôi, ngoài nỗi nhọc nhằn nuôi dạy một bầy con.
Và tôi cũng nhớ lại cái rẻo đất này. Tôi không ngờ là mình lại như thế này. Có nhiều lắm không những sự gặp gỡ thần kỳ(?). Ông nội của thằng Hòa trong một chiều lửa đạn với vẻ mặt thất thần và những vệt máu ứa ra từ mũi. Cô ấy và người lính chủ lực miền bị gãy chân, gãy tay. Tôi giúp họ trong một hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc. Cái chết rình rập khắp mọi nơi. Rồi vợ chồng anh tư Lụa, tôi giúp anh chẳng qua là không thể nào chịu nổi cái đám con nít bụng ỏng da xanh mà còn bị nỗi sợ hãi phủ chụp xuống đầu. Tôi giúp họ, điều đó chưa chắc xuất phát lòng nhân ái mà là vì muốn làm an lòng mình, muốn an toàn cho bản thân. Thế thôi. Tất cả những con người này đều là Việt Cộng hay dính dáng vào Việt Cộng. Trong khi tôi hàng ngày xách súng đi tìm Việt Cộng mà phơ. Tôi không oán thù, nhưng cũng chẳng ưa gì họ. Thậm chí là ghét nữa. Nhưng rồi tất cả họ gặp lại tôi, mỗi người trong một hoàn cảnh, một điều kiện. Tất cả thể hiện một tấm lòng biết ơn. Nhưng riêng cô ấy trả ơn tôi bằng một tấm thân đầy thẹo vít, chất chứa trong ấy một tấm lòng đầy khát vọng yêu thương. Trả ơn tôi bằng một mối tình mà cô ấy luôn luôn nhận lấy thiệt thòi. Và tôi nhận để rồi bức rức không nguôi vì cái tật đa mang. Nghĩ cũng lạ. Cuộc đời có trớ trêu lắm không?
Rời máy, tôi tiếp tục lục lọi giá sách. Mấy hôm nay bận bịu, tôi chỉ nhìn thoáng qua. Nhưng bây giờ thì số lượng sách nhiều hơn tôi tưởng. Ngoài ra, bên dưới và phía trong cánh cửa là tất cả sách vở, tập viết của hai đứa con tôi. Chúng gìn giữ gần như đầy đủ, sắp xếp ngăn nắp và theo thứ tự từng năm học. Tôi lấy ra từng cuốn, từng cuốn. Ở trong đó đầy ắp những hình ảnh của tôi và cô ấy. Và loáng thoáng đâu đó trong những bài tập làm văn. Hình ảnh của tôi và mẹ chúng xuất hiện như là một người cha, người mẹ hoàn hảo, được đánh dấu bằng con số tám, số chín, cũng không ít số mười bằng bút đỏ. Nhưng có một bài văn của Hòa năm lớp sáu với cái đề như thế này “ Em hãy nói về ba em“. Hòa viết
 “Ai cũng có một người ba. Em cũng vậy. Ba ruột của em mất ngay khi em còn trong bụng mẹ. Ba em đến mang cho em một tiếng ba mà em ao ước. Từ đó ba em dạy những chữ I, chữ tờ đầu tiên cho em bằng cách cầm cây que viết trên nền nhà. Ba dạy em hát và cắt nghĩa cho em nghe tại sao lại phải biết yêu mến mọi người. Ba em hát rất hay. Nhờ ba em sửa sang lại năm công ruộng, mà từ đó năm nào lúa cũng trúng. Ba em rất thương em, em cũng thương ba nữa. Ba em chuyện gì cũng biết làm mà lại rất thương má em và em. Ba đi làm ăn xa, em nhớ ba lắm… “
 Bài viết không đầy một trang giấy và bị điểm một, với lời phê “Sai đề“? Tôi chết lặng với lời phê ấy, người ta đã không công nhận tôi là ba của Hòa? Nhưng hề gì, bài văn với những lời lẽ ngô nghê và chân thực thì làm tôi ấm lòng. Ôi con tôi. Tôi toàn tâm toàn ý với ba đứa con của mình, nhưng chưa bao giờ toàn lực. Sự vắng mặt bất thường của tôi trong hai mái nhà là một điều trái đạo làm người của thời hiện đại. Nhưng tôi biết có một người thông cảm cho tôi. Uy Viễn Tướng Công. Nhưng liệu cụ có giúp gì được cho tôi? Nếu có thể thì Cụ sẽ nói “ Thằng nhóc ạ. Mày lếu láo quá. Giống tao thứ gì không giống mà lại giống thứ này. Thời nào lệ nấy con ơi. Ráng chịu đi. “
Tôi nhìn thấy cuốn tập đầu tiên tôi dạy Hòa những nét chữ đầu đời đã ngả sang màu ố vàng? Không hiểu sao tôi lại không mở ra. Tần ngần ngắm nhìn một lát, tôi trả về chỗ cũ. Rồi không hiểu thần xui, quỷ dục thế nào tôi trở lại máy, mở một trang mới và gõ tiếp:
      Trồng trầu thì phải khai mương,
Làm trai hai vợ phải thương cho đồng.
      Gẫm câu đồng vợ đồng chồng,
Oái  oăm  chi  thế  một  ông  hai  bà.
      Ở  bên  này  nhớ  bên  kia,
Ở  bên  kia  lại  lo  về  bên  đây.
      Tưởng xôm tụ, hóa bầy hầy,
Vắt  giò  ra  chạy  bên  này,  bên  kia.
Cô ấy thỉnh thoảng nhìn tôi, không biết cô ấy nghĩ gì? Nhưng có mọt điều tôi biết chắc cô ấy đang nhường tôi lại cho những cảm nghĩ của tôi. Chỉ thỉnh thoảng tôi nghe “Mình ơi, nước trà nè mình”, “Mình ơi. em mở quạt cho mình nghen” Tôi vẫn im lặng làm cái công việc của tôi và tận hưởng những giây phút nồng ấm này. Tôi biết cô ấy hạnh phúc, rất hạnh phúc là khác, bởi vì cái hạnh phúc đó rất ngắn và đến bất kỳ. Tôi cũng thế. Nhớ lại những ngày đầu tiên, cô ấy đến với tôi bằng sự khẳng định rõ ràng, quyết liệt “Em nói rồi, một tháng, một năm anh cũng là chồng em, một ngày anh cũng là chồng em. Anh bỏ em, anh cũng là chồng em.”. Và cô ấy đã giữ đúng lời hứa. Một sự giữ lời bằng một cảm tính tự nhiên không so đo, không điều kiện và kèm theo đó là nhọc nhằn, đau xót, nhớ thương… nhưng trên hết là sự dũng cảm. Sự dũng cảm thô ráp mà cô ấy không bao giờ nhận ra, cũng như ít ai nhận ra cái thuộc tính đích thực của mình. Đòi hỏi duy nhất mà cô đặt ra cho tôi là cho cô ấy chia sẻ những khó khăn của tôi. Đề nghị mới thoạt nghe rất ngon ăn, nhưng tôi không đủ sức để chấp nhận. Và vừa rồi, cô ấy đã viện dẫn đến những đứa con và những giọt nước mắt để gây áp lực. Một người đàn bà tuyệt cú mèo, nâng niu, sắp xếp lại khá tinh tươm trái tim rắc rối của tôi bằng trái tim chất phát của cô ấy, một điều hiếm thấy bà vợ bé nào trên thế gian này sử dụng (?). Còn tôi, tôi không thể lựa chọn một con đường cho trái tim mình, tôi thiếu sự dũng cảm cần thiết mà tình yêu cần có. Những ai đi qua cuộc đời tôi, họ đều như thế cả, họ quyết liệt với sự lựa chọn của mình. Và họ đã lầm lẫn một cách tai hại. Cô ấy là một người thua cuộc, thua nặng nhất. Vậy mà cô chấp nhận điều này để có được những phút giây hạnh phúc hiếm hoi bằng một thái độ quyết liệt nhưng đầy cam chịu. Tôi có lỗi với nhiều phía vây quanh cuộc đời mình.
Chắc có lẽ cô ấy đang nấu cơm. Mùi thơm của gạo trắng tép thoang thoảng và tôi lại để cảm xúc chạy dài trên keyboard:
Bổng dưng nhớ! Bổng dưng thương! Lạ nhỉ?
Những cái tên ngồ ngộ của ngày xưa.

Móng Chim, Nàng Kè, Nàng Hương, Trắng Tép,

Nếp Mù u, nếp Đuôi, nếp Bông Dừa…
Những hạt lúa của một thời quá khứ,
Đã từng làm thơm ngát cả nhân gian.
Theo mưa nắng hai mùa phơi phới gió,
Để bây giờ là nỗi nhớ mênh mang.
Cánh đồng xưa chìm sâu vào ký ức,
Mùi hương quê xa ngái tự lâu rồi.
Cơn gió chướng nối hai mùa mưa nắng,
Chở nặng cho anh bao nỗi ngậm ngùi.
Hạt gạo nhạt vì thiếu mùi nắng gió,
Mà mang theo cái không phải hương quê.
Cũng phải thôi. Cái tên là mã số…
… với một mùi rất lạ. Urê…
Có một khoảng rất riêng và nhỏ xíu,
Hạt lúa mùa đầy ăm ắp hương mơ.
Mái lá, khói lam chiều, cơn gió chướng,
Vẫn mênh mang chất chứa cả ngày xưa.
Vâng. Ở đó rất riêng và hạnh phúc,
Mình cho anh đầy đặn một ân tình.
Và cho cả một vầng trăng say đắm,
Rồi thầm thì gọi mãi trái tim anh.
Rất có thể anh trở nên cũ kỷ,
Có sao đâu? Anh cứ vậy bởi yêu Mình.
Mình mãi mãi y chang ngày hôm đó,
Cái ngày mà hương tóc phả vào anh.
Ôi. Sao hôm nay hồn thơ lai láng thế!
Và khi màn đêm xuống, đêm sau cùng để rồi mai đây tôi trở về với những khó khăn của tôi, cô ấy nói với tôi:
- Mình ơi. Mình muốn gì cũng được, miễn sao mình vui và vơi đi cực nhọc.
Tôi im lặng, nghe lòng mình rung động. Cô ấy tiếp:
- Bây giờ có điện thoại rồi. Khi nào mình nhớ em, mình gọi cho em. Em không biết cách gọi, kêu con gọi, con dâu nó nghe được em nhỏng nhẻo với mình. Kỳ chết. Cái gì mà cứ bấm tứ tung.
Tôi không trả lời, luồn tay làm gối và ôm cô ấy vào lòng. Cô vẫn nằm yên như thế, trao hết cho vòng tay tôi một thân thể không che dấu và cả những mơn man rung động ở bên trong. Những rung động đó luôn luôn trùm phủ lấy tôi. Ấm áp, nồng nàn. Tôi hôn lên đó, khắp cùng và cảm nhận được sự đằm thắm, đắm say. Sự thèm muốn ái ân thì có đấy nhưng không ầm ào cuồng nhiệt mà chỉ là những trao đổi chân tình. Tôi biết cô ấy yêu tôi đến ngần nào. Chúng tôi chìm vào trong giấc ngủ yên bình. Cơn gió chướng xào xạc bên ngoài. Hai công lúa trắng tép đang cong trái me. Những con cá đang về đìa. Mùa Xuân đang đến. Trời đất đang thì thầm. Chúng tôi cũng thế, thân thể và tấm lòng.
Cô ấy tự tay lái chiếc vỏ vọt đưa tôi ra vàm để đón tàu. Cô ấy không nói gì, nhưng trong đôi mắt long lanh ấy đã nói cho tôi biết rằng; Có một thứ tình yêu luôn luôn lớn theo thời gian chứ không phai nhòa đi theo năm tháng. Thứ đó nằm trong trái tim cô ấy. Khi ra tới vàm, giòng sông mở ra một chân trời rực rỡ. Đậu lại bên mép lá đợi tàu, cô ấy đến bên tôi, chúng tôi ngồi bên nhau yên lặng, tôi lắng nghe những tiếng sóng vỗ lách tách. Cô ấy mân mê bàn tay tôi, bóp nhè nhẹ lên những đốt xương tay, hết bàn tay này đến bàn tay kia và khi kiểm kê đủ hết, thấy không thiếu ngón nào. Tôi biết là là cô ấy sắp sửa cằn nhằn đây. Đúng vậy, vừa rờ rẫm mấy cục chai trong lòng bàn tay tôi vừa gọi:
- Mình ơi.
- Gì mình?
- Bàn tay mình xương không mà lại chai ngắc. Bàn tay này mà đánh em chắc em chết. Giọng cô bổng chùng xuống. Bởi thế cho nên mình chẳng bao giờ đánh em… Mình tìm việc gì đó cho nhẹ nhàng một chút mà làm. Phải chi chị đừng đau yếu, phải chi mình ở được với em… Em giận mình nhiều lắm. Mình biết không?
Cô ấy giận tôi cái gì? Chỉ một một mình tôi biết. Và tôi cũng biết cô ấy muốn gì? Bây giờ không còn những khát vọng được yêu chiều. Cô ấy muốn có tôi ở bên cạnh để cho cô chăm sóc tôi, để thỏa mãn được những ước muốn cháy lòng là lo toan cho người mình yêu mến. Cô ấy tựa người vào tôi. Cả hai bập bềnh trên sóng. Tiếng sóng, tiếng lòng và nhịp đập của hai trái tim sắp già không còn hối hả như ngày nào, mà trầm xuống, lắng sâu.

Giòng sông vẫn sâu thẳm những thì thào bên dưới, vẫn khoáng đạt mênh mông bên trên. Cái ánh nắng rực rỡ của tháng mười thì đang cố sức soi rọi một tấm lòng đang ở dưới bóng dâm của áng mây hạnh phúc mà… hơi buồn. Và tôi chợt nhìn giòng sông, nhìn kỷ càng. Săm soi từng giòng nước chảy, lắng nghe từng tiếng sóng, tiếng gió. Tôi bàng hoàng nhận ra không còn những rặng đáy những xuồng câu, những phao lưới, chỉ còn những giề lục bình xao xác trôi không có một bông hoa. Và tôi rùng mình khi nhớ ra là lâu lắm rồi tôi không còn ăn được con cá phèn ngọt lự khi mùa mưa đến, những con cá úc nấu canh chua bần, những con cá lẹp thì bặt tăm hơi. Yên bình đã lâu rồi, qua cái thời người tàn sát lẫn nhau. Giờ đây người ta đang tàn sát thiên nhiên. Vái trời cho những gì tôi ngẫm nghĩ trong những phút giây mẫn cảm này là sai.
Tôi nhớ lại những gì tôi viết về chúng tôi, quả là rất khó khăn cho cô ấy khi đọc để hiểu. Nhưng để cảm nhận thì cô ấy sẽ nhanh chóng thôi. Cuối cùng, trên mui tàu chở đầy gió chướng, tôi buộc phải tuân theo lòng mình, viết thêm một đôi giòng cho cô ấy như là một lời thầm thì của trái tim tôi và lời cám ơn “ Cám ơn mình. Mình đã cho anh bằng hết nỗi đắm say. Mình đã cho anh cả những thứ mà mình không có. Nhờ Có Mình. Anh Đã Viết Lại Được Rồi. Viết Ngay Ngắn. Viết Tinh Tươm“ .
Mình thổi vào đời anh cơn gió chướng,
Khi  con  cá  đồng  trữ  mỡ  về  đìa,
Mùa giáp hạt lao xao niềm hạnh phúc,
Khói lam chiều ngan ngát trên đường quê.
Gạo Trắng Tép. Mình nấu cơm. Ngọt lịm,
Theo thời gian thơm, thơm mãi hương đời.
Cái đầm ấm đong đầy trong ánh mắt,
Vị ân tình cứ ngòn ngọt trên môi.
Ui cá rô mặn mòi, tươi lát ớt.
Đỏ thắm môi, tình thêm ấm và nồng.
Giọt mồ hôi, hơi vợ chồng quen thuộc
Con chim quyên đáp xuống trái nhản lồng.
Canh đọt choại Mình nêm con mắm sặt,
Chấm nước mắm đồng đầm đậm hương quê
Thứ đặc sản giản đơn ngon muốn chết,
Đi gần, đi xa. Hễ nhớ phải quay về.
Nếp nhà lá làm buổi trưa mát rượi,
Mà lại đem nồng ấm lúc đêm về.
Trăng gió mãi thì thào với lá…
… cùng chúng mình thủ thỉ suốt đêm khuya.
Những bông lúa sau nhà đang lã ngọn
Cứ đong đưa theo cơn gió giao mùa.
Mình cũng thế. Thả hương vào trong gió,
Mái tóc dài đong đưa, đong đưa.
Nhớ món ăn hay nhớ Mình. Hổng biết.
Bởi khi về thì có đủ tinh tươm.
Ăn ngon miệng và ngủ trong say đắm,
Chung quanh Mình cái gì cũng thơm thơm.

Như là một giấc mơ thấy về quá khứ. Tôi may mắn lắm không khi được cô ấy lưu giữ cho tôi một thứ hạnh phúc cũ càng, lạc hậu. Chúng tôi đang đắm say nhau trong một khung cảnh quê mùa gần như trái đạo. Út Giữa ơi. Anh yêu em. Một thứ tình yêu phải lập bập những hai mươi năm mới nói nên lời.




           [i] Bây giờ gọi là báo tường
[ii] Tên một con rạch nhỏ nằm cách thị trấn Thứ Ba (An Biên) khoảng ba cây số về hướng đông nam.
[iii] Ở Nam bộ có 2 cách tính diện tích đất; Công tầm điền (2,634m) quy ra 144 tầm vuông tương đương 1000m2 (999,065664 m2), dùng để đo đạc khi mua bán hoặc làm bằng khoán. Công tầm cắt (3m), quy ra 144 tầm vuông bằng 1296 m2, dùng để đo đạt khi tính công điểm lúc canh tác hay thu hoạch.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét