CHƯƠNG VII :
CHÍN CUỐN LỊCH VÀ BA MƯƠI TỜ LẺ
Cuồng chân. Nhảy tuốt vào đây
Sáng chiều ngồi đếm tháng ngày đi qua
Vừa ngẫm nghĩ, vừa ngâm nga
Biết đâu có thể ngộ ra lẽ đời?
Một tấm thảm
màu xanh thẫm, phẳng ran như chiếc đệm đang dập dềnh theo cơn gió. Lúa đã đứng
cái và hứa hẹn một mùa bội thu :
Tiếng thằng
Hoà nói sau lưng :
- Ba ơi. Má
nói ba mê miếng ruộng hơn má.
Tôi quay đầu nhìn lại, bổng nghe đau điếng. Tôi giật mình tỉnh giấc. Ánh đèn 100w vàng vọt làm tôi chóa mắt. Tôi đưa tay dụi mắt, đó là một cơn mơ. Một cơn mơ thật đẹp giữa một thực tế buồn hiu. Ngoài kia trời có lẽ sắp mưa. Trời oi bức. Một mùi hôi xộc vào mũi, tôi đảo mắt nhìn quanh, hơn sáu mươi con người, trong đó có tôi, nằm sắp lớp trong một căn phòng 49 mét vuông. Tất cả đều mặc quần cụt, ở trần, thậm chí có người không mặc gì cả. Bằng một tấm lòng nhói buốt, nhưng tôi lại rất bình thản đón nhận cái kết cục này. Sự bình thản của tôi làm cho mấy tay công an đến bắt tôi ngạc nhiên. Không biểu lộ một chút sợ hãi, lại càng không có sự phản kháng. Một sự bình thản hơi có vẻ bất cần. Mà không bất cần sao được, khi mà cái cuộc sống tuyệt vời mà tôi đã đem hết tâm sức để tạo dựng, lại được đặt trên một nền tảng của sự mất mát. Mà không bất cần sao được khi mà giấc mơ ban nãy đã báo cho tôi biết được thành quả mà tôi cố gắng làm cho người tôi yêu mến.
Một tuần, một tháng rồi một tháng nữa… Tôi không đếm những tháng ngày tù tội của mình. Mà tôi đếm những âu lo, buồn phiền mà tôi gây ra cho những người thân của mình, mà giờ đây lại có thêm mẹ con Út Giữa. Cái sinh hoạt ở đây không cần phải nói và chính cái khốc liệt của môi trường sống đậm đặc này. Tôi mới nhận ra được cái diệu kỳ của tạo hóa, khi ban cho con người một khả năng sinh tồn. Căn phòng bốn mươi chín mét vuông với hơn sáu chục con người. Quả là một môi trường sống kinh hoàng. Nhưng chính vì thế nó chứng minh cho mọi người thấy cái khả năng sống của con người lớn lao biết nhường nào. Khám phá ra điều này bằng chính mạng sống của mình quả là một điều đắt giá và đáng trân trọng xiết bao. Đã có nhiều người hoàn toàn suy sụp. Nhưng với tôi, không hiểu có một điều gì đó làm cho tôi bình thản đếm ngày tháng trôi qua. Tôi không biết mình nên phải cám ơn hay giận hờn. Mà cám ơn hay giận hờn cái gì? Không hiểu. Đã có những ngày không có cơm. Nhưng trong cái rủi thì lại có cái may. Để chống đói. Ban quản lý trại giam cho phép thân nhân những người bị tạm giam có thể đến thăm, nuôi bất cứ lúc nào. Những món quà từ gia đình tôi gởi đến đều do vợ tôi và cô em út gởi vào. Tôi thầm mong sẽ nhận được của Út Giữa một món gì đó. Nhưng lại cũng vái trời cho cô ấy đừng hay biết. Tôi không muốn cô ấy buồn khổ thêm. Tôi hy vọng những gì tôi chuẩn bị cho mẹ con cô ấy đạt được một kết quả nào đó. Với kết quả này tôi xem như là một sự tạ lỗi nhỏ nhoi của mình. Tôi cũng biết rằng kết quả càng cao thì nỗi đau của cô càng lớn khi mà tôi thì bóng chim tăm cá. Bổng dưng có cái gì đó đè nặng lên người tôi, hình như là tội lỗi. Cái thứ tội lỗi mới xem ra thì khá mơ hồ, nhưng lại hoàn toàn có thật. Nhất là khi tôi nghĩ, nếu khi trở về thì tôi phải có một sự lựa chọn. Nhưng rồi Út Giữa lại đến, đến bằng những ngày tháng tuyệt vời, đến bằng những hình ảnh làm thành những trang viết của tôi. Tôi thì thầm đọc nó như là một tín đồ ngoan đạo cầu kinh. Ôi có ai đồng ý với tôi để gọi những lời thầm thì ấy là Kinh Tình Yêu không nhỉ. Và những lời kinh ấy cho tôi yên bình trong những ngày khốn khổ này.
Một tháng, rồi những tháng tiếp theo. Những cái cảnh sinh hoạt oái oăm cứ ngày ngày tiếp diễn và không biết tự lúc nào nó trở nên quen thuộc. Những tháng nắng, những ngày mưa, Những đêm đông và ngày hè. Đều nóng. Ban ngày thì mạnh ai nấy quạt, ban đêm thì chia ca mỗi phiên quạt qua, quạt lại năm trăm lần với cây quạt chưa từng thấy trên thế gian này. Nó được làm bằng cái bao bố, ngang khoảng sáu tất, dài khoảng một mét. Nhìn người quạt trông giống như họ đang múa ballet. Một điệu múa mà không ai có thể thưởng thức được nếu không đến nơi này. Nhưng cũng có lắm người chưa quen hay ngủ gà, ngủ gật rồi vuột tay. Thế là cả phòng nháo nhào lên vì ai đó giật mình chửi toáng khi bị cây quạt đáp xuống người. Rồi cũng có những tay vừa quạt vừa hát, như hát ru em ngủ. Cũng có những tay đứng quạt mà chẳng có một manh vải nào trên người vào ngày quá oi bức. Họ tự nhiên để cho cái “bộ phận đàn ông” đong đưa qua lại nhịp nhàng theo vũ điệu ballet ma quái ấy. Tôi nhìn ngắm và nhận ra một điều. Con người càng lâm vào cảnh khó khăn nhiều chừng nào thì cái bản chất chân thực của nó hiện ra rõ nét chừng ấy. Tôi cũng thế. Chỉ có khác một điều là tôi có thể đánh giá người khác bằng một cái gì đó khá cụ thể như là một con số. Nhưng với bản thân mình thì dù biết đó, nhưng nói cho cụ thể thì lại không. Dù rằng tôi cố mà khách quan khi nhìn ngắm về mình. Nhưng vô ích. Vì những điều tôi nhận xét về mình thì cái gì cũng đúng. Ngộ ghê. Mình hay đến vậy sao ta? Thế mà lại ở tù. Nhưng cái tôi lạ lùng nhất về mình là không bao giờ tôi lo âu về bất cứ một điều gì thuộc về bản thân mình, từ những cái ấm lạnh đói, no cho đến cả những yếu đau, sống chết. Tôi bình thản.
Ở đây tôi được hân hạnh sống chung với các tướng, tá, các chủ tịch, các chức sắc lãnh đạo, cũ cũng như mới, các tu sĩ của các tôn giáo. Họ khác biệt nhau hoàn toàn về suy nghĩ, về trình độ học vấn, về kiến thức… Bên cạnh ấy là các băng nhóm đầu trộm đuôi cướp, các quan chức chính quyền mới không biết vì lý do gì mà cũng nhảy vào đây. Để rồi cá đối bằng đầu. Nhưng lại khác biệt hoàn toàn, ngoại trừ một điểm là tất cả đều mình trần thân trụi và ảo tưởng thì không chê vào đâu được. Chính cái điều đó mà họ, trong đó có tôi, rất giống những gì mà Alexandr Soljhenitsyne diễn tả trong Quần Đảo Gulag về cái sinh hoạt của các trại tập trung cải tạo ở Liên Xô sau cách mạng tháng mười Nga. Chỉ có điều là nó ít ghê rợn hơn (chí ít cũng là ở nơi này). Và tôi bắt đầu chú ý, rồi săm soi từng nhân vật một. Rất kiên trì. Bởi vì tôi có thừa thời gian mà.
Một tay nhỏ hơn tôi dăm tuổi, có bộ dạng của một công tử với khuôn mặt trắng trẻo, đẹp trai với bộ ria mép được chăm sóc khá cẩn thận, dù đang ở tù. Bảy Huỳnh. Anh ta rất thông minh. Anh ta có một bàn chân chỉ còn hai ngón út và áp út, kết quả của một cú hủy hoại thân thể để trốn quân dịch. Anh ta là Chủ Tịch của một mặt trận có tên là mặt trận Liên Bang Đông Dương (?). Nhưng sinh hoạt của anh ta trông khá buồn cười, như là cái tên tổ chức của anh ta. Hồi súng đạn đầy mình thì không dám, đến khi mình trần thân trụi thì chống Cộng hết mình. Ngoài những giờ cơm nước thì anh ta ngồi thiền. Thỉnh thoảng thì rù rì phổ biến cương lĩnh chính trị của cái mặt trận. Khi tôi được nghe cái nội dung ấy, lòng tôi nhộn nhạo. Tôi không ngờ anh ta chạm mạch đến thế, dụ khị ai được bằng cái lập luận điên điên, khùng khùng ấy. Anh ta mang một cái ước vọng thành lập một vương quốc gồm ba nước Việt, Miên, Lào với đầy đủ bộ sậu chúa thánh tôi hiền, nhưng không phải là quân chủ lập hiến. Sống giữa thời đại này mà anh ta mơ mộng thành lập một vương triều như trước đây mấy thế kỷ. Tôi thấy anh ta có vẻ ngưỡng mộ vua Lê Thánh Tôn, một ông vua mà tôi không khoái gì mấy. Cũng hay. Trông anh ta giông giống cái tay tự nhận là Sa Hoàng trong cái quần đảo Gulag ấy. Nhưng tôi cà khịa cũng không kém khi hỏi anh ta sao không gọi cái tổ chức của anh ta là Đại Vương Quốc Đông Dương. Anh ta trả lời như vậy có vẻ phong kiến quá. Và tôi hết ý kiến. Nhưng anh ta lại có một ngón nghề không chê vào đâu được. Anh ta thuộc hơn cả trăm bài thơ Đường từ nguyên tác đến bản dịch. Mà anh ta lại chọn những bản dịch của các dịch giả thuộc hàng đại thụ như Phan Huy Vịnh, Trần Trọng Kim, Tản Đà… Thậm chí anh ta còn tự mình dịch một số bài mà ai cũng thuộc như Hoàng Hạc Lâu, Khúc Giang, Trường Tương Tư, Phong Kiều Dạ Bạc… và cả một đoạn Tỳ Bà Hành, đọc nghe cũng khá ấn tượng. Tôi hỏi:
- Sao ông không dịch hết.
Anh ta bảo
- Tôi mới cảm được có một đoạn. Dịch mà ép quá, nghe rất lôm côm.
- Ông định so với Ông Cụ Phan Huy Vịnh à.
- Ông điên. So cái gì? Mỗi người có một cảm thụ riêng và một ngôn ngữ riêng của thời đại mà họ đang sống và sử dụng. Ai dịch cứ dịch. Người đọc thích ai thì đọc người đó. Tôi không nghĩ chuyện khen chê, so sánh.
Và anh ta đọc cho tôi nghe một đoạn mà anh ta dịch được
Bến Tầm Dương,
nửa đêm tiển khách
Gió thu xua lau
lách bập bềnh
Chủ bên
ngựa, khách trên thuyền
Muốn nâng chén
uống, vắng tênh tiếng đàn
Ly biệt buồn,
say vui không được,
Nước mang mang
đẫm ướt trăng treo.
Tỳ bà gợn tiếng
sóng reo.
Chủ rề rà đứng, khách gieo neo lòng.
Tiếng đàn ai trên sông quạnh vắng?
Rồi hốt nhiên chìm giữa hư không.
Xô thuyền mong được nhau cùng
Khêu đèn, thêm rượu xin chung tiệc này.
Phô hết tấm chân thành mới nhận
Mà nửa dung nhan khuất sau đàn
So dây, vài tiếng tơ buông.
Chưa tròn giai điệu, đã vương vấn tình …
Thực tình mà nói, anh ta chưa thành thục cho lắm về âm luật của thể song thất lục bát. Nhưng ngôn ngữ mà anh sử dụng thì quả là hay thật. Tôi thì chữ Tàu bẻ đôi cũng không biết nên chịu. Đành phải để anh ta ngâm nga và giải thích đâu ra đó. Ngoài ra, anh ta giảng Kiều thì không chê vào đâu đuợc. Nhưng quan điểm của anh ta khi giảng Kiều thì thật bất ngờ. Không giống ai. Anh ta cho rằng nhân vật Từ Hải là nhân vật tâm huyết nhất của Nguyễn Du. Cái chết của Từ Hải là một sự hy sinh vô tiền khoáng hậu cho tình yêu, cho sự bình yên của bá tánh (?). Nếu Kiều là sự giải bày một thân phận. Nhưng Từ Hải là sự bày giải một ý chí. Nhưng tôi chỉ tin anh ta một điều duy nhất mà anh ta nói là anh ta có cử nhân Hán Học. Do đó tôi bị anh ta cuốn hút vì cái trò chơi này. Và chỉ có bấy nhiêu. Nhưng dù sao, trong hoàn cảnh này, nếu trao đổi một điều gì đó trên lĩnh vực này, thì anh ta quả là một người thú vị. Không hiểu sao tôi lại đọc cho anh ta nghe một bài thơ của Đỗ Phủ mà tôi thuộc từ thời còn đi học. Sở dĩ tôi thuộc bài thơ này lâu như vậy là cứ mỗi lần Sài Gòn có đảo chánh thì có ai đó ngâm nga.
Bài Thu Hứng:
Bài Thu Hứng:
Văn đạo Trường An tự dịch kỳ.
Bách niên thế sự bất thăng bi.
Vương hầu đệ trạch gia tân chủ,
Văn vũ y quan dị tích thì.
Trực bắc quan san kim cổ chấn,
Chinh tây xa mã vũ thu trì.
Ngư long tịch mịch thu giang lãnh,
Cố quốc bình cư hữu sở ti.
ĐỖ PHỦ
Nghe Trường An tựa cuộc chơi,
Trăm năm thế sự đổi dời buồn chưa?
Lạ người trong mái nhà xưa,
Áo quần dị hợm ngẩn ngơ mắt dòm.
Trống chiêng ải bắc om sòm,
Bình tây truyền hịch ngựa bon rầm rầm
Sông thu lạnh, cá bặt tăm
Yên nơi nước cũ dập bầm lòng ta
Tất nhiên là anh ta khoái chí tử, cứ theo hỏi tôi ai dịch mà ác liệt thế. Tôi nói không biết. Thế nhưng anh ta cũng ngồi phân tích một hơi. Anh nói đúng, tình hình đất nước tôi lúc này na ná thế. Biên giới phía Bắc, phía Tây vẫn râm ran tiếng súng và tôi ngồi yên ổn nơi đây để tha hồ mà bùi ngùi.
Một tay khác vốn là một hạ sĩ quan, chủ tịch Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc có bộ dạng của một tay tống thư văn, nói dóc thầy chạy. Lúc nào cũng vẻ ra viễn ảnh một “ngày trở về trong chiến thắng“ Và tuyên bố một câu xanh dờn:
- Ngày tàn của Cộng Sản là ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Hỏi lý do tại sao? Anh ta trả lời:
- Hãy đợi đấy. Rồi sẽ thấy.
Và tôi thấy anh ta ngồi đợi bằng cách săm soi mấy giề lác trên người.
Các tay tham gia các cú vượt biên thì lúc nào cũng vẽ ra cái cuộc sống ngon cơm nơi vùng đất vô định nào đó, mà họ chưa bao giờ biết, dù qua sách vở, báo chí hay phim ảnh. Luôn luôn hẹn nhau khi ra tù thì vượt tiếp. Và nếu như họ vọt được, họ sẽ bị gán cho một cái mác là “Việt Kiều Phản Quốc” (?)
Một vị nữa là dân tập kết về, tuổi ngoài bốn mươi, và là một cán bộ Hải Quan có cỡ của chính quyền mới, không hiểu lý do gì lại nhảy vào đây, nghe nói là dính dáng đến vụ vàng của những người vuợt biên bị cơ quan mình bắt giữ. Ông ta có sinh hoạt khá nghiêm túc. Nhưng tối nào truớc khi đi ngủ cũng lầm rầm tụng kinh. Điều này lạ đây. Người cộng sản vô thần này đang ngày đêm cầu nguyện. Không hiểu Trời, Phật, Thánh, Thần nào có thể vào đến nơi đây để chấp nhận những lời cầu nguyện ấy.
Một tay nữa là một cán bộ lâm nghiệp, tuổi cũng ngoài bốn mươi, cũng dân tập kết về, lại tự nhận là bà con với bên vợ thủ tướng Trần Thiện Khiêm. Tôi điếc tai, không hiểu tại sao anh ta lại tự nhận như thế. Ai mà có nhân thân như thế, trong lúc này, người ta dấu chí chết, còn anh ta thì khoe. Tôi không hiểu anh ta moi từ đâu ra cái gia phả của bà Đinh Thủy Yến và kể vanh vách từng chi họ. Nhưng lại chẳng có cái chi họ nào khớp với cái họ anh ta mang. Người ta nói “ Thấy sang bắt quàng làm họ “. Còn anh này không lẽ khùng đến độ “ Thấy… tiêu tan bắt quàng làm họ “. Không hiểu nổi. Anh ta dính vào một vụ mua bán gỗ trái phép. Nhưng có một việc mà anh ta nói làm tôi suy nghĩ, dù tôi biết rằng không thể nào làm được chuyện này, ngoài tay quản lý sách báo nộp lưu chiểu:
- Nếu mày có dịp đọc báo Nhân Dân từ số đầu đến số mới nhất, mày mới nhận ra một sự thật. Sự thật đó như thế nào thì chỉ có đọc xong mày mới nhận ra. Nhưng tao cũng nói sơ sơ cho mày biết. Tức là từ “ ông” cho tới “thằng”, từ “trắng” cho tới “đen” chỉ cách nhau một số báo. Hai mươi bốn giờ cho một cú lật lọng nhưng thật ra thì chỉ có một giây.
Rồi anh ta giải thích là tại sao như thế. Nghe những gì anh ta nói làm tôi nhớ tờ báo bị tôi xé nát tại phà Vàm Cống.
Hai ông cán bộ hết thời cứ kẻ tung, người hứng, kể chuyện ngoài Bắc. Họ kể về những hình ảnh về cuộc cải cách ruộng đất năm 1958 ở Miền Bắc với những câu khẩu hiệu “Có khổ, nói khổ, nông dân vùng lên“, “Ai nghi ai địa chủ. Cứ tố”. Đúng sai, trúng, trật như thế nào thì không biết. Nhưng nghe mà lạnh tóc gáy. Và để chứng minh cho những gì họ nói. Họ kể cho tôi nghe những oan khuất, những thảm kịch mà những người Miền Bắc gặp phải khi họ trở thành đối tượng cho chính sách ấy. Thậm chí, có những người là cán bộ, đảng viên với huân, huy chương đỏ ngực, bổng nhiên trở thành đối tượng thanh trừng mà họ chẳng biết tại sao? Họ cũng kể cho tôi nghe về số phận của những văn nghệ sĩ dính vào vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Về cái chết gần như cùng lúc của Phan Khôi và con ông, Phan Thao. Và số phận của những người như Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Thụy An…Về Nhân Văn Giai Phẩm thì tôi có đọc. Đọc đủ cả bốn số lúc lang thang ở Sài Gòn. Những gì họ kể thì khá đúng. Cuối cùng, tôi không hiểu họ muốn gì khi kể cho tôi nghe những điều như thế. Thật tình là tôi không hiểu về ý đồ của họ và không hiểu về những điều họ nói là có hay không. Tôi nhớ trước đây chính quyền Sài Gòn đã nói nhiều về điều này. Nhưng lúc đó tôi còn quá nhỏ, những thứ đó chỉ còn đọng lại trong tôi bằng một bức tranh tuyên tuyền với hình ảnh của những bốn năm ông Cộng Sản ốm nhom, ốm nhách đu tòn teng trên cái tàu đu đủ mà cái tàu đu đủ coi bộ chẳng hề hấn gì. Tôi không thể nào đem cái kiến thức táp nham của mình để suy luận xem điều đó đúng hay không đúng, có hay không có. Nhưng qua những câu chuyện họ kể làm cho tôi nhớ đến những thuật ngữ mà tôi đọc được lúc còn loăng quăng ở Thư Viện. “Chuyên chính vô sản“, “bạo lực cách mạng”, “nuôi dưỡng căm thù”… Những thuật ngữ mang đầy tính sắt máu ấy nằm trên giấy trắng mực đen đàng hoàng, được phổ biến và rao giảng, học tập và hành động trên toàn thế giới. Bây giờ, khi nghe những tay này kể chuyện Miền Bắc. Tôi chợt lạnh người. Thế giới này, hay nói rõ hơn, đất nước này như thế sao? Trước đây chính quyền Sài Gòn với luật số 10/59, với lập trường “bốn không“, với những luận điệu thù hằn, với những nhà tù, trại giam. Cố đặt một nửa dân tộc ra ngoài vòng luật pháp. Cái này thì tôi biết rõ, nhưng để hình dung ra mức độ khốc liệt thì hơi khó. Còn những gì tôi đã nghe. Nó ra làm sao nhỉ ?! Nhưng những gì tôi đã thấy, đã trải qua trong một thời gian ngắn ngủi và đang ngồi trong cái hộp cá mòi này thì hiện thực.
Lúc này thì là lúc mà ai cũng râm ran về việc nhà du hành vũ trụ Phạm Tuân bay vào không gian và việc Đặng Thái Sơn đoạt giải thưởng lớn về Piano. Việc này được biết qua những tờ báo gói thực phẩm gởi vào thăm nuôi. Việc của Phạm Tuân thì không có gì phải bàn. Nếu có chăng một thoáng tự hào ké mỏng manh đang len nhẹ vào lòng. Nhưng việc của Đặng Thái Sơn thì thiên hạ, trong cái phòng bé tẹo có mật độ dân số cao nhất thế giới, 63 người trên 49 mét vuông, tương đương 1.285.714 trong một cây số vuông, cũng đáng được gọi là thiên hạ lắm chứ, tha hồ mà bàn tán. Báo chí kể đủ mọi chuyện về quá trình học tập, thi cử của Đặng Thái Sơn. Và chỉ nói về bà mẹ Thái thị Liên, mà chẳng một lời, một giòng nào về ông bố nhạc sĩ Đặng Đình Hưng. Điều này cũng dễ hiểu. Một người có cái lý lịch lu bu ông bố nhạc sĩ Đặng Đình Hưng vì có ông anh là giáo sư khoa trưởng một viện đại học Sài Gòn, đã thế lại dính vào Nhân Văn Giai Phẩm thì làm sao mà sinh ra được một người con tài hoa như thế. Như vậy thì bà Thái Thị Liên sinh ra Đặng Thái Sơn như thế nào nhỉ? Và ông Đặng Đình Hưng nuôi dạy con mình ra sao? Không biết. Chắc có lẽ đây là việc riêng tư của một gia đình nên không cần bàn tới.
Đấy, sự thật, sự dối trá nhìn thấy và không nhìn thấy cứ diễn ra. Và tôi, với cái tính lơ mơ và cái quan điểm mọi việc rồi sẽ qua, bổng nhiên thấy mình khó lòng bước qua giai đoạn này. Khi mà những gì đã qua chẳng có một điều gì hay. Trong cuộc sống, những luận điệu vu khống, xuyên tạc thì ai cũng ghét. Nhưng khổ nỗi, ít ai tránh được điều này, khi mà giận ai đó thì tội gì mà không đơm đặt. Tôi chợt nhớ đến những khuôn mắt thất thần của những người, bị coi là tư sản mại bản, đang lôi thôi lếch thếch rời khỏi ngôi nhà của họ. Hết đợt một rồi đến đợt hai và hiện tại cũng có dăm người đang ở trong cái cái hộp cá mòi này. Họ lặng lẽ, buông xuôi. Có phải thế không. Ôi khó hiểu quá. Họ bóc lột ai nhỉ? Hay là phải trần lưng ra suốt cả một đời, dành dụm được dăm ba với cái ước mong dành một chút dễ dàng cho con cháu mai sau.
Những tay đầu trộm, đuôi cướp thì lạ thay lại thật thà hơn. Ở ngoài họ sinh hoạt thế nào thì vào đây y chang thế ấy. Họ thể hiện bản chất của họ chân thật đến trần trụi, thô thiển, dữ dội. Một sự thể hiện không ai chịu nổi. Liên tục chửi thề, liên tục cự cãi. Nhưng cũng chính nhờ họ mà trong cái phòng giam chật chội này có được những cái để chơi. Phải công nhận là họ tài thật, không biết họ tìm đâu ra những vỏ bình acqui, ngói vở. Thế là họ ngồi tẳn mẳn, tỉ mỉ, mài mài, gọt gọt để thành những bộ domino, cờ tướng, nhưng hay nhất là cờ tướng. Chỉ cần một cây đinh là nào tướng sĩ tượng, xe pháo mã… xuất hiện với những đường nét mà những tay viết chữ Tàu thuê cũng phải thán phục. Và cũng trong số họ nổi lên một vài nhân vật làm cho cái không đặc quánh này đôi lúc như thoáng ra và dịu đi với bài bản cổ nhạc, kèm theo là những tiếng đàn ghita phím lõm phát ra bằng miệng, nhưng cũng không kém phần điệu nghệ. Và cũng chính họ sáng chế ra cái cách đun nước sôi bằng cái ca nhựa. Chuyện như đùa nhưng rất thật. Chỉ cần thoa một ít bột giặt đậm đặc vào cái ca nhựa nơi tiếp xúc với lửa là xong. Và việc hâm nóng những bọc café đen cũng là một phát minh không chê vào đâu được, bọc nylon café được buột chặt và không còn không khí bên trong, rồi bỏ vào cái bọc thứ hai có một ít nước, cũng buột chặc bằng dây thun. Thế là bỏ vào lon nhựa đun lên. Khi nước sôi, vớt ra mở bọc, rót café ra ly. Nóng và không mất mùi. Còn nữa, cái cơ thể của con người chấp nhận một môi trường sống cực xấu, chấp nhận luôn cái bánh tét thiu nhớt được xử lý qua loa. Tuyệt cú mèo…
Con người và cơ thể họ đã có những phương án thích nghi thật tuyệt vời. Nhưng điều đó không ai nhận ra dù họ vẫn thụ hưởng, vẫn áp dụng và quên ngay đi khi họ có những thứ khác tiện dụng hơn. Và tập tành cho cơ thể họ đỏng đảnh chối từ những ban tặng của tạo hóa. Điều này thể hiện rõ ràng sau mười, hai mươi năm sau. Người ta quên ngay cách đun nước, hâm nóng café… cách ăn bánh tét thiu mà không đau bụng, không muốn tự làm lại bộ domino, cờ tướng… không muốn nhớ cái khung cảnh đặc quánh mà họ đã trải qua cũng như một bộ phận khác quên ngay cái đôi dép râu, cái khăn rằn, cái hầm hàm ếch và cả một cây dầm. Đúng hay sai. Trời biết.
Ở đây như là một ly nước múc lên từ một con sông nào đó, rồi trong trạng thái yên tĩnh, đọng lại trong đáy ly đủ thứ tạp nham vàng thau, bụi bặm, đất sình… Tất cả quánh đặc lại, kích bác lẫn nhau, ôm ấp lấy nhau trong cái nhớp nháp không cùng. Nhớp nháp vì mồ hôi, vì bẩn thỉu và vì cả những tính khí, ý nghĩ kỳ quặc được đẩy lên đến cùng tột. Mọi giá trị của cuộc sống bị phủ nhận và bản thân nó tự xoay qua lật lại. Rồi tự xem xét săm soi đến mọi ngóc ngách. Rồi tự phơi bày ra để thách thức? Đấp điếm lại để che dấu mà vẫn lòi hem? Rốt cuộc, tất cả đã trở nên trần truồng với cả hai ý nghĩa đen và bóng. Nguyên nhân của việc này là gì? Một chút quyền lợi con con như một ca nước, một miếng cơm cháy và một hoang tưởng. Miếng cơm cháy, ca nước thì nhỏ nhoi mà cần thiết xiết bao. Còn cái hoang tưởng ấy thì to tổ bố, đẹp vô cùng trong ý nghĩ của những người mang nó, nhưng lại hoàn toàn không có thật. Kể cả khi có phép lạ. Còn tôi, tôi có cái gì gọi là hoang tưởng không? Có. Đó là một cuộc sống bình yên với Út Giữa. Một điều không thể dù rất có thể.
Tất nhiên trong số đó vẫn còn một số ít người tỏ rõ thái độ bình tĩnh, họ sống và sinh hoạt có nhân cách (!?). Họ không nhận định sự việc một cách vội vã khi họ chưa có đủ những thông tin, thứ này ở đây rất hiếm, nếu có thì thường rất nhiều sai lạc hoặc bị bẻ cong đi. Họ ý thức được việc của họ làm và họ bình tỉnh chấp nhận và cố tìm ra một biện pháp nào đó khả dĩ. Tiếp xúc với những người này tương đối dễ chịu hơn. Nhưng cũng cực kỳ nguy hiểm. Họ biết lúc nào mua ai và bán ai. Và tất cả đều quay quắt với những suy nghĩ của mình đến độ quên rằng họ đang đói. Tôi cũng thế. Cuối cùng thì những cái gọi là nhân cách ấy cũng phù phiếm nốt. Bởi vì nó chỉ là một cái vỏ mỏng manh mà cuộc sống khắc nghiệt này không cho phép nó tồn tại. Và cái từ “ Con Người” bị chiết tự một cách rạch ròi. Khái niệm con đang làm bá chủ vì mục đích tối thượng là sinh tồn. Thế nên khái niệm người, nếu có, chỉ bốc lên rồi lụi tàn ngay tức khắc. Và điều này biểu lộ một cách trần trụi khi mà cơm đang ít dần cho tới một ngày nó không còn nữa mà thay vào đó là bo bo, được gọi bằng cái tên nghe rất đã cái lỗ tai. “Cao lương”. Trong cơn đói lã người mà nhá vào thì nó có thêm một thuộc tính rất ư vương giả, thuộc tính đó là “…mỹ vị”. Tôi đem cái ý nghĩ này nói cho bảy Huỳnh, tay mang mộng quân vương. Anh ta cười nhìn tôi rồi buông ra một câu là tôi chưng hửng:
- Ông lạc quan đến thế là cùng.
- Lạc quan?
- Chứ sao. Tôi phải học cái tính của ông.
Tôi nín thinh và lại nghi ngờ mình. Và trong một lúc nào đó tôi nhìn lại tôi và những người quanh với hình hài xanh rớt, ghẻ chốc đầy mình và tôi chợt nhận ra, đó là những nguyên nhân chủ yếu làm cho những cái đầu hoang tưởng bự thêm. Còn tôi thì ra sao? Tất nhiên tôi cũng như vậy thôi, nhưng không thể hành động tích cực khái niệm con được mà chỉ khu trú trong ý tưởng một cách vật vả đau xót. Bởi vì một lý do rất hiện thực. Tôi yếu đuối về thể chất. Và thỉnh thoảng tôi lại làm một vài chiêu khiến cả phòng ngơ ngác. Không một mảnh vải trên người, vì quá nực, tôi đi lang thang quanh phòng tự nhiên như khi đi dạo ngoài công viên với áo quần tinh tươm và thoải mái ngân nga “ Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa”, “Hoài Cảm “ đôi khi lại là “ Nếu Hai Đứa Mình”… với hình ảnh của… ai đó trong đầu. Vậy mà cả phòng lặng im phăng phắc lắng nghe.
Hoàn cảnh của tôi trong căn phòng này trông có vẻ như khác hơn mọi người. Những ngày đầu, tất cả những gì tồn tại trong đầu tôi chỉ là gia đình và mẹ con Út Giữa cùng với thái độ thản nhiên đón nhận hoàn cảnh này. Nghĩ về Út Giữa, ngoài những cảm xúc mà những ngày ở bên cô mà tôi nhận được, còn có một thứ linh cảm mơ hồ. Hình ảnh của thằng Hòa hiện ra, làm ấm áp lòng tôi. Nhớ những ngày cha con quấn quýt nhau với những i, chữ tờ, những câu hát ngô nghê. Nhưng dần dần tôi hiểu không phải chỉ là như vậy, mà là một điều gì khác hơn mà tôi chưa từng có bao giờ. Tôi chìm đắm vào đó và pha trộn trong một hạnh phúc mơ hồ là sự lo sợ cũng không kém mơ hồ. Chính vì điều này, nên thái độ của tôi có vẻ gì đó hơi tưng tưng và cũng hoang tưởng. Một loại hoang tưởng dị bản. Điều này đã làm cho họ nghi ngại. Nhưng dần dà rồi họ cũng quen dần và tôi cũng có những bàn luận này khác với một vài ai đó. Chính những sự tiếp xúc này cho tôi nhận ra sự thật. Tôi hoàn toàn không hiểu họ muốn gì? Những điều gì họ nói họ làm, những điều gì họ nhận với CSĐT qua những lời họ kể lại, mà thường thì không thật. Nhưng từ trong sinh hoạt và tính cách của từng người. Tôi loáng thoáng nhận ra là họ, nếu có tham gia thì cũng là kẻ ngoài lề, không có hoặc có rất ít. Những cáo buộc của CSĐT là tính cách nghiệp vụ của họ. Thay vì với tư cách người bị cáo buộc họ tìm cách tránh né hoặc chứng minh mình không có. Thì họ lại ngạo nghễ nhận tuốt. Thậm chí còn đưa ra những chứng minh cho thấy họ thật sự là như thế. Những cái đó sẽ làm cho họ dựa cột dễ như chơi. Thế thì họ muốn gì? Họ tin vào điều gì? Tôi thật sự không hiểu. Hay là họ muốn tự sát mà khỏi phải mất công. Nhưng cũng may, những tay CSĐT, dù rằng trình độ có hạn chế. Nhưng họ vẫn nhận ra điều này. Còn việc họ xử lý ra sao thì có trời mà biết. Tôi không thể được chứng kiến những gì họ nói với CSĐT. Những lời kể lại của họ thì không đáng tin cậy dù chỉ một chút. Nhưng dần dà tôi cũng hiểu là những điều tôi nhận xét là không sai mấy. Chắc là phải cải tạo tư tưởng thôi.
Tất cả những thứ đó làm cho tôi lạ lùng với họ. Nhưng với riêng mình, tôi nhận ra một điều thú vị hơn. Nhìn ngắm một con người và đoán ra, kiểm nghiệm lại tính cách của họ. Trò chơi này thú vị đây. Tôi miệt mài với niềm vui của mình. không hé lộ với một ai. Tôi giữ cho mình một thái độ vừa phải. Rộng rãi cũng vừa phải, lâu lâu ích kỷ một chút cho phải phép(?) Tham dự các trò một cách lấy có. Nhưng gì thì gì tôi vẫn cảm thấy mấy tay du thủ, du thực dễ gần hơn. Chỉ cần giữ một khoảng cách nhất định. Hốt nhiên tôi lại có ý nghĩ là tay Bảy Huỳnh này nói đúng. Tôi lạc quan !?
Nhưng có một nhân vật làm tôi thật sự nổi giận. Ông ta khoảng trên năm mươi, tướng tá đường bệ, kiểu cách. Phong thái quan liêu, hách dịch vẫn tồn tại trong cái hoàn cảnh mình trần thân trụi. Ông ta nhìn ngắm mọi người bằng một thái độ trịch thượng. Nhưng nhỏ mọn và ích kỷ vô cùng. Mỗi khi được gọi đi làm việc, ông ta chuẩn bị một bộ cánh và một bộ vó làm cho mọi người xốn mắt. Ông ta là một thượng nghị sĩ của Thượng Nghị Viện Sài Gòn. Mọi người gọi ông là cụ Thượng bằng cách ngân dài từ “thượng…” Ông ta có vẻ khoái, nhưng sau đó là nhăn mặt khi có một tay nói bâng quơ “ Giá như lúc này có con nhỏ nào để mà thượng lên bụng thì chết cũng cam” Chẳng hiểu ông ta nghĩ thế nào về hàm ý của cái hỗn danh đó? Tôi không tiếp xúc với ông ta. Vì trước ngày tiếp thu. Tôi đã có một lần chạm mặt khi đến văn phòng đại diện của ông tại thị xã. Nếu ngày hôm đó, không có đại úy Nhật thì có lẽ tôi đã bị ông ta tống vào tù. Nếu không thì cũng bị anh Văn cạo cho một trận tới xương. Bây giờ gặp lại ở đây. Tất nhiên ông ta không bao giờ nhớ tôi là một thằng nhóc con đã từng một lần giơ còng số tám toan phập vào tay ông. Riêng tôi thì tôi săm soi ông ta hơi kỹ. Không phải để tìm cách trả hận, mà để xem những gì mình đã từng cư xử với ông ta có thỏa đáng không.
Sự chăm chỉ của tôi có kết quả. Thường thì, mỗi khi nhận cơm nước thì có một tổ trực. Mà ngày hôm đó tổ trực lại do một tay hình sự làm tổ trưởng. Tay này tính khí chằng gây. Khi cụ Thượng chìa ca lãnh cơm, thì nhận ngay một giề cơm cháy. Thế thì khổ cho hàm răng giả của cụ Thượng rồi. Đến khi phát nước, thì cái kiểu đổ nước từ ca sang xô cụ Thượng luôn luôn nửa trong, nửa ngoài. Nhiều lần như thế cụ Thượng giận, nhưng chỉ lầu bầu thôi. Nhưng quá tam ba bận, cụ Thượng không dằn được, nắm cỗ tay tổ trưởng nghiến lợi, ông ta không còn răng, la lên:
- ĐM. Lúc đương thời, những thằng như mày tao vặn họng một hơi cả trăm. Đồ khốn nạn.
Mấy tay hình sự vốn không vừa, nhưng hình như cảm thấy như thế nào, nên thay vì một trận ấu đả, thì lại la làng:
- Cán bộ ơi cán bộ. Ông này muốn giết tôi.
Thế là cán bộ xuất hiện và rồi mọi việc cũng xong. nhưng bảo đại diện phòng buổi tối hợp phòng kiểm điểm.
Cuộc họp kiểm điểm được tiến hành, dưới sự chứng kiến của cán bộ bên ngoài. Lúc đó, tôi mới nhận thấy sự cô đơn của cụ Thượng. Không ai bênh vực ông ta, dù rằng sự việc cũng chẳng có gì quá lắm. Tất cả mọi người đều chăm chăm vào cái sinh hoạt và tính cách của ông ta và cho đó là nguyên nhân xảy ra việc này. Lỗi luôn luôn về phía cụ Thượng. Tất nhiên, ông ta vẫn có những lập luận của mình:
- Tôi không đồng ý những lời phê bình của các đồng cảnh. Tôi có suy nghĩ của tôi, hành động của tôi. Những gì tôi nghĩ, tôi làm đều không đụng chạm tới ai. Nhưng một số lớn các đồng cảnh ở đây kết bè, kết phái lại đối phó với tôi. Các anh đó quen cái thói lưu manh ở ngoài đời lấy mạnh hiếp yếu. Dù gì tôi cũng là người có tuổi. Tôi không đòi hỏi bất cứ một ưu đãi nào, tôi cần sự công bằng như anh cán bộ đã nói. Tôi nghĩ anh cán bộ nói đúng, chế độ mới không chấp nhận sự đàn áp. Mọi người phải đùm bọc lẫn nhau, thương yêu nhau, giúp nhau cải tạo tốt.
Tôi cảm thấy tức cười với cái lập luận kêu gọi sự công bằng, nhưng cố nhịn. Mọi người ồn ào có ý kiến. Cuối cùng có một tay nói ra ý kiến như sau:
- Cái lỗi gây ra vụ lộn xộn này không phải do cụ Thượng, mà do tổ trưởng phát cơm, nước. Trong tình trạng bị ức chế, dẫn cụ Thượng đến hành động trên là logic. Nhưng những lời phát biểu của cụ Thượng thì tôi nhận thấy có mấy vấn đề sau: Một là, cụ Thượng không hiểu rõ vị trí của mình trong hoàn cảnh hiện tại; Hai là, cụ Thượng tỏ rõ một thái độ của một người thượng đội hạ đạp. Bằng chứng là đối với người chung hoàn cảnh thì cụ Thượng cư xử bằng thái độ bá đạo, nhưng khi nói chuyện với cán bộ thì lại xưng em, trong khi cán bộ thì tuổi tác còn quá nhỏ; ba là, câu phát biểu đó chứng tỏ trong quá khứ cụ Thượng là một người ỷ quyền, ỷ thế mà những kẻ như thế thì luôn luôn gây bất công, tác hại cho người khác, nhưng lại luôn luôn đòi hỏi sự công bằng cho mình. Quyền thế càng cao tác hại càng lớn. Để chứng minh cho điều đó, tôi nhắc lại “ĐM. Lúc đương thời, những thằng như mày tao vặn họng một hơi cả trăm thằng. Đồ khốn nạn.”; Ba là, cụ thượng tuổi tác đã nhiều, nhưng tư cách chưa được nghiêm chỉnh lắm. Sự việc đó có nhiều cách giải quyết khác êm đẹp hơn; Bốn là cộng lại ba điều trên cụ Thượng là một người bỏ đi, không đáng cho chúng ta kính trọng. Thế nên qua sự việc vừa qua tôi đề nghị tất cả mọi người trong phòng đừng nên ghét bỏ cụ Thượng mà tội nghiệp cho cụ Thượng. Bởi vì, cụ Thượng không biết việc mình làm là việc gì, không biết điều mình nói là điều gì. Nếu chúng ta tiếp tục phê phán, theo tôi, chúng ta nên tự phê phán cái đầu gối của mình. Còn anh trực phát cơm nước thì phải tư nhận sai thôi. Việc làm của anh không có lý do gì để mà bào chữa cả. Xin hết ý kiến.
Tôi nghĩ rằng mọi người sẽ ồ lên. Nhưng không. Tất cả sáu mươi lăm con người im phăng phắt. Tôi nhìn ông ta. Ông ta gục đầu vào hai tay, như muốn thu nhỏ lại thân hình to béo ấy. Tôi nhìn tay vừa phát biểu. Tôi thực sự ngạc nhiên. Hắn trạc tuổi tôi, bị bắt vì cái tội chôm gần mấy chục cái máy đuôi tôm.
Sau việc đó một tháng. Cụ Thượng rời phòng mà không ai biết ông chuyển phòng, chuyển trại hay được trả tự do. Còn tay ăn trộm thì quả là khó hiểu, anh ta học ở đâu cái lối chửi người độc địa thế kia. Anh ta là ai, có phải là tên ăn trộm không? Tôi cố tìm cách để cạy miệng anh ta, nhưng vô ích. Nhìn cái sinh hoạt có vẻ bát nháo của anh ta, tôi nghi ngờ. Nhưng mặc cho tôi loay hoay với anh ta, tôi vẫn có cảm tưởng những gì anh ta nói như là của một người nào khác. Sau khi cụ Thượng rời phòng được nữa tháng, anh ta được ra lao động và trốn mất.
Tôi cũng nghe được về những phiên tòa xử các vụ chống phá cách mạng với những bản án tử hình, chung thân. Thay vì lo sợ thì tôi bình thản, rất bình thản. Không cảm thấy bất cứ một cảm giác nào, dù rằng trong số đó có một vài người là đồng sự của tôi trước ngày giải phóng. Đôi lúc tôi ngạc nhiên về chính mình. Sau này nhớ lại, tôi cũng có cảm giác như thế.
Đừng ai nghĩ đây là một đặc thù riêng của thế giới tội tù. Nó là hệ quả và nó là đại biểu ưu tú nhất, nó phản ảnh sinh động cái mặt trái của một đất nước trong chiến tranh và sau chiến tranh. Những con người xanh rớt ấy với biết bao nhiêu ảo tưởng, bất kể họ đang sống trong một môi trường tệ hại nhất. Họ cũng chẳng màng gì tới ngày mai, lại càng không lo đói khát, dù nước từng ca, cơm cũng từng ca khi vơi, khi lửng. Không thể gọi đây là niềm tin được.
Ở đây cái gì thì cũng thiếu, chỉ có một thứ rất thừa. Thời gian ở đây là thứ thừa thải nhất. Ngoài việc ngắm nghía người khác, tôi tìm một cái gì đó để nghĩ ngợi hầu làm cho nó vơi đi. Những am hiểu của tôi về lịch sử chẳng có một giá trị nào trong cuộc sống đương đại, ngoài lòng tự hào về đất nước mình, dân tộc mình. Quan hệ giữa các quốc gia không còn mang tính khu vực nữa mà là sự chi phối nhiều mặt trên toàn thế giới. Bởi thế quan điểm về độc lập dân tộc cũng bị đổi thay. Điều này xảy ra rõ ràng nhất khi mà chính sách “ bế quan tỏa cảng” của vương triều nhà Nguyễn để lại một di hại quá lớn lao, mà mãi cho đến bây giờ cũng chưa khắc phục được và nó làm cho các quan hệ quốc tế bị lầm lẫn một cách tai hại rồi kéo theo một chính sách cũng tai hại không kém. Vai trò của chiến tranh xâm lược mang tính bành trướng, bảo hộ hay thực dân, đế quốc một cách thô thiển và bạo liệt không còn là vai trò chủ đạo. Nó trở nên êm đềm hơn nhưng nguy hiểm hơn. Ai đó đã đưa ra khái niệm đồng minh, liên minh hay gì gì đó và ai đó chấp nhận nó một cách rất ư bất cẩn. Để rồi làm cho lắm kẻ thở dài “Ai bảo chúng ta mang thân nhược tiểu (!?)“. Ông Diệm đã bỏ mạng và ông Thiệu đã may mắn hơn để còn được phép thở dài, rồi rơi vài giòng nước mắt, chửi đổng vài câu rồi cất bước lưu vong. Thế còn ai nữa. Làm sao mà tôi biết được. Có thể đàng sau những giọng cười, những khuôn mặt rạng rỡ kia là một lương tâm cay cực.
Khi nhận ra điều này tôi ở tuổi ba mươi ba. Nhưng tôi cảm thấy nhức đầu và chán nản vì hoàn cảnh hiện tại của mình. Có thể tôi non gan hoặc thiếu nhẫn nại. Nhưng trong sâu thẳm tâm hồn mình đang văng vẳng lên một lời khuyên dù không rõ lắm “mày không phải được sinh ra để suy nghĩ và làm việc này. Bỏ đi“. Tôi bỏ, dù hơi khó khăn, nhưng dần dà rồi cũng được hay là cũng quên đi. Tôi bổng buồn cười cho mình vì những ý nghĩ này. Đang ở tù mà nghĩ chuyện bao đồng. Cũng may là còn hai tiếng “bỏ đi“ hay là “quên đi”
Nhưng trước khi bỏ đi. Tôi dính. Một ngày, trong phòng giam có gần hai mươi người lủ khủ xách bọc rời phòng. Chẳng biết họ đi đâu? Nhưng cái khoảng không gian họ để lại quả là vô cùng quý giá. Trong khi tôi đang nằm nhìn qua cái khung trời xanh xanh có diện tích khoảng nửa mét vuông và cảm nhận những luồng không khí tinh khiết như có cánh đang chấp chới bay vào. Một diện tích 49 mét vuông với sáu mươi lăm con người quả là khủng khiếp. Nhưng khi còn lại hơn bốn mươi thì quả là thiên đàng. Thiên đàng thật sự. Không gian thoáng ra và yên ắng lạ thường. Trong khi tôi đang mơ màng như thế với vô vàn những hình ảnh đã từng trải qua mắt mình thì tay Bảy Huỳnh có vẻ như sung độ. Anh ta mang một ca nước trà sà đến chỗ tôi và bắt đầu ngay, không e dè:
- Ông Hiền này. Uống trà đi. Rồi nói cho tôi nghe.
Tôi vẫn chưa nhận ra tình hưống mới, nên có vẻ hững hờ:
- Nói cái gì?
- Ông nghĩ xem mấy tay Cộng Sản này tồn tại được bao lâu?
Tôi giật mình. Tay này muốn gài độ gì đây? Nhưng rồi không hiểu sao tôi trả lời một cách rất đúng theo sách vở mà tôi đọc được trong những ngày ở thư viện Rạch Giá bằng câu khẩu hiệu mà tôi thường hay kẽ:
- Họ sẽ “ Hoàn thành thống nhất tổ quốc. Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội xã hội chủ nghĩa”… rồi xã hội cộng sản chủ nghĩa”. Họ tồn tại tới lúc đó.
Bảy Huỳnh trố mắt nhìn tôi:
- Ông đùa à.
- Không. Chắc chắn một trăm phần trăm.
- Thế sau đó?
- Lúc đó nhà nước đã tự tiêu vong. Vai trò của họ không còn cần thiết nữa. Đến đó là hết. Tất cả đều là công dân Cộng Hòa Cộng Sản Chủ Nghĩa Địa Cầu.
- Ông nói nghiêm túc chứ?
- Tất nhiên.
- Vậy thì xã hội cộng sản chủ nghĩa nó ra làm sao?
Tôi thấy bổng nhiên câu chuyện đi đúng hướng. Tôi lập lại ngay câu nói của Kark Mark:
- Hãy sống đến đó đi rồi biết.
Lại một lần nữa. Bảy Huỳnh nhìn tôi:
- Ông lại đùa.
- Tôi không đùa. Tôi nói thật đấy. Này nhé. Làm sao mà ông biết được trong quá trình quan hệ xã hội thì điều gì sẽ xảy ra. Chúng ta có thể tìm ra một quy luật nào đó và hệ thống hóa những điều đã xảy ra trong quá trình quan hệ xã hội. Nhưng không thể lấy đó làm cơ sở để suy luận, dự đoán một quy luật tất yếu cho những điều sẽ xảy ra.
Kỳ này thì Bảy Huỳnh gài độ thật rồi:
- Thế có nghĩa là chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa mang tính áp đặt.
- Ông nói thế là sao?
- Họ đang thiết lập một trình tự. Trước tiên là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, kế tiếp là cách mạng tư sản, rồi xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và sau cùng là xã hội cộng sản chủ nghĩa. Họ đã đưa mỗi một giai đoạn như thế thì phải làm gì? Làm sao? Có cương lĩnh hẵn hoi. Bây giờ họ đang thừa thắng xông lên, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
- Chà ông học bao giờ mà thuộc bài vậy? Nhưng ông đã lầm. Chủ nghĩa Cộng Sản không phải là như vậy. Việc làm duy nhất mà nó làm là điều chỉnh những quan hệ xã hội ấy đi theo hướng của mình. Nghĩa là vẫn phải chấp nhận quan hệ xã hội đương đại. Mà sao ông lại nghĩ thế?
- Họ đấu tranh cho mục đích đó mà?
- Đúng rồi. Mục đích của họ là xã hội cộng sản chủ nghĩa.
- Tại sao ông lại nói tôi lầm.
- Vấn đề nằm ở đây.
- Ông giải thích.
Tôi hỏi Bảy Huỳnh
- Ông có biết khi Kark Mark đưa ra bản tuyên ngôn Cộng Sản. Ông ấy dự đoán thế nào về phong trào cộng sản hay không ?
- Phong trào Cộng Sản sẽ thành lập nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên ở các nước công nghiệp phát triển như Anh, Mỹ, Pháp, Đức…
- Ông biết tại sao Kark Mark lại dự đoán như thế không?
- Tại vì khi phát triển đến một giai đoạn quá độ nào đó. Quan hệ xã hội của tư bản chủ nghĩa sẽ nảy sinh ra một yêu cầu phát triển mới phù hợp với xu hướng tiến bộ của loài người. Nghĩa là phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để tôi luyện kiến thức, trí thức và bản lĩnh của của giai cấp tiên phong là công nhân và cải tạo nông dân, với bản chất tư hữu thâm căn cố đế, thành công nhân nông nghiệp. Đó là một loại vũ khí hoàn toàn khác với cây tầm vông vạt nhọn và khẩu AK.
Tôi cười:
- Tôi nói là ông thuộc bài mà. Sao vẫn cứ hỏi tôi?
Bảy Huỳnh cười và không trả lời. Tôi hỏi:
- Thế thì hiện nay tình hình như thế nào?
- Ông Kark Mark dự đoán sai. Những nước thành lập nhà nước chuyên chính vô sản đều là những nước kém phát triển.
- Không phải ông Kark Mark sai mà là học trò của các ông ấy sai. Họ là những người Cộng Sản chưa đúng tầm. Hay đúng hơn là họ không lường trước được những hệ quả của những chiến thắng vượt bậc mà họ đạt được (?). Tôi nói là chiến thắng chớ không nói là thành công. Rồi như ông nói. Họ thừa thắng xông lên. Họ tưởng là ngon ăn. Họ quên rằng, chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể thành công trong một xã hội tư bản chủ nghĩa quá độ nghĩa là có một nền kinh tế phát triển. Và không ai lường trước được “quá độ” là quá đến độ nào. Nhưng thực tế thì họ chiến thắng trong một vị thế hoàn toàn khác biệt mang nặng tính chính trị mà không màng đến bất cứ một yêu cầu nào của xã hội và kinh tế. Mà nếu có thì lại là một nhu cầu thứ yếu chớ không phải là một yêu cầu chủ đạo và từ đó mới có một nền tảng chính trị cộng sản chủ nghĩa được xác lập với khẩu hiệu chuyên chính vô sản trong một nền kinh tế không giống ai để đi xây dựng một xã hội không giống ai. Thế nên bây giờ bọn khố rách áo ôm, nếu không muốn nói là vô sản chính cống, như chúng ta mới… ở tù và một số khác đang hống hách hô vang khẩu hiệu ngoài kia. Và cái quan trọng hơn là cái liên minh công nông vô địch ấy bổng trở nên yếu xìu trên mặt trận xây dựng đất nước. Bởi vì họ thiếu một thứ vũ khí mà ông nói đó là kiến thức, tri thức và bản lĩnh.
- Vậy cái câu khẩu hiệu ông đọc ban nãy được mấy phần đúng, và mấy phần sai.
- Câu đó không sai chút nào nếu như đi đúng trình tự.
- Trình tự nào?
- Trình tự mà ông Kark Mark nói ấy. Chớ không phải cái trình tự mà ông vừa nói. Đó là hãy để cho quan hệ xã hội quyết định. Phong trào Cộng Sản chỉ có nhiệm vụ duy nhất là hạn chế bớt những yêu cầu xấu nảy sinh trong quá trình quan hệ xã hội. Như tôi nói ban nãy đó là điều chỉnh, là kềm chế bớt chớ không phải triệt tiêu. Không kềm thì cũng không được, mà triệt tiêu thì lại càng không xong. Nếu làm tốt thì tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc. Trái lại thì…
- Ông cho một thí dụ.
- Những quan điểm triết học, khác với duy vật biện chứng, và các tôn giáo, đảng phái. Đó là một sản phẩm của một quá trình quan hệ xã hội. Những thứ này đáp ứng yêu cầu của cuộc sống trong một giai đoạn nào đó. Nó cũng có những biến thiên để đáp ứng và tồn tại. Nhưng nó đi ngược lại các quan điểm của chủ nghĩa cộng sản. Thế nên, phải để nó tồn tại, nó vẫn tồn tại cho đến khi nào đó nó sẽ tìm được tiếng nói chung với chủ nghĩa Cộng Sản. Ông không kềm nó thì làm chậm quá trình. Ông triệt tiêu nó thì coi chừng. Nó không tiêu mà ông tiêu. Trong các lĩnh vực khác cũng thế. Tất cả phải do quan hệ xã hội quyết định chứ không do quan hệ chính trị.
- Ông đọc hết sách mấy ông này?
- Ông điên? Tôi là máy cassette hả?
Bảy Huỳnh im lặng một lát rồi hỏi tôi:
- Thế những gì ông nói ở đâu mà ra.
- Nhìn, xem, đọc, nghĩ ngợi và thấy. Thế thôi. Nhưng ông phải lưu ý điều này. Là hãy suy nghĩ về trình độ, mức sống và vai trò của giai cấp công nhân trong hai quốc gia: Một quốc gia có nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển và một quốc gia có nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Lúc đó ông sẽ thấy Kark Mark nói đúng.
- Ông giải thích.
- Ông thấy vai trò của giai cấp công nhân trong các nước tư bản phát triển không? Họ đóng một vai trò quyết định trong hai việc rất cơ bản: Một là nâng cao cuộc sống vật chất và tri thức của bản thân. Hai là họ tạo ra càng lúc càng nhiều những hàng hóa có chất lượng cao. Hai việc này đóng một vai trò quyết định trong việc phát triển của xí nghiệp, của xã hội và của quốc gia đó. Tóm lại họ làm việc cho nhu cầu bản thân và nhu cầu xã hội. Họ hoàn toàn độc lập trong suy nghĩ và cuộc sống của bản thân họ. Họ đáp ứng mọi nhu cầu của xã hội để phát triển để làm giàu và để làm… trùm. Giới tư bản chóp bu, suy cho cùng cũng chỉ là một công nhân giàu có, tài năng được phân công làm Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị. Họ bị giai cấp công nhân tiên tiến chi phối. Họ có quyền thải loại những công nhân không đáp ứng yêu của xí nghiệp họ. Nhưng họ nắm chắc những công nhân có tay nghề cao, có tư duy đủ đáp ứng cho yêu cầu phát triển. Tất nhiên, không loại trừ những loại công nhân tài giỏi trò mánh mung. Ngoài ra có một điều họ tuyệt đối không dám làm đó là sự bóc lột trắng trợn công sức lao động của người khác như giai đoạn đầu của chế độ tư bản chủ nghĩa. Và để tránh điều này họ có một quỹ bảo hiểm cực mạnh. Nhưng nhớ một điều, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản vừa song hành vừa đối lập với quan hệ xã hội. Song hành khi họ đáp ứng đúng đắn yêu cầu của xã hội, đối lập là họ làm mọi cách tạo nhu cầu giả và tệ hại nhất là đầu cơ các sản phẩm thiết thân của mọi người như lương thực, thực phẩm… Đó là chưa kể họ tạo dựng ra một nhu cầu ảo để bán những sản phẩm ảo. Ví dụ như ông cố mua một chiếc xe gắn máy mà chỉ để lau chùi cho bóng và lấy le với người khác, chứ nhu cầu di chuyển thì ít xịt. Chính cái đối lập này mới cần phải có phong trào Cộng Sản. Phong trào này làm nhiệm vụ điều tiết, hoà giải chứ không phải lãnh đạo.
- Còn ở những nơi khác?
- Nơi nào?
Anh ta cười và nhìn tôi, tôi nói:
- Còn ở các nước tư bản kém phát triển, giai cấp công nhân làm theo lệnh chủ, không độc lập và bị bóc lột trắng trợn. Các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân làm theo chỉ tiêu, làm theo khẩu hiệu. Họ không giàu theo nhà nước, bởi thực tế nhà nước không thể giàu được và vì thế họ nghèo trước nhà nước.
- Thế thì theo ông. Chủ nghĩa Cộng Sản đi về đâu?
- Sẽ về đến mục đích cuối cùng của nó. Khi mà khái niệm áp bức, bóc lột và khái niệm bị áp bức, bị bóc lột không còn tồn tại.
- Nghĩa là bây giờ vẫn tồn tại?
- … và phát triển
Bảy Huỳnh tròn mắt nhìn tôi :
- … và ông chui vào đây?
- Bộ ông nói tôi tự chui vào à? Chẳng lẽ ông tự chui?
- Thế thì theo ông. Cái gì sẽ làm cho tình hình khác đi?
- Có rất nhiều thứ. Trước tiên là tự tình dân tộc, thứ đến là quan hệ xã hội. Nhưng nói một cách cơ bản nhất chính là những người xây dựng chủ nghĩa cộng sản bằng tư tưởng chấp nhận tư bản chủ nghĩa như là một trình tự của quan hệ xã hội.
- Không có động lực nào khác.
- Không. Nếu có thì nó chỉ làm cho bầy hầy thêm.
Bảy Huỳnh đứng dậy bỏ đi một nước. Tôi nói vói theo trước khi xoay qua sòng domino:
- Này Bảy Huỳnh…
Nhưng anh ta đã đi thẳng.
Hai tuần sau, tôi lên phòng Quản giáo. Trên đường đi cứ khấp khởi mừng thầm sẽ gặp cán bộ CSĐT. Nhưng lên đến nơi thì tôi tá hỏa. Tôi phải ngồi hiệu chỉnh lại hết tất cả những gì mà cái máy ghi âm nào đó ghi những điều tôi đã nói với Bảy Huỳnh, mà không nhận được ở những người nghe một phản ứng hay một lời vặn vẹo nào. Trở về phòng, tôi xách gói vào biệt giam. Một căn phòng sáu mét vuông với đầy đủ mùng mền chiếu gối. Tôi ở đây một tháng với sinh hoạt theo một chế độ như nằm chiêm bao. Cơm có thức ăn kèm theo, nước uống và nước sinh hoạt riêng biệt. Nếu so với lúc ở tại phòng thì ở đây đúng là loại dành cho VIP. Nếu nói như bây giờ là khách sạn năm sao. Tôi hoàn toàn không hiểu tại sao lại thế. Nhưng chỉ có một mình. Buồn thấy bà. Nhưng được cái là chẳng ai quấy rầy, tha hồ nghĩ nhăng nghĩ cuội. Nhưng có một điều tôi không dám nghĩ là gia đình và mẹ con út Giữa. Tôi vẫn tập thể dục thường xuyên. Khi đầu óc rồi rắm thì tập khí công theo một cuốn sách của Nguyễn Khắc Viện mà tôi đọc được khi ngồi sắp xếp lại thư viện.
Một tháng sau. Tôi lại lên phòng Quản Giáo và kỳ này là gặp CSĐT. Đúng như tôi dự đoán. Những gì đến với tôi là hậu quả tất nhiên, của cái lon thượng sĩ bất thường, hai ba cái tú tài mà không phải là quan, cái cung cách xử sự của tôi trong công việc và các quan hệ chằng chịt của tôi sau ngày 30.4, luôn cả cái nghề cầm cọ của tôi. Tất nhiên. Hoàn cảnh của đất nước đã nảy sinh không biết bao nhiêu thằng có cái lý lịch lu bu như tôi. Kèm theo những lời khai động trời của những người tôi đã từng quan hệ, trúng có, trật có và tôi nhận. Nhận theo cái kiểu có cũng như không. Kể ra cái kiến thức của tám năm cò bót cũng còn có thể. CSĐT đã không nói gì. Thậm chí còn dành cho một tình cảm nhất định. Họ viết biên bản và tôi đọc lại rồi ký. Thằng Hải nói hoàn toàn đúng “cái thành phần của tôi là đối tượng cho tính chuyên chế nhắm vào “. Sự bình thản của tôi một lần nữa hoàn toàn có lý. Thời thế thế, thế thời phải thế, cãi làm chi cho mệt. Đặc biệt là không ai có thái độ gì về cú trao đổi kỳ cục giữa tôi và Bảy Huỳnh, mà giả như nếu có thì tôi cũng không biết. À quên. Tôi không thấy Bảy Huỳnh từ lúc tôi rời phòng lên làm việc rồi vào biệt giam.
Rốt cục tôi được thăm nuôi gặp mặt. Mẹ tôi, cậu em rể với thằng nhóc con của nó. Cuộc thăm nuôi khá thoải mái. Tôi bồng cháu trên tay. Cậu cậu, cháu cháu một hồi, tôi quay sang nhìn mẹ. Bà già hơn nhiều so với tuổi tác. Qua bà, tôi biết những đứa em tôi tất cả đều bình yên, vợ tôi thì đi đi, về về như cái bóng. Cuối cùng là tôi nhờ cậu em rể tìm mua và gởi cho tôi một vài tờ giấy croquit, gôm, tẩy, êke, thước và bút chì. Đây là lý do tôi được gặp mặt gia đình sau hai năm bị giam. Sau cuộc thăm nuôi. Tôi được rời khỏi biệt giam và được ra một nơi thoáng đảng hơn để vẽ xong cho trại một số bản đồ của tỉnh. Và tôi ở đây cho đến khi được chuyển trại.
Ở khám lớn hai mươi bảy tháng, tôi được chuyển về trại Thứ Bảy Kinh Làng với cái thân thể xanh rớt vì một thời gian dài thiếu nắng. Ở đây thông thoáng hơn về không gian và tôi gặp lại hai tên mà tôi ghét nhất. Tám Điểu, tên thò lò hai mặt. Hắn vốn là một Việt Cộng nằm vùng trong lực lượng Xây Dựng Nông Thôn của chính quyền Sài Gòn. Vào giờ chót của một chiến dịch, hắn phản thùng và hành động này đã nướng sạch một tiểu đoàn Việt Cộng tại chợ Tà Niên. Với chiến công đó, hắn lên chức, lên lon và đã hại không biết bao nhiêu người nhà tan, cửa nát. Tên thứ hai, Chín Đỏ là cán bộ quân sự cấp huyện ra chiêu hồi, quậy tưng bừng hoa lá ở Kiên An, không biết bao nhiêu gia đình te tua vì hắn. Trong một lần đi phục kích hắn bắt được hai tay là đồng chí cũ của hắn, hai thầy trò trói cả hai và đưa xuống xuồng chở đi. Bơi một hồi coi bộ mỏi tay. Hắn và tên đệ tử mở trói cho hai tay Việt Cộng và bắt họ bơi. Rồi không biết chủ quan hay khinh suất thế nào, hắn bị hai tay này chém bằng mấy cây dầm lột cả da đầu, còn tay đệ tử vất cả súng ống và chạy thoát, hai tay kia tưởng hắn chết, nên lấy cả súng ống rồi vọt, thế mà không hiểu tại sao hắn lại không chết. Nhưng cái tay đáng sợ nhất lại là Minh Mốc, mình mẩy toàn lang ben, bắt biến. Tướng tá khẳng kheo, mặt thỏ mõ dơi. Cái trò chụp mũ của hắn thì thuộc loại thượng thừa. Nịnh nọt thì không chê vào đâu được. Hắn phạm tội vì một lý do rất tức cười. Hắn có một cô em gái là kế toán của trạm thuế Kinh B, một trạm nổi tiếng hắc ám. Không hiểu do mâu thuẩn thế nào mà cô bé bị giết chết. Còn ai giết thì có trời mà biết, chỉ biết có một điều là tay trưởng trạm bị bắt bỏ bót. Tức khí, hắn ta tham gia một tổ chức phản động và cũng chẳng làm nên cơm cháo gì, nếu có là hắn bị xộ khám. Có lẽ do ăn năn về tội lỗi của mình, nên hắn tích cực kiếm điểm lập công bằng cái trò bá đạo.
Những ngày đầu tiên xuống đây, tôi đã được cảnh báo cho biết cái trò chụp mũ của mấy tên này và một số đàn em. Sinh hoạt dễ thở hơn, cá mắm lềnh khênh ngoài đồng. Rau cỏ thì tha hồ, nhưng lao động khá vất vả. Hàng tháng được gia đình đến thăm nuôi một lần. Lần đầu tiên sau hơn hai năm tôi gặp lại vợ tôi. Nếu vợ tôi nước mắt quanh quanh, thì mẹ tôi mặt như khô lại, bà nhìn ngắm tôi. Đôi mắt ấy săm soi, từng chân tơ kẽ tóc xem coi đứa con mà bà rứt ruột đẻ ra nó có còn phải là con bà nữa hay không. Và tôi nhận được hai cái tin làm cho tôi chới với. Ông ngoại tôi không biết vì lý do gì mà tự vẫn ở cái tuổi tám mươi mốt. Bác Hai tôi chết sau đó mấy tháng vì nhồi máu cơ tim. Ngoài những thức ăn và đồ dùng cá nhân, mẹ tôi còn gởi cho tôi 50 đồng. Tôi không nhận vì lý do là trong này không xài tiền được. Nhưng thật ra, thì tôi còn tiền. Đó là số tiền mà lúc đưa tôi ra tàu Út Giữa lén luồn vào trong vạt áo của tôi những hai trăm đồng, mãi đến trước ngày bị bắt một hôm tôi mới thấy. Sinh hoạt ở đây tương đối thoáng. Chính vì cái thoáng đó mà những hoang tưởng lại bùng phát mạnh hơn, nhưng rõ ràng hơn, cụ thể hơn và tất nhiên nguy hiểm hơn. Nhưng cái cơ bản vẫn là những chuyện kỳ cục. Trong khi đó lại có một khối lượng antena rất lớn. Những vụ việc họ báo cáo nhiều không kể xiết, nhưng phần lớn là thiếu cơ sở, dù vậy cũng gây không ít phiền toái cho các trại viên và các cán bộ. Và nó cũng lại là những đầu mối cho các cuộc ấu đả. Các đội thì được chia theo tính chất phạm tội. Tính lá mặt lá trái của băng nhóm Tám Điểu, Thạch Hổ Mang, Chín Đỏ, Minh Mốc được thể hiện đến phát tởm, làm lợm giọng chẳng những đối với trại viên mà cả luôn cán bộ. Dù rằng không lộ liễu như các loại tội phạm khác. Tôi thì vẫn thế, vẫn cứ mơ màng, bình thản, nhưng mức độ cảnh giác phải cao hơn. Không một hy vọng nào được nhóm lên trong tôi. Và cho đến một ngày. Tôi được thăm nuôi đột xuất. Khi ra nhà thăm nuôi, thì ra người thăm tôi là bác Năm, ba của Thuật. Tôi vừa ngồi xuống ông đã nói ngay:
- Cháu dính vào đây từ bao giờ ?
- Gần ba năm rồi thưa bác.
- Trời ơi. Bác đâu có hay biết gì đâu? Bữa đó má con út la dậy trời với bác, nói là nó ở với cháu, nó có chửa, rồi cháu bỏ đi mất. Bác hết hồn. Qua Xẻo Kè hỏi nó. Nó nói cháu có đến ở nhà nó hai tháng, rồi công an xã không cho ở nữa. Cháu phải đi. Rồi hơn tháng sau nó mới biết có thai, ói mữa tùm lum, nhè lúc đó má nó qua mượn tiền mượn bạc gì đó. Nó nói nó không có. Rồi thấy nó ói mữa. Bả biết nó có thai với cháu. Bả quậy tưng bừng, rồi bỏ về rêu rao tùm lum tà la. Thiệt là khổ cho nó, có một bà mẹ dính vào chuyện đỏ đen. Nên bất phân phải trái.
- Bác nói sao. Cô út có thai? Tôi ngắt lời.
- Ừ nó có thai. Cháu nghĩ coi bác là đàn ông, đàn ang có biết gì về việc chửa đẻ, mà nếu có biết cũng chẳng giúp được gì? May mà ba nó cho cô chín nó hay. Cô ấy từ chợ Thứ Ba tuôn vô mua đồ lủ khủ, nhưng cũng nhằn nhện chẳng tiếc lời. Tới khi nghe bác và ba nó kể ngọn ngành về chuyện của hai đứa. Cô ấy mới thôi, nhưng cũng không tiếc gì những tiếng than ngắn, thở dài.
Tôi như chết lặng, mỗi tiếng nói của bác Năm phát ra như tiếng sấm và tôi không rỏ được cảm giác của mình. Tôi hỏi bác ấy mà không rõ mình nói gì:
- Bây giờ thì làm sao rồi, bác Năm?
- Nó có sao đâu? Đẻ rồi. Thằng con trai, giống cháu y như khuôn. Nhưng nó buồn lắm cháu ơi. Bụng mang dạ chửa mà đi kiếm cháu khắp nơi. Nó thấy bác qua nó mừng quá. Nó nhờ bác đi kiếm. Cứ hai ba tháng khi nào thấy bác rỗi rảnh là nó đưa tiền cho bác đi tìm hỏi tông tích của cháu. Tìm mãi không ra manh mối gì. Đuối cùng, bác đành qua Cái Mới, đến hỏi anh chị bên nhà mới biết cháu ở đây. Nè bác nói cho cháu mừng, mấy mẹ con nó bây giờ sống khỏe lắm, nó chỉ cho bác xem những gì cháu làm cho nó. Nào miếng ruộng, rồi cái đó tép, mấy liếp rau. Ờ còn bốn cây dừa nữa. Nó có lưỡi mèo rồi. Cháu giỏi thiệt đó nghen. Hiện giờ nó dư gần hai trăm giạ lúa, lại có cái tiệm hàng xén nữa. Nè nó thương cháu dữ lắm đó. Nói thiệt với cháu, ba nó với bác không giúp gì được cho nó, may nhờ cô chín, một tay lo cho nó mẹ tròn con vuông. Nhưng cô ấy cũng khá dữ dằn. Cổ nói nó mà lạng quạng với thằng nào nữa là cổ bỏ luôn. Cô ấy còn truy bác về lai lịch, nhà cửa của cháu. Tới lúc biết, cổ còn tính qua Cái Mới. Ba nó với bác cản muốn chết. Cổ nói bây giờ không đi thì khi gặp được cháu cổ cũng phải đi.
Tôi thật sự bấn loạn, nhưng tôi cũng không biết tôi phải làm cái gì bây giờ. Tôi ngồi nín thinh không nói được một lời. Thấy tôi ngồi im. Bác Năm nói :
- Cháu ra sao rồi. Có khoẻ không ?
- Cháu khoẻ thưa bác. Chợt nhớ ra tôi hỏi. Bác năm này. Thằng Hoà đi học chưa bác. Út đặt tên cho con cháu là gì hả bác.
- Ừ. Cháu nhắc bác mới nhớ. Có một lần lúc nó mới sinh được ba bốn tháng gì đó bác với ba nó qua ở đó với con Út một ngày, một đêm. Nó nói với bác nhiều lắm. Nó làm khai sanh cho thằng Hòa nó khai tên ba của thằng nhỏ là tên cháu. Thằng Hòa học giỏi lắm. Còn thằng Hậu, Nguyễn Hiền Hậu, thằng nhỏ rất ngon lành, dễ hết biết. Suốt ngày không nghe khóc một tiếng.
Rồi bác Năm lại nói bằng một giọng rất hồ hởi.
- Con Út bây giờ nó bới tóc cao lên không thèm che cái thẹo đó nữa. Bác thấy sao dữ dằn quá. Bác hỏi nó tại sao nó làm như vậy. Cháu biết nó nói sao không? Nó nói ai thấy cái thẹo trên mặt nó cũng ghê, chỉ có một mình cháu là thương cái thẹo đó. Mà cái gì cháu thương thì cái đó đẹp, mà đẹp thì phải khoe. Nó nói xong nó cười ha hả. Nó còn bảo làm như vậy cho mấy thằng xấu máu hết hồn, còn thằng nào liều mạng nhào vô nó mắng cho bỏ ghét. Nó nói không ai thương nó bằng cháu. Nó còn đưa cho bác mấy trăm để đi tìm cháu. Ừ. Hổng biết nó kiếm đâu ra cái hình của cháu, nó rọi lớn lên treo giữa nhà nữa chớ. Còn thằng Hòa, ai hỏi ba nó đâu thì nó chỉ cái hình. Nay bác về nói cháu ở đây, chắc khi nghe bác nói nó mừng lắm.
Nghe bác Năm nói liên tu bất tận không đầu, không đuôi. Hai tai tôi lùng bùng. Tôi ngồi thừ ra đó mà không thể nào phân định được cảm giác của mình. Tôi biết bác Năm vì tính cách thật thà chân chất, nên nghĩ rằng nói như vậy để tôi mừng. Nhưng bác đâu có biết là làm cho tôi chết điếng.
Gần hết giờ thăm nuôi. Tôi phải bậm gan nói nói với bác Năm :
- Bác Năm à. Cháu xin bác. Đừng bao giờ cho cô ấy và bất cứ ai biết cháu ở đây. Dù sao cô ấy cũng đã nguôi ngoai phần nào. Bác cho cô ấy biết chỉ khổ thêm cho cả hai. Riêng cháu, cháu hứa với bác, dù có chết cháu cũng về phù hộ cho mẹ con cô ấy. Cháu không thể làm gì được cho mấy mẹ con, thì cháu không thể nào gây thêm cho họ khổ. Nếu như cháu còn có ngày về thì nơi ấy là nơi đầu tiên cháu đến. Hứa với cháu nghe bác.
Bác Năm hứa với tôi. Tôi cũng biết bác rất khó xử, nên nước mắt mới rưng rưng. Trước khi ra về ông nói với tôi :
- Bác làm theo lời cháu dặn cũng như những gì mà thằng Thuật nó kêu bác làm. Nhưng cháu đừng nghĩ bậy. Còn phải về với vợ với con. Thôi bác về.
Nhìn bóng ông chập choạng trong cái nắng buổi trưa. Lòng tôi như nhói lên. Ngày nào tôi nhìn bóng ông chập choạng với cái nắng ban trưa vì nỗi đau mất con. Bây giờ cũng thế vì nỗi đau cho một thằng cháu ngang hông lâm vào vòng tù tội. Cầm bánh thuốc bác gởi cho. Tôi cảm thấy mình sao quá nhiều tội lỗi, gieo biết bao hệ lụy cho đời.
Thế là cái mà tôi sợ nhất đã tới. Đứa con mà tôi mong đợi đến cháy lòng đã được sinh ra bởi một người cha không ra gì. Bởi vì, tôi không nghe được tiếng khóc chào đời của nó, tôi không thấy được nụ cười của nó. Tôi không đốt được một nhúm than để sưởi ấm cho nó. Tôi chỉ để cho nó cái bất hạnh mà những người xấu miệng mồm gán ghép “Thằng con hoang“. Họ đâu có biết con tôi vô tội, họ đâu có biết con tôi được hình thành bằng một tấm chân tình của cha mẹ nó. Nhưng tôi oán trách ai đây? Cái hậu quả tuyệt diệu, mà vô cùng đau đớn này làm sao mà tôi gánh vác. Dù cho tôi đã để lại nơi đó tràn ngập những bóng dáng của tôi. Nhưng cái cần thiết nhất là trách nhiệm và bổn phận của tôi thì không thể có, không hề có.
Gần mười ngày, tôi không thèm nói với ai trong trại một câu. Hình ảnh của ba mẹ con cô ấy luôn luôn hiện ra trong đầu tôi. Nhất là đứa con tôi cháy lòng chờ đợi. Những tưởng tượng ấy mang đến cho tôi đớn đau, hạnh phúc, ước mơ và hàng trăm thứ khác. Tôi không còn nhận ra mình là ai. Và cái bọn lá mặt lá trái bắt đầu kiếm chuyện. Tôi cũng chẳng còn hơi đâu mà phân bua. Cũng may anh cán bộ dẫn tôi ra thăm nuôi đã nghe từ đầu chí cuối câu chuyện. Nên khi bọn chó má ấy báo cáo lên quản giáo. Khốn nạn thật. Nhưng thay vì kêu lên tra hỏi, họ lại tìm tôi để trấn an và động viên tôi cải tạo tốt (?). Họ cảm thông cho nỗi đau của tôi khi phải nhận tin mình làm cha trong hoàn cảnh ngặt nghèo.
Ở đây những nguy hiểm chết người luôn luôn rình rập và tôi lại nhớ tới thầy Nhiễn với lời khuyên “ Con muốn làm cái gì đó thì trước nhất là con phải sống. Còn việc sống tốt hay xấu thì còn tùy thuộc vào thái độ của con. Thầy tin con “. Vâng tôi phải sống, sống thế nào cũng được (!?) Nhưng dứt khoát không phải là người vô trách nhiệm, ít nhất là với những người thân. Nhưng hoàn cảnh của tôi bây giờ là dũng cảm lựa chọn một thái độ sống thích hợp. Khó đấy. nhưng phải cố gắng thôi. Tôi nhớ lại những gì mà bác Năm kể về Út Giữa. Cô ấy chân thành với tôi, với bản thân cô ấy và chính vì thế mà cô trở nên mạnh mẽ. Cô ấy chấp nhận tất cả vì một mục đích duy nhất là tình yêu của cô dành cho tôi. Cô ấy đã chọn tôi khi tôi chỉ là một bóng hình chập choạng trong đêm, thế mà cô ấy cũng làm cho bằng được. Thì tôi tại sao không? Cuộc đời rồi sẽ đổi thay. Không ai có cơm đâu mà nhốt mãi tôi ở nơi này. Còn nếu như có bắn bỏ, thì chắc họ đã bắn rồi. Như vậy ngày về thì phải có, nhưng nó đến lúc nào thì có lẽ phải do tôi. Tôi đã thấy một điểm sáng ở cuối con đường tăm tối, dù nó rất leo lét. Bổng nhiên những ý nghĩ lăng nhăng, khi nhìn ngắm chung quanh, về chế độ này, chính quyền kia đúng sai, trúng trật. Tất cả bay vèo vào hư không. Bây giờ trong đầu tôi là hình ảnh của một đứa con chưa biết mặt. Và để củng cố cho nỗi nhớ thương tôi tụng kinh Tình. Tụng thường xuyên. Những câu kinh đó, về mặt ngữ pháp có vài điều không ổn. Nhưng tôi cứ để vậy mà ngâm nga, giữ nguyên vẹn những cảm xúc đã làm nên.
Khi đã bình tĩnh lại. Tôi cố gắng tìm cho mình một thái độ thích hợp với một niềm hy vọng mong manh, để có thể thực hiện một phần nào đó trách nhiệm của mình. Vừa ngồi làm cỏ lúa, vừa nhìn những đám mây trắng bay bay trên nền trời xanh ngắt, tôi bổng nhớ tới hai câu thơ của Bạch Cư Dị “Thiên thượng phù vân như bạch y, Tu du hốt biến vi thương cẩu“. Cuộc đời như thế đó, nó là một vầng mây trắng. Không phải mai thế này, mai thế khác, mà là đổi thay từng phút, từng giây. So sánh như thế thì hơi khiên cưỡng, nhưng có lẽ không sai mấy. Và tôi mong có sự đổi thay, còn đổi bằng cách nào thì chưa biết. Chẳng lẽ nhờ gió? Có lẽ là nên nhờ vào chính mình.
Bổng nhiên lại có một thứ cuốn tôi vào như đã từng cuốn lấy. Màu xanh. Bây giờ là lúc lúa đang lột mình. Cánh đồng thì mênh mông, nhưng kiểu cách canh tác theo theo lối nước sông công tù, cha chung không ai khóc, nên tôi biết cũng chẳng ra cái ôn hoàng gì. Nhưng lúa vẫn sống. Một kiểu sống dũng mãnh, tự thân không hứa hẹn một mùa lúa trúng nhưng vẫn cứ xanh, xanh bạt ngàn và sẽ cho hạt. Từng vệt lúa, chỗ xanh thẫm, chỗ xanh lục đang dập dềnh dưới gió và không khí trong suốt như vô nhiễm. Đầu óc tôi cũng theo đó mà trong veo. Đôi khi, à không, rất thường khi tôi gặp những con cào cào non chong đang làm tình. Thay vì chộp nó, để làm mồi câu một vài con cá rô tôm tích, thì tôi lại yên lặng nhìn chúng rồi nghĩ lan man. Nếu như tôi chộp lấy thì chúng sẽ nghĩ gì trong cái khoảnh khắc ngắn ngủi ấy. Tiếc nuối một cuộc ái ân hay kinh hoàng vì phải đối diện với cái chết. Và cũng như thế, tôi nhìn ngắm những con chuồn chuồn, cũng đang tình tự, phải nói là không có một cuộc ái ân nào lãng mạng và bay bổng đến như thế. Nắng rực rỡ, trời trong xanh. Chúng quấn lấy nhau tạo thành một trái tim bay lượn lờ rồi đáp xuống một ngọn lúa xanh rờn rồi bay lên, rồi lại đáp xuống một bông hoa bông súng màu đỏ tím. Những nơi chúng bay lên, chúng đáp xuống đều trở nên rực rỡ. Tất cả như đang cảm nhận được sự thanh thoát của yêu đương. Tôi cũng thế, tôi quên tất những vất vả, gian nan mà mình gặp phải. Hình ảnh của Út Giữa hiện lên như những con chuồn chuồn mảnh mai rực rỡ sắc màu hay đơn giản một màu xanh lục như con bồ cào cái biểu hiện cho sự no lành. Hình lần ân ái dưới trăng lại hiện ra làm xao động lòng tôi. Tôi trở về trại mang theo màu xanh và tiếng gió trong lòng. Tôi có một con đường riêng để đi qua một quảng đời gian khó.
Tôi dứt khoát không tham gia vào các cuộc bàn tán về tình hình chính trị, tránh xa các vụ xung đột. Làm tròn vị trí của một người tù. Sinh hoạt từ tốn, chừng mực. Chuyện này thì quá dễ. Nhưng tránh những cú ăn miếng, trả miếng đối với bọn lá mặt, lá trái thì tôi cố ghìm hoài mà không được. Nhiều khi tôi tự trách mình, tại sao không nhịn một chút. Nhưng khổ nỗi nhịn nhường thì còn đường được, mà nhịn nhục thì vô phương.
Đội lại chuyển về khu A. Sinh hoạt ở đây, bên ngoài có vẻ quy củ hơn. Nhưng những trò khốn nạn thì nhiều hơn gấp bội. Sự phân chia đẳng cấp trong thế giới tù tội này hiện ra rõ nét, dù cho Ban Lãnh Đạo của trại không muốn. Ban điều hành trại, các tự quản đội là những tay cũng mặc áo nhà tù, nhưng sạch sẽ, tinh tươm đến phát quạu. Nhiều khi tôi cũng tự xét mình, xem coi có phải mình ganh tị hay không.
Lên khu này tôi gặp lại bác ba Đặng và gần như hầu hết những người từng một thời quyền cao chức trọng của chính quyền Sài Gòn tại thị xã. Tất nhiên khi mà hoàn cảnh đổi khác thì con người cũng đổi khác. Sự tiếp xúc với nhau tương đối dễ dàng, nhưng những khó khăn cũng có. Khó khăn ấy không phải do nội quy, điều lệnh của trại hay cán bộ. Mà là do những dàn antenna đã làm cho mọi người đâm ra nghi ngại khi gặp nhau. Chín Đỏ, Minh Mốc và Tám Điểu cùng băng nhóm của họ bằng mọi cách để kiếm điểm với cán bộ và ban Lãnh Đạo trại. Nhưng dưới mắt tôi, những chuyện ấy hơi thừa. Đứng về mặt nghiệp vụ, tất nhiên phải cần những loại tin tức đó, thậm chí phải đọc, phải nghiên cứu và tìm hiểu. Nhưng khi đã hai năm rõ mười thì chán chết. Và sự tác động của loại tin tức như thế, nếu có, thường thì hậu quả của nó bị trả ngược về cho kẻ cung cấp. Hiểu được điều này, tôi vẫn sinh hoạt bằng một thái độ mà tôi đã chọn. Nhưng không dễ dàng gì trước những cặp mắt vạch lá tìm sâu của bọn Chín Đỏ. Trong một lúc không dằn được. tôi trở cán cù nèo đập cho Minh Mốc túi bụi ngay trước mặt cán bộ quản giáo, hắn gần như không kịp phản ứng và khi mọi người can ra được, thì tôi hoàn toàn không ngờ mình lại dã man đến thế khi nhìn thấy hậu quả việc của mình làm. Mặt mày thâm tím, đầu nổi u hai ba cục. Tôi chuẩn bị tư thế để vào biệt giam. Nhưng không hiểu tại sao tôi lại không hề gì? Và cán bộ quản giáo lại chẳng nói câu nào. Sau vụ đó mọi việc có vẻ như chùng lại, nhưng tôi biết đó là sóng ngầm. Sự cảnh giác của tôi được nâng lên. Đây là một điều rất cực nhọc cho một kẻ lo mơ như tôi.
Nhưng ở đây tôi cũng gặp được những con người khác. Những con người bình thản chấp nhận hoàn cảnh của mình. Họ sinh hoạt từ tốn, ứng xử đúng mực, nhưng họ lại kín kẽ. Tiếp cận họ không dễ dàng gì. Tôi tự hứa phải tiếp cận. Ở đó có nhiều điều hay ho đây.
Cái mà tôi cảm thấy được an ủi là ở đây có một tủ sách. Tất nhiên là không có sự lựa chọn. Mượn được cuốn nào nhai cuốn đó. Tôi bắt đầu làm quen với mối tình tuyệt vời của người du kích của Nguyễn Quang Sáng qua Mùa Gió Chướng, một tình yêu đầy quan điểm của Chu Thiên với Bóng Nước Hồ Gươm, mối tình của ông giáo già và vợ của Ma văn Kháng và một số tác giả, dịch giả khác của Miền Bắc. Tôi đọc Pautopxki, Sêkhôp, Maiacôpki, Puskin… Nhưng tác động mạnh mẽ nhất chính là sự khốn khó của những người Thiên Chúa Giáo trong Quo Vadis của Sienkiewicz. Sự khốn khó khác xa sự khốn khó của tôi bây giờ về mọi khía cạnh cũng như tác nhân gây ra. Sự khốn khó của những người lính, người dân trong thời Cách Mạng tháng Mười Nga trong Sông Đông Êm Đềm của M.Sôlôkhốp thì có vẻ hiện đại và gần gủi hơn. Nhưng cái mà tôi cảm thán chính là sự khốn khó của mọi con người thì ở đâu và thời nào cũng thế. Khi thì do người, lúc lại do mình. Nhưng nếu không có niềm tin thì không thể vượt qua. Bởi vì khi có được niềm tin thì tự khắc sẽ vững chãi lại và sẽ biết mình phải làm cái gì. Có điều là mình đặt niềm tin vào đâu? Trong điều kiện này tôi không thể tin ở Chúa, ở Phật. Không tin một ai khác. Tôi phải tin ở bản thân mình. Tôi chợt nhớ ba tôi. Và niềm tin chắc chắn nhất tôi có thể tựa vào. Tính hiếu hòa của ông. Tôi nhận được từ trong những cuốn sách ở đây khá nhiều điều. Bởi vì, trong đó có những điều mà ba tôi có. Tôi mặc xác những chuyên chính vô sản, mặc xác những bạo lực cách mạng, mặc xác những tin tức xầm xì, xậm xịt được lan truyền và quan trọng nhất là những suy nghĩ vẩn vơ. Không cần biết tôi chui vào đây vì lý do gì, không cần biết bất cứ một điều gì khác ngoài cái màu xanh mà tôi bị cuốn hút từ lúc còn bé tí và bây giờ thì trong màu xanh ấy đang gói ghém một hình ảnh tuyệt vời của thiên nhiên, của sự sống muôn loài. Tất cả vì Cô Ấy, Con Tôi và Tấm Lòng Tôi. Tôi biết tôi phải làm gì để gìn giữ cho riêng tôi một thứ của riêng mình.
Để không còn nghĩ ngợi lung tung. Tôi bắt đầu học tiếng Anh với English For Today cuốn 4 nhàu nát. Tôi học âm nhạc bằng cuốn sách quay ronéo[i] “Kỹ Thuật Hòa Âm Cho Giọng Hát” của Thiên Quang. Và học cả chữ Hán. Kiểu cách học tập ngược đời, phăng từ trên ngọn xuống xem ra rất ư cực khổ và kỳ cục. Nhưng được cái là tôi phải vận dụng tối đa sự suy luận của mình. Trong quá trình học tập này, dù rằng kết quả rất hạn chế. Về Anh Ngữ tôi chỉ có thể đọc, viết và hiểu được những câu thông thường, còn nói và nghe thì kể như trớt quớt. Về âm nhạc thì chỉ dừng lại ở chỗ sáng tác được dăm ba ca khúc nghe đường được mà không đến nỗi phạm quá nhiều lỗi. Còn chữ Hán thì gần như mù tịt, chỉ biết từ Hán phiên âm nghĩa tiếng Việt là gì. Nhưng dù sao tôi cũng biết “ Thiên là trời, địa là đất, tử là mất, tồn là còn, tử là con, tôn là cháu…” Thế là thấy chữ nào thì tập viết chữ ấy và tìm hỏi nghĩa bằng tiếng Hán và suy luận bằng tiếng Hán Việt. Tuy nhiên cái tôi được lớn nhất trong cái công việc học tập này lại là nhiều thứ khác: Thứ nhất là tôi không phải mất quá nhiều thời gian rỗi rảnh, vốn ít ỏi, để sa đà vào những lo âu không đáng có. Thứ hai là tôi tập tành được một phương pháp suy nghĩ hợp lý hơn trong các vấn đề. Ngoài ra, tôi còn tạo được một tình cảm nhất định với mọi người chung quanh. Việc học hành đã giúp tôi có dịp để tiếp cận một với một số đồng cảnh khác. Một ông linh mục, một ông thương tọa, một bác sĩ…
Ba tôi đến thăm tôi hơi bất thường. Sáu năm rồi tôi mới gặp lại ba tôi. Thông thường thì mẹ tôi hoặc vợ tôi đi thăm. Thỉnh thoảng thì mấy đứa em. Nhưng hôm nay thì ba tôi, khi mà những người đến thăm đã thưa bớt. Ông mang cho tôi một ít tiền, một bánh thuốc và một ký thịt heo. Ông nói với tôi rất nhiều điều. Bước vào tuổi sáu mươi hai, trông ba tôi không già mấy, những nét khắc khổ vì chịu đựng những việc trái lòng có vẻ nhiều hơn là những nét cực nhọc. Anh em chúng tôi tất cả đều có gia đình, nhưng chỉ có tôi là chưa có con. Khi ông tỏ vẻ lo âu về chuyện này tôi đau nhói trong lòng:
- Tuổi con năm nay không còn nhỏ nữa, gần bốn mươi rồi. Chuyện của vợ chồng con làm cho ba không yên tâm. Con thì bốn phương tám hướng, nơi nào con muốn thì con đến. Những việc gì xảy ra cho con thì không bao giờ con cho ba biết. Hỏi tới thì con nói quanh quẩn cho qua. Vợ con thì dở dang, nó sống với con như cái bóng. Chưa bao giờ nó có thể đứng được một mình. Mà con thì như thế. Ba nghĩ nếu như vợ chồng con có một đứa con, chắc có lẽ con không thế này. Ba không trách con về việc con đã làm. Nhưng ba không thể ngủ yên, khi nhớ tới vợ chồng con.
Ba tôi như cố nén tiếng thở dài rồi tiếp :
- Cuộc sống vẫn còn nhiều khó khăn. Ba mong cho con vượt qua được. Mấy đứa em con dù bữa đói, bữa no. Nhưng dù sao chúng nó vẫn có một mục đích nào đó để phấn đấu. Còn con thì… có vẻ đa đoan… Chuyên gì cũng phải rõ ràng…
Ông lại bỏ lửng. Hết giờ thăm nuôi. Nhìn ba tôi bước ra đường, tôi lại nghe nhói lên trong lòng, tôi muốn nói với ba tôi rất nhiều thứ, nhưng không thể. Tôi không ngờ đây là lần cuối cùng tôi gặp ba tôi.
Ở trong trại lúc này đã có những đợt xét trả tự do cho các loại tội phạm vào các dịp lễ lớn. Các thành phần quân nhân, công chức chính quyền cũ và những người vượt biên càng lúc càng thưa dần. Những tội phạm chính trị như bọn tôi thì cũng có được tha, nhưng rất ít. Rồi những tù nhân có án bắt đầu hiện diện ở trại, đa số là các loại tội phạm xã hội, sau nữa là một số cán bộ nhà nước thoái hóa biến chất. Sinh hoạt trong trại vẫn bình thường. Ngoài những giờ lao động ngoài đồng, thì hầu hết đều domino, cờ tướng, hay ngồi uống trà với nhau. Riêng tôi và một số ít nữa bàn luận trao đổi với nhau về ngữ pháp tiếng Anh, tiếng Tàu hay nhạc lý, thỉnh thoảng lên phòng đọc sách, mượn một cuốn về xem.
Tình trạng bàn tán về những diễn biến chính trị bên ngoài thì vẫn cứ râm ran, nhất là những diễn biến về sự cải tổ ở Liên Xô, rồi các nước Đông Âu. Nhưng cái làm cho người ta bàn tán thì lại là thứ khác. Không hiểu họ nhận tin tức từ đâu. Báo thì không có một tờ. Thỉnh thoảng lọt vào vài manh giấy báo gói đồ qua đường thăm nuôi, đọc khúc còn, khúc mất. Rồi râm ran tin này, tin nọ suy luận lung tung. Mỹ. Anh, Nhật, Pháp, Nga, Tàu hè nhau kẻ yễm trợ nhóm này, ủng hộ nhóm khác. Nào là vụ Hoàng văn Hoan, Hoàng Cơ Minh, Rồi Võ Đại Tôn, rồi Mai văn Hạnh, Lê Quốc Tuý… đã, đang và sắp tràn vào Việt Nam để hạ bệ mấy tay Cộng Sản. Có một vài người đến hỏi tôi nghĩ sao. Nghĩ sao là nghĩ sao? Tôi ậm ừ cho qua chuyện. Nhưng riết rồi chịu đời không thấu, tôi hét lại một câu xanh dờn;
- Mấy ông muốn chơi mấy cha Cộng Sản phải không? Được, hãy làm y như họ đã làm. Tiến hành một cuộc chiến bằng tầm vông vạt nhọn. Được làm vua thua làm giặc. Chớ chơi theo cái kiểu nhờ Tây, nhờ Tàu làm cái con mẹ gì. Muốn làm Lê Chiêu Thống hả? Nè đám antenna dày đặt đó, liệu mà sống để về nuôi vợ, nuôi con.
Cả đám nhìn tôi nín thinh, rồi lảng ra. Họ có vẻ sợ tôi đó, nhưng họ cũng biết tôi cũng không báo cáo để làm gì. Nhưng giả sử mà Tây, Tàu nào đó vào thiệt thì chắc họ thịt tôi. Từ đó, tôi bắt đầu để ý, hình như có một cái gì đó đang xảy ra. Nhưng quả tình tôi không thể biết tường tận là cái gì. Bởi lẽ, sau khi tôi bung ra câu nói đó, thì gần như mọi người có vẻ kiềng tôi. Bác Ba Đặng đã nạo tôi một trận sát ván.
Đúng như tôi dự đoán, việc đã tới. Những tài liệu tuyên truyền được lén lút phát tán và bị đổ bể. Mà kẻ đầu têu lại là một tên già háp, luôn luôn khai bệnh để không đi lao động, chữ viết như cua bò, trật chính tả tùm lum tà la. Ông ta có một cái tên rất ấn tượng. Trịnh Giang Sơn. Những cái gọi là ”Cương lĩnh Chính trị”, kế hoạch này, phương án nọ, thì tôi không có đọc, nhưng nội dung của nó thì chắc cũng y như anh chàng trốn quân dịch hôm nào trên khám lớn, nghĩa là vẫn cứ táp nham, hỗ lốn. Quả nhiên đúng như thế khi mà sau này tôi được nghe một số cán bộ kể lại. Cố nhiên, tôi cũng chẳng tài ba gì hơn họ, nhưng ít ra tôi biết cái tôi muốn là cái gì? Và tôi là ai? Hàng loạt người chui vào biệt giam, oan hay ưng thì chỉ có trời mà biết. Một số khác phải làm tờ tường trình và bị cấm lao động, cấm thăm nuôi. Tôi nằm trong loại sau. Và đây là lúc mà băng nhóm Chín Đỏ hoạt động gần như không ngưng nghỉ. Những báo cáo của cả bọn liên tục được viết ra và gởi đi. Tôi vẫn bình chân như vại, vì nghĩ mình chẳng làm gì, ngoài cái việc tôi phải viết tất cả ba tờ tường trình, cho tới tờ thứ ba tôi ghi lại nguyên văn câu nói trên thì mới tạm yên.
Tôi phải lên gặp ông muời Can, trưởng trại. Lúc này câu phát biểu ấy mới được lôi ra. Vừa mới ngồi xuống là ông chộp liền, sau khi đọc lại gần như nguyên văn:
- Tại sao anh lại phát biểu như thế ?
Tôi suy nghĩ một lát rồi đáp :
- Thưa ông Trưởng Trại. Có ba lý do; Thứ nhất là muốn tránh bực mình, thứ hai là tôi bảo họ làm một việc mà họ không bao giờ làm được, thứ ba thì khá quan trọng vì nó là quan điểm của tôi. Thưa ông Trưởng Trại, nó như thế này. Suốt trong quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc chúng ta đã nếm quá đủ mùi rồi, Tàu, Tây, Nhựt, Mỹ…, tôi dấu Liên Xô. Tôi thấy không còn một lý do gì nữa để nếm thêm. Còn việc tôi xúi họ xách tầm vông vạt nhọn đi chống Cộng. Thì chẳng qua là bảo họ làm một việc mà không ai chịu làm. Mà nếu muốn làm thì cũng không làm được, bởi vì nhiều lý do khác nhau.
Ông ngồi trầm ngâm một lát, rồi nói :
- Anh cho đó là quan điểm của anh, thế thì anh lấy lý do gì để chống chúng tôi ?
- Thưa ông Trưởng Trại, xét về mặt ngôn ngữ, thì quả tình tôi đang có và đã biểu lộ ra một quan điểm là muốn chống Cộng thì phải cần có một cuộc chiến như thế. Nhưng xét về nhiều mặt khác thì liệu một cuộc chiến như vậy tiến hành được bao lâu và khả năng thành công của nó là bao nhiêu? Trong khi cả một dân tộc đang ngán chiến tranh đến tận cỗ. Cuộc sống hiện tại còn rất nhiều khó khăn. Nhưng cảnh đạn lạc bom rơi không còn nữa, đã cất đi gần hai phần ba gánh nặng. Trở lại vấn đề. Câu phát biểu trên của tôi xuất phát từ hai nguyên nhân trên là đúng. Tôi không tự bào chữa. Nhưng dù sao thì nó cũng đã có những tác động nhất định. Riêng về cá nhân tôi, những sai phạm dẫn tôi đến nơi này, chủ yếu là do bức xúc trước những cảnh oái oăm của buổi giao thời và những hành vi mang tính xốc nổi. Điều này thì hơn ai hết, ban lãnh đạo trại biết rất rõ. Đúng hay sai thì tôi chỉ trông mong vào sự xem xét của ban lãnh đạo trại.
- Anh lý luận khá chặt chẽ đấy. Nhưng có một điều tôi cần lưu ý anh. Anh biết rất nhiều điều, anh làm được rất nhiều công việc. Nhưng anh chỉ làm lấy rồi, không làm lấy được. Liệu điều này có nên chăng? Bây giờ anh suy nghĩ cho kỹ. Chấp hành luật pháp thì ai cũng chấp hành, nhưng cái tôi cần là thái độ của anh khi chấp hành. Tôi sẽ giao cho anh một số việc. Anh có khả năng làm được, Nhưng phải làm cho được chớ không phải làm cho rồi, có thế thì tôi mới tin những lập luận của anh đúng. Và chuyện này không nói với ai. Tôi nhắc lại, không nói với ai
Tôi nín thinh. Ông trầm ngâm một lúc khá lâu rồi nhìn tôi và cuối cùng ông báo cho tôi biết là ba tôi đã mất được mười ngày. Trời đất như tối sầm trước mắt tôi. Tôi cố ghìm lại để không bật khóc. Ông nói dăm ba câu gì đó động viên tôi, rồi rút ra một điếu Samit bảo tôi hút để trấn tỉnh lại. Tôi cầm điếu thuốc, trong khi ông bật diêm quẹt, một diêm, hai diêm mà điếu thuốc trên tay tôi bất động. Ông không bật nữa và kêu một cán bộ dẫn tôi về trại. Dọc đường anh ta nói gì đó tôi cũng chẳng nghe. Về tới trại, tôi nằm bất động. Người tôi như tê cứng lại. Tất cả những tháng ngày cực khổ của ba tôi hiện về trước mắt, những vết sẹo như lâm nhâm trên da bụng vì cái những miểng keo. Những đêm hai cha con trên ghe đi ra, đi vào trên giòng sông Cái Lớn. Lời dặn dò khi tôi cất bước vào đời. Và những lần xốn xang khi nghe tin nơi những đứa con mình ở có những bất an. Và mới đây thôi từ bên ấy ba tôi chèo xuồng qua sông chỉ để mang đến cho tôi một ký thịt heo, một ký cải xanh và một bánh thuốc. Tấm lòng của người cha thì như thế đấy. Mà tôi thì…
Tôi định thú thật với ba tôi về việc Út Giữa, nhưng không biết phải nói như thế nào. Tôi hiểu là nếu ba tôi hay việc này, thì tôi sẽ không nhận một trận bão từ mẹ tôi. Nhưng nếu có thì cường độ chắc cũng nhẹ bớt. Nhưng bây giờ thì việc này tôi phải giải quyết một mình. Quan hệ giữa ba tôi và tôi không như những người khác. Ba tôi không quá nghiêm khắc, nhưng tính cách của tôi có quá nhiều cái oái oăm. Nên hai cha con ít khi nói chuyện với nhau. Nhưng trong thực tế, thì trong ba thằng con trai của ông. Ba tôi đặt vào tôi một niềm tin tương đối lớn. Cái niềm tin đó là mong muốn tôi có một cuộc sống có một chút gì đó, ít ra cũng đủ làm cho cái làng quê nhỏ xíu của tôi ngắm nghía. Đơn giản chỉ có thế. Và tôi hiểu như vậy. Thành ra có đôi khi làm một việc gì đó tôi thường hay nghĩ là không biết mình làm như vậy có gây phiền lòng cho ba tôi không. Dù vậy, nhưng cũng chính tôi lại làm cho ba tôi bận lòng nhiều nhất. Bởi vì tôi không hiểu những hành động của mình có làm cho ba tôi hài lòng hay không, thành ra tôi hay dấu ba tôi. Để đến khi ba tôi hay được thì mọi chuyện đã vượt khỏi tầm tay ba tôi.
Gần hơn một tuần tôi mới trấn tỉnh lại được. Số người bị cấm trại lần lượt được đi lao động và được thăm nuôi trở lại. Chỉ còn một mình tôi. Tới kỳ thăm nuôi. Tôi cũng chẳng quan tâm, nên ra canteen, kêu một ly café ngồi uống và nhìn ngó vẩn vơ. Bổng tay trực thăm nuôi gọi tôi rồi dẫn đi, không phải ra nhà thăm nuôi mà lên phòng cán bộ Quản Giáo. Tôi nghĩ thầm “Lại chuyện gì nữa đây“. Nhưng khi buớc vào phòng. Tôi đứng sững như trời trồng. Út Giữa và một thằng bé con khoảng năm tuổi. Thấy tôi thằng bé mở to mắt nhìn. Anh cán bộ quản giáo nói với tôi :
- Anh ngồi đây nói chuyện với chị, chừng nào muốn vô thì vô. Tôi đi trực thăm nuôi đây.
Chúng tôi nhìn nhau và chết cứng, không ai nói với nhau được một lời nào. Tôi muốn nói cái gì đó nhưng không thể nào mở miệng được. Thằng bé cứ hết nhìn tôi tới nhìn mẹ nó. Mọi cảm xúc dâng lên cùng một lúc làm cho chúng tôi gần như không thở được. Cuối cùng người đầu tiên phá vở được tình trạng này lại là Út Giữa. Cô bước đến cầm lấy tay tôi và chỉ nói một tiếng “Anh“ rồi khóc. Tôi thì đứng ngây người như tượng gỗ. Cô khóc cho thỏa thuê và cho đến khi nhẹ lại, cô buông tôi ra, cúi xuống nắm tay thằng bé:
- Lại với ba đi con.
Tôi khuỵu xuống ôm con vào lòng, đôi môi cứ phập phà, phập phều mà không tài nào bật ra được một tiếng mà tôi mong đợi biết bao năm. Tiếng nói ấy đơn giản thế mà tôi không nói được. Tiếng “Ba“ là của tôi chớ không phải vay mượn của ai. Thế mà…
Tôi đứng dậy bồng con tôi trên tay và nhìn nó. Con tôi đây mà, máu thịt của tôi đây. Cuối cùng tôi viện dẫn đến sự giúp đỡ của con tôi :
- Kêu ba đi con.
Nó nhìn tôi lạ lẫm một hồi lâu rồi mới ấp úng :
- Ba..
Nước mắt tôi trào ra và không có gì ngăn lại được. Tôi dụi mặt vào đầu con và... Cho đến khi Út Giữa lên tiếng :
- Lại đây với má đi con. Anh ngồi xuống đi.
Út Giữa đưa tay bồng thằng bé. Từ từ tôi trấn tỉnh lại rồi hỏi con tôi như là một lời hối lỗi:
- Con. Ba đây.
- Ba. Chừng nào ba về với con.
- Đừng giận ba nghe con. Ba chưa thể về với con được.
- Sao vậy ba? Nó ngơ ngác nhìn tôi rồi nhìn má nó
- Để về nhà má nói cho con nghe. Con phải thiệt dễ dạy ba mới thương.
Thằng bé nhìn tôi, nhìn mẹ nó, rồi gật đầu. Nhìn đôi mắt trẻ thơ trong suốt như tâm hồn của con. Tôi có cảm giác mình như là những hạt bụi, những hạt bụi làm bẩn đời con. Tôi hỏi Út Giữa :
- Hoà học lớp mấy rồi em.
- Nó mới lên lớp sáu. Em gởi con ra nhà cô Chín ở chợ Thứ Ba học được bốn tháng rồi. Công việc ở nhà anh đừng lo. Em làm đúng theo lời anh dặn. Mấy lần mẹ con em tới đây. Định ghi tên thăm anh, nhưng em sợ gặp chị. Lỗi là tại em, tại em thương anh. Nhưng bữa nay, em nhờ người quen giúp, em muốn cho anh gặp con. Tội nghiệp thằng Hoà nó nhớ anh lắm. Trong xóm ai nói nó không phải con anh, nó khóc um sùm. Lúc nó học lớp bốn, nghe người ta nói thế. Nó lấy cái khai sinh ra để cãi. Bác Năm thương anh lắm, bác gái mất rồi. Bác ấy có một mình nay yếu mai đau, bây giờ bác Năm qua ở với em. Anh biết hông, bác Năm gặp anh rồi cả năm ổng mới nói với em, ổng nói mà ổng khóc. Em cũng hay ba mất nhưng em không dám qua. Em nhờ bác Năm qua, nói bác Năm là ba của bạn anh. Anh đừng có lo gì hết, em bây giờ đủ sức nuôi hai đứa nhỏ. Nhờ anh sửa lại mấy công đất, nên năm nào lúa cũng trúng, em để dành được ba bốn trăm giạ. Bác Năm nói anh giỏi thiệt, người ở chợ mà chuyện gì cũng biết làm. Em có gởi cho anh tiền và đồ ăn, mấy bộ quần áo. Em thăm anh lần này rồi thôi. Lâu lâu em nhờ bác Năm dẫn thằng Hậu đi thăm anh. Mấy anh trên xã nói anh khéo đăt tên con. Ủa sao anh không nói gì hết vậy.
Út Giữa sợ rằng khi ngưng lại thì cố ấy sẽ quên. Tôi biết cô ấy có rất nhiều điều muốn nói. Ngần ấy năm, bao nhiêu việc, bao nhiêu chuyện và một tấm lòng với ngàn trùng thương nhớ. Ai chia sẻ với cô. Cô ấy không nói với tôi thì nói với ai. Tôi nhìn cô mà xót xa, mà cõi lòng tan nát:
- Em nói đi, anh nghe, lâu lắm rồi anh không nghe em nói. Em nói gì anh cũng nghe.
Út Giữa kể cho tôi nghe biết bao nhiêu khó khăn, biết bao nhiêu thương nhớ. Tôi nhìn cô ấy. Đúng như bác Năm nói. Cô ấy bới tóc cao lên, không che dấu cái thẹo nữa. Cô ấy mạnh mẽ hơn. Tự tin hơn. Từ trong cô toát lên một sự thách thức với cuộc sống khó khăn và niềm khao khát mới, không phải là cái khát khao được ở bên tôi. Mà là sự khát khao làm tròn bổn phận của mình với con cái. Tấm chân tình dành cho tôi, cô ấy biến nó thành một động lực cho việc làm ấy. Cô ấy không hiểu gì cả về mình như sự nhận xét của tôi. Bởi vì những thứ đó chính là bản chất của cô ấy, nó được thể hiện ra một cách tự nhiên, chỉ có người háo sự như tôi mới nhận xét thế này, thế nọ. Cô ấy nói với tôi :
- Anh biết không, lúc anh đi rồi cái thai càng ngày lớn, khi con biết máy đạp em vừa mừng vừa lo. Muốn cho anh hay mà không biết làm sao? Ra nhà thì thấy nhà đóng cửa, Xuống tàu hỏi thì họ chỉ nói anh không ở đó nữa. Rồi má em qua, bà chửi em một trận. Em buồn quá, nhưng nhớ lời anh dặn. Anh dặn làm sao em làm y chang như vậy, Anh ơi, năm đó lúa trúng dữ, ai thấy cũng mê. Năm đó em làm đại hai vụ. Ai cũng nói em liều mạng. Nhưng tới cuối mùa, trả công cày xới, cắt đập xong xuôi em được hơn hai trăm giạ. Phải chi có anh, năm đó chắc ăn tết lớn. Cô cố trấn áp cảm xúc mình. Em định đi tìm anh nữa nhưng thằng Hậu quậy dữ quá. Ăn tết thoải mái mà có một mình, buồn muốn chết. Cuối tháng hai em sanh. Nhờ mấy người ở gần đưa xuống trạm xá ở chợ Thứ Ba. Cô Chín qua nhìn em có nửa con mắt, rồi quày quả bỏ đi không nói một lời. Em buồn muốn khóc. Ai dè một hồi cô ấy quay lại, thôi thì đủ thứ. Không biết cô ấy tìm mua ở đâu mà hay thiệt. Được mấy ngày thì má qua, má liếc một cái rồi bỏ đi. Cô Chín nổi tam bành lên, em can muốn chết. Đến ăn đầy tháng cho con chỉ một mình cô Chín vô nấu cho em một nồi chè. Cúng kiến xong cô Chín về, không ăn gì cả. Em buồn quá, bưng cho mấy người giúp em khi sinh con, mỗi người một ít, còn một ít em với thằng Hòa, hai mẹ con ngồi ăn một mình. Tội nghiệp con. Ngày em sanh thằng Hậu. Thằng Hòa ở nhà có một mình. Ba thấy vậy phải qua ở với nó. Ờ quên nữa, mấy cây dừa anh trồng trái sai dữ lắm, em bẻ hai trái gọt vỏ, để trong cái bao. Mấy anh trên xã xuống thấy miếng ruộng khen quá trời, nói anh là lính ngụy mà giỏi thiệt, chuyện gì cũng biết làm. Lại nói em biết làm ăn, không như má chỉ đánh bài. Ừ trong giỏ có mấy ký tép phơi khô. Anh để dành nấu canh. Còn con vịt xiêm nữa.
Trong lòng đang bấn loạn, nhưng nghe cô ấy nói lung tung làm tôi cũng phải bật cười :
- Bộ em dọn hết nhà xuống cho anh đấy hả?
- Ở nhà nhiều lắm, anh đừng có lo. Em không để con thiếu thứ gì. Bác Năm nói hai đứa, đứa nào cũng giống anh hết.
Rồi cô quay lại thằng Hậu :
- Con giống ba hông. Nói cho ba nghe đi.
- Con giống ba, nhưng ba không về nhà, con hổng thèm giống.
Thằng bé trở nên dạn dĩ. Tôi kéo nó vào lòng. Con tôi, một đứa con mà tôi không thể thương yêu cho bằng hết được tấm lòng mình. Cái số phận gì mà oái oăm đến thế. Đúng là thằng bé giống tôi không sai một ly, điều duy nhất nó khác tôi là sạch sẽ.
- Con có nghịch lắm không em?
- Khỏi chê luôn. Nhưng chỉ nghịch với em và thằng Hoà thôi. Dẫn nó đi đâu thì nó dễ dạy lắm. Em chỉ cái hình anh nói đó là ba con. Anh biết nói sao không? Nó nói Ba gì mà không nói chuyện một tiếng, con nói không. Thằng Hòa thương em nó lắm. Thằng Hậu đòi cái gì cũng được. Bữa em đưa nó ra Thứ Ba, rồi khi em với thằng Hậu về, hai anh em khóc quá trời.
- Sao em đặt tên con là Hậu?
- Thì anh đặt một đứa là Nguyễn Hiền Hòa. Em thấy hiền hậu cũng như hiền hòa vậy, nên em đặt luôn Nguyễn Hiền Hậu.
Cô ngừng lại một chút rồi nói:
- Ba mất. Bác Năm qua dự đám tang. Em đòi dẫn con đi nhưng không ai cho. Em đành cắt ba mảnh khăn tang cho ba mẹ con.
Tôi lặng người không nói được lời nào.
Anh cán bộ Quản Giáo bước vào nhìn chúng tôi:
- Thôi chiều rồi chị đưa cháu về sớm. Anh Hiền cũng vào trại đi.
Tôi bồng con trên tay, hôn con mà không muốn rời ra. Út Giữa đưa tay bế nó. Anh Cán bộ Quản Giáo nhìn tôi nháy mắt rồi quay chỗ khác. Tôi đến bên cô ấy choàng tay ôm vợ, ôm con vào lòng. Cái mùi hương trên tóc ấy, hơi thở ấy làm tôi tưởng như là mới vắng hôm qua, vẫn còn đó nguyên vẹn cái nồng nàn đã cho tôi những tháng ngày hạnh phúc. Thế mà… chúng tôi, gia đình bé nhỏ của tôi… như là một giấc mơ đầy những ngậm ngùi.
Tôi phải mang về tới hai chuyến mới hết. Sức nặng của hai giỏ quà thì như thế, nhưng sức nặng của nỗi nhớ thương mà mấy mẹ con gởi đến cho, nó nặng biết bao nhiêu? Nhưng xem ra sự đáp trả lại bằng tấm lòng, bằng trách nhiệm thì coi bộ tôi vô phương rồi? Tôi chợt nhớ đến Lan, Thu Huyền, Người Góa Phụ Trồng Hoa… họ cũng bị cuộc đời dập cho te tua. Trong chừng mực nào đó họ cũng đã từng đắm say, nhưng tại sao thế? Sự quyết tâm để được hạnh phúc của mình, thì họ gần như không có. Hay tôi không có đủ lửa chân tình để làm cho nỗi khát khao của họ bùng cháy. Tôi nghe văng vẳng lời nói của Thu Huyền. Chị ấy đã nói đúng, rất đúng là khác. Nhưng chị phải cố gắng hết sức để chìu chuộng lấy mình, nhưng được bao lần. Nhưng cô ấy thì không. Cô ấy đã quyết liệt trong tình yêu của mình. dù cô ấy biết nó đầy bất trắc. Và vì biết thế cô đã tận hưởng hết sức, hiến dâng hết sức cho cái hạnh phúc mong manh này. Bằng mọi cách, mọi giá, cô ấy phải có được tôi. Và cô ấy đã làm được, dù cô cũng biết rằng không bao giờ trọn vẹn
Những món đồ được thằng Đăng, ăn cơm chung với tôi, soạn ra. Tôi thực sự bàng hoàng. Đúng là cô ấy dọn cả nhà xuống đây mà. Từng món một, món nào cũng đầy ắp ân tình. Nếu những gì mà ba mẹ tôi, vợ tôi hay em tôi gởi xuống mang đầy những nỗi nhọc nhằn mà cả một gia đình cùng xúm lại lo toan bằng một tình cảm tự nhiên. Thì những món quà này đây nó mang đến cho tôi một tình cảm khác, rất khác, nó mang luôn cả những hình ảnh của một quảng đời nổi trôi khốn khó. Ở đó tôi đã nhận không biết bao nhiêu là dâng tặng của cuộc đời. Ngoài tình yêu của cô ấy ra còn có một thứ tình rất mới, mạnh mẽ xâm chiếm lấy lòng tôi. Tình cha con. Thế mà tôi vẫn cứ lơ đễnh, hết sức lơ đễnh. Để bây giờ tôi nhận ra thì tôi sẽ phải làm gì đây? Tôi không làm gì cả cũng như từ bao nhiêu lâu nay tôi chưa hề làm. Chợt tôi nhớ tới thái độ của ông Mười Can. Phải chăng ông đã sắp xếp cuộc thăm nuôi này. Nếu đúng là ông. Tôi hiểu ông muốn gì ở tôi. Nhưng dù sao đi nữa, tôi cũng hiểu rõ ra mình là ai và mình phải làm gì. Và tôi phải làm cật lực vì quá trễ.
Những ngày tiếp theo tôi cũng chưa được đi lao động, nên tôi có rất nhiều thời gian để suy nghĩ và hưởng thụ những hạnh phúc kèm thêm những lo âu. Cả hai thứ đã làm cho tôi ngây ngất. Tôi vẫn có thừa thời gian để kiểm tra lại toàn bộ cuộc đời mình. Gần như tôi chưa làm được một việc gì gọi là có thể. Nhưng sai lầm thì đã quá nhiều. Nhưng có một việc mà tôi cứ đắn đo mãi mà không hiểu tôi đúng hay sai khi tạo ra mối quan hệ giữa tôi và Út Giữa, lại càng không thể đổ lỗi cho bất cứ ai trong việc này. Tôi bấu vào cô ấy như nắm lấy một cái phao tình cờ giữa giòng sông khốn khó. Cô bấu vào tôi cũng như là một cái phao bị thất lạc giữa giòng sông tình cảm. Bây giờ thì tôi đang quay quắt trong cái hạnh phúc quá lớn lao và nỗi xót xa vì không thể làm tròn được một vai trò đã từ lâu ao ước. Tôi đã vuột khỏi tầm tay mình biết bao nhiêu hạnh phúc. Bây giờ, cô ấy đến như mang cho tôi lời thông báo chính thức, cuộc đời tôi chia phải làm hai phía.
Tôi lại lên gặp ông Trưởng Trại một lần nữa. Ông giao cho tôi. Hàng ngày phải đi ra các khâu lao động, nhìn các đồng cảnh của tôi làm việc ở tất cả các khâu lao động ngoài đồng áng hay các ngành nghề. Cứ nữa tháng một lần, tôi phải làm một bảng báo cáo về các công việc đó, kèm theo những nhận xét về những ưu điểm, khuyết điểm, đề nghị biện pháp giải quyết. Nghĩa là tất cả mọi việc. Tôi trình bày với ông :
- Thưa ông Trưởng Trại. Với nhiệm vụ này, khả năng tôi có nhiều hạn chế và khó lòng đáp ứng được yêu cầu. Bởi thế tôi xin phép ông Trưởng Trại cho tôi được đặt ra hai vấn đề.
- Đặt vấn đề ? Được. Anh đặt ra cho tôi xem coi.
- Thưa ông Trưởng Trại. Thứ nhất. Tôi không thể nhận việc theo dõi và báo cáo về an ninh. Bởi vì, trên vị trí của tôi là một phạm nhân. Những báo cáo về mặt hành động, hay tư tưởng có tính an ninh là không thể. Những báo cáo đó cần có bằng chứng, nếu không thì dễ sai lạc. Chưa kể cảm tính xen vào. Thứ hai, những phần còn lại, trong quá trình tìm hiểu rồi đưa ra những nhận xét, rồi đề ra biện pháp, thì xin ông Trưởng Trại cho phép tôi được tham khảo ý kiến những anh em có hiểu biết về một vấn đề nào đó rồi cùng họ đề xuất biện pháp giải quyết, chứ một mình tôi thì vô phương.
Ông nhìn tôi, môi hơi mím lại :
- Tức là anh có điều kiện khi làm nhiệm vụ cải tạo.
- Thưa ông trưởng trại. Không phải thế. Tôi biết ông trưởng trại tin vào tôi mới giao việc. Và vì thế tôi cũng muốn làm cho thật tốt. Cái gì làm được thì nhận. Không làm được thì nói rõ ra. Tôi không quen cái thói muốn lập công nên làm càn.
Ông nghiêm sắc mặt nhìn tôi :
- Anh nói thế là sao ?
- Thưa ông trưởng trại. Ý tôi muốn trình bày là nếu không làm được mà nhận làm tức là phụ lòng người giao việc, hơn thế nữa còn gây nhiều thiệt hại không đáng có
Ông ngồi ngẫm nghĩ một lúc, rồi nói với tôi, giọng có vẻ dịu lại :
- Thôi được, anh hãy làm theo khả năng anh có. Nhưng tôi cho anh biết, tôi phụ trách trại giam từ ngày còn chiến tranh tới giờ. Chưa có có một phạm nhân nào, khi mà tôi giao việc lại dám đặt điều kiện với tôi?
Tôi thấy không có gì phải nói thêm nên ngồi im lặng.
- Thôi bây giờ cứ thế mà làm, ngày mai cán bộ quản giáo và trực trại sẽ thông báo với ban điều hành và tự quản đội của anh. Bây giờ anh có thể về trại.
Tối hôm đó, khi Chín Đỏ đọc bảng phân công lao động, lúc ông ta bảo tôi từ nay lao động theo chỉ thị của trưởng trại thì cả đội ồ lên kinh ngạc. Bảng phân công đọc xong. Tiếp theo đó là một hoạt cảnh cười ra nước mắt. Một số thì đang thân thiết bổng e dè, một số khác thì bu vào rối rít. Tám Điểu thì mang trà đến chỗ tôi pha uống, rồi Núp cụt, Thạch Hổ Mang, mười Chân và một số trong bọn lá mặt lá trái bu quanh. Tôi nín thinh nghe họ rối rít điều nọ chuyện kia. Cuối cùng, tôi giở ngay trò ba trợn:
- Xong hết rồi hén.
Cả bọn nhìn nhau, không hiểu. Tôi tiếp:
- Thế thì… ngủ.
Cả bọn tiu nghỉu lần lần tản ra. Trong khi đó có một số khác ôm bụng cười. Có hai người không cười, đó là một linh mục và một thượng tọa. Khi đã yên ắng lại, tôi nằm trong mùng suy nghĩ vẩn vơ, thì Đăng khều tôi nói nhỏ :
- Ê. Hiền. Bố kêu mày uống trà.
Tôi ngồi dậy tốc mùng chui ra, lại chỗ vị linh mục. Việc tôi và ông ấy uống trà là việc hàng ngày. Nên ít ai quan tâm, nhưng hôm nay tôi biết khi ông bảo Đăng đến mời tôi thì có khác. Tôi ngồi xuống và ông bắt đầu khá thận trọng:
- Mấy ngày trước, anh có thăm nuôi khá đặc biệt ?
- Vâng thưa bố. Có người bạn cũ rất thân thiết, mới hay tôi vào đây. Nên chuẩn bị xuống thăm hơi quá khổ.
- Thôi được anh nói vậy thì tôi hay vậy. Nhưng cái trò chơi ban nãy của anh thì coi bộ hơi xỏ lá, mà cái kiểu này vốn không phải của anh.
Tôi cười cười :
- Bố ơi “đi với Phật mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy“ mà bố.
Ông thượng tọa chộp ngay :
- Nhưng anh thì chưa bao giờ và cũng không bao giờ đi được với ma. Thế anh mặc áo giấy để làm gì ?
- Thưa thầy. Thế thì chúng ta có muốn mặc áo tù đâu? Tôi cũng không vừa.
Cả nhóm cùng cười. Thế là chúng tôi uống trà. Những lần như thế chúng tôi cùng nhau trao đổi về nhạc lý, thi ca. Ông linh mục thích nghe tôi đọc những câu thơ bất chợt. Ông tự đệm đàn hát cho tôi nghe những bản tình ca(?). Khi hát xong, thì ông giải thích cho tôi tại sao cùng một accord mà có khi phải bấm thế này mà không bấm thế kia. Hoặc là như thế nào là chuyển động harmony, như thế nào là chuyển động mélody. Quy tắc chuyển động cổ điển, quy tắc chuyển động hiện đại... Như thế nào là một hợp âm, quảng, âm vực… Ông giải thích cặn kẽ cho tôi khi tôi thắc mắc. Tôi thì phải trả lời cho ông những câu hỏi về thơ, về niêm luật của từng thể thơ, về phá thể, về đối, yêu vận, cước vận như thế nào… Theo ngày tháng chúng tôi trở thành thân thiết. Thỉnh thoảng ông hỏi tôi biết gì về tôn giáo. Tôi cố né tránh chuyện này. Nhưng rồi cái tính ba trợn của tôi lại sinh chuyện, nên có một lần tôi trả lời ông:
- Tôn Giáo là một tổ chức mang tính xã hội, những thành viên trong tổ chức đó có một đức tin chung nào đó trong cuộc sống hàng ngày, thậm chí cho cuộc sống mai sau. Tổ chức này đòi hỏi những thành viên chấp nhận những giáo điều một cách tự nguyện. Hầu hết mọi tôn giáo chỉ đáp ứng cho tín đồ của họ có được sự an tĩnh trong tâm hồn để sống và chỉ có thế. Có rất ít, thậm chí không có khái niệm kinh tế trong tôn giáo.
Ông trợn mắt nhìn tôi :
- Anh giải thích theo kiểu tầm ruồng mà lại giở giọng như một nhà xã hội học. Những ý tưởng của anh trình bày thì nghe cũng hay hay. Nhưng luận điệu có vẻ giống sa tăng. Thế anh tin có Thượng Đế không ?
- Vừa có vừa không. Bố đừng cho tôi ba phải nhé. Có Thượng Đế. Thượng Đế ở trong lòng ta. Khi ta cà khịa, Thượng Đế buồn làm ta hối hận.
- Được đi. Nhưng tại sao không ?
- Rồi khi ta khổ quá, ta cầu Thượng Đế. Thượng Đế nín thinh. Hay khi ta sung sướng quá ta quên Thượng Đế.
Ông cười ngất, rồi nhìn tôi :
- Bây giờ thì anh đúng là sa tăng rồi. Thế thì anh có bình yên không?
- Thưa bố. Hơi lộn xộn. Nhưng bố yên tâm. Mới một chút lộn xộn trong lòng mà tôi muốn chết rồi. Gây thêm chi bất trắc phải không bố?
- Như vậy là anh có một đức tin nào đó.
- Vâng. Có đấy. Thưa bố
- Thế tại sao anh ghi trong lý lịch là vô đạo (không theo đạo nào)?
- Thưa bố. Liệu tôi nói lên ý kiến mình được không?
- Tất nhiên. Tôi hỏi anh mà.
- Thế thì xin nói với bố thế này. Trước nhất, tôi xin xác định lại tư cách của hai người tham gia câu chuyện này. Xin bố làm người hỏi, tôi là người trả lời. Trong câu chuyện này không có vị trí của một tu sĩ và một người không có đạo. Bố đồng ý?
- Tại sao phải thế ?
- Vì đây là vấn đề đức tin, rất nhạy cảm. Mà cả bố lẫn tôi chỉ muốn trao đổi để tìm hiểu nhau chứ không phải tranh luận gì?
- À ra vậy. Tới giờ này anh mới lộ ra bản chất của mình. Kể ra thì trong tự điển của anh cũng có hai chữ tế nhị đấy, tiếc rằng anh sử dụng hơi ít. Được thôi. Cứ tiếp tục.
- Thưa bố. Tôn giáo là một thứ thuốc an thần giúp cho con người an tĩnh lại trước những khó khăn mà con người gặp phải trong cuộc sống. Từ đó mới cảm nhận được những nét đẹp tinh tế của cuộc sống, để rồi làm cho cuộc sống thăng hoa hơn. Nhưng nếu quá liều thì sẽ tạo nên những điều kỳ cục. Đặt một niềm tin đúng mực gọi là đức tin. Đặt một niềm tin quá đáng thì gọi là mê tín.
Hai ông nhìn tôi có vẻ lạ lùng, một ông hỏi :
- Thế thì cái “vô đạo” của anh là cái gì?
- Song song bên cạnh đó còn có một đức tin khác hiện hữu nhưng không trở thành tôn giáo được. Nhưng nó vẫn cứ tồn tại và phát triển bằng cách chọn lọc những yêu cầu cần thiết cho hoàn cảnh quan hệ xã hội mà một người nào đó tham dự vào và anh ta, có thể một mình hay cùng gia đình hoặc họ tộc loại trừ dần để chỉ còn lại cái gì đó phù hợp với điều kiện kinh tế, giáo dục hay gì gì nữa. Đức tin này bàng bạc, không hệ thống, nhưng rất năng động. Tôi cũng như nhiều người khác thuộc loại đó; nghe những lời Chúa phán, tin những điều Phật dạy và nhiều thứ nữa như hành trạng của các danh nhân và cũng có thể là một ông Thánh có thật với những tài năng, đức độ hơn người, hoặc là một nhân vật vô hình huyền hoặc, mà cuộc sống đã gán ghép cho vị ấy là tác giả của một quan điểm xử thế đúng mực nào đó… Những người như chúng tôi nghe và làm theo nghiêm túc, nhưng không đi cùng, không thờ cúng. Bởi vì những thứ đó phù hợp cho sự tồn tại mà không bó buộc. Đây là một đức tin của sự tự do. Cái thứ đó là cái thứ mà tôi đã chọn để ghi vào lý lịch. Vì vậy “vô đạo”, không có nghĩa là không có đức tin. Có thể gai mắt, trái tai một ai đó. Nhưng khi suy cho cùng thì ai đó cũng thở phào “Thôi hắn đứng bên lề mặc hắn. Tội gì mà buộc hắn lên xe“. Chính trị và luật pháp cũng có một kiểu cách xuất hiện và phát triển na ná như thế, nhưng nó cụ thể, rạch ròi và thường mang tính áp đặt. Trong cuộc sống hiện đại người ta cố gắng dân chủ hóa chính trị và pháp luật, nhưng coi bộ chưa được như ý lắm, hình như nó còn thiêu thiếu một cái gì đó. Cái thiếu đó là cái gì thì cái đầu bé tẹo của tôi không biết. Nhưng dù gì đi nữa thì nó không thể trở thành tôn giáo được. Nó cũng không thể đi cùng tôn giáo, mà cũng không thể trở thành một đức tin. Nếu nó đi cùng thì quả là rối.
- Tại sao lại rối ?
- Thưa bố, tại sao thì tôi không biết. Nhưng lịch sử chứng minh điều đó, và cả hiện tại nữa, đã có nhiều người toan biến giáo điều, giáo luật thành pháp luật.Và hiện nay, có không ít người toan biến tôn giáo thành một lực lượng chính trị để liên minh hay báng bổ. Cũng có thể nhận định thêm một chút. Trong quá trình phát triển, tôn giáo luôn luôn đối lập với quyền lực. Nếu muốn cho tôn giáo nào đó xiển dương thì hãy đàn áp. Nếu muốn cho tôn giáo lụi tàn hãy trao cây gậy quyền lực vào tay. Hãy nhìn Thiên Chúa giáo bị đàn áp không nương tay thời Néron và thời kỳ Thập Tự Chinh với quyền lực trong tay. Phật giáo trong thời Azoka và tiếp sau đó. Cụ thể hơn và ngay trước mắt là một chính phủ mà giáo luật là pháp luật ở một số ít nước Hồi Giáo. Đây chỉ là những điển hình. Vì vậy, cũng có thể nhìn qua một chút sự hình thành và phát triển của các tôn giáo tại Việt Nam qua các thời đại. Và công giáo thời kỳ đầu nhà Nguyễn. Tất nhiên. Những gì tôi nói thì rất mơ hồ, thậm chí là ngụy biện, lôm côm. Đó là thực tế. Thế nên nếu bố cần có một lý giải cho minh bạch thì tôi chào thua.
Ông linh mục lắc đầu nhìn tôi và cũng không nói là tôi nghĩ như vậy đúng hay sai, vì chưa bao giờ ông nói với tôi một cách chính thức vấn đề tôn giáo với tư cách là một tu sĩ. Những gì tôi nói chỉ là một thứ suy nghĩ bất chợt, không ra đầu ra đũa, là một sản phẩm của sự lếu láo nhằm mục đích biện minh cho thái độ “vô đạo” của mình, hay đúng ra là để thỏa mãn cái tính ba trợn. Giao tiếp giữa ông và tôi thuần túy là giao tiếp giữa hai con người hoàn toàn bình đẳng về mọi mọi phương diện. Ông thượng tọa thì cũng thế, nhưng thâm trầm hơn, nhìn tôi rồi lắc đầu cười nhẹ. Không nói gì? Chưa bao giờ hai ông tìm cách để tôi trở thành tín đồ của tôn giáo mình. Hai ông chỉ muốn biết quan điểm của tôi về tôn giáo của họ. Và tôi thì thuộc loại khoái đôi co, nên khi có dịp là vận dụng cho bằng hết những hiểu biết còm cõi của mình để đưa ra những lý luận trời ơi đất hởi.
Một đôi khi ông thượng tọa kể cho tôi nghe một vài mẫu chuyện trong cuốn Góp Nhặt Cát Đá của thiền sư Suzuki. Cuốn sách ấy thì tôi đã đọc rồi, và đọc nhiều lần. Nhưng khi ông kể lại thì ông lại đưa ra quan điểm của riêng mình. Tôi biết thâm ý của ông và tôi giữ thái độ lắng nghe mà không có ý kiến. Tôi biết ông là người hiểu tôi nhất, cảm thông cho tôi nhất và cũng gờm tôi nhất. Tôi cũng không hiểu tại sao?
Có một lần ông nói với tôi :
- Bài thơ mà anh viết đem đi đăng báo ấy không phải là một bài thơ tình. Tất nhiên là anh sẽ cãi lại. Nhưng trên quan điểm của một người tu hành, tôi cho là khác. Không một con người trần tục nào có đủ kiên nhẫn chờ người yêu của mình tới bạc áo đâu. Nếu có thì mình cũng khó mà biết. Anh đã có một cơ duyên nào đó và đấy là một trong những tín hiệu. Tuy nhiên, đối với anh cơ duyên đó đã qua rồi. Nếu anh tin có luân hồi, có nhân quả. Cơ duyên đó sẽ đến với anh một lần nữa. Anh có hiểu như thế nào là nhân quả là luân hồi không. Anh nên tìm hiểu vấn đề này. Tìm hiểu để có một cách sống chứ không phải để đầu tư cho kiếp sau. Có một việc tôi cũng cần nói với anh. Anh nên che chắn sự ngay thẳng của mình lại một chút. Tôi không nói điều này trên cương vị của một người tu hành, mà của một người cùng chung cảnh ngộ.
Ban đầu tôi chỉ cười, bởi vì bài thơ này là đề tài tán hưu, tán vượn không ít lần của bạn bè tôi, nhưng đây lại là một lời nhận xét hoàn toàn khác, và kèm theo là một lời khuyên, nên mỗi khi nhớ lại những lời nói ấy là mỗi lần tôi bị tác động, càng lúc càng mạnh. Tất nhiên. Tôi chưa bao giờ nói thực về lý do tại sao tôi làm bài thơ đó. Tôi cũng chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ trở thành một kẻ tu hành, cả sau này cũng thế, nhưng những lời khuyên thì dần dà những hành động của tôi có vẻ như được kềm chế một phần nào đó. Dù vậy cũng rất chậm, rất khó khăn. Nhưng cái điều cốt lõi mà ông muốn nói với tôi về cái tính thẳng thừng khi phải đối phó với những chuyện tôi cho là không đúng, mới làm cho tôi khó ngủ.
Đấy quan hệ của chúng tôi như thế đấy, ông linh mục lớn hơn tôi một tuổi. Rất tài hoa, đẹp trai. Nếu không là tu sĩ, chắc ông sẽ làm cho lắm cô gái phải đăm chiêu. Tôi hiểu ông muốn gì ở tôi. Ông thượng tọa thì lớn hơn nhiều, đẹp trai cũng không kém. Còn Bác sĩ Lê thì cũng thuộc dạng như tôi, tìm đâu đó những tiếng cười để quên. Chúng tôi là một bộ tứ không giống ai, rất ít khi đàn đúm với nhau. Nhưng mỗi lần xáp lại là có chuyện để cãi. Sự khác biệt về tín ngưỡng, về quan điểm và cả sự chênh lệch về tri thức thì cái chuyện tranh luận, thậm chí cãi cọ là tất nhiên. Nhưng sau đó là để cười. Có lẽ chúng tôi có cùng một điểm chung là Cười. Hơn nữa chúng tôi luôn luôn cố né tránh những vấn đề nhạy cảm. Và để né tránh nó, tôi thường giở giọng lơ mơ, tưng tửng nhưng luôn luôn lựa chọn kỹ lưỡng ngôn ngữ để diễn đạt. Đó là hậu quả của việc “uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”. Tôi đang học thói lọc lõi chăng? Nhưng dần dần những lần nói chuyện như thế có lẽ đã đánh thức cái gen hiếu hòa của ba tôi đang ngáy ngủ trong tôi. Nó thức dậy tự bao giờ và bắt đầu phát huy tác dụng. Dù rằng mọi cuộc cãi cọ với nhau đều do tôi đầu têu. Những người này luôn luôn nhận được ở tôi sự tôn trọng không điều kiện, không phải vì vị trí xã hội của họ mà là ở sự lắng nghe và thấu hiểu.
Vai trò “quân sư quạt mo”, người ta gọi thế, kể cả cán bộ, khi nói về nhiệm vụ mà tôi được ông Trưởng Trại giao, làm cho tôi thoải mái tiếp xúc với nhiều người mà không phải e dè nhìn trước ngó sau. Tất nhiên sự cảnh giác và gìn giữ lời ăn tiếng nói luôn luôn là điều cần thiết.
Tôi nhớ có một lần. Không hiểu cái gì nhập vào tôi. Trước mặt hai ông, bác ba Đặng và bác sĩ Lê tại phòng đọc sách của trại. Tôi làm một hơi về cái việc có hay không có Thượng Đế bằng một luận điệu trời ơi, nhưng thái độ rất ư là nghiêm túc:
- Thượng đế là ai? Hình dạng ra sao? Tác động đến vạn vật như thế nào?
Đặt ra cùng một lúc ba câu hỏi thuộc dạng thiên lôi cầm búa. Tôi bắt đầu e hèm một hơi:
- Sự vận hành của vũ trụ hay là sự chuyển dịch của vạn vật. Trong nhận thức của con người thì chuyển dịch đó là sự hủy diệt và sự sinh sản. Nhưng thực chất của nó không phải vậy. Đó chỉ là sự chuyển dịch từ hình thái này sang hình thái khác, từ nơi nhìn thấy đến nơi không nhìn thấy, hay nói một cách khác từ cái “tưởng như có” đến cái “tưởng như không” và trái lại. Cố nhiên, nơi nhìn thấy và nơi không nhìn thấy là nhận thức của con người. Thời gian của sự chuyển dịch là vô hạn, là không thời gian nên là không nhận thức. Con người là một phần của vạn vật, một phần rất nhỏ và là sản phẩm của sự chuyển dịch đó, nên bị giới hạn bởi cái mốc thời gian khởi đi từ sự nhìn thấy, đến chỗ kết thúc là khi không còn nhìn thấy. Sự nhận thức là của con người nên bị giới hạn trong khoảng đó. Nhận thức là hữu hạn. Đem cái hữu hạn để hiểu cái vô hạn là không thể. Do đó Thượng Đế xuất hiện. Tùy theo quan điểm của nhận thức và cả ý thích, nhu cầu của từng cá nhân, mà Thượng Đế sẽ mang cái vóc dáng và quyền năng mà người đó hình dung ra. Thế nên nói có Thượng Đế và không có Thượng Đế đều đúng. Với cá nhân tôi. Bằng cái nhận thức hữu hạn của mình, tôi nói có Thượng Đế. Thượng Đế chính là nguyên lý vận hành của vũ trụ, cái nguyên lý đó được gọi một cách đúng đắn là “Tôi Không Biết”. Như vậy Thượng Đế chính là Tôi Không Biết. Mà đã là không biết thì không thể khẳng định là có hay không.
Ông thượng tọa nhìn tôi, rồi từ tốn hỏi :
- Những điều anh vừa nói làm cho tôi nghĩ đến hai chữ Sắc, Không. Thế anh biết gì về hai chữ này.
Đây là lần đầu tiên, mà cũng có lẽ là lần duy nhất, ông đặt vấn đề với tôi.
- Thưa thầy. Điều này quả tình là khó cho tôi. Những gì tôi hiểu về hai từ này chưa đủ để tôi lên tiếng. Còn việc mà tôi đang nói thì có thể kết luận như thế này. Hãy im lặng chấp nhận cái hữu hạn của tư duy và sử dụng nó để trở thành một mắc xích hữu ích trong cái chỗi vô tận gọi là Tôi Không Biết ấy. Biết đâu cho đến một thế hệ nào đó của mai sau hay là ngay tại đây sẽ có một nhân vật hét lên trong im lặng “Euruka”. Cuối cùng, xin mạn phép nói với thầy, tôi đã từng nghe được ba tiếng Vô Ngôn Thông.
Ông thượng tọa tròn mắt nhìn tôi:
- Vô Ngôn Thông. Anh tìm đâu ra ba từ này. Và anh hiểu thế nào?
- Thầy không nói, tôi không nói. Thầy hiểu, tôi hiểu. Nếu ai nói, người đó không hiểu, người nghe càng không hiểu. Tôi dứt lời với cái ý nghĩ là gây cho cả bốn ông một tràng cười nôn ruột. Nhưng không. Trong khi tôi chuẩn bị cười theo thì cả bốn im lặng nhìn tôi không nói gì, không một biểu cảm nào lộ ra trên khuôn mặt. Tôi không hiểu gì cả. Nhôn nhạo trong lòng vì quê độ, tôi kiếm cớ bỏ đi.
Thực ra là tôi không hiểu gì cả về môn phái Phật Giáo này Tôi chỉ biết đại khái đây là một môn phái Phật Giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm khoảng thế kỷ thứ 7 sau Công Nguyên. (thực ra đây là tên của một môn phái thiền học của VN và cũng là tên của vị thiền sư khai sơn.)
Thông thường khi tới giờ đóng cửa. Tôi về nơi của mình, chui vào mùng. Nằm trong bóng tối. Tôi không còn bị nỗi nhớ nhà như những người cùng chung hoàn cảnh, cũng không có những suy nghĩ về ngày trở về, mà luôn luôn phải nghĩ về những gì mà tôi phải làm trong những ngày sắp tới. Cái khó cho tôi không phải là công việc, mà là khả năng tiếp cận của tôi. Trong đó có việc chỉ có một mình tự do đi lại trong một khu vực khá lớn. Tôi định nghĩ xem phải làm gì trước thì có một cái mùi gì thật lạ, nhưng cũng thật quen thoang thoảng. Tôi bật ngồi dậy bật hột quẹt quơ quơ tìm, bổng thấy bộ đồ của Út Giữa gởi cho để dưới gối. A. Hồi trưa soạn ra thấy để trong bọc ny lon, nên gỡ bỏ bọc để đây, rồi quên. Trong bóng tối tôi cầm bộ đồ đưa lên mũi hít mạnh một hơi. Tôi chới với. Cô này ghê thiệt, mặc bộ đồ ngủ một đêm rồi xếp lại gởi cho tôi. Tôi cười thầm trong bóng tối và tận hưởng dư hương của người tôi yêu mến. Tại sao cô ấy làm thế. Cô ấy tinh thật. Cô ấy biết tôi thích cô ấy vì cái gì. Bổng dưng tôi lấy làm lạ ở mình. Bao nhiêu người đàn bà đi qua vòng tay tôi, họ tìm đến tôi vì một lý do không hiểu nổi. Mùi mồ hôi. Thực tình mỗi khi cởi bỏ cái áo thun đang mặc, cái mùi ấy của tôi còn làm tôi phát sợ, ở đó mùi mồ hôi trộn lẫn mùi thuốc lá đậm đặc và đôi khi là mùi rượu. Thế nên, tôi không khi nào mặc bộ đồ lót quá một ngày. Thế mà cái mùi khủng khiếp ấy… Và bây giờ tôi hiểu ra, cô ấy gởi cho tôi cái mùi của mình. Không biết cô ấy có ghê cái mùi của cô ấy không chớ với tôi thì thơm lắm và tôi rất sợ nó pha lẫn vào cái mùi son phấn và nước hoa. Tạo hóa hay thật. Thảo nào ca dao có câu “…Thia thia quen chậu…”.
Việc trước tiên tôi làm là dành nửa tháng đầu đi loanh quanh trong trại. Xem xét cung cách sinh hoạt của từng đội, cách cư xử của các đội trưởng, tổ, toán trưởng đối với các trại viên. Tôi nhận thấy có hiện tượng đại bàng. Chia phe, lập nhóm xảy ra ở các đội, dù chưa thật sự nghiêm trọng. Các cán bộ phụ trách thường rất trẻ, mới vào ngành, nên rất dễ bị những tên cáo già qua mặt. Tôi ghi nhận toàn bộ việc này khá nhanh, vì ai cũng biết tôi lao động là do Trưởng Trại phân công. Thường thì mọi người chỉ nặng về vấn đề an ninh. Nên khi tôi xâm nhập vào một lĩnh vực khác không ai đề phòng và công việc tiến hành khá thuận lợi.
Báo cáo được gởi đi đúng kỳ hạn được ba ngày. Tôi lại phải lên gặp ông Trưởng Trại. Vừa thấy tôi, ông chỉ ghế cho tôi ngồi, rồi nói ngay:
- Tôi tưởng anh làm cái gì. Anh lại làm cái việc này. Thôi được anh cho tôi biết lý do.
- Thưa ông Trưởng Trại. Không giải quyết được việc sinh hoạt trong trại thì mọi cố gắng xem ra vô ích. Đây là bước đệm cho những bước sau dài hơn.
- Nhưng kế hoạch của anh quá hiền. Tại sao biết rõ như thế mà không kỷ luật ?
- Thưa ông Trưởng Trại. Bởi vì họ không biết, nên họ mới vào đây, vào đây họ chưa hiểu tường tận và còn mang theo cái ếp nghĩ đã gây nên tội lỗi, thế mới như thế này. Nếu giải quyết một cách êm ái như thế, thì họ sẽ hiểu ra, và người thay thế họ cũng biết được ý của ông Trưởng Trại như thế nào, họ sẽ tuân theo. Tính thuyết phục nằm ở chỗ đó.
Lúc này ông mới cười và tôi biết là ông thử lửa :
- Thôi được. Tôi thử một cái xem? Kế tiếp anh sẽ làm gì?
- Thưa ông Trưởng Trại. Chắc phải xem lại vấn đề nhân sự ở các khâu chuyên môn.
- Chỉ nhân sự thôi à ?
- Vâng . Thưa ông Trưởng Trại.
- Được thôi. anh làm đi. Ngày mai tôi họp Ban Lãnh Đạo giải quyết vụ này.
Mười ngày sau, tất cả mọi việc được giải quyết khá trơn tru. Chín Đỏ tím mặt lên vì giận. Ông ta không hề gì nhưng phe cánh của ông ta rụng gần hết. Không có gì chắc chắn khi ông ta chĩa mũi dùi vào tôi. Nhưng ông ta bắt đầu hơi kiềng tôi dù giận đến tím tái mặt mày. Ở trong trại thì như thế, một trách nhiệm được giao và kèm theo một chức danh nào đó thì đồng nghĩa với quyền lợi. Tổ trưởng, toán trưởng là dẫn đi làm chớ không làm, nghĩa là có thời gian đi xom lươn, bắt chuột hay câu cá hái rau. Hơn nữa là có người phục vụ. Không một cán bộ nào có thể khám phá ra điều này. Và Ban Lãnh Đạo thì lại càng không biết.
Một lần nữa trong cuộc đời tôi lại phải sử dụng cái quyền hành được vay mượn. Càng lúc tôi càng được ông trưởng trại đánh giá cao, dù không phải ít lần, những đề nghị của tôi bị ngâm hay không thực hiện. Tất nhiên là tôi không nhắc cũng như chẳng cần phải có thêm ý kiến gì. Những lần như thế cho tôi được sự cân nhắc khá kỹ trước khi đề nghị.
Dù vậy, vai trò quân sư quạt mo của tôi đã có những tác dụng nhất định. Không phải tôi tài cán gì, chẳng qua là những đề xuất của tôi đều đáp ứng dược phần nào yêu cầu của hai phía; ban Giám thị trại và anh chị em phạm nhân. Tất nhiên không phải tất cả mọi thứ đều do tôi. Ông Mười Can là người rất nhanh và bén, càng về sau ý tưởng ông đưa ra càng nhiều hơn. Ông thường gọi tôi đến nói thế này thế khác. Tôi chỉ là người bổ sung hay chỉ soạn kế hoạch chi tiết, tạo điều kiện cho anh em thực hiện. Ngoài ra tôi cũng đề xuất một số anh em có năng lực ra phụ trách các phần việc chuyên môn, nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển của trại. Hầu hết những người này ở Đội của Chín Đỏ và ông ta phản ứng khá quyết liệt vì năng lực lao động ngoài đồng áng của đội bị suy giảm (?). Nhưng thường thì ông ta không đạt kết quả. Đó cũng là nguyên nhân làm cho mâu thuẩn giữa tôi và ông ta càng lúc càng nặng thêm. Sinh hoạt trong trại có quy củ hơn, ngăn nắp hơn. Mở được lớp xóa mù chữ, lớp dạy nghề, báo tường, lập đội văn nghệ, không còn các vụ xâm trổ trên thân thể. Những biểu hiện biến thái tình dục thường bị dập tắt ngay. Những bản nhạc sến, rên rĩ, ỉ ôi không còn nữa, thay vào đó là những giai điệu trong sáng do phạm nhân trong trại sáng tác hay do từ bên ngoài gởi vào. Sản lượng lúa tăng, chỉ tiêu lao động giảm… Mọi sinh hoạt và hành vi ứng xử, thái độ lao động đều có trách nhiệm hơn.
Tôi lại tiếp tục đề nghị làm thêm một việc khá oái oăm. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ. Phát động phong trào nói chuyện không chửi thề trong toàn trại. Trong khi tôi thì hình như hơi nặng về cái tật này. Khi đọc bảng đề nghị và kế hoạch thực hiện. Ông Mười Can nhìn tôi, lắc đầu:
- Anh mà thực hiện được việc này là tôi thua. Nhất là mấy cái tay hình sự.
- Rất có thể không được, thưa ông trưởng trại, nhưng ít ra nó cũng giảm. Nếu ông trưởng trại chấp thuận, tôi khi phép được họp trại và trưởng trại tuyên bố phát động phong trào.
- Thôi được. Dù sao thì cái việc này cũng hay hay? Với lại, chưa làm thì làm sao biết kết quả nó ra sao? Nó mà thành công chắc tôi thêm một sao nữa. Thôi mấy năm nay lúa trúng, tốn thêm ít gạo nữa có sao đâu? Dù gì cũng là cách cải thiện bữa ăn cho anh em. Nhưng anh liệu xem, cho người ta ăn mà ra điều kiện liệu có quá lắm không? Ông có vẻ thích thú nên nói vui. Còn tôi nghĩ thầm “ Ơ. Sao hôm nay ông này đâm ra lịch sự thế? “
Khi ông Mười Can vừa chấm dứt lời tuyên bố phát động. Tôi tiếp tục trình bày những phương án và điều lệ để thực hiện cùng những biện pháp khen thưởng, chế tài. Cả trại xôn xao. Tất cả đều ồn ào bàn tán và xen lẫn trong đó có những tiếng… chửi thề. Chỉ có ba người yên lặng. Bác ba Đặng, ông linh mục, ông thượng tọa. Khi tan cuộc họp trại ông kêu tôi về phòng Đọc Sách. Vừa ngồi xuống, ông nói ngay :
- Mày giở cái trò gì ra vậy? Muốn đem cái thân còm của mày ra đánh bạc hả? Mày tham vọng quá lớn, muốn biến bảy trăm con người hỗ lốn này thành thánh nhân hết hả? Nếu không xong thì sao?
- Thưa bác, con đâu có bạo gan đến thế. Chẳng qua là muốn nhân cơ hội này cho anh em có thêm một số ý thức về việc làm của mình và có thêm chút ít để cải thiện bữa ăn. Với lại dù sao về mặt pháp lý thì đây là một phong trào do ông trưởng trại phát động.
Ông có vẻ trầm ngâm :
- Mày thật là… Thôi trước tiên là bản thân mày nên cố gắng. Tao thấy mày chửi thề cũng không thua gì ai đâu?
Nhưng rồi sự việc lại tiến triển tốt đến không ngờ. Những ngày đầu tiên đã xảy ra nhiều sự cố buồn cười. Anh này chửi thề anh kia nhắc. Chối, rồi cãi và cả bọn hè nhau chửi thề um trời. Đến khi ai đó lên tiếng thì cả bọn cùng ngả lăn ra cười ngất. Lần đầu tiên xảy ra trường hợp chửi thề mà không có cự cãi. Rồi từ từ giảm đi. Sau tổng kết tháng, bảy đội trong trại chỉ có đội của các phạm nhân thuộc hệ quân nhân công chức chế độ cũ trình diện cải tạo là có số lượng lần chửi thề ít nhất, kế đến là đội của tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia. Đội đứng hạng bét. Thật bất ngờ. Đội nữ. Nhưng nhìn chung thì số lần chửi thề của phạm nhân, tính bình quân trên đầu người thì giảm thấy rõ. Tất nhiên là không có một biện pháp nào có thể xác định anh này hay chị kia chửi thề mỗi ngày bao nhiêu tiếng, nhưng nhìn chung thì ít dần đi. Cũng cần nói thêm, tính chất của những tiếng chửi thề chỉ là để trút đi nỗi bực dọc nhưng nó lại là nguyên nhân đẩy những cuộc cự cãi đến chỗ xô xát. Tháng này không có xếp hạng ưu tú tập thể, mà chỉ có, ưu tú cá nhân. Người được ưu tú thì có một trong hai quyền lợi; được ra nhà hạnh phúc một lần 24 giờ hoặc nhận 5 lít gạo, 100 gram đường và 500 gram muối. Ông Mười Can có vẻ vui, nhưng nhìn danh sách ưu tú, đa số là người lớn tuổi, ông cười ngất :
- Mấy anh này đâu còn hơi nữa mà chửi thề.
Qua tháng thứ hai, có hai đội được bình bầu ưu tú tập thể. Đội của các phạm nhân nguyên là cán bộ và đội của tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia. Đội của các anh trình diện cải tạo chỉ có một tiếng chửi thề duy nhất. Tất nhiên những con số này được căn cứ vào giấy tờ. Các đội khác giảm rất nhiều, kèm theo đó là những vụ việc cự cãi, đánh lộn không còn. Ông Mười xem chừng rất khoái. Ông hỏi tôi :
- Anh có chửi thề lần nào không? Tôi nghe anh nói chuyện hình như anh chửi cũng khá dòn đấy.
- Tất nhiên là có, thưa ông trưởng trại, nhưng có điều khi người ta không mà mình có thì cũng hơi kỳ. Thật ra khi đề nghị với ông trưởng trại việc này, mục đích mà tôi ngắm đến là chính mình.
- Vậy anh có tốt con khỉ mốc gì đâu ? Chẳng qua là vì mình thôi. Nói xong ông cười ha hả rồi tiếp. Nhưng cũng hay. Coi vậy chớ dễ gì anh ơi. Giang sơn dễ đổi, bản tính khó chừa. Nhưng giảm được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Anh hãy cố gắng kéo dài phong trào. Tôi ủng hộ. Nhưng tôi hỏi thiệt anh, anh muốn gì khi đề xuất việc này.
- Thú thật với ông trưởng trại. Tôi thấy chửi thề là nguyên nhân của sự mất đoàn kết, gây ra những trận cự cãi, ấu đả không đáng có. Trong khi cuộc sống mất tự do là một sự trả giá quá đủ cho hành động sai lầm của mình. Thì không một lý do gì mà lại tự hành hạ mình, tự hành hạ nhau bằng những chuyện lu bu như thế.
Ông nhìn tôi cười :
- Cũng hay. Thôi cứ thế mà làm.
Ông nói đúng và bác ba Đặng nói đúng. Chỉ giảm thôi, giảm thật nhiều nữa là khác, nhưng không bao giờ chấm dứt. Được thôi, dù sao không khí trong trại cũng trở nên yên ắng và dễ chịu hơn. Mục đích của tôi đã đạt được. Nhưng cái là tôi cảm thấy dễ chịu nhất chính là chỉ tiêu lao động được hạ xuống nhưng hiệu quả thì lại tăng lên. Và anh em trong trại không còn ai đói.
Nhưng cái làm tôi tâm đắc nhất là Phòng Đọc Sách đã lên đời thành Thư Viện. Sách vở, báo chí có nhiều hơn, mới hơn. Tôi tìm mọi cách để bổ sung tựa sách và báo chí. Trong một chừng mực nào đó, tôi tìm ra được một số nguồn. Càng lúc, số đầu sách càng nhiều thêm. Lúc này tôi nếu có đi long rong ra ruộng, vào rừng hay vô rẫy chẳng qua là ngó qua, ngó lại rồi về vùi đầu vào Thư Viện. Thâm chí, mượn một quyển lộn lưng, rồi chui tuốt vô rừng, leo lên chòi canh lửa, nằm đọc đã đời rồi tuột xuống lội về. Tôi bắt đầu làm quen với những tác giả mới, điển hình là Nguyễn Mạnh Tuấn qua Cù Lao Tràm, Đứng Trước Biển. Tôi nhận ra cái sinh khí mới, tôi nôn nao đón chờ để xem coi nó tròn méo ra sao? Nhưng cảm động nhất là Ma văn Kháng. Những vấn đề ông đặt ra không lớn, nó nhẹ nhàng như không khí quẫn quanh bên lũy tre làng, nhưng cần thiết cho cuộc sống xiết bao. Như khi ông viết về ông giáo già sáng sáng rót trà để lên bàn thờ mời vợ và chiều chiều thắp hương. Người học trò Tây đến thăm ngạc nhiên hỏi ông, ông giảng giải cho người học trò Tây nghe về chữ Tình, chữ Nghĩa trong quan hệ vợ chồng của người Việt. Tôi không nhớ tựa quyển sách. Khi đọc xong đoạn này tôi cảm thấy bần thần. Mới gần bốn mươi mà chữ Tình của tôi quá đa đoan, những Lan, Hà, Thu Huyền, Quyên, Huy… nặng nề hơn cả vợ tôi và Út Giữa và hình như còn nhiều ai nữa. Thế thì cái chữ Nghĩa kia tôi viết thế nào cho đẹp đây? Một tay viết chữ được tấm tắc là “rồng bay phụng múa” xem ra chuyến này viết không ra chữ Nghĩa rồi. Bởi vì, tôi đến với họ gần như là một chuyện rong chơi. Bây giờ thì phải viết hai nơi, hai chữ. Một chữ thì nghiêng chiềng, một chữ thì méo xẹo. Ôi bàn tay này bị vọp bẻ rồi sao?
Rồi không biết ông hay là cuộc đời chơi khăm tôi. Số là trong trại có mua một số lượng lá bó khá lớn, nhưng không mua hom, mua lạt để chầm. Và tôi cũng khổ sở không ít vì nó. Nào hom, nào lạt, nào dạy chất lá bó, nào dạy chầm lá hom, lá tấm. Đến bây giờ hết lạt, không tìm đâu ra lạt. Ông giao tiền, vỏ vọt, cấp xăng nhớt cho tôi đi tìm mua. Ở vùng Thứ Bảy Kinh Làng thì lại không có. Tôi phải chạy ra Cái Nước, Hốt Hỏa, Xẻo Kè, Xẻo Cạn, Thầy Qươn để mua. Những thứ này thì phải đặt trước, chứ đâu phải đến mua rồi vác dao ra đám lá mà chặt bừa. Phải tuyển, phải lựa, chớ thấy cà bắp ở đâu cũng đưa dao chặt thì lá lú nào còn. Thế là tôi xách vỏ máy chạy lung tung hết nơi này sang nơi khác để đặt mua. Dự định ngày thì đi, đêm thì tìm nhà ngủ nhờ, đến ngày hẹn thì đến lấy. Giao hẹn thế được đâu bốn năm mối, và tôi đến Thầy Qươn. Khi vô vàm lòng tôi lại nôn nao những kỷ niệm của thời tuổi nhỏ, nhìn ngôi đình chỉ còn cái nền, lòng tôi bức rức mà không hiểu tại sao, tôi muốn vào thăm nhà ngoại, nhưng tôi không thể, thế là chạy rong rong đi làm nhiệm vụ của mình và tôi lại trở ra vàm ghé vào thất Cao Đài, dấu tích của bom đạn còn rõ nét hằn lên trên một khung cảnh hoang vắng đến xao lòng. Những cây bần xanh mượt gần như không còn dấu tích gì của những năm tháng chiến tranh. Tôi tìm những ổ chim dòng dọc mà tôi từng thấy ở thời tuổi nhỏ. Không có, chiến tranh đã qua đi lâu rồi mà chim vẫn chưa về. Bổng nhiên tôi nhớ bài thơ Hoàng Hạc Lâu mà tôi đọc thời còn đi học. Ôi buồn thật, nhìn ngó quanh quanh một lúc, nắng đã xế chiều thả những ánh sáng dấp dới xuống giòng sông Cái Lớn mênh mông những sóng. Bổng nhiên tôi viết, ôi một thói quen đã quên lửng từ lâu lại trở về.
ĐỌC HOÀNG HẠC LÂU Ở VÀM THẦY QƯƠN
MÀ NHỚ VỀ CÁI MỚI
Lũ chim dòng dọc bay đi mất.
Để thất Cao Đài mãi đứng không.
Chim đã mù bay về biệt vụt,
Mây còn trắng lốp giữa mênh mông.
Sông quê hửng nắng bần soi bóng,
Bãi quạnh thơm hơi cỏ phập phồng.
Quê cũ chìm đâu trong ráng đỏ,
Buốt lòng thương nhớ, khói trên sông.
Ôi trời. Cái Mới lớn phía bên kia sông, chỉ cần qua sông và nửa tiếng sau là tới nhà. Tôi thật sự bấn loạn. Tôi biết, tôi qua sông là không bao giờ tôi trở lại. Làm sao tôi có thể đi được khi nhìn thấy bàn thờ ba tôi, làm sao tôi đi được trước những giòng nước mắt của mẹ tôi. Đã gần mười năm xa nhà. Thế là tôi chạy đi như trong sự đấu trang mãnh liệt, ở bên này sông hay qua phía bên kia sông. Cứ thế cho đến khi chiếc vỏ lủi vào đám lá với cái tốc độ quá nhanh. Khi tôi gở ra được và xem lại, may mà cái vỏ không thủng, Cú lủi này cứu tôi thoát khỏi chuyện này thì xô tôi vào chuyện khác. Tôi nhìn lại thấy vàm một con rạch, tôi nổ máy chạy vào như chạy trốn. Con rạch nhỏ không chạy nhanh được, lỡ chìm xuồng thiên hạ thì nguy, vừa chạy tôi vừa ngắm ngó chung quanh, thấy chừng như quen quen, chừng như là lạ. Bổng bốn cây dừa. Trời ơi tôi đang chạy vào rạch Xẻo Kè. Bốn cây dừa của tôi. Tim tôi đập thình thịch và tôi ghé lại như vô thức. Đang lui cui buộc cái vỏ vào cầu. Thì tôi nghe có tiếng la toáng lên :
- Má ơi má. Ba. Ba! Má ơi!
Tôi quay lại thấy thằng Hậu, Thằng bé con ghê thật, mới gặp tôi có một lần… nó đang nhảy lưng tưng còn Út Giữa trong nhà chạy ra, vừa thấy tôi thì đứng như trời trồng. Tôi bước lên rồi bế con trên tay đi vào nhà. Thằng nhóc nặng dữ. Gần bảy tuổi rồi còn gì.
- Nè. Con trai của ba đi học chưa ?
- Rồi ạ, con học lớp một.
- Biết đọc viết chưa ?
- Rồi ạ. Hờ iên hiên huyền Hiền. Hờ âu hâu nặng Hậu. Thằng bé làm một cú đánh vần tên ba nó và của nó như để chứng minh. Khác hơn tôi hồi nhỏ đánh vần tên bác Tư Ù. Tê ư tư huyền Ù
- Con của ba giỏi thiệt.
Hai cha con vừa đi vào nhà, vừa huyên thuyên đủ thứ. Khi vào tới hàng ba, tôi thấy cô ấy đứng đó, bất động nhìn cha con tôi. Mặt thì rạng rỡ mà nước mắt chảy ròng ròng.
- Xuống con. Cho ba nghỉ con. Cô đưa tay đỡ thằng bé
- Hông. Con muốn ba bồng con. Thằng bé bấu chặt cổ tôi, phụng phịu
- Thôi để anh bồng con một chút nữa đi em.
- Thôi hai cha con ở đây. em đi lấy khăn cho anh lau mặt.
Cha con tôi huyên thuyên đủ thứ. Tôi nhìn nó như chưa bao giờ được nhìn. Không có một thứ xúc cảm nào có thể lớn lao hơn. Tôi nhìn con tôi và quên hết mọi thứ.
- Ba thả con xuống đi. Con nặng lắm.
- Ừ. Thì xuống. Tôi đặt thằng bé xuống thì cô ấy mang ra cái khăn và lau mặt cho tôi. Thằng bé đứng nhìn môt lát rồi lên tiếng :
- Má lau mặt cho ba y như lau cho con vậy.
Mặt cô ấy đỏ lên. Cô quay lại bảo thằng bé :
- Con đi mua nước đá về má bẻ dừa cho hai cha con ăn.
Thằng bé dạ một tiếng rồi chạy đi.
- Mua nước đá ở đâu em? Có xa lắm không?
- Anh đừng lo ở kế bên nè. Chà thương con dữ mà ở trỏng hoài.
- Thôi ở trỏng cho người ta nuôi. Về đây ban đất, đấp bờ mệt muốn chết.
- Anh đi đâu hay là được về?
- Anh đi mua lạt cho trại. Ba má em khỏe không? Còn thằng Hòa nữa học có giỏi lắm không? Em có thường hay đi thăm con?
- Ai cũng khỏe cả. Nếu anh ở đây được vài ngày em nhắn con về. Nó đòi theo bác Năm đi thăm anh, nhưng em sợ nó phải nghỉ học. Nó buồn hiu, nhưng không dám cãi.
Thằng bé mang nước đá về. Chúng tôi ra trước nhà. Trong khi tôi bẻ dừa thì hai mẹ con tíu ta tíu tít. Đối với tôi, gần bốn mươi tuổi mới cảm nhận cái không khí gia đình đang được thể hiện trọn vẹn như thế này. Út Giữa đi nhờ người ra Thứ Ba rước thằng Hoà. Bây giờ tôi mới có dịp nhìn lại căn nhà mà những người tôi thương yêu đang sống. Nó vẫn thế sau bao nhiêu năm, nhưng tinh tươm hơn. Đồ đạc nhiều hơn. Một cái tivi đặt ở một nơi khá trang trọng và bên trên là tấm ảnh của tôi. Tấm ảnh này tôi chụp hồi 23, 24 tuổi gì đó để làm thẻ hành sự. Không biết cô ấy lấy ở đâu ra. Chắc là cô ấy lấy trong bóp tôi, tấm ảnh được một tay vẽ chân dung phóng to ra coi cũng có nét lắm. Tôi thấy có cái hộp khá lớn nằm trơ trọi trong tủ kính. Tôi định lấy xem, nhưng tủ đã khóa lại. Tất cả mọi thứ trong nhà đều mới. Một cái kệ bày bán các thứ linh tinh để xài hàng ngày trong nhà; khô cá, nước mắm, bột ngọt, đường, mì gói… nhất nhất cô ấy làm theo lời tôi dặn. Tôi dẫn con ra nhà sau, rồi ra ngoài ruộng. Những liếp rau xanh rờn trồng khá nhiều thứ. Một chuồng heo có mấy con, có hai con gần đúng tạ. Miếng đất đã được cày xới, những luống cày thẳng tấp lấp lóa dưới ánh nắng chiều, màu đất nâu sẩm không còn những vệt phèn trắng toát như khi tôi mới đến. Cô ấy đã chăm sóc miếng đất, như chăm sóc tình yêu của mình. Nhưng tôi cũng nhận ra nỗi buồn của cô phảng phất đâu đó trên mảnh ruộng này. Cô ấy đã về tự lúc nào và đang chiên xào nấu nướng gì đó trong bếp. Thằng bé thì cứ líu lo mặc cho ba nó thả hồn đi đâu đó. Tôi chợt nhớ đến công việc của mình và nhói lên trong lòng. Tại sao vậy, tại sao mà cái hạnh phúc của tôi bao giờ cũng chỉ được đếm từng ngày. Nó đơn sơ như thế, nồng nàn đến choáng ngộp. Có gì gọi là cầu kỳ đâu mà phải mong manh? Tôi thẩn thờ nắm tay con vào nhà. Bàn tay của thằng bé nhỏ xíu, đang cần xiết bao bàn tay dẫn dắt của cha. Thế mà…
Thấy cha con tôi vào. Út Giữa nhìn tôi, khuôn mặt hồng lên vì lửa:
- Hai cha con ra nhà trước đi. Em nấu cơm cho mà ăn. Thằng Hậu bữa nay không ngủ trưa. Có ba về, má cho qua nghe, mai không được như thế.
- Dạ. Mai con ngủ trưa đàng hoàng. Thằng bé nhanh nhảu trả lời.
- Con ra nhà trước chơi. Ba nói chuyện với má một chút. Tôi nói với thằng bé.
- Dạ. Con ra học bài chờ ba nghe. Thằng bé chạy vụt đi.
Tôi đến sau lưng cô, vòng tay ôm cô vào lòng, mùi tóc, mùi mồ hôi lấn át tất cả mọi thứ, từng thớ thịt cô ấy run lên, nhưng cô vẫn nói :
- Đừng anh. Mình mẩy em mồ hôi không. Cô ngước mặt nhìn tôi rồi tiếp với giọng bông đùa. Vẫn còn nguyên cho anh. Không ai rớ vô đâu mà sợ.
Cô ấy như thế đó, tất cả mọi thứ dành cho tôi luôn luôn sạch sẽ, tinh tươm. Nếu đó là hạnh phúc của cô ấy thì đối với tôi nó lại bị phân hai. Vết thẹo quen thuộc ấy hồng lên dưới ánh lửa. Nó đã bao nhiêu lần rồi cuốn hút tôi bằng một sự chịu đựng và thách thức với cuộc sống. Chính nó đã dẫn dắt tôi đến với cô. Chính nó mang đến cho tôi hạnh phúc. Tôi yêu nó trước khi yêu cô ấy. Tôi luyến tiếc buông cô ra và cái mùi mê đắm ấy đẫm vào tôi. Chợt nhớ tới bác Năm. Tôi hỏi:
- Em nói bác Năm qua ở với em. Sao tự nãy giờ anh không thấy ?
- Bác Năm qua ở với em được một năm. Sau đó cô Tám, em bác ấy ở Nhà Ngang qua rước về. Bác ấy không muốn đi nhưng cô ấy năn nỉ quá, với lại mấy lần má em qua thấy rồi cằn nhằn đủ thứ, làm em thấy ái ngại cho bác Năm, nên sẵn dịp cô Tám qua rước bác Năm em cũng nói vô luôn. Chớ có bác Năm ở đây, em cũng đỡ buồn. Với lại bác Năm giữ em giùm cho anh. Chẳng có thằng nào dám đến đây ọ ẹ.
- Thôi ai rinh được thì rinh, cho anh đỡ lo? Nhưng nhớ đem hai thằng nhóc qua Cái Mới trả cho bà nội nó.
- Anh ngon thì nói lại cho em nghe đi. Anh có tin là em quậy không?
- Thôi. thôi. Anh tin rồi. Nói vậy chớ thằng cha nào mà rinh là chết với anh. À. Quên nữa. Ba lúc này khỏe không em?
- Ba bỏ về ở với anh chị tư. Chị tư cũng được lắm, rất lo cho ba. Thỉnh thoảng ba có qua thăm em, ở chơi với thằng Hậu cả ngày mới về. Em đưa ba ít tiền xài. Lần nào ba cũng không chịu lấy, bảo là để dành lâu lâu gởi cho anh. Coi bộ ổng thương anh hơn thương em.
- À. Bên nội của thằng Hoà có qua thăm con không em?
- Xời ơi. Dễ gì. Họ nói hồi đó em với ảnh lấy nhau họ đâu có biết. Nghe nói bây giờ giàu lắm, thời buổi bây giờ mà ruộng vườn cò bay thẳng cánh. Sợ nhìn thằng Hòa, nó chia của. Ý. Thằng Hòa là con anh mà. Có khai sinh đàng hoàng đó nghen. Em nói rồi, nghèo thì mẹ con cạp đất ăn chớ đừng hòng em cho con qua bển.
- Thôi em à. Em đừng có như vậy. Anh thương thằng Hoà, thằng Hậu ngang nhau. Đứa nào cũng là con của anh hết. Nhưng con người ai cũng có cái nguồn gốc của nó. Làm người mà quên cội quên nguồn dở lắm. Cho con nó đi nhìn đi. Còn việc bên ấy cư xử thế nào là quyền của người ta. Mình cho người ta quấy, rồi mình cũng quấy luôn theo sao?
- Em biết. Nhưng hảy đợi lúc con nó học hành đàng hoàng có công ăn việc làm rồi. Chừng nào em cưới vợ cho nó, em mang khai trầu rượu qua mời.
- Chà dữ thiệt hen. Mời anh hông?
- Anh thì em không mời. Chết rồi anh ơi. Tại anh nè. Nồi cơm khét nghẹt.
Cả hai cười ngất. Thằng bé chạy vào :
- Ba ơi, má ơi. Ông ngoại qua. Trời cơm khét.
Cô bớt lửa rồi cả ba chạy ra. Một ông già khoảng ngoài sáu mươi, mặc bộ bà ba đen, bịt cái khăn tắm ngang đầu tay cầm cây dầm bước vào cửa. Tôi không thể nhận ra ông ấy. Lần đó gặp ông chỉ nhìn thoáng qua, giờ đã bảy, tám năm rồi. Tôi lúng túng không biết phải chào ông thế nào. Út Giữa lên tiếng:
- Ba mới qua. Anh Hiền nè ba. Ông lột cái khăn ra hấp háy nhìn tôi. Tôi lắp bắp chào ông :
- Thưa… cháu chào bác. Út Giữa nhéo tôi một cái đau điếng. Ông khề khà :
- Cậu ở với con tôi có con tới bao lớn rồi mà cậu kêu tôi bằng bác à?
- Dạ… dạ, con xin lỗi ba. Tôi ấp úng.
- Không lỗi phải gì, ba nói cho mà sửa lần. Như không mà kêu ngang xương thì hơi khó. Con được về à ?
- Thưa… không. Con đi mua lạt. Sẵn ghé thăm nhà. Ba… vào nhà nghỉ.
Ông dựng cây dầm ở cửa rồi vào nhà. Mới ngồi lên ghế thì ông lại hỏi:
- Chừng nào con đi?
- Dạ ba bốn ngày. Chờ người ta đốn lạt đủ rồi con đến lấy hết mới về.
- Vậy thì khiêng cái máy lên. Vợ chồng lâu ngày mới gặp, cứ tíu tít với nhau. Bỏ ở dưới chúng lấy mất là ở tới mục tường. À còn con Út nữa, mày nấu cơm cái kiểu gì vậy. Bộ nhiều gạo lắm hả con? Thằng Hậu đâu lại ngoại biểu coi.
Hai ông cháu bắt đầu đùa giỡn với nhau. Tôi ra nhà sau kêu cô ấy xuống mé sông khiêng cái máy đuôi tôm lên nhà.
Vừa lúc dọn cơm lên thì thằng Hoà về. Nó chào ông ngoại, chào má, rồi nhìn tôi một lúc nó chạy bổ lại ôm lấy tôi, reo lên;
- Ba. Ba về thiệt hả ba, vậy mà cậu Bảy ra rước con không nói một tiếng.
Thằng bé trông cao lớn hơn cái tuổi mười ba của nó.
Thế là bữa cơm đầy ắp tiếng cười. Tôi không nghĩ được là mình quan trọng cho cuộc đời họ đến thế. Mình có làm gì được cho ai đâu. Ruộng nương, nhà cửa, con cái và tấm thân ấy. Mình ở đâu trôi dạt đến, làm lăng nhăng quấy quá đôi ngày, cộng thêm vài lời ngon ngọt, mấy bữa yêu chiều. Rồi bỏ đi biệt tăm, để lại cho họ một nỗi buồn. Để bây giờ trở lại đây trong phút chốc, mang đến cho họ một hy vọng mong manh và rồi lại biến đi. Bữa ăn thật ngon lành, nhưng càng ngon lành bao nhiêu thì nỗi nhục nhằn dày xéo tôi bấy nhiêu.
Trong khi đó vừa ăn Út Giữa vừa nhìn tôi. Cố nuốt cho hết tất cả cái hạnh phúc phù du. Cô ấy sung sướng, cô ấy rạng rỡ. Cái khuôn mặt đẹp đẽ đang ở tuổi mãn khai đã không e dè mà trào dâng lên tất cả những khát vọng không cần che dấu. Ánh mắt ấy long lanh chờ đợi những cái mà cô hàng ngày mong uớc. Cái nhìn cô hướng về tôi bằng cả sự ngưỡng mộ xen lẫn một ước nguyện chiều chuộng, hiến dâng.
Bữa cơm chiều đã xong. Út Giữa đang dọn dẹp ở nhà sau. Hai thằng bé cứ bi bô khoe chuyện học hành. Tôi gạt những suy nghĩ của mình và nói chuyện với con. Tôi biết cái kiểu đánh vần ban nãy của thằng Hậu là do thằng Hòa dạy y như ngày nào tôi dạy cho nó. Tôi càng ngạc nhiên không hiểu cô ấy nuôi dạy con như thế nào, mà được như thế. Tôi không thể hình dung nổi một cô gái học hành chưa đủ để đọc thông viết thạo, mà lại dạy dỗ con cái được như thế này. Hai đứa bé luôn khỏe mạnh, sạch sẽ. Học hành rất tinh tươm, mới bao lớn mà nói chuyện đâu ra đó. Mới nhìn không ai nghĩ đây là những thằng bé được sinh ra và lớn ở một vùng xa xôi thiếu thốn mọi tiện nghi tối thiểu. Nếu tôi yên tâm về hai đứa con thì tôi lại nghi ngờ chính bản thân mình.
- Thôi hai thằng nhỏ, chiều rồi ra sau má bây tắm rửa cho. Để cho ngoại nói chuyện với ba con một chút.
Khi hai thằng bé đi rồi ông nói với tôi, giọng nói thân tình và gần gũi hơn:
- Thằng chồng con Út nè. Tao nói mà nghe chuyện này. Nghe nói chị bên nhà đang tìm cách cho mày được tha phải không ?
- Thưa. Chuyện này con có nghe. Nhưng hai ba tháng rồi mẹ con không có xuống, con hỏi vợ con và mấy đứa em, không ai biết cả.
- Thôi được. Sẵn đây tao nói luôn. Hôm anh nhà mất. Tao muốn qua, nhưng không biết qua với tư cách gì? Đành bàn với già Năm, rồi để ông ấy đi. Thiệt tụi bây làm cho mấy lão gìa này khó ăn, khó nói với nhau. Nhưng thôi, tao nói tiếp chuyện lúc nãy. Tao thấy chị nhà đi với cái chú nho nhỏ hơn mày khoảng năm ba tuổi. Mới đầu tao hơi ngờ ngợ. Nhưng có lần chị nhà đi qua, nhè có già Năm ở đó. Già Năm chỉ cho tao, tao mới biết. Tới khi hỏi ra là tao mới biết chị nhà đi lo chuyện của mày. Cái người mà chị bên nhà nhờ là một người không thể tin cậy được. Nhà ở cách nhà tao khoảng hai ba công đất. Ăn đàng sóng, nói đàng gió đấy. Ông ta nói ông ta về hưu hả? Không có đâu, bị khai trừ đảng rồi bị đuổi việc đó. Nếu nhà nước không nghĩ đến những hy sinh mất mát của ông ta thì ông ta vô ở chung với mày không chừng. Nói với chị bên nhà đừng có tin rồi tiền mất tật mang. Ngày về của mày không xa lắm đâu. Ráng mà giữ cho tốt. Mấy lần tao với già Năm tính mời chị ghé nhà, thưa thiệt chuyện tụi bây. Nhưng nghĩ tới vợ mày bên ấy mà lo. Sợ chị nôn nhìn cháu nội rồi đâm ra bể chuyện. Làm cha mẹ thì như vậy đó, ôm vô chớ chẳng đẩy ra bao giờ. Việc này tao coi bộ khó cho chị nhà đây.
Ông ngừng lại rót miếng nước bưng lên uống, rồi chậm rãi vấn thuốc hút, rít một hơi thuốc rối ông tiếp :
- Còn chuyện của hai đứa bây. Chuyện này thì rắc rối. Tụi bây có cái duyên nợ không giống ai. Nếu cái buổi chiều oan nghiệt ấy không xảy ra. Thì làm gì tụi bây gặp nhau. Khi vết thương đã lành, tao thấy nó ôm khư khư cái mền là tao đâm lo. Rồi không biết làm sao mà nó gặp thằng cha già Năm, rồi bác cháu nó dẫn nhau ra Rạch Giá tìm mày. Khi về nhà nó buồn hiu cả tháng. Bổng dưng nó lấy chồng không nói với ai một tiếng. Chỉ dẫn nhau gặp mấy ông này đăng ký là xong. Ở với nhau chưa nhăn chiếc chiếu. Thì thằng nọ bỏ đi bộ đội. Thằng chồng nó đi rồi nó mới biết nó có thai. Thế là tự làm, tự ăn, tự đẻ một mình, nuôi con cũng một mình. Tao nghèo có giúp gì được đâu. Bên nội thằng Hòa không nhìn, bỏ lún mẹ con nó. Tới tiếp thu, mọi người hồ hởi thì thằng chồng nó chết queo. Nhưng nếu sống chắc cũng không ở với nó. Nghe người ta nói, nó chê con út mình mẩy thẹo vít tùm lum. Người ta nói như vậy, mà hổng biết có phải không? Miệng đời nó ác lắm. Từ ngày nó đi tới ngày nó chết không về một lần nào cả, một cái thư, một lời nhắn cũng không. Không biết trong cuộc sống bộ đội có khó khăn gì không? Tao cũng không bao giờ dám nghĩ là nó bỏ con Út. Dù sao nó cũng không còn, nghĩ quấy cho nó mà khi mình chẳng biết gì là điều không nên. Rồi trời xui đất khiến nó gặp lại mày. Tao biết là ngang trái nữa rồi. Nhưng biết làm sao? Tao có giúp gì được cho nó đâu? Bữa tao qua thấy mày dọn miếng đất, tao mừng cho nó. Rồi bổng dưng mày bỏ đi mất biệt. Tao buồn, buồn đủ thứ, buồn cho tao, buồn cho tụi bây. Tao biết mày không đến đỗi nào, nhưng mày đã có vợ, làm sao mà ăn ở với nó được lâu dài. Bên nào nặng, bên nào nhẹ làm sao mà cân cho được. Cân cái giống gì thì cân, chớ ai cân được cái chuyện này. Đó là chuyện của tụi bây. Chị bên nhà và tao đây không thể chen vào xử được. Nhưng có cái này tao nói cho mà biết. Nếu vì mấy mẹ con con út mà mày bỏ vợ mày là mày bậy lắm đó. Cái số của nó, nó ráng mà chịu. Mày đừng có nói vợ mày không chửa đẻ rồi bỏ người ta. Còn con Út cũng thế. Mai kia mốt nọ mày về. Đừng có ỷ là đẻ cho mày một thằng con, rồi giở giọng nọ kia với vợ chồng mày là tao đập nó bể đầu. Mày thương nó bao nhiêu thì nó nhận bấy nhiêu. Mày bỏ nó thì nó ráng mà chịu.
Không kịp cho tôi nói tiếng nào. Ông đứng dậy rút cái khăn vắt lên vai rồi nói :
- Thôi tao về. Út à. Tao về đây. Thằng Hòa, thằng Hậu đâu, đưa ông ngoại xuống xuồng con.
Út Giữa tất tả chạy theo :
- Tối rồi ba về cái gì ?
- Ôi trời sáng trăng tao vừa bơi vừa ngâm nga mấy câu vọng cổ. Hết sáu câu là tới nhà.
- Ba. Lấy ít tiền về mua thuốc hút ba.
- Thôi để đưa cho thằng chồng bây nó xài. Lần sau tao qua hả đưa.
Ông xoa đầu hai thằng cháu ngoại rồi xuống xuồng bơi thẳng. Xa xa một đoạn ông bắt đầu sáu câu vọng cổ của mình. Tiếng hát khàn khàn đứt quảng vọng lại rồi xa dần, xa dần.
Tôi kiểm tra lại xem các con mình học hành ra sao. Nhìn tập vở và điểm số của chúng, thì quả tình tôi có yên tâm, thậm chi vui mừng nữa là khác. Hòa học hành rất nghiêm túc được thể hiện qua cách trình bày trong từng bài tập, bài viết. Những cái sai trong bài tập thường là những cái khó, không tìm ra được những cái sai không đáng vì vô ý. Nhưng lối viết chữ xem có vẻ hơi cẩu thả. Tôi nói với con;
- Ba biết là lúc ở cấp một con không được dạy cẩn thận về môn tập viết. Nên chữ con viết trông không được đẹp. Nhưng việc viết chữ không đẹp thì không hề gì, nhưng cái cần là con phải viết cho rõ ràng, dễ đọc. Tập như vậy cho quen, sau này con đi thi, thầy chấm bài cũng có cảm tình. Thì xác xuất đậu của con cao hơn. Năm nay con học lớp 8 phải không? Sắp hè rồi, năm sau giờ này là con chuẩn bị thi chuyển cấp.
Nó nhìn tôi ngượng nghịu. Tôi cầm cây viết. Viết tên nó lên giấy rồi nói :
- Con thấy không. Ba viết không chậm đâu. Ba đưa tay đi, con xem có vẻ chậm nhưng thực ra ba viết rất nhanh đấy, nhưng chữ nào ra chữ đó. Con thấy dễ đọc không?
- Ba viết chữ đẹp ghê, không biết bao giờ con mới viết được như vậy
- Không sao. Ba chỉ cho con viết. Lấy cho ba manh giấy.
- Tôi chỉ cho con cách cầm viết, rồi độ cao, độ rộng và khoảng cách từng từ.
Thằng bé làm có vẻ hơi khổ sở, nhưng nó đã thể hiện tính kiên trì một cách tuyệt vời. Sau hai mươi giòng chữ thì nó đạt được gần tới đích.
- Con không cần phải viết cho thật giống ba, chỉ cần viết làm sao cho thật rõ ràng. Mỗi lần con viết mà thấy không ổn thì viết chậm lại một chút là được. Khi nào rỗi rãi thì con tập, chừng một tháng thì con sẽ quen.
- Quay sang thằng Hậu. Nó đang ngồi nhìn anh nó tập viết. Tôi bảo :
- Còn con đem tập cho ba xem. Thằng này khá hơn, dù mới học lớp một. Chữ viết khá đẹp. Tôi khuyến khích nó.
- Con viết chữ đẹp đó. cứ viết to như vậy. Viết thật rõ, chữ ơ, chữ ư không được viết thế này. Con viết chữ o, chữ u trước rồi mới bỏ dấu từ trên xuống, không móc ngược lên, nếu con móc ngược lên thì chữ ơ rất có thể trông giống chữ a hoặc, chữ ư thành chữ v. Thằng bé khoái chí, lấy giấy viết liên tục.
Út Giữa ngồi bên kia bộ ngựa may vá cái gì đó, thỉnh thoảng nhìn sang cha con tôi. Có những lúc mắt tôi và cô ấy chạm nhau. Trong ánh đèn khi mờ, khi tỏ ấy làm cho đôi mắt cô ấy rực lên một thứ ánh sáng mà chỉ có tôi mới nhìn thấy và cũng chỉ có tôi mới cảm nhận ra.
Hai thằng nhóc hý hoáy với giấy viết chán chê rồi chui vào mùng. Chẳng buồn mở tivi. Cô ấy soi muỗi tấn mùng cho con thật cẩn thận. Xong cả hai dẫn ra sau nhà. Trăng sáng vằng vặc. Như trong vô thức tôi dẫn cô ấy men theo bờ mẫu ra miếng ruộng sau nhà. Cô ấy đi nép vào tôi, mái tóc dài đen muợt của cô xổ tung ra bay lất phất, mơn man trên người tôi và tỏa ra một mùi hương rất dễ chịu. Bổng cô ấy ngước nhìn tôi, gọi nhỏ :
- Anh.
- Gì em?
- Anh nhớ cái bữa cũng có trăng như vầy nè, hai đứa mình ban đất đó, em …
- Ừ. Anh nhớ.
- Anh biết hông. Bữa đó…
- Bữa đó làm sao?
- Bữa đó anh cho em thằng Hậu
- Sao em biết?
- Em biết. Nhưng… em nói không được.
- Sao em không nói với anh?
- Em đâu có chắc. Bữa đó nó kỳ lắm. Em làm như muốn chết giấc nhưng mà không phải. Mọi lần đâu có kỳ vậy?
- Bữa nay em muốn như vậy không ? Tôi đùa
- Đồ quỷ. Nhưng… sợ anh không cho.
- À. Cái ngày mà em nói làm khai sanh cho con. Hai lần em nói với anh về việc sinh con. Anh nhớ lúc đó là hơn hai tháng sau ngày hai đứa mình ban đất ở ngoài đồng. Như vậy là em phải biết có những triệu chứng thụ thai chớ. Ví dụ như thèm ăn nè và mất kinh nữa, cả việc em cảm thấy mập ra. Không lẽ em không biết những điều như thế.
Cô nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên:
- Sao anh rành quá vậy?
- Lúc đó thì anh có biết đâu gì? Nhưng sau này anh hỏi bác sĩ. Như vậy là em dấu anh.
Cô nép vào người tôi:
- Anh đừng giận em. Em biết chớ sao không? Em mừng lắm, nhưng em sợ anh lo. Em biết anh cũng mừng lắm. Nhưng em cũng biết là anh rất sợ cái việc anh không chăm sóc, lo lắng được cho mẹ con em. Lúc đó anh rất khó khăn. Anh biết không, mấy tháng ở với em. Anh thở dài bao nhiêu lần em biết hết. Càng gần ngày đi anh thở dài càng nhiều. Em sợ anh buồn, em tìm cách đùa giỡn, nói chuyện với anh. Thấy hổng xong em…
- Em làm sao nữa?
- Em… em dụ khị anh cho anh thương em.
Tôi lặng người trước những lời cô nói và tự hỏi tại làm sao mà cô yêu tôi một cách dị kỳ như thế. Chắc có lẽ kiếp sau phải làm đàn bà, để có thể cảm nhận và thấu đáo hết những cảm xúc trong tấm lòng của họ khi mà họ yêu ai đó.
Tôi nôn nao nhớ lại cái cảm giác của đêm trăng hôm đó. Ánh mắt biếc xanh của cô ấy nhìn tôi sau cơn ân ái như báo cho tôi biết rằng tôi có một đứa con. Ôi sự xuất hiện của một con người thiêng liêng đến thế sao? Cô ấy đến với ái ân theo tiếng gọi của tạo hóa và của cả những rung cảm của trái tim. Và cả tôi cũng thế. Ước muốn cháy bỏng đang nằm sâu trong tiềm thức bùng lên và tác động, dẫn dắt chúng tôi đến điểm giao hòa. Bây giờ khi hiểu ra và tôi nhớ lại, chúng tôi ân ái cùng nhau trong sự hòa hợp tuyệt vời. Sự hưng phấn đến một cách tự nhiên gạt bỏ mọi tác động của lý trí và tình cảm, điều khiển hai thân thể chúng tôi để trở thành một thực thể duy nhất của cảm xúc yêu đương. Bổng dưng cái cảm giác ấy trở về. Tôi vòng tay ôm lấy cô, nghe và tìm lấy những cảm xúc một lần đã đến với tôi. Nhưng tôi cũng biết rằng, không phải muốn mà được, có rất nhiều điều kiện mà khả năng còm cỏi của tôi không thể nào biết được. Tôi vuốt ve bên phần thân thể có nhiều vết sẹo ấy. Nhưng lạ quá, làm như nó biến mất vậy. Nhưng mãi một lúc lâu sau tôi mới hỏi :
- Sao vậy em ?
- Gì anh.
- Mấy vết sẹo
Cô cười khúc khích :
- Bộ anh sợ nó mất hết hả? Để em cho anh xem.
Cô cởi áo ra. Dưới ánh trăng, nó vẫn còn đó nhưng nhỏ hơn và không còn gồ ghề lồi lõm nữa. Tôi không hiểu:
- Sao ngộ vậy em?
- Lúc em ra trạm xá sinh thằng Hậu, mấy chị ngoài bệnh xá nói ở trong đó còn miểng. Nếu ra bệnh viện tỉnh người có thể lấy ra được. Tới khi thằng Hậu giáp thôi nôi. Em ra ngoải nằm hết nữa tháng. Họ lấy ra gần một chục miểng nhỏ có, lớn có. Còn lại ba bốn miểng gì đó, sáu bảy tháng sau em ra ngoải lấy ra lần nữa hết luôn. Anh biết hông ? Ở ngoải họ nói mạng em lớn lắm. Người ta mang trong mình ba bốn miểng là nó hành muốn chết rồi còn em hơn một chục. Vậy mà còn để tới mấy năm. Họ còn nói, lúc em bị thương chắc là nhờ ai chăm sóc kỹ lắm nên không bị nhiễm trùng. Em biết là anh liền. À mà hôm đó, anh để lại nhiều thuốc thế. Em không biết gì cả, cứ mang đại về, rồi đưa cho mấy ông biết chích thuốc nhờ chích. Mau lành ghê. Anh hay thiệt.
Tôi nghĩ thầm, mình có biết gì đâu? Cứ lấy gòn lau sạch máu. Rồi thấm cồn lau lại. Lau trong đêm tối làm sao mà biết như thế nào. Với lại có dám cởi áo, cởi sống gì đâu. Cứ lôi mấy chai cồn đổ lên ướt nhẹp là kể như xong. Với lại còn phải lo đi trốn. Tôi hoàn toàn không hiểu được tại sao cô ấy lại sống khỏe mạnh như thế, thường thì những người mang dị vật trong cơ thể thì hay đau yếu lặt vặt, nhưng cô ấy thì không. Tôi cũng không có điều kiện để hỏi tận tường, mà nếu như có hỏi được liệu cô ấy có thể nói lại rành mạch hay không. Nhưng dù sao thì tất cả chỉ còn lại là những vết sẹo, những vết sẹo như là một tặng vật, không phải cho cô ấy mà chỉ dành để cho riêng tôi. Tôi hỏi cô ấy:
- Ba cái cồn nó rát muốn chết mà sao anh không nghe rên la gì hết vậy?
- Em đâu có dám, sợ đủ thứ. Em cắn chặt răng lại. Anh đổ cồn tới đâu, nước mắt em trào ra tới đó rồi ngất luôn. Tới khi anh đắp cái mền cho em rồi bỏ đi. Em từ từ tỉnh lại, nằm nghĩ một lát. Em thử ngồi dậy, rồi em thử đứng dậy rồi đi. Em thấy mình đi được. Thì ra hồi lúc đầu khi mới bị em tưởng mình bị nặng lắm, nên cứ bò, tới cái chòi thấy máu ở mặt ra nhiều quá, em xỉu luôn.
- Thấy anh, em sợ không?
- Sợ muốn chết giấc. Tính là anh ác lắm. chớ biết anh thương em như vầy thì…
- Thì sao ?
- Thì nhỏng nhẽo chơi, bắt anh cõng em chớ làm sao?
- Ôi trời. Lạ hoắc lạ huơ mà dám để cho anh cõng à?.
- Ờ hén. Nhưng biết đâu được. Mà cũng phải, cái duyên số mình phải qua mấy đoạn trần ai anh hén.
Tôi mặc áo lại cho cô rồi dìu cô ngồi xuống bờ mẫu. Choàng tay ôm tôi, cô thủ thỉ :
- Anh nè. Em nói thiệt với anh. Ai muốn ở với em phải thương em gấp ba, gấp bốn lần anh, em mới chịu.
- Người ta có biết anh thương em bao lớn đâu mà gấp ba gấp bốn ?
- Nhưng mà cũng không được. Lỡ thương anh rồi, lại có con với anh nữa. Thôi chết sống gì cũng thương anh luôn cho gọn. Anh biết hông có mấy thằng cha tới mua đồ, nháy nhó với em muốn rớt lông nheo luôn. Có một thằng cha còn hẹn em tối tới chơi. Em cười cười. Thằng chả tưởng ngon ăn. Tối đêm đó trời mưa lắc rắc. Em gài cửa kín mít. Thằng chả chạy vòng vòng em ơi em à liên tục mà đâu có dám kêu lớn. Mưa càng lúc càng nhiều. Muỗi như vãi trấu. Ở thì không được về cũng không xong. Bị muỗi đơm một trận te tua luôn.
- Trời đất. Em ác thiệt. Hổng thương người thì thôi. Làm chi vậy.
- Anh biết hông? Mấy thằng chả xạo sự dữ lắm. Thấy em không có chồng ở nhà, tính nhào vô đá bổng đá bỏ. Từ đó, em bới tóc luôn không thèm che cái thẹo nữa. Em vậy đó. Ai thương thì nhào vô. Từ đó không thấy ai tới mà tòm tèm nữa. Chỉ có một thằng cha đeo hoài không chịu buông.
- Ai vậy?
- Anh đó.
Tôi nói lỏng tay ra rồi nói;
- Thôi thì buông đây nè.
Cô kéo tay tôi lại rồi ôm chặt lấy tôi.
- Lỡ rồi ông ơi. Ông buông mà tui hổng buông.
- Thôi vô em ơi. Khuya rồi bỏ mấy đứa nhỏ một mình.
- Nè. Hồi chiều ba nói với anh, em nghe hết rồi. Anh về, anh tính sao cũng được, em chịu hết. Ai biểu em thương ẩu tả làm chi. Nhưng gì thì gì anh cũng phải thương con. Nghe anh.
- Thôi. Đừng nói nữa. Chừng nào anh về. Tính sau. Vô nhà đi em.
- Hông, em không vô. Anh thương…em đi.
- Đừng em. Nghe lời anh đi. Vô nhà đi. Anh cõng cho.
- Hổng thương mà đòi cõng. Thôi em nghe lời anh. Nhưng khỏi cõng. Anh cho em vịn vai là được rồi.
Tôi dìu cô vào nhà. Thân thể ấy run lên trong tay tôi.
Ánh trăng hắt qua khe cửa. Trong ánh sáng lờ mờ ấy. Cô đã chuẩn bị tất cả mọi thứ để cả hai không thể bỏ phí một giây giờ nào.
Sáng hôm sau tôi phải đến công an ấp, báo cho họ biết nhiệm vụ, nơi ở và thời gian tôi ở đây, khi về nhà thì thằng Hoà đã đi Thứ Ba cho kịp học buổi chiều. Còn thằng Hậu thì được Út Giữa đưa đi học ở một trường gần đó. cô ấy khá khéo tính. Ở xóm có bốn đứa đi học, cứ thay phiên nhau đưa rước, nên hai ngày cô mới đi đưa hoặc rước con một lần. Tôi khá yên tâm về việc hai đứa nhỏ. Cô ấy đang làm gì đó trong bếp. Nghe tôi về cô ấy mang cho tôi một ly café, còn mấy điếu thuốc Hero nữa. Tôi nhìn cô :
- Ở đâu mà có mấy thứ này vậy em.
- Nó bán đầy ra đấy. Thôi anh uống café, nguội hết ngon. Khi nào anh đi, em mua cho anh nhiều nhiều để mang theo mà hút.
- Thôi em. Ở trong ấy anh hút thuốc bánh. Mà trong ấy có bán, mua lúc nào mà chẳng được. Với lại, những đồng tiền em tìm kiếm được không phải dễ dàng. Một thân một bóng, nuôi nấng hai con, không một ai đỡ đần chuyện nặng nhẹ trong ngoài.
Cô ấy im lặng nhìn tôi. Mãi một lúc sau mới khẻ khàng:
- Anh ơi. Quả tình thì em chỉ buồn chứ không có cực khổ gì hết. Trước khi anh đi, anh chuẩn bị mọi thứ cho em. Em cứ thế mà làm theo. Tiện tặn, dành dụm được đồng nào hay đồng nấy. Dư ra chút đỉnh cũng mừng, nhưng mừng một thì nhớ anh tới mười, nên em kiếm chuyện để làm riết tới cho mau quên. Anh ác với em.
Ngưng lại một lúc. Cô ấy nói tiếp, giọng khá phấn khởi:
- Lúc này, anh biết không? Ai mua bán sao cũng được, không còn ngăn sông cấm chợ như một lần. Em tính cuối năm nay. Mấy trăm giạ lúa cho anh tư mượn em lấy lại bán hết, cộng với số dành dụm được mở lớn cái tiệm ra, bán thêm các thứ nữa. Nếu không tính bây giờ, mấy đứa học cao hơn nữa tiền đâu lo.
- Em tính vậy cũng được, nhưng cái việc đi học của các con anh thực sự lo lắng. Thằng Hậu thì thôi anh không nói. Thằng Hoà mà em làm khai sinh cho nó là con anh thật không ổn. Khi hết cấp ba, muốn thi vào đại học, mà nó là con anh thì khi xét lý lịch thì kẹt cho nó. Đó là chưa kể, khi bên nội nó trở quẻ thì chết em.
- Anh lo chuyện gì đâu. Không học được thì nghỉ, ở nhà làm ăn. Miễn nó chú tâm vào việc làm ăn đừng phá xóm phá làng thì thôi. Anh nghĩ coi ba nó, nó không biết mặt mũi ra sao. Bên nội có ai xem nó như cháu đâu. Anh ở đâu tới, dạy cho nó chữa i, chữ tờ. Không xem thường mẹ nó. Có khi nào nó không coi anh là ba nó đâu? Ấy là anh mới về đây có hơn hai tháng. Nếu anh không sửa miếng đất. Không chỉ em cái này, không dạy em cái kia, thì với mấy công đất phèn đến cỏ cũng vàng khè, chỗ lõm, chỗ lồi. Một mùa được bao nhiêu hột. Mấy liếp rau, cái ao nuôi cá, cái đó hứng tép. Nhờ bao nhiêu đó, em ít phải chạy theo tàu, theo xe. Ở nhà với con, chăm chút cho nó. dành dụm lần hồi. Bây giờ mới có chút đỉnh cho con ra huyện học. Không có anh thì nhờ ai. Nó không kêu anh bằng ba thì nó kêu anh bằng gì? Anh sợ nó tủi vì ba nó là lính ngụy hả? Nhưng nếu không có ba thì cái nào tủi hơn. Anh cứ nghĩ hoài cái chuyện gì đâu không hà. Thôi lại đây em chỉ cái này cho coi.
Cô đến mở tủ lấy cái hộp đem lại bàn mở ra. Thì ra là bộ quần áo của tôi, bên dưới bộ quần áo có cái hộp thiếc. Cô lấy cái hộp thiếc mở ra bên trong là một số nữ trang uớc chừng một lượng vàng, lẫn lộn trong đó có những cục sắt nho nhỏ. Tôi không hiểu gì cả:
- Cái gì mà em lại bỏ chung vô đây ?
- Mấy cái miểng pháo trong mấy vết thương của em đó.
Tôi lấy một mảnh đưa lên xem. Tôi giật mình. Không phải là 105,155 hay 82. 81. Bởi vì nếu là thứ này thì cô ấy chết chắc. Tôi nhìn kỹ lại trong đó có mấy miếng là dây kẽm gai. Mìn tự tạo mà, nhưng tại sao ai lại gài giữa đồng trống, tôi thật sự không hiểu. Hay là cô ấy mang trong mình, rồi khi chạy thì bị rơi ra và bị kích nổ. Có thể là như thế. Tôi để vô lại hộp thiếc rồi hỏi:
- Sao em để nó vô đây làm gì ?
- Nhờ nó mà em gặp anh.
- Trời đất. Nhưng anh nói này. Em đừng đưa cho ai xem cái này nghe.
- Sao vậy anh ?
- Đây là chuyện riêng của vợ chồng mình. Đưa cho người ta coi làm gì?.
- Ừa hén. Mà anh nói là chuyện riêng của…
- … vợ chồng mình.
- Sáu bảy năm nay em mới nghe chính miệng anh nói. Cô nói mà giọng bệu bạo như sắp khóc.
- Thôi mà. Má của con anh thì là vợ của anh. Hổng lẽ vợ của ai?
- Thiệt hén
- Thì thiệt lâu rồi mà.
Cô nhìn tôi. Cái ánh mắt này tôi không lạ. Nhưng bây giờ thì rất khác. Cô ôm chặt lấy tôi dụi đầu vào ngực tôi và để những giòng nuớc mắt hạnh phúc tuôn ra. Khi khóc đã thỏa thuê cô buông tôi ra, rồi nhìn tôi cười mà nước mắt vẫn còn ràn rụa, mặt cô đỏ bừng lên ấp úng một lát :
- Vậy mà tới giờ mình mới nói. Mình chờ em pha trà cho mình uống.
Rồi vụt chạy đi ra nhà sau. Cái tiếng “mình” bất chợt phát ra từ miệng cô ấy như là một sự khẳng định lại tính bền vững của tình cảm vợ chồng. Cô ấy toàn tâm toàn ý với tôi rồi. Tôi bần thần xếp lại cái hộp. Tôi đang lơ lững giữa thiên đường và địa ngục, nơi nào cũng muốn bước qua. Một thiên đường tẻ nhạt, một địa ngục khổ đau. Nơi nào cho tôi đến?.
- Xời ơi, ly café nguội hết rồi mà mình mới uống có một chút.
Giọng nói của cô ấy, à không vợ tôi đưa tôi về hiện thực với một bình trà thơm ngát.
- Từ đây về sau mình là chồng của em rồi, trước kia mình bảo em một, em nghe một, bây giờ mình bảo một em phải nghe hai ba, nhưng mà cái việc em lo lắng cho mình, chăm sóc chồng con thì mình không có quyền gì mà không chịu nghe. Thôi mình uống trà xong lên võng năm nghỉ, em đi nấu cơm.
Khi cô đi rồi tôi chợt nhớ ra. Tôi chạy ra sau bếp. Không thấy cô ấy đâu. Đi đâu nhỉ? Chạy ra sàn lảng, thì thấy cô ấy đang rửa rau. Tôi bảo :
- Em. Để đó đi. Vô với anh một lát.
Cô ngước nhìn tôi :
- Chi vậy mình?
- Thì cứ vô đi. Chút xíu hà.
- Hổng có vụ đó à nghe. Mình mẩy em thấy ghê.
- Không, chuyện khác. Hay lắm.
- Anh vô trước đi. Em vô ngay mà.
Nhưng phải hai mươi phút sau cô ấy mới vào. Thì ra là đi tắm. Tôi vừa tức cười, vừa xót xót trong lòng, bởi vì tôi biết lúc nào cô ấy cũng sẵn sàng tất cả vì tôi. Tôi chợt nhớ đến mấy câu ca dao ngộ nghĩnh:
Đang cơn lửa tắt, cơm sôi,
Heo la, con khóc. Chồng đòi tòm tem.
Nhanh tay cho chín nồi cơm,
Heo no, con nín, tem tòm thì tem.
Tôi mà như thế ấy thì có nước bỏ luôn. Nhưng bây giờ thì cái tôi muốn tòm tem là thứ khác kia. Tôi dẫn cô ấy đến cái bàn giữa nhà. Rồi rót hai ly trà. Đưa cho cô ấy một ly rồi nói:
- Mình làm đám cưới.
Cô ấy mở to mắt nhìn tôi, trong ấy có một chút lạ lùng, một chút long lanh:
- Đám cưới gì mà ngộ hén? Làm sao mà kịp.
- Mình làm lẹ thôi. Có gì mà không kịp. Với lại, đâu cần phải chuẩn bị gì. Anh muốn chúng mình chính thức thành vợ chồng. Dù rằng không có cha mẹ hai bên chứng kiến, nhưng chúng mình tự hứa với nhau sẽ toàn tâm toàn ý vì nhau, vì con.
Cô ấy như rưng rưng sắp khóc :
- Thiệt hả mình. Em nghe lời mình. Nhưng phải làm sao?
- Miễn anh hỏi làm sao. Mình trả lời vậy. Rồi mình hỏi lại anh. Biết chưa?
Cô cầm lấy ly trà. Đôi mắt nhòe nhoẹt nước mắt. Cả hai nâng ly lên. Tôi hỏi:
- Em có chịu làm vợ anh không ?
- Có. Mặt cô ấy hồng, bẽn lẽn trả lời, rồi ấp úng hỏi lại:
- Mình có nhận em làm vợ không?
- Có.
Cô ấy lóng ngóng với cái ly. Và khi cả hai đặt hai cái ly xuống. Cô ấy nhìn tôi. Tôi ôm cô ấy vào lòng và cô tựa vào người tôi bằng một thái độ giao phó và tin cậy. Chúng tôi hôn nhau dịu dàng, sâu lắng. Một phút, hai phút hay lâu hơn nữa. Có thể thế, nhưng với vợ chồng tôi trong cái giây phút thiêng liêng này thì thời gian sẽ dừng lại ở đây. Từ những là những kẻ trôi dạt, tạm gọi như thế, chúng tôi trở thành vợ chồng. Rất quen thuộc nhưng giờ đây mới nguyên từ vóc dáng đến tấm lòng. Thế đấy. Đám cưới của chúng tôi như là trò chơi nhà chòi của trẻ con, nhưng trong tấm lòng của cả hai thì không phải như thế. Tôi muốn và làm thế thì đã đành, nhưng cô ấy thì lại đồng ý làm theo và tuân phục bằng một thái độ kính cẩn. Tôi hơi lạ lùng và từ đó cảm nhận được cảm xúc mới mẽ từ trong cô ấy truyền sang. Chúng tôi thật sự là của nhau bằng lời cam kết của trái tim trong hoàn cảnh nghiệt ngã nhất. Đúng như anh Văn nói “trong bất cứ khó khăn nào cũng có một niềm vui “. Và ở nơi nào đó. Anh đang nhìn thằng em bá vơ mà anh từng thương mến, nó đang ngập tràn hạnh phúc.
Bữa cơm trưa được dọn ra. Thằng Hậu nhận ra cái tinh tươm ngon lành trước nhất. Còn chúng tôi thì ... Vợ chồng mới cưới mà.
Chúng tôi đã làm một việc rất đúng, nhưng cũng vô cùng nguy hiểm. Tôi chấp nhận xem cô ấy là vợ mình, bởi vì tôi không thể trốn tránh trách nhiệm này. Cô ấy dám làm khai sinh cho thằng Hòa là con tôi, thì không ai cản cô ấy làm hôn thú. Nhưng tôi không thể làm khác hơn. Chúng tôi khẳng định lại vị trí của chúng tôi với nhau, một vị trí khác với lẽ thường về mặt đạo lý và pháp luật. Chỉ cần một chút sơ xuất nhỏ trong cư xử là chúng tôi lãnh đủ. Tôi biết cô ấy đã yêu thương tôi từ cái đêm định mệnh kia. Dù rằng trong đêm tối mịt mù, cô ấy đâu nhìn rõ mặt mũi gì của tôi. Và cô ấy đã yêu một con người mà cô hoàn toàn không biết rõ mặt mày, tính khí. Cái gì đã khiến cho cô ấy như vậy. Tôi không biết, nhưng tình yêu ấy đã đến và quấn chặt lấy cô ấy, rồi sau đó là tôi. Chúng tôi.
Tôi muốn làm một việc gì đó cho vợ con mình, nhưng tất cả đã quá toàn vẹn so với hoàn cảnh hiện có. Nên việc duy nhất tôi có thể làm là dạy cho thằng bé tập viết. Tất cả ký ức của thời trẻ thơ khi đi học bị tôi lục lọi đào xới lên, rồi dạy cho con tôi, từ cách cầm viết cho đến những nét kéo xuống đá lên, cách bỏ dấu… Tôi cũng lấy riêng một cuốn tập, lấy bút chì viết sẵn cho con từng kiểu chữ hoa, chữ thường, chữ đứng, chữ nghiêng. Cứ thế hai cha con cứ hý hoáy với công việc của mình và vợ tôi thì cung phụng cho hai cha con đủ thứ, Hạnh phúc đang vây quanh và tràn ngập căn nhà. Thỉnh thoảng những người đến mua hàng, họ ngạc nhiên về sự có mặt của tôi. Cả hai đã nhận ra đâu đó những cái nhìn dè bỉu. Nhẹ nhàng nhất là cái tròn mắt ngạc nhiên và sau đó là một nụ cười cho qua. Vợ tôi không giấu giếm, thậm chí còn có vẻ thách thức khi nói cho mọi người về cái đám cưới nhà chòi của chúng tôi. Tôi biết cô ấy muốn gì khi làm thế. Bởi cái đám cưới gọn hơ của chúng tôi không hề đơn giản. Mà đơn giản sao được, một cái đám cưới với hai ly trà và khi đã có sẵn hai đứa con, mà chú rể lại là một thằng tù tranh thủ cưới vợ khi đang lao động cải tạo.
Khi chỉ còn hai đứa với nhau. Trong cái yên ắng của đêm. Chúng tôi ngồi bên nhau và yên lặng, cô ấy không nép sát vào tôi, vì thế nên không thông thoáng như mọi khi. Tôi đưa tay mở cúc áo và cô ấy như run lên. Sự e thẹn, ngượng ngùng làm cho tôi là lạ, nhưng tôi chợt hiểu ra, cô dâu nào cũng thế. Cô đón nhận những cảm xúc từ ở tôi bằng một thái độ của cô dâu mới. Cám ơn em. Tạo hóa và cuộc sống rất sòng phẳng đối với mọi người. Những cuộc ái ân vụng trộm thường nó cho người ta một cảm giác thỏa mãn nào đó. Nhưng những cuộc ái ân trong tình nghĩa vợ chồng thì nó khác hơn, đằm thắm, dịu dàng hơn, với một xác tín không cần lý giải. Rồi một cái gì đó, mà tôi không hiểu, đang xảy ra mơn man chúng tôi. Ngoài kia chắc là trăng sáng lắm, nên những vệt sáng chen qua vách lá vào buồng làm cho chúng tôi nhìn rõ nhau. Ôi. Sao mà có nhiều trăng đến thế. Và cái ánh sáng huyền ảo ấy như đồng cảm với chúng tôi, chia sẻ với chúng tôi hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc dịu dàng choáng ngộp. Cứ thế thời gian đi qua. Tôi hỏi:
- Em này. Em học ai mà gọi anh bằng “mình” vậy.
- Em có học ai đâu? Thấy vợ chồng người ta gọi nhau bằng mình, thì em gọi theo. Vợ chồng thì phải vậy. Mình hén. Mà mình cũng gọi em như thế. Nghe mình
- Ừ. Anh sẽ gọi mình như thế. Sao từ trước tới giờ mình không gọi. Ôi, sao mà tôi thích nghi nhanh chóng vậy.
- Ai biểu cho tới giờ này mình mới chịu cưới em. Bộ tới giờ này biết chắc hai thằng con là con của mình, mình mới coi em như vợ, mới làm đám cưới với em.
- Mình quả là khùng. Từ trước tới giờ bộ anh xem hai thằng nhỏ là con hàng xóm chắc.
- Vậy mà mình nín thinh hổng chịu nói.
Cô ấy lại dụi đầu vào ngực tôi, nói nhỏ:
- Mình ơi.
- Gì mình?
- Bộ mình là chồng em thiệt rồi hả?
- Thiệt mà. Đám cưới rồi. Mình quên rồi à.
- Như vậy thì em hết chạy rồi. Em vĩnh viễn là của mình rồi. Vậy thì mình… mình…
- Mình làm sao?…
- Vậy… mình làm… chồng em… đi
Cô ấy bỏ lửng và ôm chặt lấy tôi. Thế là tôi lại phải một lần nữa chứng minh cho cô ấy biết tôi thiệt là chồng cô ấy. Và tôi chẳng cần phải làm gì nhiều. Cô ấy luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng khi là người tình. Bây giờ là vợ thì sự sẵn sàng ấy lại được nhân lên.
Những ngày ở đây chúng tôi có biết bao điều để nói. Mấy tháng quen hơi bén tiếng để rồi bao năm xa cách, mà thời gian chúng tôi có bên nhau đâu có gì nhiều. Nhưng lần này cô ấy biết rằng cô đã có được tôi. Chắc chắn một trăm phần trăm, cô ấy tin như thế, dù sự thật thì rất mỏng manh. Và chúng tôi. Bằng hết sức mình trong một thời gian ít ỏi. Chúng tôi xây dựng một quan hệ vợ chồng và hưởng thụ một không khí của một gia đình đích thực.
Tôi lại ngâm nga Kinh Tình và viết. Viết bằng một thể thơ mà tôi chỉ động tới có đôi lần và mới mấy ngày trước đây đã mượn tứ Hoàng Hạc Lâu để viết về quê ngoại. Ôi. Cuộc đời tôi đang khó khăn và tình yêu tôi rồi cũng khó khăn như cái thể thơ đầy bó buộc. Đường Luật. Nhưng tôi lại ngộ ra một điều. Tình yêu chân thành sẽ làm cho mọi gian khó trôi đi. Tôi đã quá đủ lu bu. Cần phải quên đi. Thứ thay vào thì chỉ có thể là tình yêu. Yêu cuộc đời, yêu con người, yêu giòng sông và nhiều thứ nữa. Tất nhiên phải yêu cô ấy và các con nhiều hơn nữa. Nhưng tại sao vẫn có một nỗi buồn.
SÔNG VÀ HAI PHÍA.
Giòng sông thăm thẳm sóng mông mênh
Nước cứ vơi đầy một nỗi nênh
Nắng đổ rưng rưng bờ mắt biếc
Gió lùa rối rối tóc mình ên
Lững lơ mây trắng trời ngơ ngẩn
Nhấp nháy sao xa gió bập bềnh
Gom góp được chăng hơi ấm gối
Người mong người nhớ cứ lênh đênh
PHÍA BÊN KIA.
Cứ ngóng trông từng phút ái ân
Dưới cầu ao nước mãi phân vân
Trăng soi đợi bóng người xa vắng
Gió chướng chờ hơi thở ngập ngừng
Hoa cỏ luôn thay màu úa biếc
Sương ngàn mãi đổ giọt bâng khuâng
Trái tim thì vẫn… nhưng hình bóng
Cứ mãi mù xa ít thấy gần
PHÍA BÊN NÀY
Một chút tình yêu đến muộn màng.
Gió đùa chi đến nẻo đa đoan.
Đem thương nhớ đẫm đêm khuya khoắc,
Mang nỗi niềm pha bóng nắng tàn.
Tủi kẻ có mà như chẳng có,
Đau người mang một cảnh đa mang.
Giòng sông hai phía hai thương nhớ,
Một thoáng làm sao vợi nỗi buồn.
Tôi trở về trại với số lạt mua được đủ để chầm số lá còn lại và một giỏ ân tình vô hạn của vợ con tôi. Nó cụ thể và đằm thắm biết nhường nào. Nhưng cái làm tâm hồn tôi lâng lâng là khả năng viết bị mất đi đã được phục hồi. Tôi tin thế, vì sao thì tôi cũng không biết nữa. Có lẽ là nhờ một giòng sông. Bốn bài thơ theo thể đường luật cho giòng sông Cái Lớn.
Vừa mới bước vào trại, thì Đăng thay vì soạn ra cái giỏ đồ thì lại khều tôi ra chỗ vắng :
- Tự hỗm rày, tụi nó xì xào nói ông đã tới Thái Lan. Một vài thằng thì nói ông vô rừng luôn không về nữa…
Tôi đưa tay ngăn nó :
- Kệ nó. Ai nói sao cũng được. Nếu sau này mày nghe thằng nào xì xào những chuyện của tao, mày cứ bảo thế này. “ Mấy ông nói như thế nào cũng không hề gì, cái tôi sợ, chính là khi ổng nói “. Cứ nói như thế thì bao nhiêu đài cũng tắt.
Lại thêm việc cho tôi. Vì cần gấp nên số lạt tôi mua gần phân nữa là lạt tươi, buộc phải rút ngay, nếu không khi nó khô thì chỉ có nước đem lợp nhà. Thế là phải xin nhân lực để rút. Mà phải là tôi dạy cho họ. Thế là vừa rút rồi phơi, tề lạt, thui lạt, đúng một tuần cho việc này.
Có một lần tôi cùng ông Mười Can bơi xuồng rong ruỗi trong rừng, nói chuyện này chuyện kia. Ông hỏi tôi:
- Hiền này. Tôi hỏi thật anh nghe, cái này chẳng liên quan gì đến việc cải tạo của anh. Nên anh cứ thoải mái trả lời tôi. Anh là một học sinh, từ nhỏ đến lớn ở ngoài chợ, nghỉ học rồi đi lính, hết lính thì tới tù. Nhưng sao chuyện gì anh cũng biết. Rồi những sáng kiến này khác. Thôi thì có học hành thì cái đó cũng được đi. Nhưng cái vụ tề lạt, chầm lá thì quả tình là tôi hết biết. Bộ tối ngày anh chỉ nghĩ hết văn này, thế kia không vậy hả?
Mấy tay công an là chúa đa nghi. Mà tôi có tịch thì nhúc nhích. Đành cố mà lựa lời ?
- Thưa ông Trưởng Trại. Đúng ra thì chẳng có gì? Ông cũng biết tôi là cái thằng hay tò mò. Tính khí thì hiếu động, xốc nổi. Chẳng qua là trong lúc khó khăn nên cố suy nghĩ tìm mưu này kế nọ để giảm bớt sự nặng nhọc cho mình. Riết rồi thành quen.
- Anh nói chơi hoài. Cái vụ chầm lá, tề lạt, mà nhất là chầm lá tấm. Anh như là dân nhà nghề. Tôi mang tấm lá anh chầm đi khoe và ai cũng lắc đầu thán phục. Đầu đuôi bằng ran, nuột lạt đều trân, ngay băng. Tấm lá đẹp hết biết.
Tôi đành thú nhận:
- Lúc nhỏ nhà nghèo, ba má tôi có mấy công lá dừa nước, ba má tôi đốn lá, chầm lá để bán, nên tôi học và chầm tiếp má tôi. Sau này lớn lên đi chầm lá thuê kiếm tiền đi học. Nhưng tôi không thể chầm nhiều được. Tính khí lóc chóc, leng cheng. Làm sao mà ngồi yên một chỗ. Được dăm ba tấm là bỏ đi lăng quăng một mách rồi chầm tiếp, có nhiều khi đi luôn.
Ông nói như một lời tâm sự :
- Tôi suốt một đời hết đánh Tây, rồi chống Mỹ. Học hành chẳng được bao nhiêu. Nay thấy những người trẻ tuổi ai cũng hay cũng giỏi mà phát ham. Nhưng phải chi cái hay cái giỏi của họ mà đem đi phục vụ cho chính bản thân mình, cho gia đình mình và mọi người chung quanh thì hay quá. Cái thành phần như anh, chẳng qua là do thời cuộc tôi không nói đi. Nhưng mấy ông cán bộ nhà tôi, với mấy tên hình sự thấy sao mà quá chán. Làm toàn là cái chuyện ruồi bu. Quản lý mấy tay này mệt quá. Ở nơi đây là nơi tính tội, mà mấy ông phạm cán[ii] lại kể công. Còn mấy tay tội phạm hình sự[iii] thì coi cái mạng của mình như con kiến. Anh thì giỏi thật đấy, nhưng anh cũng ngang thấy mẹ. Thuở đời nay, là phạm nhân mà dám tuyên bố một câu là không sợ chúa ngục, Nhưng rồi anh giải thích nghe cũng xuôi tai. Thời chiến tranh mà anh nói giọng đó là anh tiêu cái chắc. Anh tính sau này khi về anh làm gì nuôi vợ, nuôi con. Hay là đi chầm lá thuê.
Ông nhìn tôi từ phía sau lưng vừa nói, vừa cười, tôi thấy hơi nhột nhột :
- Chưa biết ông Trưởng Trại ơi, về mới tính. Nghề mình chọn thì chưa chắc mình đã được làm. Thôi cứ để cho nghề nó chọn mình. Nếu như mình chờ có cái nghề mình thích mới làm thì đói nhăn răng ra.
- Anh tính nghe hơi ngộ à. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại cũng đúng. Tôi cũng thế, hồi mới nức mắt ra chỉ chăm chăm mê cái nghề làm ruộng. Ai có dè là phải làm cái nghề chúa ngục đâu. Tính làm đôi năm rồi xin nghỉ. Ngờ đâu nhân gian tội lỗi quá nhiều. Tội mà tính được thì giao cho tôi, còn cái tội không tính được thì nhiều vô thiên lủng.
Bổng dưng ông chuyển xong cái giọng ngậm ngùi làm cho tôi cũng chẳng biết trả lời sao. Cả hai im lặng bơi lủm bủm một hồi. Ông nói tiếp:
- Anh mà tính toán làm ăn thì chắc khó ai qua. Nhưng chắc anh khó mà giàu nổi, miệng mồm thì bốp chát, nhưng coi bộ hiền. Anh sống đơn giản một chút có lẽ hay hơn. Mà này. Anh nghĩ sao mà chống tụi tui mạnh vậy? May mà anh chỉ mới chống bằng miệng.
- Nói đúng ra thì chẳng chống chọi gì đâu. Nhưng ở giữa đồng bằng sông Cửu Long mà ăn độn thì hơi quạu. Với lại, đói mà đi mua gạo xếp hàng, đau mua thuốc cũng xếp hàng thì quả tình tôi không chịu nổi. Trong khi ngoài chợ trời thì đầy nhóc. Lính ngụy xin chạy xe lôi, làm công nhân bốc vác… cũng không cho thì quả là quá kỳ, nhưng bực nhất có lẽ là cái lập luận để biện minh là ưu tiên cho thương binh, gia đình liệt sĩ(!?). Tưởng chuyện gì, bốc vác, chạy xe lôi mà ưu tiên dành cho thương binh, gia đình liệt sĩ. Không què cụt thì cũng bệnh hậu… mà ưu tiên chạy xe lôi, bốc vác thì quả là hết chỗ nói. Đúng là cái lập luận cù nhầy. Quả tình là tôi có cáu tiết lên vì chuyện này. Thế là vừa đói vừa cáu tiết vì những chuyện tréo ngoe ấy mà cái miệng thì không la, mới lạ.
Ông cười ngất :
- Anh nói thì đúng. Quả tình có những nơi làm ăn theo cái kiểu lu bu như vậy. Nhưng cái kiểu la làng của anh nghe cũng hơi nhức cái lỗ tai. Nhưng thôi, ở đời mà trách anh làm gì? Khi mà cái môi trường anh sống, anh lớn lên nó không giống chúng tôi. Nhưng lần hồi rồi mình cũng có tiếng nói chung thôi. Cuộc sống còn nhiều việc phải lo ai hơi đâu mà ngồi nhắc chuyện cũ hoài. Sở dĩ phải đưa anh vào đây, chẳng qua là để cứu anh thôi, để anh ở ngoài thì có ngày anh ngủm. Nếu phải tính sổ với anh, thì nhà nước đã tính rồi, chớ nhốt làm gì đã tốn cơm còn mắc công canh gác cho anh ngủ. Cái tôi mong mõi ở anh là khi được về ráng mà chí thú làm ăn. Thế thôi. À mà tôi thấy anh, bác sĩ Lê chơi khá thân với anh ba Đặng, ông linh mục, với ông thượng tọa. Ba tay này như ba ông táo quay ót vào nhau. Ông nào tuổi tác cũng lớn hơn anh, mà coi bộ họ hẩu với anh quá vậy?
Tôi thực sự lạnh gáy vì câu hỏi này. Nhưng cuối cùng tôi chọn thái độ nói đúng, bởi vì nói khác ý mình là rất dễ lôm côm, gây hiểu lầm:
- Với bác Ba Đặng, thì điều này ông Mười đã biết, bởi ông ấy là bạn của ba tôi thời chống Pháp. Ông ấy xem tôi như con cháu trong nhà. Còn mấy ông kia, trước nhất là cung cách sinh hoạt từ tốn của các ông làm cho tôi dễ gần, kế đến là kiến thức uyên bác của họ giúp tôi khá nhiều trong công việc hàng ngày. Và có thể vì hai lẽ trên mà chúng tôi có vẻ gần nhau.
Ông im lặng một chút, như để suy nghĩ cái gì đó, nhưng rồi ông lại quay qua chuyện khác:
- Tôi có đọc cái cuốn sách nói về ông Ê-đix-sân (Thomas Alwa Edison) gì đó ở Mỹ. Mới học có lớp bốn mà sáng chế ra điện báo, điện thoại. Rồi bóng đèn, xe điện và hàng trăm thứ khác. Tôi nghĩ hoài không ra. Hổng hiểu cái đầu ông ta chứa cái giống gì trong đó. Phải nói họ tài thật. Anh thử nghĩ, rồi chế cái gì đó coi.
Tôi không biết phải trả lời ra sao. Nhưng cũng nói cho qua chuyện :
- Thưa ông trưởng trại. Theo tôi nghĩ thì ông ấy chẳng qua là tò mò. Cũng như mình đi phác vậy. Thấy người ta cũng như mình sao mà người ta phác ngon ơ. Còn mình thì chém ành ành, nước văng sáng trời mà cỏ đứt hai ba cọng. Tức quá, ngồi nghĩ ra mưu này, thế nọ. Thậm chí đi coi người ta mài phảng ra làm sao, giở phảng ra sao. Còn thế đứng, cào cỏ ra, chém xuống, nung phảng vô như thế nào. Riết rồi quen. Được vài chuyện như thế thì mình tập được cách suy nghĩ, tìm tòi cho những chuyện khác.
Ông cười hả hả :
- Nghe anh nói tôi thấy coi bộ ngon ăn quá hén. Chớ tôi thấy anh phác cỏ, nước văng sáng trời. Ở đàng xa nhìn lại bộ dạng anh như là đi đuổi chuột vô xà vi[iv]. Nhưng tôi nghe anh nói coi bộ cũng đúng. Mình muốn làm cái gì đó thì mới bắt đầu thì hơi lọng cọng, tìm cách này không xong, thì tìm cách khác. Ban đầu coi hơi đường được, làm riết thấy hơi khá khá. Chỉ sợ là thấy khó thì bỏ. Mà nói gì thì nói. Cái thằng cha Ê-đix-sân này hay thiệt. Nếu không có thằng chả, giờ này mình thắp đèn dầu lửa thấy bà luôn. Nhưng tôi nghĩ nếu không có ông này thì cũng ông khác thôi. Anh biết không, ông bà mình có nói một câu “Cái khó nó ló cái khôn“. Mấy thằng cha làm biếng thì nói “cái khó nó bó cái khôn“. Câu nào cũng đúng. Cả hai câu chỉ khác nhau có cái nghéo của chữ “bê”. Ngộ hén, nó nghéo một cái, ý nghĩa bổng nhiên xa lắc, xa lơ.
Ông chấm dứt bằng một tràng cười ha hả vang động cả rừng tràm. Và tôi cũng cười theo và thầm nghĩ “ Lão này tinh thật”
Còn mấy hôm nữa tới ngày 30.4. đang có những tin đồn râm ran về số người được tha. Tôi cũng không quan tâm lắm. Với lại tôi phải vào rừng phóng một con kinh bao ngạn dài khoảng gần hai chục cây số. Địa hình thì không có gì phức tạp, nhưng lung, sậy dày bịt nên sẽ rất khó khăn. Thật ra việc này không phải do tôi làm. Hơn nữa, về mặt chuyên môn thì tôi chỉ lỏm bỏm. Nhưng ông Trưởng Trại thì không muốn thuê Địa Chính vừa tốn tiền vừa không đúng ý của ông. Thế là tôi lãnh đủ. Không la bàn, không bản đồ địa chính. Tôi phải đành lấy cái bản đồ quân sự của quân đội Sài Gòn ấn hành năm 1968. Phải nhờ một tay khác làm cho một cái la bàn xài xong rồi lấy kim vá áo. Với ngần ấy trang bị rất ư hiện đại ấy. Tôi cùng hai người nữa lên đường. Tất cả những kiến thức đồ bản, học được trong thời gian đi lính cũng như lỏm bỏm tiếp nhận qua sách vở, được tôi vận dụng và suy luận tối đa. Ngày phóng tới đâu, ăn cơm tới đó. Tối giăng mùng ngủ giữa rừng. Qua hai ngày chúng tôi cắm tiêu được gần phân nửa, thì tôi có lệnh về gặp ban Lãnh Đạo Trại. Tôi hướng dẫn cho hai tay còn lại phải làm gì ở đoạn còn lại rồi quảy bọc ra về.
Tôi về tới trại thì đã hơn năm giờ chiều. Sau khi tắm rửa, cơm nước xong thì cán bộ đến dẫn tôi lên gặp Ban Lãnh Đạo. Thực ra là chỉ gặp có ông Trưởng Trại. Sau khi ngồi xuống. Ông nói ngay:
- Bắt đầu từ 6 giờ ngày mai. Anh là tổng đại diện cho anh em phạm nhân ở Trại. Lát nữa, anh về tham gia buổi họp trại với sự có mặt của cán bộ Trực Trại và cán bộ Quản Giáo. Nhiệm vụ tổng đại diện thì chắc anh đã biết. Nhưng với anh thì khác. Bắt đầu từ 6 giờ ngày mai. Nhiệm vụ của anh là chịu trách nhiệm phân công lao động cho tất cả các phạm nhân của trại, kể cả các khâu chuyên môn và khâu ngoài. Anh hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi sinh hoạt và lao động của anh em phạm nhân. Hiệp đồng chặt chẽ vơi các cán bộ để thi hành các chỉ thị của ban lãnh đạo trại. Ngoại trừ vấn đề an ninh. Anh có gì thắc mắc không ?
- Thưa ông trưởng trại, nhiệm vụ này có quá nặng đối với một phạm nhân.
- Chính vì quá nặng nên tôi mới giao nó cho anh. Sao có cần đặt điều kiện gì không ?
- Thưa không ạ.
- Vậy thì anh về trại. Bên dưới đang chờ anh.
Tôi cùng một cán bộ về tới hội trường thì các cán bộ Quản Giáo, Trực Trại, phụ trách Đội, ban điều hành và các tự quản đội đã có mặt. Khi tôi vừa ngồi xuống thì cán bộ Quản Giáo tuyên bố lý do:
- Hôm nay BLĐ cho họp toàn trại để thông báo cho các anh chị em một việc. Bắt đầu từ 6 giờ sáng mai. Tổng đại diện của các anh chị em là anh Nguyễn văn Hiền. Bây giờ chúng ta có hai việc phải làm. Thứ nhất, ban điều hành cũ phải chuẩn bị bàn giao vào sáng mai. Anh Hiền phải báo cáo cho BLĐ thành phần ban điều hành mới trong vòng 24 giờ. Ngày mai là ngày thăm nuôi. Bộ phận trực thăm nuôi làm việc như thường lệ. Thứ hai. Việc phân công lao động sẽ sắp xếp lại khi ban điều hành mới được BLĐ chấp thuận. Và sau đó sẽ do ban điều hành phân công, kể cả các khâu chuyên môn và các khâu ngoài. Các tự quản đội chỉ điều hành việc sinh hoạt trong trại của đội mình. Hết. Có ai có ý kiến không?
Tất cả yên lặng một chút. Rồi sau đó những xì xào nổi lên. Các cán bộ nhìn tôi lắc đầu. Cán bộ trực trại nói;
- Nhắm cái thân gòm của anh chịu được bao lâu? Anh Hiền.
Cán bộ Quản Giáo chêm thêm:
- Anh phen này rối rồi. Tôi thấy anh làm “quân sư quạt mo” coi bộ sướng hơn.
Nhiệm vụ cũ của tôi được mọi người gọi như thế đấy.
Cuộc họp chấm dứt mà không ai có một ý kiến gì, nhưng những lời thì thầm thì nhiều vô số kể. Khi tôi về tới đội. Chín Đỏ mời tôi uống trà. Chuyện xưa nay hiếm. Tôi vừa ngồi xuống chưa kịp bưng ly trà. Ông ta nói ngay:
- Chú tính sao? Sắp vào mùa rồi.
- Chưa tính gì cả. Nhưng có lẽ phải thay đổi kiểu cách làm ăn mới thôi. Năm nào cũng xảy ra cái nạn cấy đàng trước trổ đàng sau.
- Dù sao chú là người của đội, chú cũng phải có một phần trách nhiệm trong thành tích của đội chớ. Quyền hành từ đây chú nắm trong tay. Các tự quản đội nên hư tùy theo ý chú. Thế nên, tôi đề nghị chú đừng cắt thêm nhân lực của đội. Chú tính xem không đủ nhân lực. Năm nào đội mình cũng đạt thành tích. Mùa này quá thiếu rồi. Chú phải tiếp tôi.
Nghe cái giọng phe phái, khoe khoang là tôi nổi dịch. Việc tranh đua thành tích của ông thì tôi không lạ gì. Ai cực cứ cực, ai đói cứ đói. Ông ta vẫn đi trên bờ mẫu, chưa bao giờ động đến móng tay. Và miệng thì luôn luôn la hét. Và bao nhiêu bực dọc tích cóp bấy lâu nay, tôi tung ra một cú thăm dò:
- Ông tính kêu sở Công An bắt vô thêm bao nhiêu nữa cho đủ. Có bao nhiêu làm bấy nhiêu? Chỉ ăn thua ở cách tính. Còn nữa, công việc của tôi là công việc phục vụ chung cho toàn trại chứ không riêng một đội nào?
Ông ta muốn nổi quạu, nhưng kềm lại rồi kê ngay:
- Nhân lực đã không đủ mà chú cứ bắt hết người này tới người khác ra khâu chuyên môn. Chú nói ăn thua cách tính. Chú tính cái gì? Chú làm ruộng được bao lâu? Tôi suốt đời chỏng khu ngoài đồng nè.
Tôi độp thẳng thừng, không khoan nhượng. Thậm chí tàn ác:
- Thế à. Vậy ông còn có thời gian đâu mà chiêu hồi và đi tìm giết các người mà ông từng gọi là đồng chí?
Chín Đỏ tái cả mặt và đưa cặp mắt như đổ lửa nhìn tôi :
- Được chú giỏi lắm, thử xem mèo nào cắn mỉu nào?
- Tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện cắn lộn, mà tôi nghĩ ai sẽ là người đáp ứng được yêu cầu của công việc hiện tại. Tôi nói như vậy, vì tôi ghét ông là một thằng tiểu nhân. Nhưng ông yên tâm, tôi không oán thù gì ông. Bởi vì tôi không bao giờ tự đặt cho mình cái nhiệm vụ phải oán thù ai. Mà tôi cũng chưa bao giờ để cho ai áp đặt một nhiệm vụ kỳ quặc như thế. Còn việc mà tôi phải làm trong những ngày sắp tới là để đáp ứng cho mục đích chung chứ không cho riêng ai cả, kể cả bản thân tôi. Ai phản đối tôi thì hậu quả như thế nào thì cứ làm đi rồi sẽ biết.
Nói dứt, tôi bỏ về chỗ. Chín Đỏ giận đến tím cả người. Còn tám Điểu, mười Chân, Minh Mốc. Thạch Hỗ Mang thì mặt mày xanh mét mà tôi không hiểu tại sao? Núp Cut thì lỏn lẻn bỏ đi nơi khác. Cả một đội hả lòng, kể cả những tay lá mặt lá trái. Tôi giăng mùng và chui vào nằm nghe mọi người rù rì. Tôi biết tôi độp lại như vậy là quá đáng, nhưng hãy thông cảm cho tôi. Sự dồn nén đã quá lâu, với lại cái thái độ thượng đội hạ đạp của hắn làm tôi kinh tởm. Hàng ngày hắn có coi tôi ra cái gì đâu? Nhưng khi thấy tôi vừa được nhét vào tay một tí đỉnh quyền hành thì hắn trở giọng ngay. Nhưng dù sao thì cũng tội nghiệp hắn. Sự ngu dốt cộng với cái thói háo danh đã xô cuộc đời hắn vào hết sai lầm này sang sai lầm khác, mà lại là những sai lầm chết người. Đăng nói nhỏ:
- Tới hôm nay tôi mới thấy là ông dữ thiệt. Những gì ông độp hắn nghe quá đã. Tôi nghĩ, cờ tới tay ông phải phất. Dập bỏ mẹ nó luôn.
- Ê. Đăng, nếu mày ngủm thì vợ con mày ra sao ?
Đăng im lặng một lát rồi nói :
- Chắc là buồn hiu vài bữa, rồi thì con người ta sai, vợ người ta xài.
- Mày điên. Chín Đỏ là một tên thượng đội hạ đạp, giết hắn, hại hắn thì thiếu gì người muốn, đâu có đến lượt tao. Nhưng hắn mà chết thì vợ con hắn cũng buồn như vậy đấy.
- Ông hiền bỏ mẹ, nên người ta ăn hiếp ông. Tôi có bảo ông giết hắn đâu. nhưng phải cho hắn biết tay. Đăng vừa nói vừa thở dài
- Kệ nó. Tao biết chớ. Tụi nó đã hại bao nhiêu người rồi. Tao mà làm như tụi nó được à. Với lại, ngủm là hết, là không còn lo sợ nữa. Tao cứ để tụi nó hồi hộp chơi. Không phải chỉ ở đây, mà nhà nước tha tụi nó về tụi nó vẫn hồi hộp như thường, mà hồi hộp nhiều nữa là khác. Mày hiểu ý tao chưa? Mày đừng nghĩ tao ác. Tụi nó làm, tụi nó chịu. Thế thôi. Người hại nó là chính bản thân tụi nó chớ không phải tao. Dây vào chuyện đó làm gì cho mệt.
Đăng cố vớt vát:
- Đợi tới lượt nó hồi hộp thì bọn mình đã hồi hộp rồi.
- Mày đừng lu bu thì có quái gì mà hồi hộp. Này con người không ai tàn ác cả. Nếu họ tàn ác, thì chẳng qua là tại họ hận thù. Mà nguyên nhân làm cho họ hận thù thì tao đếch biết. Nhưng cái cách để cho người ta đừng thù hận mình thì tao biết.
- Ông biết làm sao?
- Đừng đưa ai vào đường cùng. Hay chí ít cũng đừng phùn mang trợn mắt với ai.
Đăng nín thinh. Tôi chờ nó trả lời mà không nghe thấy. Thế là tôi nhớ con tôi chơi. Nhưng không thể, công việc của ngày mai không phải ít và cũng không dễ dàng gì. Dù rằng trước khi đi mua lạt, tôi đã được làm việc với ông Trưởng Trại gần trọn một buổi về việc này. Nhưng tôi lại không ngờ là ông ấy đã có một quyết định nhanh và quá nặng nề cho tôi đến thế. Ông đã đặt vào tôi một niềm tin quá lớn so với khả năng của tôi. Cái mà tôi sợ không phải là không làm tròn trách nhiệm, mà là làm mất lòng tin của ông ấy, của mọi người. Mấy tháng nữa tôi bốn mươi tuổi. Tứ thập nhi bất hoặc. Mấy ông nhà Nho nói thế và lại nói đúng. Nhưng trong cái nhân gian mênh mông này. Thử hỏi có bao nhiêu người nghe được, hiểu được và làm được điều này. Tôi đã qua rồi cái tuổi ba mươi bằng những tháng ngày lênh đênh trôi nổi và gây ra một hệ lụy tày trời mà chưa biết sẽ giải quyết sao đây. Ba mươi năm bất lập, tôi có cơ sở nào để bất hoặc. Khi đặt dấu hỏi có bao nhiêu người đạt được cái bất hoặc, không có nghĩa là tôi muốn bào chữa cho mình. Đây chính là cái khó của tôi. Út Giữa giỏi hơn tôi, bản lĩnh hơn tôi. Cô ấy không nghi ngờ gì về mối tình của mình dành cho một tên lêu bêu như tôi. Cô ấy nhận lấy trách nhiệm nuôi dưỡng hai đứa con mà không cần một người đàn ông bên cạnh. Cô ấy yêu tôi và yêu con bằng sự thách thức với số phận, với cay nghiệt của cuộc sống. Còn tôi thì lại nghi ngờ tấm lòng tôi dành cho mẹ con cô ấy.
Tôi quay sang bảo Đăng khi thấy cái đồng hồ của đội chỉ 8 giờ :
- Đăng. Còn trà không ?
- Còn cả khối.
- Vậy thì pha. Mang lại chỗ bố ấy. Tao nấu nước, mày súc bình.
Tôi không đủ thời giờ để nhận ra Út Giữa đã sắp xếp cái gì cho tôi mang về. Ngoại trừ một tờ giấy năm chục ngàn mà cô ấy nhét vào túi cho tôi cộng thêm một lời răn đe phòng khi tôi không nhận.
Nấu sôi ấm nước. Tôi nhìn lại cuối phòng, ông linh mục và ông thượng tọa ngồi nói chuyện với nhau. Tôi đứng dậy đi xách ấm nước sôi về phía ấy. Một vài người thấy tôi đến cũng buớc qua. Thế là sòng trà trở nên xôm tụ. Quan hệ của tôi đối với anh em trong trại khá cởi mở so với thời gian đầu khi tôi mới nhận nhiệm vụ “quân sư quạt mo“. Họ nhận ra là tôi không nguy hiểm như họ nghĩ. Cả bọn nói lung tung từ chuyện này sang chuyện khác, nhưng không một ai đá động gì về việc ngày mai tôi là tổng đại diện.
Khi đã giản dần, chỉ còn lại một vài người thông hiểu nhau. Chúng tôi bàn về cái nhiệm vụ của tôi trong những ngày sắp tới. Tất cả thật lòng giúp tôi để cho những ngày còn lại ở nơi đây có ý nghĩa hơn. Hay ít ra cũng gỡ gạc lại phần nào cái tự do đã mất. Không phải điều này đến giờ này chúng tôi mới bắt đầu, nhưng đây chính là một cơ hội khá tốt. Tất nhiên. Chúng tôi dặn dò nhau tránh tối đa mọi sự sa đà, xốc nổi có thể xảy ra. và khi còn lại có ba người. Hai ông tu sĩ lại pha thêm trà mời tôi uống. Và như thường lệ ông linh mục lại là người khai mào :
- Anh Hiền này. Anh nói cho tôi nghe mục đích thực sự của phong trào nói chuyện không chửi thề?
Tôi biết, trả lời lạng quạng là thua ông ấy ngay. Nhưng tôi vẫn bình tỉnh :
- Thưa bố. Kết quả hôm nay như thế nào thì đó là mục đích chính của tôi.
- Tôi không tin?
Tôi nói gần như thì thầm :
- Bố cứ đặt mình vào vị trí của tôi. Bố sẽ biết ngay.
- Anh điên thật. Tôi không thể nào vào vai của anh được, dù rất muốn. Nhưng tại sao anh lại dấu tôi?
Thôi thì nói vậy, dù sao cũng chẳng là gì :
- Bố có biết ai hay chửi thề không ?
- Mấy tay hình sự.
- Bố có biết ai ít nhận được sự quan tâm của gia đình?
- Mấy tay hình sự.
- Bố có biết ai thường hay vi phạm nội quy, kỷ luật?
- Mấy tay hình sự.
- Bố có biết ai thường thiếu ăn.
- Mấy tay hình sự.
- Thế thì bây giờ bố thấy họ còn phải ăn đói không?
Ông nhìn tôi bằng một ánh mắt mà tôi không diễn tả nổi, cuối cùng ông nói :
- Tôi đã lầm khi gọi anh là quỷ Sa Tăng. Nhưng chuyện như thế tại sao anh phải dấu ?
- Thưa bố. Nếu tôi nói huỵch toẹt ra, dù công khai hay không công khai mục đích sẽ không đạt được.
- Thế việc này anh có bàn với ông trưởng trại không?
- Theo bố nghĩ là tôi có nói không ?
- Không.
- Thế thì cứ cho là bố nghĩ đúng.
- Cái này thì anh đúng là Sa Tăng rồi.
- Bố thấy sao? Kết quả có khả quan không?
- Giảm thôi chớ không thể nào hết được.
- Thưa bố. Như thế là quá đủ. Tôi chỉ cần có vậy. Những anh em hay cáu gắt, chửi thề um sùm vì họ là những người không có thăm nuôi, vì họ đói. Cơm gạo trong trại phát thì đủ đấy, nhưng cường độ lao động cao, thực phẩm thiếu, nên lượng cơm gạo như thế không đủ bù vào. Nếu họ muốn no thì nói chuyện bớt chửi thề đi sẽ được 5 lít gạo. Giảm được chửi thề, thì giảm cự cãi, giảm đánh nhau. Mục đích của tôi là thế.
Hai ông nhìn tôi, rồi nhìn nhau cười. Phật, Thánh thì họa chăng mới biết hai nụ cười ấy biểu hiện cái gì. Cả ba chúng tôi cùng cười. Đăng và những người chung quanh cũng cười. Nhưng trong lòng tôi thì không vui nổi, bởi vì chuyện chỉ có thế nhưng khi trình bày với người này, người khác thì lại phải giở những luận điệu khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Ôi ngôn ngữ là một phương tiện tuyệt vời để giao tiếp, nhưng cũng là một phương tiện tối ưu trong việc lọc lừa. “Thiên sinh nhân hà do sinh ngôn”. Ôi Chu Du đố kỵ có một mình Khổng Minh, nên tránh mặt là xong. Còn tôi ghét nói thì lại là thằng hay nói.
Ban đầu tôi cũng lấy làm lạ. Những người thân thiết với tôi gần như ai cũng lo lắng cho tôi trong việc này. Nhưng khi suy nghĩ lại, thì họ có lý. Trong môi trường này, tất cả mọi người đều thụ động, kể cả tôi. Thế nên việc của tôi làm là một việc khá bất thường và họ lo lắng cho tôi chính là vì họ thể hiện tình cảm của mình. Chính vì vậy, tôi càng phải làm thêm nhiều việc bất thường nữa. Thế thôi.
Ngày mai, tôi trở thành “Tù Trưởng”. Tôi tự nhủ. Những ngày ở trong vai trò này. Tôi sẽ không để những trường hợp này xảy ra. Cuối cùng, cái mệt mỏi của hai ngày băng rừng, mà từ ban chiều đến giờ gần như quên mất, đã trở lại làm mí mắt tôi nặng trịch. Nhưng rồi, tôi nào có ngủ được đâu. Lại thêm một tay vuợt trại bỏ mạng. Một cái chết lãng òm. Số là, ba tay đầu trộm đuôi cướp bị nhốt chung trong một phòng biệt giam, cả ba thực hiện một âm mưu vượt trại. Sau nhiều ngày tỉ mẳn cưa đứt một cây lam xi măng cốt thép ở lỗ thông gió. Đêm đến, tay chủ mưu leo lên lưng một tên để chui vào lỗ thông gió trèo ra ngoài, tìm dây thòng vào để hai tên kia ra tiếp. Kế hoạch thì như thế. Tên chủ mưu ra trước, hai chân đứng trên lưng một tên khác, vừa lúc anh ta mới thọc đầu vào lỗ thông gió thì tên thứ ba tốc la làng, tên đưa lưng ra làm bệ vội cúi xuống bóp họng tên la làng thì… cụp một phát. Tên chủ mưu, đầu chêm vào lỗ thông gió gãy cỗ treo tòn teng. Chẳng biết sự việc xảy ra từ bao giờ. Tôi chỉ biết khi được yêu cầu tham gia chứng kiến và ký biên bản mỗ pháp y đúng vào lúc tôi chính thức là tổng đại diện. Khi mọi việc đã xong. Trời sáng bét.
Tôi về trại hớp một ngụm trà. Đắng nghét. Vẫn không ngủ được và tôi buộc phải nhớ lại toàn bộ những gì đã chứng kiến để rồi gai ốc nổi lên và bụng thì nhộn nhạo thêm một trận thứ hai. Cũng chẳng yên và sau đó, cái đầu tôi lại lôi ra những cái chết kỳ quặc mà tôi được chứng kiến ở đây: Một phạm nhân bị chết vì kiệt sức khi đi làm cỏ lúa, mà đáng lý ra thì ông ta không chết, nếu như ông ta có một quan hệ bình thường với Mười Chân. Đói và lạnh cộng với cái tuổi già. Ông ta chết vì bị Mười Chân buộc phải hoàn thành chỉ tiêu lao động. Dù ông đã nhiều lần báo cáo tình trạng suy kiệt của mình. Đến khi cán bộ dẫn giải biết ông ta kiệt sức thì đã quá muộn. Nhưng dù sao ông ta cũng được chết khi mình mẩy đã khô ráo và một bộ đồ sạch sẽ trên người. Nếu không có anh cán bộ dẫn giải chắc ông ta đứt hơi ngoài biển nước mênh mông của những cơn mưa tháng chín. Mười Chân bị kỷ luật biệt giam một tuần, nhưng một mạng người đi đứt vì cái thói nhỏ nhen. Một phạm nhân được phân công lao động ở trại nuôi rắn. Tính tình lóc chóc, ỷ lại vào lọ thuốc rắn của thầy Thạch Hổ Mang. Anh ta đã nhiều lần giỡn mặt tử thần bằng cách đùa với rắn. Lần cuối cùng của cuộc đời, anh ta bị rắn độp vào hổ khẩu và Thạch Hổ Mang tuyên bố không còn thuốc. Thế là chết. Ban Lãnh Đạo trại và cán bộ xuống xét chỗ ngủ của Thạch Hổ Mang mà không tìm thấy bất cứ một lọ thuốc nào. Nguyên nhân hết thuốc là vì tay này dám báo cáo thầy lợi dụng nghề nghiệp đi săm soi chỗ kín của một phụ nữ bị rắn cắn khi được thân nhân mang đến trại nhờ thầy lấy nọc. Ôi, nọc rắn hổ không độc bằng lòng người tráo trở. Một tay nữa rớt tỏm xuống hầm cá vồ vì bị kinh phong giựt lúc đi cầu. Anh ta chết vì không hiểu hết về bản thân mình.
Những cái chết ấy nói lên điều gì? Tai nạn, sơ xuất, cố chấp hay tại lòng người quá hẹp. Tất nhiên sự mất đi của một con người đó là lẽ thường. Nhưng chết trong những trường hợp như thế làm sao mà tránh khỏi bức bối, ngậm ngùi. Ôi. Không có gì buồn hơn khi đời mất một người. Tôi chợt nhớ tới câu thơ cuối cùng trong bài thơ “ Nhân câu chuyện mấy người tự tử “ của Lê Đạt. Ôi câu thơ này đã tạo thành một vệt hằn không thể phai mờ trên vỏ não của tôi chăng? Ấy thế mà vẫn có lắm người xem cái mạng mình như cánh bèo tai chuột.
Tôi có một cú dạo đầu cho vai trò tù trưởng của mình bằng một đêm mất ngủ với một cái xác chết banh chành.
Một ngày bận bịu bắt đầu khi tôi ký xong biên bản bàn giao bằng đôi mắt khờ khạo thất thần vì sợ, vì mất ngủ, vì những suy nghĩ linh tinh. Thật ra thì chẳng có gì lớn lao cho lắm. Chính thức nhận nhiệm vụ theo cái kiểu này thì chua thật. Đã vậy, ngày hôm nay lại là ngày thăm nuôi. Nhưng tôi cũng cố bình tỉnh yêu cầu tất cả mọi người ở lại vị trí cũ cho đến khi ban điều hành mới được ban lãnh đạo chấp thuận. Riêng chú Năm Tân, tổng đại diện, tôi phân công ngay cho ông làm tổ trưởng tổ Trật Tự. Sau đó tôi ra nhà thăm nuôi cùng cán bộ Quản Giáo họp tổ trực thăm nuôi. Tạm thời, tôi phân công cho tám Điểu lo việc gọi tên tất cả các anh chị em đi lao động đồng áng về kịp thăm nuôi và không để cho thân nhân phải chờ lâu hoặc không chờ được. Những thư ký đội có trách nhiệm ngưng lại các khâu phải lao động xa và thông báo cho tám Điểu từng vị trí lao động của trại viên mình. Chín Đỏ phản ứng dữ dội về việc ngưng lao động xa. Vì ở đó có một toán trại viên của đội ông ta đi xới đám mạ ở đầu vuông, cách trại gần ba cây số. Với lập luận là làm chậm lại việc hoàn thành chỉ tiêu sản xuất của mà đội ông đã đăng ký thi đua. Tôi thực sự nổi giận:
- Được. Bảng phân công lao động này không do tôi mà do các tự quản đội đề xuất với ban điều hành cũ. Thế thì tôi. tổng đại diện phân công lại. Toán đó về lao động ở một nơi gần trại. Và ông, một mình ông đi làm cái phần việc của họ. Đây là dịp để cho ông phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu đã đăng ký.
Ông ta sửng cồ ngay:
- Một mình tôi không thể làm việc của năm người.
- Ông đã từng tuyên bố, ông có khả năng lao động bằng bốn người. Toán này có năm người, tổ trưởng làm nửa chỉ tiêu. Như vậy ông có khả năng làm hết phần việc của bốn người, còn lại nửa chỉ tiêu. Ngày mai, ai làm đột xuất tôi ghi cho một điểm, nếu ông làm hết luôn, tôi ghi điểm cho ông. Tôi nghĩ đã đến lúc ông có thể chứng minh cho mọi người những điều ông nói là đúng. Đề nghị ông đi ngay cho. Đây là lệnh.
- Chú không có quyền. Tôi là đội trưởng, tôi được miễn lao động.
Cán bộ Quản Giáo lên tiếng :
- Đề nghị anh chín Đỏ chấp hành. Anh có nghe và hiểu tôi nói anh Hiền có trách nhiệm như thế nào trong buổi họp trại đêm qua không? Miễn hay không miễn lao động là do tổng đại diện. Đề nghị các thư ký đội về phân công lại theo lệnh của tổng đại diện. Hết
Chín Đỏ đưa cặp mắt nảy lửa nhìn tôi. Rồi vào trại chuẩn bị đi lao động.
Khi mọi người trở về vị trí của mình, và đã có lác đác một số thân nhân đến đăng ký thăm nuôi. Cán bộ quản giáo cùng tôi kiểm tra quà thăm nuôi. Nhìn thấy mấy cục thịt heo đỏ lòm, tôi ói tới mật xanh. Cán bộ nhìn tôi thông cảm. Tôi vào trại. Cả trại im ắng, có một số không đi lao động vì bệnh hay già yếu phải lao động tại trại. Một số khác thì đã hoàn thành nhiệm vụ của mình ngày hôm nay bằng cách thực hiện nó từ ngày hôm qua. Lúc này công việc cũng không nhiều. Nhưng mùa mưa thì sắp tới và trong những ngày tới sẽ có biến động về nhân số, một số được về và sau đó thì số khác nhập vào. Ôi nhân gian sao quá nhiều tội lỗi. Hết đợt này ra, lại đến đợt kia vào. Mà người ra chắc gì hết tội, bởi những người vào có lắm kẻ quen quen.
Tôi vào canteen kêu một ly café và ngồi viết tờ trình nhân sự mới, để chiều nay nạp cho Ban Lãnh Đạo. Sự lựa chọn của tôi không khó khăn lắm. Đã chung đụng với nhau bao nhiêu năm. Ai như thế nào, làm được cái gì, tính khí ra sao?… Tôi đều biết hết. Ngoài sự lựa chọn, tôi còn phải chuẩn bị lập luận để trình bày riêng với Trưởng Trại. Trong khi đó thì mọi người cứ thầm thì về việc chưa đầy 24 tiếng đồng hồ, tôi gặp mấy cú gian nan và Chín Đỏ bị tôi bắt giò hai lần.
Không phải ngẫu nhiên, mà là có một sự chuẩn bị kỹ càng của ông trưởng trại về việc tôi trở thành tổng đại diện. Quan hệ giữa tôi và các cán bộ khá tốt, nhất là cán bộ quản giáo và trực trại. Thực ra, những việc tôi làm đối với Chín Đỏ không phải là vì sự đố kỵ. Nhưng tôi phải đánh lá bài này để xem tôi có thể làm được những gì và các điều kiện bên ngoài cho phép tôi làm tới đâu? Và tôi nghĩ, có lẽ đến một lúc nào đó tôi cần phải xin lỗi ông ta một tiếng.
Viết xong tờ trình, tôi đọc lại lần nữa. rồi bước ra khỏi canteen. Vừa ngang thư viện, bác ba Đặng kêu tôi:
- Hiền. Vô bác ba nói chuyện chút mậy.
Tôi ghé qua thư viện. Giờ này, thư viện vắng hoe. Tôi ngồi xuống, ông chỉ ấm trà rồi bảo :
- Mày uống trà đi. Tao nói chuyện cho mày nghe.
Đợi tôi uống xong một ngụm, ông tiếp;
- Cái việc mày làm tổng đại diện chưa bao giờ xảy ra trong trại này. Nó có hai việc rất khác người ta: thứ nhất là một phạm nhân tội chính trị; thứ hai là mày lại được trao một quyền hành rất rộng. Thành ra tao nói cho con cháu là phải cẩn trọng trong mọi việc. Sẵn đây mày giải thích cho tao nghe về cái việc không đầy nữa ngày mà mày bắt giò thằng Chín Đỏ tới hai lần.
Tôi buộc phải nói những ý đồ của tôi về việc này. Ông ngồi trầm ngâm một lát, rồi từ tốn nói :
- Chú tư kỳ vọng ở mày rất nhiều và chính tao cũng thế. Mày là một thằng có tài, nhưng tính khí của mày thì tao cũng không biết nói thế nào đây? Nóng nảy, ngang ngược thì chưa hẵn. Hiền hậu, tế nhị cũng không đúng. Nhưng mà thôi. Tao tiết lộ cho mày một bí mật. Việc mày có một, hai thằng con trai gì đó thì chú tư và cả ông mười đều biết. Nhưng chú tư thì mất rồi, rất tiếc là… Nhưng còn ông Mười có bảo tao giúp cho mày làm tròn vẹn cái nhiệm vụ mà ông ấy giao. Tao cũng hiểu chút ít về những ước muốn của mày. Những ước muốn đó là chính đáng, trong điều kiện hiện giờ thì mày có thể đạt được đấy. Nếu cái kiểu cư xử như mày cư xử với Chín Đỏ lập lại với ai khác một lần nữa là mày thua. Cái mà tao muốn lưu ý mày là cái này. Sự sắp xếp cho mày làm tổng đại diện là một sự phiêu lưu lớn của ông Mười, nhưng nếu không thành công là mày lãnh đủ. Hiểu chưa thằng nhóc con.
Nghe ông ấy nói. Tôi chới với, tất cả mọi hành vi của tôi đều luôn luôn phơi bày trước mắt mọi người, cũng may chưa có gì nghiêm trọng lắm. Còn khi nghĩ lại việc tôi có với Út Giữa những hai thằng con trai không hiểu sao tôi lại ấm lòng.
- Ông Hiền. Bác và bà xã ông lên kìa. Tiếng thằng Đăng oang oang.
Tôi nói với bác Ba Đặng :
- Con ra nhà thăm nuôi một chút. Hôm nào rỗi rảnh con ghé trả cuốn sách mượn hôm trước.
- Ừ đi đi, cho tao gởi lời thăm thiếm tư.
Tôi vừa ra tới nhà thăm nuôi. Anh cán bộ Quản Giáo gọi:
- Anh Hiền. Lại đây gặp bác và chị nè, không phải vô phòng đâu?
Tôi đến bàn ghi tên, thấy mẹ và vợ tôi. Bà trông già hơn kể từ khi ba tôi mất. Vợ tôi thì vẫn thế. cô ấy trông còn trẻ hơn so với tuổi của mình. Tôi đến ôm bà :
- Má. Khỏe hông má.
- Không khỏe mà đi thăm mày được à.
Rồi bà nhìn thấy anh cán bộ Quản Giáo đã đi đâu đó, bà tiếp.
- Có cái ông ở bên kinh Một nói lo cho con được. Má tính vài bữa thằng Ngọc nó rảnh, má bảo nó đưa má qua bển.
- Má à. Con cũng không còn bao lâu nữa. Má lo làm gì cho mệt. Vả lại ba mất rồi, ở nhà chắc túng thiếu lắm. Tiền bạc ở đâu mà lo. Nếu có thì má để dành khi đau yếu mà thuốc thang.
- Hơn bảy năm rồi. Con vợ mày còn chờ mày là may lắm, mày bắt nó chờ thêm bao lâu nữa ? Hay tao gả nó cho người ta
- Lỡ chờ được tới đây rồi thì ráng chờ luôn đi. Tôi quay qua vợ tôi. Phải không em ?
- Hổng biết à. Vợ tôi nói nửa đùa, nửa như thiệt.
- Con thì lúc nào cũng giỡn. Con bao nhiêu tuổi rồi, bốn mươi rồi. Ở tuổi con, người ta con đàn con đống, có người làm ông nội, ông ngoại rồi. Còn vợ chồng con y như con nít.
- Má. Con nói má nghe. Việc đó không được đâu. Người má định nhờ, người đó không có quyền giải quyết gì hết. Chẳng qua là họ nói bải bui cho má yên tâm thôi. Chuyện của con, con biết. Má thương con, con biết là đủ rồi. Em con đứa nào cũng nghèo cả. Khi má giở việc ra không lẽ tụi nó đứng nhìn.
Tôi lảng sang chuyện khác:
- Bác Ba Đặng gởi lời thăm má. Bác vẫn khỏe. Má yên tâm.
Mẹ tôi nín thinh, không nói nữa. Hình như có cái gì đó làm cho bà lo ra. Bà nói với tôi ;
- Thôi má đi đàng này một chút. Con nói chuyện với vợ con.
Nói xong bà bỏ đi. Vợ tôi nhìn tôi :
- Em có chồng à nghe?
- Trời đất! Thiệt vậy hả ?
- Vậy chờ anh hoài à ?
- Lấy ai vậy ?
- Lấy người nào đó thương em?
- Mà ai mới được ?
- Anh biết làm gì cho mệt.
- Ghê thế? Nhưng mà thôi cũng được. Anh nói thật, nếu cảm thấy có thể, em hãy làm cái gì đó cho bản thân mình đi. Chờ anh, một sự chờ đợi như vậy liệu có đáng không? Tuổi chúng ta không còn trẻ nữa. Không con cái, không gì cả. Mà ngày về của anh thì không hẹn trước.
Vợ tôi tròn mắt nhìn tôi :
- Anh tính giở trò gì nữa đây? Nếu bỏ anh, em đã bỏ từ lâu? Đâu phải tốn công sức bơi mòn mấy cây dầm.
Nghe vợ nói, bổng dưng tôi muốn sỉ vã mình. Tôi thực sự như thế sao? Mẹ tôi trở lại, rồi cả hai dặn dò tôi đôi câu rồi ra về. Cũng như mọi lần. Mỗi khi ở nhà đến thăm, dù bất cứ ai. Khi họ ra về là hồn phách tôi để đâu đâu. Tôi ngồi đó và nghĩ về con đường về của hai người thân yêu của mình. Giòng sông ấy vốn dĩ hiền hòa, nhưng không có nghĩa là không nguy hiểm. Bao nhiêu năm rồi những ngưòi thân yêu ấy đã bơi qua bơi lại một giòng sông vì sự đói no, ấm lạnh của tôi. Bao nhiêu cây dầm và cái be xuồng đã mõi mòn vì nghiến chặt lấy nhau. Tôi đã tự nhấn chìm mình xuống cái nôi tình cảm ấy. Một thứ tình cảm thiêng liêng mà ba mẹ tôi dành cho tôi, các em tôi dành cho tôi, vợ tôi dành cho tôi, bạn bè và những người quen biết dành cho tôi. Nhưng cái làm cho tôi hạnh phúc mà cũng là khốn khổ nhất chính là tình yêu không điều kiện mà Út Giữa trao gởi cho tôi và hai đứa con đang chờ đợi cha về.
Tôi vào trại khi buổi thăm nuôi chấm dứt. Ngay chỗ tôi ngủ thù lù một đống quà cáp chất kín chỗ nằm. Tôi không hiểu gì cả thì Đăng, tay ăn cơm chung với tôi mở máy:
- Ông Hiền. Làm tổng đại diện đã thiệt. Thiên hạ đem biếu ông đấy; thuốc Héro này, đường, sữa, cà phê, trà, vitamine từ ABC cho tới Z, từ 1 đến 12… Đảm bảo tháng này tôi và ông mỗi thằng lên mười ký.
Tôi trợn mắt nhìn hắn:
- Ai bảo mày nhận.
Đăng nghiêng mình giễu cợt:
- Dạ thưa ngài tổng đại diện. Tự mang đến, tự để vào, rồi tự nói “Gởi anh hai uống chơi, hút chơi, ăn chơi…“. Và biến. May mà chưa ai gởi cho ông cái món để “chơi chơi” (?!)
- Mày đúng là đồ điên. Sao mày không ghi một danh sách luôn, để mai mốt họ nhờ vã gì đó đặng tao biết đường mà đền ơn, đáp nghĩa.
- Ông khỏi lo. Họ sẽ tự tìm cách báo cho ông biết họ gởi cho ông cái gì?
Tôi thật sự ngao ngán. Phải công nhận là làm “tù trưởng“ đã thiệt (?). Tôi quay sang Đăng :
- Mày kiếm mấy cái bao, nhét hết ba cái món này vào. Ngày mai tao tính. Còn thứ gì không thể để lâu được mày cho ai thì cho. À hay là may mang hết lên tổ trật tự nói là tao gởi nhờ chị Ba đội trưởng phân phát cho những chị em không có thăm nuôi. Vậy đi. Tao đi nấu trà.
Khi tôi mang ấm nước sôi và bình trà vào thì mọi việc đã xong xuôi, kèm theo những lời xì xào, nó chấm dứt ngay khi cán bộ quản giáo và trực trại đến. Sau một hồi trà nước, tôi trình bày mọi việc và nhờ hai cán bộ giải quyết cho tôi vụ mấy cái bao quà bất thường này. Sau khi nghe tôi trình bày, anh cán bộ trực trại ôm bụng cười ngất:
- Nghe anh nói làm tôi muốn ở tù. Thôi được, tối mai họp trại giao ban cuối tháng. Anh cứ tự nhiên xử lý. Anh quyết thế nào chúng tôi cũng ủng hộ anh. Thôi anh ngủ sớm đi. Đêm hôm thức trắng đêm rồi.
Khi cán bộ, các tự quản đội, tổ toán trưởng, tổ trật tự họp mặt đầy đủ tại hội trường. Sau khi hoàn tất cuộc họp giao ban. Cán bộ quản giáo phát biểu:
- Họp giao ban tháng này đến đây chấm dứt, trước khi giải tán về đội. Anh Hiền tổng đại diện có một việc cần giải quyết. Mời anh Hiền.
Tôi đứng dậy nhờ Đăng và một vài người khác mang mấy bao quà để lên bàn rồi xếp ra từng loại, thứ nào theo thứ ấy. Khi xong, tôi lên tiếng:
- Thưa cán bộ quản giáo, cán bộ trực trại, các tự quản đội và anh chị em. Đây là những món quà bất thường mà tôi nhận được, không phải do gia đình tôi gởi tới mà do một số anh em trong trại trích từ trong phần thăm nuôi ít ỏi của mình để gởi đến tôi. Tôi không biết rõ là của ai nên không biết làm sao mà trả lại cho đúng từng người. Thưa các anh chị em. Gia đình chúng ta đã nặng lòng với chúng ta rất nhiều vì những hành vi không đúng của chúng ta trong cuộc sống. Nhưng họ không quên chúng ta, gởi đến cho chúng ta những món quà ít ỏi này vì hai lẽ; thứ nhất là một lời động viên kêu gọi chúng cố gắng sửa chữa lỗi lầm để nhanh chóng trở lại gia đình, thứ hai là thỏa mãn nhu cầu tình cảm của mình. Những món quà trên bàn này, hầu hết đều không thật sự cần cho cuộc sống hàng ngày. Không có thuốc Héro, trà, càphê… xem ra cũng chẳng hề gì? Nhưng bên trong của những món này nó có một thứ khác rất cần cho cuộc sống. Đó là cái tình. Mà cái tình của ai thì người đó nhận. Tại sao các anh chị em này lại bắt tôi phải nhận? Nếu tôi nhận thì tôi biết làm sao đây? Các anh chị em này đã làm khó cho tôi rồi, tình đồng cảnh với nhau mà sao nỡ lòng làm khó nhau như thế. Thế nên. Tôi đề nghị thế này, tôi chuyển hết những thứ này cho canten để bán. Toàn bộ số tiền thu được sẽ chuyển cho tổ y tế của bác sĩ Lê để mua thuốc dự trữ, phòng khi có anh chị em nào đau yếu thì có ngay. Còn có những món không thể để qua đêm, tôi đã mạn phép mang đến cho những chị em không có thăm nuôi bên đội nữ. Xem nó như là sự chia sẻ của những người có thăm nuôi đến những anh chị em vì một lý do nào không thường xuyên nhận được sự thăm nuôi của gia đình. Các anh chị em thấy thế nào? Xin cho ý kiến.
Cả phiên họp bắt đầu xì xào, nhưng không ai có ý kiến gì? Cuối cùng cán bộ quản giáo lên tiếng :
- Thôi. Không ai có ý kiến thì tôi có.
Anh ngưng lại một lát, rồi nghiêm giọng:
- Tôi đồng ý cách xử lý của anh Hiền. Nhưng tôi cũng xin nhắc nhở các tự quản đội. Cái trò này không phải chỉ xảy ra cho anh Hiền mà là xảy ra từ lâu với nhiều tự quản đội. Ngoài ra chúng tôi cũng biết, các tự quản đội đều có người cơm bưng, nước rót, đều có những món quà bất thường. Công việc của các anh chị không nhiều, nhưng nấu ăn cũng có người lo, một ấm nước cũng sai người khác, rồi đấm lưng, bóp vai, bóp cẳng. Các anh làm cái gì mà bận bịu và mệt nhọc thế? Thấy ai thăm nuôi có món gì ngon thì vòi vĩnh người ta cống nạp. Thế nghĩa là sao? Tôi nhắc lại trò này phải chấm dứt. Chính những điều đó đã tạo nên một sự việc ngày hôm nay cho anh Hiền, khi mà anh ấy mới nhận nhiệm vụ chưa tới một ngày. Việc này nói lên điều gì? Nó nói lên cái thái độ cải tạo không nghiêm túc của các anh chị em. Đã là những người phạm tội, cùng chung cảnh ngộ mà các anh chị còn mang nặng quan điểm đặc quyền, đặc lợi, vun vén cá nhân. Do đó, có một số anh chị em vì e sợ, hay một vì ý đồ nào khác nên phải nín nhịn mà đem những cái thứ ít ỏi của mình để mua chuộc người khác, mong được yên thân hay đầu tư cho một ý đồ không trong sáng. Đó là những biểu hiện của hình thức đại bàng. Bắt đầu từ hôm nay, mọi thứ lôm côm đó phải chấm dứt. Tôi. thay mặt ban lãnh đạo trại ra lệnh cho ban điều hành mà anh Hiền là tổng đại diện có trách nhiệm xử lý triệt để những hành động này. Trong quá trình thi hành nhiệm vụ này, có gặp khó khăn hay chống đối hãy trực tiếp báo cáo và nhận sự chỉ đạo của Ban lãnh đạo trại. Hết. Còn ai có ý kiến gì không?
Tất cả gần như yên lặng, mọi người nhìn nhau rồi nhìn tôi. Một lần nữa cán bô quản giáo phát biểu :
- Không ý kiến gì nữa phải không? Thế thì thư ký đọc lại biên bản cho mọi người cùng nghe. Rồi làm giấy bàn giao hết những món quà trời ơi này cho căn tin.
Tôi chấm dứt ngày làm tù trưởng đầu tiên bằng một bình trà chỉ uống có một ngụm và ngủ.
Tờ trình của tôi được chấp thuận sau gần hai giờ thuyết minh bằng miệng với ông Mười. Tất nhiên, nó có một sự cản trở nhất định bởi dàn antenna dày đặc. Trên đường về trại tôi thực sự nổi quạu. Nhưng cuối cùng tôi nhận ra là việc này chẳng những vô ích, mà nó còn củng cố thêm vị trí của tôi với một điều kiện duy nhất. Nghĩa là mọi hành động của tôi chỉ phục vụ cho sự ổn định và phát triển của trại. Tưởng chuyện gì chớ chuyện này thì dễ thôi.
Khi tôi mang trả quyển sách cho thư viện. Bác ba nhìn tôi rồi tủm tỉm cười:
- Tao nói thật với mày nghe Hiền. Trên thế gian này chỉ có mày là một thằng duy nhất. Đang ở tù mà có vợ bé. Phải chi mày cặp bồ mấy con nhỏ bên trại nữ thì tao không nói, mà có vợ bé và có con đàng hoàng nữa thì việc việc quả là ghê thật. Mày đúng là hậu sinh khả úy.
Tôi hết hồn. Vội vàng kể hết mọi việc cho ông nghe, nhưng dấu biệt cái việc mà tôi và Út Giữa làm đám cưới chỉ với hai chung trà. Ông nheo mắt nhìn tôi :
- À thì ra vậy. Ông Mười có nói với tao, nhưng không rõ ràng nên tao hiểu thế. Nhưng cái điều quan trọng lại là ở chỗ này. Ông ấy nói rằng: việc này thì ông ấy biết và cho qua. Bởi vì ông cho chuyện này xảy ra trước ngày mày bị bắt. Ngoài ra mày là một người mà ông ấy cần. Cái nữa, là ông ấy hiểu rõ cái khát khao của mày là có một đứa con. Những gì ông ấy nghĩ và làm đều đúng. Cái còn lại là do mày.
Thì ra tất cả mọi việc xảy ra, được định sẵn như một mảnh vườn và tôi biết mình phải múa như thế nào trong cái mảnh vườn ấy mà vẫn có cảm tưởng như mình múa gậy vườn hoang.
Bác Ba ra vẻ trầm ngâm, rồi ông tiếp :
- Mày có nhớ một lần, mày nói về Thượng Đế không?
- Nhớ. Thưa bác Ba. Có gì không bác?
- Tao không nghĩ mày ở trên trời rơi xuống. Cái lập luận của mày đúng là coi trời như đất sét. Mày muốn nắn kiểu nào thì ra kiểu ấy.
- Thưa bác, không đến đỗi phải báng bỗ đến thế đâu? Nhưng quả tình không hiểu tại sao hôm đó cháu lại giở trò ba trợn. Tất nhiên không phải với ai cháu cũng nói như vậy.
- Cái lập luận của mày đúng là… tao không biết gọi bằng gì cho phải. Thôi tạm gọi là kiêu ngạo đi. Cả hai ông linh mục và thượng tọa đăm chiêu với mày rồi đấy. Ông Thượng tọa thì có vẽ suy nghĩ. Bác sĩ Lê và tao thì chới với. Ông linh mục gọi mày là Sa Tăng.
Tôi phì cười :
- Thì ông ấy có bao giờ gọi cháu bằng cái từ nào khác đâu?
Bác ba Đặng nhìn tôi, lắc đầu :
- Mày là đồ điên. Mày không giống ba mày một chút nào cả. Nhưng có điều là những gì mày nói cũng làm tao ngẫm nghĩ. Thực ra có ai thấy Thượng Đế bao giờ. Thế mà người ta mô tả chi tiết y như đang được bệ kiến Ngọc Hoàng. Mày biết hai con người tu hành ấy, cả tao và bác sĩ Lê nữa, nhận xét về mày thế nào không? Mày là một thằng cực kỳ thông minh, rất tài hoa và càng lúc không ai hiểu nỗi mày. Ông cha xứ thì suýt xoa, trong khi ông thượng tọa thì im lặng cho đã đời, cuối cùng ông ấy mới lẫm bẫm cái gì đó tao không nghe rõ. Tao cũng không thể nào hiểu được những người tu hành, rồi cả con quỷ Sa tăng là mày nữa. Thôi. Không nói chuyện đó nữa. Cái vụ mày xử lý mấy bao quà cáp “trời ơi” đó làm cho mọi người khoái tỷ. Cả ông Mười Can cũng thế, ông ấy có nói với tao thế này “ Nếu anh Hiền làm việc này bằng tấm lòng thật sự ngay ngắn thì rất hay. Nhưng nếu anh ta hơi quẹo quẹo một chút thì anh ta quả là cáo già“. Mày nghĩ sao về nhận xét này.
- Thời gian sẽ chứng minh cho ông Mười thấy cháu ngay hay quẹo. Nhưng với bác thì cháu nghĩ rằng, bác sẽ cho là cháu không quẹo.
Ông cười :
- Ăn nhằm gì tới tao? Nhưng thôi mày muốn thế nào thì tao nghĩ thế ấy. Nhưng qua vụ đó cũng có lắm kẻ gờm mày đấy. Ráng mà cẩn thận. Người ta vác búa vô rừng không ai đốn cây cong.
- Bác ba khỏi lo. Cây ngay thì chết đốn là lẽ đương nhiên. Ít ra khi đã chết rồi cũng thành cây cột, cây kèo hay chí ít cũng là một cây nọc trâu.
Ông lắc đầu nhìn tôi :
- Thế là mày chơi tuốt. Liều mạng hả con?
- Thưa bác. Không phải thế. Bởi vì, khi chết rồi mình có biết mình thế nào? Cột, kèo hay than củi? Mà là than củi thì cũng có sao đâu? Ít ra nó cũng đem đến cho cuộc sống này một ánh lửa, một hơi ấm. Theo cháu nghĩ, lo cái sống trước đã.
Ông thở phào:
- Mới nghe mày nói một câu tao lọt lỗ tai. Đúng là thằng Sa Tăng. Hình như mày giống tao hồi còn trẻ.
Khi tôi vừa bước ra khỏi thư viện thì đụng ngay Tám Điểu và Minh mốc. Cả hai nhìn tôi với ánh mắt e dè rồi Tám Điểu lên tiếng :
- Anh hai. Qua căn tin uống café.
- Có gì không không anh tám ? Tôi hỏi.
- Anh qua căn tin uống café đã. Anh em tụi tôi có chuyện muốn nói với anh.
- Cũng được. Thôi, mình đi.
Khi cả ba ngồi vào bàn, những người đang có mặt trong căn tin tỏ vẻ ngạc nhiên. Minh mốc giờ này mới lên tiếng :
- Anh hai uống gì anh hai.
Tôi móc trong túi gói trà để lên bàn rồi nói :
- Mấy anh uống gì cứ kêu. Tôi xin nước chú Ba pha ấm trà. Nói xong tôi cầm gói trà đứng dậy toan bước đi.
Minh mốc liền đứng dậy nói:
- Anh hai để em pha.
- Thôi được rồi. Để tôi. Mấy anh uống gì kêu cho chú Ba làm. Tôi tự pha trà lấy. Cho trà vào bình, xin một gáo nước sôi đổ vào là xong. Chuyện này tôi làm hoài. Đâu có mệt nhọc gì đâu?
Cả hai bẽn lẽn nhìn tôi. Tôi bước đi pha trà, trở lại với bình trà và ba cái ly đặt xuống bàn. Tôi nói:
- Có chuyện gì mấy anh nói đi.
Cả hai nhìn tôi, rồi nhìn nhau. Tôi biết họ muốn nói gì và dù chưa nghe nhưng tôi cảm thấy nhột nhột sống lưng, khi phải nghe thì chắc là còn nhột hơn nữa. Nên khi cả hai đang chọn lời thì tôi rót trà ra ly và đẩy cho mỗi người và nói:
- Những gì các anh muốn nói, tôi hiểu cả. Không cần phải nói ra. Thôi thế này. Chúng ta là những người cùng chung một hoàn cảnh và cùng chung một ước mong là sớm về với gia đình. Điều này ban lãnh đạo trại và cán bộ cũng muốn thế. Nhưng về nhanh hay chậm là do chúng ta. Chẳng ai ở không mà canh gác cho mình ngủ hoài đâu? Bấy lâu nay, anh em chúng ta, mỗi người có một suy nghĩ riêng về việc tranh thủ lấy tự do cho bản thân mình. Nhưng vấn đề không phải vậy. Chúng ta chấp hành nội quy vì sợ thì nhiều hơn là tự nguyện, lao động thì cố làm cho rồi, chớ không làm cho được. Chính vì vậy, nên chúng ta làm nhiều chuyện trái khoáy, mà bằng chứng là các anh thấy đấy, những món quà trời ơi đất hởi của tôi. Ngoài ra còn nhiều chuyện lôm côm khác mà chỉ cần suy nghĩ một chút thôi là chúng ta hiểu ngay là cái gì? Cái tôi muốn là các anh nghe lời tôi, những lời nói đúng; làm theo tôi, những việc làm đúng. Còn những gì tôi nói sai, làm sai. Các anh góp ý, tôi không nghe. Các anh báo cáo cho cán bộ, cho ban lãnh đạo. Báo cáo trung thực, chứng cứ rõ ràng. Đừng báo cáo ẩu, láo. Điều đó không có lợi cho ai cả. Thế nhé. Việc các anh giữ các phần hành được giao thì cứ thế mà làm, làm nghiêm túc vào. Nhưng không nên nặng nhẹ, chửi mắng anh em. Thế thôi. Thôi tôi đi đây, các anh cứ ở lại uống trà.
Tôi chẳng đợi ai trả lời. Đứng dậy đi thẳng. Chẳng biết họ nghĩ gì, nhưng những ngày sau đó hình như mọi việc có vẻ như đúng ý tôi hơn.
Sau một tuần. Bộ tứ chúng tôi hình thành gồm: Tôi, Thìn thư ký điều hành, cùng loại tội phạm như tôi, Phong vốn là một sĩ quan công an, dính vào tội vượt biên, phụ trách kỹ thuật đủ thứ. Hữu kỹ thuật viên nông nghiệp gốc Thiên Chúa giáo can tội phổ biến các bản thánh ca bị cấm lưu hành. Tất cả chúng tôi rất hợp rơ và toàn tâm toàn ý cho công việc. Gần hơn phân nửa các tự quản đội được thay đổi. Tám Điểu ngả về phe chúng tôi không điều kiện, Chín Đỏ vẫy vùng trong tuyệt vọng. Tất nhiên thế thắng nghiêng về phía chúng tôi không phải vì lý do bè cánh mạnh. Mà vì tất cả việc chúng tôi làm đều đáp ứng được yêu cầu của ban lãnh đạo trại và cả anh em trại viên.
Việc đầu tiên tôi làm là quét sạch hết tất cả những ảo tưởng đang tạo ra những râm ran này khác trong trại. Không thể cùng một lúc mà quay được 180 độ. Khi bắt tay vào việc này tôi nghĩ là rất khó khăn. Nhưng vào việc thì lại suông sẽ. Có lẽ vì xa gia đình quá lâu. Cái nhu cầu bức thiết nhất của cuộc sống đã thức dậy và dần thay thế cho những ảo tưởng mơ hồ. Từ đó những loại tin tức bát nháo không còn thậm thò, thậm thụt chen vào trong sinh hoạt của trại. Tất nhiên, tôi cũng biết cái loại tin như vậy không ai đem kể với tôi, nhưng nhìn thái độ của họ, tôi biết họ bớt dần, rồi không còn quan tâm nữa. Hơn nữa nhờ có phong trào nói chuyện không chửi thề đã làm giảm đi những va chạm không đáng có, làm cho anh em trong trại biết kềm chế những bức xúc nông nổi của mình, và họ có nhiều yên tĩnh hơn để suy nghĩ thấu đáo về vị trí của họ cho chính bản thân và gia đình. Trong khi đó thì tôi luôn luôn toàn tâm toàn ý với anh em. Dẫu rằng cũng có đôi khi tôi giở những trò hơi láu cá để dằn mặt những người có những ý nghĩ không ổn định. Lại cái trò cong cong để uốn sự việc lại cho ngay ngắn. Như uốn tre ấy mà, muốn cho nó ngay thì phải kéo cho nó cong chiều ngược lại, còn phải đun nóng nữa chứ.
Tháng bảy trời mưa dầm, tất cả đường đi lối lại trong khuôn viên trại từ khu vực của cán bộ đến khu vực của phạm nhân đều trơn như thoa mỡ. Tôi biết cách phải làm như thế nào để khắc phục tình trạng này mà không phải tốn môt đồng xu. Chỉ cần khoảng một trăm ngày công là đủ. Nhưng sau nhiều lần gợi ý, ban lãnh đạo trại không trả lời. Tôi đành tịt ngòi, cứ ngồi xem hết cán bộ đến trại viên hè nhau đo đất. Một ngày tôi nhìn thấy ông Mười Can từ văn phòng xuống trại và ông cũng đo luôn. Tôi nghĩ chắc rồi ông cũng sẽ cho phép tôi thực hiện. Nhưng nhiều ngày trôi qua vẫn không có chỉ thị nào. Đến một hôm ông về tỉnh họp. Tôi huy động nhân lực làm đột xuất tính điểm. Đống gạch vụn, gạch phế thải của lò gạch hơn trăm khối được chuyển về và thực hiện trong vòng ba ngày. Tất cả đều tinh tươm sạch sẽ. Khi ông mời Can về. Tôi chuẩn bị tư thế sẵn sàng để trình bày. Một ngày, hai ngày… Rồi cũng không có gì. Cho đến gần tháng sau ông kêu tôi lên hỏi :
- Ai ra lệnh cho anh lấy xà bần lót đường.
- Thưa ông trưởng trại. Không ai ra lệnh cả. Nhưng tôi thấy đây là việc mà một tổng đại diện nên làm. Cán bộ trại và anh em phạm nhân cứ té lên, té xuống vì đường trơn. Trong khi đó gạch vụn, gạch phế phẩm từ lò gạch thải ra cứ chất đống mà không biết để làm gì.
- Anh làm hết bao nhiêu ngày công? Bao nhiêu xà bần, gạch vụn của tôi?
- Thưa ông trưởng trại. Gần trăm khối và năm trăm ngày công đột xuất tính điểm.
- Anh có biết là làm mà không xin ý kiến ban lãnh đạo là không hợp pháp?
Tôi im lặng. Ông tiếp :
- Nhưng may mà nó hợp lý. Mà anh cũng láo thật. Chờ tôi đi vắng, làm một mạch cho xong, khỏi ai cản đản. Không lẽ tôi bắt anh moi lên. Ông chấm dứt câu nói bằng một tràng cười, cười xong ông lại tiếp. Anh gan đấy, dám nhận lấy trách nhiệm về việc làm của mình. Anh mà chờ ban lãnh đạo chỉ thị thì anh em cứ tiếp tục đo đất suốt, kể cả tôi. À mà sao anh không nói là thấy tôi té anh mới làm. Nói như vậy nghe nó vừa êm tai vừa có điểm?
Tôi lại cười và im lặng. Ông tiếp:
- Sợ mang tiếng là nịnh phải không? Mà ngộ nghe. Ai cũng ghét mấy thằng nịnh. Ấy thế mà nghe ai nịnh mình một phát, làm như đã cái lỗ tai. Không no béo gì, nhưng khoái, trong bụng sướng rơn. Bởi vậy thời xưa, mấy ông vua nước mất, nhà tan cũng do mấy thằng nịnh, mà hình thời bây giờ cũng vậy. Làm vua sướng thấy mẹ, vậy mà cũng bắt người ta tung hộ vạn tuế. Thế mà ít ông nào sống quá sáu mươi. Thôi từ đây về sau thấy cái gì có lợi cho trại, cho anh em thì làm. Không phải mỗi cái mỗi xin ý kiến.
Tôi về, lòng thoải mái. Ít ra trong hoàn cảnh này cũng có người hiểu được mình. Dù vậy, tôi cũng luôn luôn tự dặn mình cẩn trọng.
Tôi xin ban lãnh đạo cho phép thân nhân gởi sách báo vào. Khuyến khích sáng tác các ca khúc, những bài bản cải lương, thơ ca cho đăng trên báo tường và cho đội văn nghệ trình diễn. Bằng quyền hành cũng như tình cảm, tôi cố gắng tạo cho những trại viên những suy nghĩ mới. Ông trưởng trại có vẻ hài lòng. Và tôi cũng thẳng thắn bày tỏ cùng ông một cách công khai những ý nghĩ của mình về một thời đã qua và những ngày hiện tại. Tôi cũng hé lộ cho ông nghe về những dự tính trong tương lai. Ông đồng ý với tôi và chính tôi cũng không cảm thấy ngượng vì tôi không nói lấy lòng. Cộng thêm vào đó các buổi học tập về chính sách, pháp luật, nhất là bộ luật hình sự mới ban hành. Tất nhiên những việc làm của tôi luôn luôn được sự chỉ đạo chặt chẽ của ban lãnh đạo trại. Sự hợp tác giữa ông mười Can và tôi càng lúc càng đi đến chỗ đồng thuận.
Không phải cả trại ai cũng đồng ý với tôi. Đã có những lời hăm dọa sẽ thanh toán tôi khi ra tù. Thậm chí có những tiếng “phản bội“ vọng lại từ đâu đó phía sau lưng. Tôi không phiền trách mà xem đó như là một lời cảnh báo. Bởi vì nếu chỉ vì bản thân mình, và chỉ biết có thế thì những gì họ nói sẽ không sai. Còn việc hăm dọa thì tôi hoàn toàn không sợ vì cuộc sống có một nhận định khá chính xác “Chó sủa không cắn ai“.
Là một tổng đại diện nhưng tôi vẫn quần vo áo vận, đầu hớt cua để khỏi phải hớt hoài, úp lên đó cái nón bàng là mọi thứ nắng mưa đều trở nên vô nghĩa. Mỗi ngày lội ruộng, lên rừng, ra rẫy. Tất nhiên vì công việc cũng có, mà vì bản thân mình cũng có. Cái màu xanh bạt ngàn của rừng U Minh Thượng điểm những vệt hoa vàng đẹp đến ngất ngây. Đó là chưa kể đến màu xanh lục của lá non, cái màu trung hòa giữa hoa vàng và màu xanh thẫm của lá đã trưởng hành, nó biểu hiện một sức sống lộng lẫy mà tạo hoá đã ban cho vạn vật. Tôi thường đến các chòi canh lửa, leo lên độ cao mươi mét, đứng nhìn xuống giữa bốn bề gió lộng, để chiêm ngưỡng những cảnh sắc tuyệt vời này, hoặc là nằm giữa cái không gian tuyệt diệu mà đọc sách, mà nghĩ ngợi, mà mộng mơ. Hoặc sang khu rẫy ngắm nhìn cây lá với đọt non xanh rờn và những màu vàng rực rỡ của hoa bí, hoa bầu, khổ qua… trang điểm bởi ánh nắng ban mai gởi cái long lanh tuyệt hảo vào những giọt sương đêm còn đọng lại. Hay những ruộng mạ màu lục tươi non dập dềnh trước gió. Những vạt ruộng mới cấy ngã nghiêng úa vàng, bổng từng ngày trở màu xanh mượt mà như thoa mỡ. Những cơn gió se lạnh mang sương về buổi sáng, làm cho cánh đồng bao la ấy bừng lên dưới ánh nắng tháng mười khoáng đạt, và chỉ một thoáng quên ngắm nhìn, chợt chuyển sang màu vàng chói lọi, cơn gió chướng mang hơi xuân đẩy đùa làm nên hơi thở của ruộng đồng, phả vào tôi một mùi hương của rạ mới, nhưng thực ra đã có tự mấy ngàn năm… Đó là sự diệu kỳ của thiên nhiên cộng với những kết quả của những giọt mồ hôi đã đổ ra. Cứ thế, cảnh vật yên bình này cuốn hút tôi từ ngày này sang ngày khác. Từng mùa, từng cảnh sắc đổi thay. Mọi thứ làm dịu lại lòng tôi. Tôi men theo bước chân của thời gian. Nương theo cái vận hành của trời đất được gọi là “tứ tiết hành yên“. Tôi bổng nhớ lại những ngày đi trồng tràm. Gần một ngàn hecta đất rừng đầy lau sậy và cỏ năng mà trại quản lý. Được máy cày mang bánh lồng trục nhận theo cái kiểu dạo mát trên rừng. Rồi được trồng theo cái kiểu thả dù tràm con, những cây tràm không xuống được tới đất vì lớp năng sậy dầy ba bốn tấc nằm la liệt bên trên. Ấy thế mà vẫn sống và giờ đây thì đang xanh mượt mà. Tôi trồng được bao nhiêu nhỉ? Chắc khoảng năm sáu công gì đó.
Trong những lần như thế, tôi thả sức mộng mơ giữa những thì thào của gió, của cây, của lá và của… lòng tôi. Rồi có những lúc tôi không còn là tôi nữa, tôi quên hết những hệ lụy mà mình đã gây ra, đã đa mang. Quên hết những sóng gió, bất trắc đi qua đời mình. Quên luôn cái hiện tại tội tù. Tôi nhẫm đếm tuổi mình và rồi cũng nhanh chóng quên đi. Tấm lòng sạch không, chứa đầy gió mây, hoa lá. Nhưng rồi gió mây hoa lá kia cũng không còn nữa. Tấm lòng hốt nhiên bao la, muôn trùng rộng mở. Nằm trên chòi cao, hay tay gối đầu, tôi để cho đôi mắt bay theo những áng mây rồi cao dần, rộng dần. Trong một thoáng ngắn ngủi, cái vật thể nặng năm mươi ký lô gam mà tôi sở hữu tan ra, hoà nhập vào cõi mông mênh. Một chút ý thức mong manh còn sót lại làm cho tôi nhận ra mộng mơ và hiên thực đang lẫn vào nhau. Và tôi bay bay.
Tất nhiên tôi không quên tụng kinh Tình. Những lời kinh ấy sao mượt mà, biếc xanh đến thế. Những lời ấy là những diễn cảm của một tình yêu đích thực. Nhưng giờ đây khi đọc lên thì lại nên những cảm giác phiêu bồng không hệ lụy.
Nhưng dù sao thì tôi đang hiện hữu. Khi mà sự cảm nhận trở về đầy đủ thì lại mang theo một sự khoan khoái tuyệt diệu. Những lần như thế tôi thường rời khỏi cõi mộng mơ khi mà những cánh cò đang bắt đầu về tổ. Và tôi cũng phải bay về cái tổ lao lung.
Bổng dưng tôi nhớ “Sống mà đếch đổ mồ hôi, Làm sao biết được cuộc đời ngon cơm “. Hai câu thơ ấy tôi đã làm khi mà tôi chưa ý thức được rõ ràng vai trò của lao động trong cuộc sống. Có phải số mạng đã vận vào và cho tôi hưởng những giây phút kỳ thú này trong một hoàn cảnh chẳng ai ham. Ôi màu xanh. Ôi màu xanh.
Những ngày ấy. Khi đêm về, tôi ngồi viết một cái gì đó; một bản đề nghị, một báo cáo, một tờ trình hay là một bài thơ, một khúc nhạc…Và đôi khi là một nỗi nhung nhớ, một ước mơ.
XUÂN GỌI
Cái nắng hồng tươi buổi sáng xuân
Gọi con chim hót đến tưng bừng.
Gọi long lanh đến sương trên lá,
Gọi tiếng cười vui khắp cánh đồng.
Đất phả mù sương buổi sớm mai.
Hòa theo cơn gió lá xanh lay.
Và khung trời bổng cao vời vợi,
Mây trắng về cùng chim trắng bay.
Cây gọi ngàn hoa nở. Ngát hương.
Cho con ong múa ở trong sương.
Hẹn mùa trái kết và xuân chín,
Chưa nếm mà sao ngọt lạ thường.
Lúa nép mình trong giấc ngủ say.
Bổng nhiên tỉnh giấc giữa sương mai.
Tỏa hương cho gió mang đi khắp,
Hòa tiếng ca chung với cuộc đời.
Và một trong những lần khác…
TRONG CÕI THƠ TÌNH
Em hãy tỏa hết hương thơm đang có,
Để say lòng mê đắm đến nghìn thu.
Anh trau chuốt cánh thiên thần chấp chới,
Bay long rong giữa thiên địa tuyệt mù.
Em mãi mãi vẹn toàn hình thể ngọc,
Nét tuyệt vời cứ thế không hề phai.
Anh chếch choáng đưa hồn vào viễn mộng,
Hồ mắt xanh biên biếc sóng mi dài.
Màu xanh cứ biếc xanh từ vạn đại,
Theo không gian đi khắp cõi ta bà.
Lòng rộng mở nhẹ tênh không bụi bặm,
Em tuyệt trần nhan sắc khúc thanh ca
Chờ thức giấc hoa ngậm sương đợi sáng,
Lóng lánh từng hạt ngọc đón ban mai.
Anh cố sức dọn dẹp lòng xấu hỗ,
Hốt nhiên thơ có cánh cùng hương bay.
Cõi tục tụy, bụi hồng vương mắt đỏ,
Lòng thiên thanh. Em ẩn náu. Được chưa?
Anh chấp chới nhìn theo và đắm đuối
Lối phiêu bồng, mỗi bước một vần thơ.
Câu thơ đọc râm ran nơi hạ giới,
Bay vút lên bổng chốc hóa hư không.
Em ảo diệu và thơ anh ảo diệu,
Hương và thơ bát ngát chốn vô cùng.
Ô. Tôi viết vậy mà chẳng hiểu vì sao tôi viết vậy. Đầu óc trống không, chẳng một ý tưởng gì. Những giòng chữ hiện ra. Vô thức. Thế thì viết thôi. Thơ… cũng được mà thẩn… cũng hay hay. Hai bài thơ đem đăng báo tường. Bài thứ nhất thì có lắm người khen. Bài thứ hai thì người ta nói khùng. Ông linh mục và ông thượng tọa thì thay phiên nhau nheo mắt nhìn tôi và… cười. Còn tôi thì khoái thầm mà không hiểu là em nào lại ảo diệu đến thế kia. Nhưng chắc chắn không phải là vợ tôi hay Út Giữa hoặc là ai ai đó đã qua đời tôi. Tôi đã thử nghĩ như thế nhưng hình như không ổn. Và trong một buổi mà bộ tứ chúng tôi uống trà với một vài người nữa, trong đó có một trung tá, cùng tuổi tôi, là cán bộ của bộ Nội Vụ[v] đang công tác và một cán bộ quản giáo của trại. Mọi người lại đem hai bài thơ ấy ra bàn. Trong khi mặt mày tôi đang sượng dần lên vì thấy mình được bốc thơm hơi quá thì vị trung tá ấy cười cười đưa ra một kết luận rất thời thượng làm tôi chưng hửng:
- Bài đầu tiên là “cảm nhận vi mô”, bài sau là “cảm nhận vĩ mô”. Anh Hiền lúc đương thời chắc là có lắm cô xiêu.
Tôi nói như tự hỏi:
- Ôi. Lúc đương thời là lúc nào nhỉ? Tôi có lúc nào đương thời đâu. Thưa trung tá.
Lại cười. Nhờ thế giá trị hai bài thơ được nâng lên (?) vì đổi được bảy tám nụ cười và một bộ mặt sượng ngắc. Trong mấy nụ cười đó có một của bộ Nội Vụ.
Tôi cố gắng hết sức trong công việc. Có hai nguyên nhân; thứ nhất là không phụ lại niềm tin của người khác đang kỳ vọng vào mình; thứ hai, cái này quan trọng hơn, điều kiện đã có đủ để cho tôi tự đo cái năng lực của mình một lần nữa. Tôi đã sử dụng quyền hành được giao một cách cẩn trọng và có hiệu quả rất cao. Ban đầu tôi cũng lấy làm lạ và bốc đồng tự hỏi “Mình tài vậy sao ta?“. Nhưng khi đem những suy nghĩ, những thắc mắc này nói với bác ba Đặng hay ông thượng tọa, ông linh mục thì cả ba cùng có chung một nhận xét như thế này “Khả năng của tôi thì có đấy, nhưng sử dụng khá tùy tiện. Nhưng sở dĩ tôi đạt được kết quả tốt như thế là tại vì tôi không gặp một sức cản chủ yếu. Sức cản đó được gọi là Lợi Ích Cá Nhân“. Tôi suy nghĩ khá lâu về những nhận xét này. Và tôi thấy, có những việc tôi làm bị thất bại, nhưng từ phía ban lãnh đạo trại đều không có ý kiến gì, cả những anh em trại viên. Khi mà tôi tỏ rõ một thái độ giận dữ vì một điều gì đó thì không ai cho rằng tôi hách dịch, ỷ thế, ỷ thần. Từ những tình cảm đó, họ thường thì làm đúng ý tôi, khi tôi giao việc. Và khi tôi bí một việc gì thì có ngay người gỡ dùm. Còn quyền lợi cụ thể dành cho tôi ư? Có đấy. Tôi cố gắng làm việc vì một lợi ích cá nhân tức thì, có khác chăng là cái lợi ích mà tôi nhận được nó khác hơn mọi người. Này nhé. Một cơn mệt lả người vì làm xong một việc gì đó, rồi tắm rửa sạch sẽ, quấn một điếu thuốc rê, nằm yên lắng nghe thân thể mình thư giãn. Hay một ngụm trà rồi âm thầm khoan khoái khi thấy một việc gay go được giải quyết xong, làm cho đầu óc nhẹ tênh. Ôi đầu óc nhẹ tênh. Cái cảm giác này thật tuyệt diệu, trên tất cả mọi tuyệt diệu mà khả năng con người có thể cảm nhận.
Trong cái môi trường đặc quánh này thì những việc mệt nhọc hay gay go hình như không thiếu. Càng gay go, mệt nhọc mà khi sự việc giải quyết xong, thì sự khoan khoái càng sâu. Và tôi mặc tình tận hưởng, hưởng thụ một cách ích kỷ, không chia sẻ cùng ai. Điều này không giấu được bác sĩ Lê. Nhưng anh ấy lại có một nhận xét hoàn toàn khác. Anh cho rằng tôi có một sự lựa chọn xác đáng cho mình, những việc làm của tôi là chỉ để phục vụ cho lợi ích của chính bản thân tôi. Còn ông thượng tọa. Những lúc thấy tôi đi đâu về tắm táp xong, rồi pha một ấm trà, rồi hớp một ngụm và phì phèo điếu thuốc rê, thỉnh thoảng nhếch mép cười. Một đôi khi ông ấy bảo:
- Ngài tổng đại diện đang thư giản.
Khi thì ông nói với ai đó hay chỉ là một cái nhìn đầy ý nhị. Nhưng ông đâu có biết trong những lần như thế thì hơn phân nữa là tôi đang nhớ Út Giữa và những đứa con tôi. Cũng có thể đó cũng là một cách thư giản. Có lẽ ông Thượng Tọa và bác sĩ Lê nói đúng. Nhưng ông linh mục thì sao? Ông ấy bảo đó là bản chất của tôi. Còn bác ba Đặng thì bảo là ba tôi khéo dạy. Cái này thì có lẽ là bác ba Đặng lầm. Ba tôi thì luôn luôn bảo là “Nói mày như nước đổ lá môn”. Tôi chẳng hiểu gì cả. Chỉ có mỗi một việc như thế mà mỗi người lại có một cách nhìn nhận khác nhau. Rất khác nhau. Nhưng gì thì gì, cứ một đôi ngày tôi lại có một lúc đầu óc nhẹ tênh.
Tôi chuẩn bị vào rừng thì một cán bộ văn phòng gọi:
- Anh Hiền. Lên gặp lãnh đạo.
Tôi quày quả trở lại và lên văn phòng ông Mười Can. Ông chỉ ghế bảo tôi ngồi. Ông chăm chăm nhìn tôi một lát rồi cúi xuống nhìn tôi qua gọng kính:
- Anh biết tôi gọi anh vì việc gì không?
- Thưa không.
- Có người tố cáo anh âm mưu vượt trại.
Tôi nhìn ông không nói gì. Tôi biết nếu đó là sự thật thì vấn đề sẽ khác hơn rất nhiều. Ông tiếp:
- Anh không có ý kiến gì à?
- Thưa không ạ.
- Không giải bày gì hết?
- Thưa không.
- Anh tự tin đến thế?
Tôi im lặng. Ông nói giọng cười cười:
- Tôi biết anh không làm chuyện đó. Nếu anh đi thì đã đi từ lâu. Tôi gọi anh để hỏi một việc khác.
- Thưa. Ông mười cứ hỏi.
Ông lại nhìn tôi cười cười:
- Mấy con chim con biết bay chưa?
Tôi chưng hửng nhìn ông mà không biết trả lời sao. Ông lại tiếp:
- Bộ chẳng có việc gì cho anh làm hay sao mà ngày nào cũng lội hàng chục cây số mang gạo cho chim?
Thì ra là vậy. Số là trong cái chòi canh lửa cháy rừng mà tôi thường hay trèo lên để ngắm những vạt rừng tràm xanh mút mắt có một ổ chim ở một cành cây thấp hơn cái chòi chừng ba bốn mét. Tôi nằm sấp và nhìn xuống xem chúng, từ lúc cái ổ chim đã có bốn cái trứng và sau đó là hai con chim cha mẹ và bốn chú chim con. Phải nằm im mấy tiếng đồng hồ tôi mới biết mồi của chúng là gì. Thế là hơn một tuần ngày nào tôi cũng mang một nắm gạo cho chúng, đôi khi là mấy con cào cào non. Tất nhiên là phải đặt ở một nơi thuận tiện nhất mà cũng không gây cho chúng một sự nghi ngờ nào. Nhìn chúng là một niềm vui, thấy những nắm gạo hay mấy con cào cào hôm trước của mình hết sạch lại là một niềm vui khác lớn hơn. Mọi việc thấu tai ông Mười Can. Tôi ngườn ngượng nhìn ông và trả lời:
- Thưa ông Mười. Nhìn thấy chúng cũng hay hay.
Ông cười ngất:
- Có người báo cáo anh mang gạo đi dấu để làm lương thực vượt trại. Tôi bán tín bán nghi, cho cán bộ theo dõi. Thì ra anh nuôi chim. Sao không hốt nguyên ổ về trại, tha hồ mà nuôi. Tội gì lội đi lội về mỗi ngày hàng hai mươi cây số. Bây giờ chúng bao lớn rồi.
- Biết bay chập choạng rồi. Thưa ông mười.
Ông cười ngất:
- Rồi. Bay tuốt rồi. Thế là xong.
- Tôi cũng mong nó như thế.
Ông tròn mắt nhìn tôi:
- Cái gì? Vậy anh nuôi nó làm chi?
Tôi nín thinh. Ông như nhớ ra điều gì. Rồi ông cười ngất:
- Thôi. Tôi hiểu rồi. Một lần anh suýt đánh lộn với anh Đăng vì anh ta bắt một cặp cào cào đang mắc lẹo để câu cá. Chà. Cái này ngộ nghe. Mà nghĩ cũng hay. Tôi mà đang rù rì với bả mà ai lại phá đám là giận cành hông. Huống hồ chi chơi kiểu đó. Thôi bữa nay biết mày thêm một chuyện nữa. Mày miệng mồm thì dữ dội mà coi bộ hơi… hiền. Thôi đi cho chim ăn đi.
Tôi chưng hửng với cái tiếng gọi tôi bằng mày của ông. Tôi chống chế lấy lệ:
- Bữa nay chắc chúng bay mất rồi.
Ông đứng dậy và tôi cũng đứng dậy. Tôi nhìn ra cửa. Trời tháng mười trong suốt.
Một ngày chủ nhật tương đối rỗi rảnh, ở đây điều này rất ít oi, bác sĩ Lê rủ bác ba Đặng và tôi lên trạm xá ăn cháo cá. Phải nói là ông bác sĩ này nấu ăn thuộc loại có hạng. Lúc này, gió chướng về, lúa đang cong trái me nên cá mắm, chim chóc, lươn, rắn ê hề. Một nồi cháo cá rô phi, không phải loại nuôi trong ao mà lại loại thả ngoài đồng, mà cháo lại được nêm bằng con trích cồ băm nhuyển thì quả tình chưa có một đầu bếp nào dám nghĩ ra. Khi nồi cháo bốc khói thơm phức được dọn ra, kèm theo một dĩa rau đắng xanh mượt mà, cộng thêm những cọng hành cũng mượt xanh không kém. Không hiểu ông tìm đâu ra hơn một xị Rémy Martin. Thực ra cả ba mà làm bao nhiêu đây thì chẳng thấm vào đâu. Nhưng lâu rồi không uống, mà cưa hết là tiêu. Nhất là khi có một cán bộ hay ông mười Can gọi là lãnh đủ, nhất là tôi. Thôi thì, tôi chỉ một cốc gọi là khuây niềm nhung nhớ. Còn lại thì bác ba Đặng và bác sĩ Lê cưa hết. Cháo thật ngon, thêm một ly dẫn dắt. Rồi từ một người chỉ săm soi tỉ mẩn trên thân thể con người, chứ chưa bao giờ quan tâm đến chuyện tâm hồn người. Nay bác sĩ Lê, căn cứ trên những gì bác ba Đặng biết về tôi, ông truy tôi một cách kỹ lưỡng về những tiền sự ái tình. Phải nói là ông ta tinh thật. Chỉ cần vặn vài câu là tôi thật thà khai báo, làm ngay một tờ kiểm điểm thành tích trăng hoa. Thế là ông đi đến một kết luận làm cho tôi muốn chóng mặt và bác ba Đặng chưng hửng:
- Có câu nói thế này “ Đàn ông chết vì con mắt, đàn bà chết vì lỗ tai”. Thế nên, dù không đẹp trai, nhưng chú vẫn cuốn người ta vào bằng lời nói của mình, cộng thêm thái độ cư xử đúng mực. Và làm cho chú kẹt. Tiếp theo là chú phạm một sai lầm mà rất nhiều tên rất muốn, nhưng không làm được, làm chú chú kẹt thêm.
- Sai lầm gì mà ghê gớm thế bác sĩ ?
- Hầu hết mấy thằng đàn ông bọn mình khi xong việc là… ngủ hoặc hút một điếu thuốc rồi… cũng ngủ, hôm nào sung độ thì có đợt hai. Tôi cũng thế, nên đôi khi cũng bị bà xã nói nửa đùa nửa thật “Anh y như con nít, bú xong là ngủ”. Dù là một người biết việc, nhưng tôi không thực hiện được nhiều nhặng gì. Nếu như những gì chú nói là chú sau khi xong việc rồi lại còn tiếp tục táy máy vào những nơi trọng điểm. Việc làm đó của chú trở thành một kẻ đa đoan. Ai lọt vào tay chú thì dù thế nào cũng nhớ chú hoài.
- Nghe bác sĩ nói mà tôi muốn chết giấc. Nhưng quả tình thì y như vậy. Tôi nghĩ, xong rồi mà lăn ra ngủ xem ra kỳ kỳ, nên ráng làm một vài cử chỉ âu yếm cho phải đạo ân tình. Tôi nghĩ, ai cũng thế. Chẳng lẽ tôi làm vậy lại chẳng giống ai?
- Không phải chú chẳng giống ai, mà rất ít ai giống chú. Bà xã tôi nghe vợ chú than phiền là chú có quá nhiều cố nhân. Bà ấy tỏ vẻ ngạc nhiên và không tin, vì bà ấy xem chú chỉ là một tay có phong độ đạt mức trung bình thấp. Nhưng qua những gì chú kể thì tôi tin. Tất nhiên. Tôi phải lọc lại. Thường thường bọn đàn ông tụi mình khi nói đến ái tình thường hay thêm thắt một vài yếu tố xạo.
Bác ba Đặng cười ha hả, chen vào:
- Thằng coi vậy mà giỏi. Tao mà xong là… ngủ. Lúc còn trai sức khỏe nhổ núi bạt sông, ngủ lại càng mạnh hơn. Sức ở đâu mà táy máy tiếp. Chỉ có nước ngủ xong một giấc hay kiếm cái gì ăn, rồi muốn gì thì muốn.
Bác sĩ Lê, nói tiếp:
- Bác ba nói đúng. Chỉ có chú lầm. Đây không phải là vấn đề đạo đức hay thái độ bất lịch sự gì. Đây là chỉ phản ứng của sinh lý. Khi xong, người đàn bà vẫn còn khá nhiều dư vị của cảm xúc. Bởi vì chẳng những họ không mất gì mà còn nhận được không ít. Nhưng người đàn ông thì kể như xong. Sức càng khỏe, mất càng nhiều. Cần phải ngủ để khôi phục lại số lượng calo đã mất. Thế nên, về mặt tâm lý thì hành động của chú đối với người bạn tình là số một. Chú đã làm cho họ nghĩ, dưới mắt chú họ là một người đáng yêu, một người tuyệt vời. Thế nên chú mới trân trọng họ như thế. Họ đạt được cùng một lúc hai sự thỏa mãn; thỏa mãn về cảm xúc, thỏa mãn về tâm lý. Họ chộp lấy chú theo kiểu ăn may mà trúng đậm. Chưa kể chú còn một cái sai lầm thứ ba.
- Ở đâu mà nhiều sai lầm thế?
- Đừng lo. Chú thử nghĩ, có bao nhiêu người đàn bà mà chú chủ động kéo vào tay mình. Được mấy người? Hai người mà không ra làm sao cả. Một phần vì hoàn cảnh và phần khác là vì tính quân tử Tàu của chú. Cái này thì được đây. Còn lại thì chú tự chui vào tròng hay đúng hơn là chú bị dụ khị. Hầu hết những người dụ khị chú, họ đều đã biết mùi mẻ đàn ông là gì? Lúc cực ăn, họ chộp lấy chú. Thế mà, khi gặp được một người có cái kiểu cách như vậy thì tội gì mà họ buông. Ngoại trừ khi giữ không được thì đành phải nhớ hoài. Hễ có dịp là họ phiêu lưu tiếp. Đó là ưu điểm và cũng là nhược điểm lớn nhất của chú. Từ đây tới chết, chú đừng có mà đẩy đưa nữa. Chú làm cho người ta không thể sống được với một người đàn ông khác với cái hình ảnh và kiểu cách yêu đương của chú trong đầu. Chú nghĩ lại xem những người đã từng qua đêm với chú, quảng đời sau của họ thế nào?
- Trời đất. Dữ dội đến thế sao? Bác sĩ.
- Chớ sao? Ngoài ra, chú không biết tránh né và luôn trân trọng những người đã từng qua đêm với chú. Dù họ là ai, tư cách xã hội, hành vi đạo đức họ như thế nào? Không chừng chú còn làm thơ tặng họ nữa chớ chẳng chơi. Theo thời gian, chú có thể không còn nhớ gì đến họ. Nhưng chưa ai cho chú là họ Sở cả. Những gì tôi nói. Chú nên nhớ tôi là một bác sĩ, dù không chuyên môn nhưng tôi vẫn biết ít nhiều về tâm lý tình dục mà. Đấy là sai lầm thứ ba đấy. Thôi. Bao nhiêu đó đủ cho chú bạc tóc rồi. Lưu ý chú điều này. Tình dục, nhất là tình dục của loài người, không phải chỉ thuần là quán tính, mà là quán tính có ý thức. Không thể lơ mơ được. Ngoài ra còn có một lần chú có nói với tôi một điều làm tôi vô cùng tâm đắc. Chú gọi bộ phận sinh dục nữ là Cổng Truyền Sinh. Thực tình chưa có một nhà ngôn ngữ học nào có một sáng kiến tuyệt vời bằng chú. Có lẽ chú đã nắm được ý của Hoá Công.
Bác ba Đặng lại cười lớn hơn:
- Hay. Thằng này giỏi thật. Cổng Truyền Sinh. Ôi cái từ này tao phải nói với ông Lê Ngọc Trụ thôi.
Tôi ngập ngọng:
- Bác ba ở đó mà tin ông Lê. Ông ấy đang gài độ cháu đấy.
- Thôi Hiền ơi. Cãi ai thì mày ăn, chớ cãi với bác sĩ chuyện này là mày thua đứt. Bác sĩ nói đúng. Thằng này chưa bao giờ biết cãi lộn với đàn bà con gái. Nếu có giận quá thì nghiến răng một cái rồi nín thinh. Còn vụ làm thơ tặng hả. Có hàng khối. Tôi đọc cho bác sĩ nghe một bài.
Rồi ông ề à:
Vẫn da thịt ấy ngát hương,
Vẫn hơi thở đẫm thèm thuồng ái ân.
Hỏi đâu là nụ ân cần,
Để cho không phải ngại ngần khi hôn.
Hỏi đâu là chốn yêu thương,
Để cho giấc mộng được nương tựa vào.
Vướng chân vào chốn ba đào,
Chỉ mong đôi phút chiều nhau thật lòng
Dám đâu gần sợi tơ hồng,
Chỉ xin một chút tơ lòng vương vương.
Tôi chới với. Ôi bài thơ này, hình như tôi làm lâu lắm rồi và quăng ở đâu đó, mà tại sao bác ba Đặng lại thuộc nhỉ? Khi mà chính tôi chỉ còn nhớ lỏm bỏm. Rồi bác sĩ Lê, những điều ông nói đều dựa trên cơ sở khoa học rõ ràng. Ông đã phân tích những hành vi mang đầy tính gây hệ lụy của tôi. Trong khi xu hướng chung là xong rồi thì… ngủ. Hổng lẽ tôi lại ngoại lệ. Một ngoại lệ kỳ cục chăng?
- Như vậy tôi là tên Don Juan có nghề. Phải không bác sĩ?
Bác sĩ Lê cười cười:
- Không phải vậy. Chú có một ý chí mạnh về việc này. Nên về mặt tâm lý, nó đủ sức lấn át sự mệt mỏi sinh lý của chú. Chú có mệt đấy, thậm chí rất mệt. Như chú đã nói, ráng chiều chuộng họ năm ba phút bằng những lời nói êm đềm, những vuốt ve mơn trớn cho phải đạo ân tình. Dần dà thành thói quen. Còn Don Juan ư? Hình như sách vở chỉ ghi những thái độ lịch lãm của tay này trong quá trình chinh phục đối tượng. Nhưng chưa thấy nói tí gì về thái độ của anh ta sau khi chăn gối. Đã thế, còn bài thơ đó, chú nghĩ xem? Liệu có chết người không? Tôi mà làm đĩ, gặp phải một khách làng chơi như chú thì có nước đạp bàn thờ Bạch Mi theo chú. Chú làm cách nào mà đi được vào nơi sâu kín nhất trong tâm hồn họ, nếu như chú chỉ là một khách làng chơi chỉ biết có mình. Mà thôi, nói cụ thể nè. Cách đây khá lâu, tôi đi ngang phòng Quản giáo thấy chú có một cú thăm nuôi khá đặc biệt. Người thăm nuôi chú có một cặp mắt rất đáng tiền. Ở đó chứa đầy nhóc hình ảnh của chú. Chú làm gì mà được như thế?
Tôi ớ người:
- Hôm đó ông thấy?
- Thấy chớ sao không? Nhưng chuyện của chú mà. Dính gì đến tôi nào ?
Tôi quay sang bác Ba Đặng:
- Bài thơ này bác ba lấy ở đâu? Thưa bác.
- Thằng cha tư Qưới đọc cho tao nghe. Tao hỏi của ai? Lão nói là của mày. Thế là tao bảo mấy đứa nhỏ chép lại.
Tôi nhớ ngay và lại phải phân bua:
- Thưa bác ba. Thực ra thì bài thơ này cháu làm tại khách sạn Hải Thiên, mà không hiểu cô bé có biết hay không? Cháu cũng không rõ.
Ôi. Những bài thơ một thời tôi làm xong rồi quăng tứ lung tung. Rồi tôi kể cho bác ba và bác sĩ Lê nghe những sự việc xảy ra ngày hôm đó. Nghe xong bác sĩ Lê tiếp:
- Đấy, chỉ mới là lời ca tiếng hát thôi. Chú chưa chung đụng mà đã như thế. Chú không trân trọng họ, làm sao chú viết được. Bây giờ thì chú yên tâm. Chú là người đam mê chớ không trụy lạc.
Bác ba Đặng đồng ý:
- Bác sĩ nói đúng. Thằng này không thứ gì không chơi, chơi mê mệt, chơi gịt đầu không ra. Nhưng chơi vì khoái, vì vui. Chưa chán nhưng hốt nhiên dừng lại. Chỉ có thế.
Bác sĩ Lê lại tiếp:
- Trở lại việc táy máy của chú. Tôi nói cho chú nghe điều này. Quan hệ vợ chồng được tiếng Việt hình dung một cách khá cụ thể. Chú biết tại sao khi tuổi đôi mươi, một cặp vợ chồng đi đâu đó và gặp một ai thì họ hỏi “Ồ hai vợ chồng đi đâu vậy” hoặc “hai vợ chồng mày lúc này ra sao rồi”. Nhưng khi vào tuổi bốn năm mươi người ta thay đổ cách xưng hô từ “Hai Vợ Chồng” thành “ Hai Ông Bà”. Đến lúc sáu ngoài trở lên người ta lại đổi nữa“ Hai Cụ”.
Tôi lại láu táu:
- Tùy theo tuổi tác.
- Có thể vậy. Nhưng nói theo cái kiểu tiếu lâm thì đúng hơn. Hai Vợ Chồng có nghĩa là hai vợ mới đủ cho một chồng. Lớn một chút thì hai ông mới đủ cho một bà. Cuối cùng thì hai Cụ nghĩa là gì thì chú biết rồi.
Bác ba và tôi có một trận cười no nê vì cái kiểu giải thích quái chiêu này.
Rồi với tư cách và những gì một bác sĩ hiểu biết. Bác sĩ Lê giải thích cặn kẽ cho tôi. Lại có bác ba đầy kinh nghiệm chiến trường phụ họa, bỗ sung. Bù trừ lại tôi phải thực thà kể cho ông nghe những hành vi của mình như thế nào khi giao tiếp, khi chăn gối với bạn tình. Ông xem đó như là một nghiên cứu lâm sàng(?). May mà bác sĩ Lê gầy độ rất tế nhị, khi không có mặt hai bậc tu hành.
Chấm dứt sòng cháo cá. Tôi về trại của mình, nấu một ấm trà mang về chỗ, rồi vừa uống trà vừa ngẫm nghĩ những gì bác sĩ Lê đã nói. Thực tình, gần sát tuổi bốn mươi, hôm nay tôi mới hiểu tương đối tinh tươm về một hành vi rất cần thiết của một con người. Một hành vi mà từ trước đến giờ tôi và rất, rất nhiều người đã có quan niệm là “bất giáo tự nhiên thông“. Rồi cứ thế mạnh ai nấy thông theo cái kiểu của mình và giấu biệt không nói với ai. Nếu như có nói thì thêm mắm, dặm muối hoặc cắt đầu, bỏ đuôi. Chẳng ra cái gì cả. Rốt cục thì thuộc dạng ăn tục nói phét. Thế nên, bây giờ rối nùi một cục. Vợ tôi, ngoài những gì cô ấy biểu lộ trong suốt bao nhiêu năm chung sống, cô ấy còn ẩn dấu lại điều gì. Không riêng gì tôi, mà những người chung quanh cứ thắc mắc là tại sao chúng tôi lại sống với nhau khá thuận hòa như thế. Khi mà tình không, con cái cũng không. Còn Út Giữa, ngoài hai đứa con, ngoài cái ơn cứu giúp còn có một thứ khác nữa làm cho Út Giữa không bao giờ để cho tôi chạy thoát. Cô ấy đã làm mọi cách, bằng mọi giá để có được, rồi giữ rịt một thằng đàn ông không đáng giá một đồng xu. Ôi. Bác sĩ Lê nghĩ gì mà đi nói với tôi những điều này. Chẳng lẽ tình chồng vợ vững bền nhờ táy máy chân tay. Thôi. Chừng nào về rồi tính. Không biết lúc đó, khi hoàn thành nhiệm vụ có còn đủ sức táy máy tay chân không nhỉ? Bốn mươi rồi chớ ít ỏi gì? Đã đến lúc người ta gọi là “Hai Ông Bà” rồi. Bổng dưng tôi giật mình khi nhớ những ngày ở Đà Lạt mà cuối cùng là một bức thư giả biệt. Bây giờ… thì ra sao? Bức thư giờ đã không còn, nhưng nhớ đến nội dung là… muốn chết.
Những ngày thu hoạch đang ở giai đoạn kết thúc. Lúa ngoài đồng đã cắt, gặt xong. Giữa lúc bộn bề lúa thóc, rồi sau đó sẽ là chuẩn bị ăn Tết, rồi tiển người về, đón kẻ khác vào. Tôi đang quay như đèn cù thì Út Giữa và hai đứa bé đến thăm tôi. Nhà thăm nuôi vắng tanh. Anh cán bộ Quản Giáo sau khi báo và cho phép tôi gặp thì bỏ đi mất. Nhìn nét mặt rạng rỡ của họ tôi yên lòng. Thằng Hoà lên lớp chín, học kỳ một được điểm trung bình cao nhất khối. Thằng Hậu lớp ba, học kỳ một đạt trong mười hạng đầu của cả khối. Con thì thế ấy. Cô ấy, à không, vợ thì đẹp ra và trông trẻ hơn cái tuổi ba mươi lăm. Đang vui vẻ không hiểu sao tôi lại nói một câu lảng nhách:
- Bộ tất cả mọi việc mình làm đều dành cho anh hết sao? Bỏ anh phức cho rồi. Để sức mà nuôi con.
Cô ấy tròn mắt nhìn tôi :
- Em hỏi thiệt nghe, mình có gan không ?
- Chi vậy ?
- Mình nhắc lại câu đó đi. Em quậy cho mình coi.
- Hử. Quậy ? Mấy lần mình đòi quậy với anh rồi?
- Chớ phải làm sao? Thế mấy lần mình bảo em bỏ mình rồi. Chồng em, em thương muốn chết mà mình kêu bỏ. Em không vì mình thì vì ai? Em biết mà, mình sẽ rất khó xử khi được về. Nhưng mình cứ yên tâm. Mình tính sao cũng được, em chịu hết. Bởi vì chỉ có một mình mình là thương em. Mình bỏ em cũng được, nhưng cái việc em bỏ mình là không bao giờ. Mà đã không bỏ thì phải lo. Còn mình có lo cho mẹ con em hay không thì mặc kệ mình. Em không cần biết tới.
Chúng tôi nhìn nhau nín lặng. Thằng Hoà có vẻ hiểu chuyện nên nhìn ra chỗ khác không nói gì. Thằng Hậu thì hết nhìn ba rồi nhìn má nó :
- Ba má nói chuyện gì đâu. Ba về không ở nhà thì ở đâu?
Tôi ôm con vàng lòng vỗ về :
- Ba má nói giỡn chơi mà. Nè má con sắm đồ tết cho hai con chưa ?
- Mỗi đứa có một bộ hà. Mà nói để tiền mua thêm ruộng.
Tôi nhìn lên. Cô ấy tươi cười :
- Em tính mua thêm mười công đất kế bên mà mình thấy đó. Bấy lâu nay người ta bỏ hoang. Mười công mà có năm chỉ vàng. Em tính tốn thêm một ít nữa để cải tạo lại. Làm y hệt như mình đã làm vậy đó. Mần chỉ một năm nó trở thành đất thuộc. Lúc đó thằng Hòa, thằng Hậu có đi học đâu đó cũng có cái mà lo cho con. Mình thấy vậy được không ? Nếu mình chịu. Em về, em mua liền. Em có được hơn bốn trăm giạ lúa, em cho vay, tới mùa được hơn năm trăm, em gom hết là dư sức.
- Trời đất. Tôi hốt hoảng. Mình cho vay lấy lãi à.
- Ừ. Mà sao vậy mình?
- Thôi đi. Tôi nạt ngang. Làm việc đó anh thấy không ổn. Nhưng lỡ rồi, mình tìm cách nào đó khéo léo lấy lại vốn. Nhưng nhớ đừng để mất lòng ai. Từ đây về sau, thấy ai thật sự túng rối, mình cho mượn, xem như là mình chia sẻ những khó khăn cùng người khác. Còn lại thì cứ giữ lấy khi nào thấy lúa lên giá thì bán. Rồi giữ tiền, khi tới mùa chọn lúa tốt, sạch, mua lại với giá cao hơn người ta ít đỉnh là được. Nghe lời anh, đừng cho vay nữa, phiền phức, với lại mình đơn chiếc quá. Chưa kể là vì lý do nào đó không lấy được rồi xót của, nói nặng, nói nhẹ người ta không tốt. Làm như vậy thất đức lắm. Mình nghe lời anh đi.
- Cái gì mà mình lo dữ vậy. Người ta cũng làm thế, chớ đâu phải một mình em.
- Ai làm thì kệ người ta, mình thì không được. Phải làm theo lời anh. Còn việc mua đất thì tùy, nhưng anh thấy như vậy thì cực cho mình. Nhưng nhớ là dẹp cái việc cho vay. Tôi nhắc lại lần nữa.
Cô ấy tròn mắt nhìn tôi:
- Rồi, mình bảo thì em nghe. Đừng có giận nữa. Còn việc sang đất thì mình khỏi lo, em mướn người ta làm chớ em có làm đâu mà mình lo. Cái tiệm của em lúc này bự lắm à nghen, em bán còn không hở tay. Em tính nếu kha khá hơn chút nữa, vài năm nữa em cất nhà. Mình về mình có nhà ở.
Nghe cô ấy hoạch định tương lai. Trong lòng tôi chết đứng :
- Thôi mẹ con mình đến thăm anh một lát được rồi. Gần tết về lo mua bán và chuẩn bị cho các con ăn tết. Đừng có gởi tiền cho anh, ở đây anh đâu có xài gì đâu. Em để lại mua ít đỉnh quà cáp cho ba má và bác năm. Cho anh gởi lời thăm tất cả mọi người. Cán bộ cho thăm có nửa giờ.
Không đợi cô ấy trả lời. Tôi cúi xuống hôn hai con. Rồi ôm cô ấy vào lòng, vuốt ve lên mái tóc như là gởi đến cho cô ấy một lời xin lỗi. Ba mẹ con bịn rịn ra về sau khi dặn dò đủ thứ. Tôi nhìn theo bóng ba mẹ con xuống xuồng. Và chiếc xuồng ấy chở theo những yêu thương ngang trái của tôi khuất dần sau rặng bạch đàn. Bao nhiêu năm rồi, tôi không biết bên ngoài, cuộc sống thay đổi ra sao. Nhưng quả tình cái việc cho vay bạc lúa thì tôi cảm thấy có điều gì không ổn. Vái trời cho cô ấy nghe lời tôi.
Sắp tết. Đang có những bàn tán râm ran về đợt trả tự do này. Tất cả đều có một hy vọng. Một hy vọng mãnh liệt. Sự mãnh liệt đó chứng minh cho chính bản thân người mang nó hiểu rằng; tự do nó quý giá ra sao? Chỉ có điều là khi đã chạm được nó rồi thì sự cảm nhận nó, sử dụng nó như thế nào lại là một việc mà tự thân của từng cá nhân cần phải biết. Như thường lệ, buổi tối trong trại bao giờ cũng có những sòng trà, domino, tiến lên, cờ tướng… Cuộc chơi bao giờ cũng trong sáng như chính bản thân của trò chơi. Tôi đang tham dự một sòng trà vừa tào lao xích đế, vừa bàn tán chuyện ăn tết và cả những hoạch định cho tương lai. Khi thấy tôi không đá động gì về việc được trả tự do, một ai đó hỏi:
- Ông Hiền. Tết này về không? Nếu về thì ông làm gì?
- Ông điên. Chuyện này chỉ có lên gặp Giám Đốc sở Công An mà hỏi. Còn làm gì hả? Về đi rồi tính.
Ông Thượng Tọa mỉm cười nhìn tôi :
- Anh nhận biết vị trí mình khá rõ đấy.
- Phải vậy mới được thầy ơi. Để những tạp niệm trong lòng khó mà sống cho an tĩnh.
Ông tròn mắt nhìn tôi, cười và tiếp:
- Anh cũng dữ thiệt ha. Hôm nay dám bỏ giò qua đất Phật.
- Thưa thầy có bỏ gì đâu? Hằng Ha Sa Số Phật. Có nơi nào là riêng của tôi đâu mà bỏ qua, bỏ lại. Tôi cũng không vừa, vận dụng ngay một câu chuyện trong Góp Nhặt Cát Đá[vi] để trả lời.
Ông nhìn tôi im lặng. Những người ngồi chung quanh đều hiểu cả hai muốn nói gì và không hiểu sao ai cũng đưa tay với lấy ly trà của mình. Tưởng đâu có ai đó mở lời xoay qua chuyện khác. Ai dè ông linh mục lại khơi mào:
- Anh Hiền này. Anh đã cho tôi biết ý kiến về vai trò của tôn giáo? Hôm nay, anh cho tôi biết anh nghĩ gì về triết học.
Nếu câu hỏi này do ai đó hỏi ông thì tôi không ngạc nhiên. Nhưng tôi lại là người bị cật vấn thì rõ ràng là ông muốn giương một cái bẫy, dù chỉ là một cái bẫy êm ái thôi, mà một tên tếu táo như tôi thì việc vướng vào là lẽ đương nhiên. Với lại những cái bẫy như thế này thì tôi rất thích thú chui vào. Và đây là lần thứ hai ông hỏi tôi về một đề tài hóc búa. Thế là, tôi thăm dò như chú chuột nhắc :
- Thưa bố. Quả tình tôi không đủ tư cách và khả năng để trả lời câu hỏi này một cách rành rọt. Nhưng tôi biết bố muốn đùa. Tôi không tham gia thì mất vui.
Ông nheo mắt nhìn tôi :
- Thế thì xin mời.
- Tôi xin trả lời bố. Tôi bít chịt về chuyện này, dù cũng đã từng học chút đỉnh, đã từng đọc khá nhiều và nghe thiên hạ cãi nhau ỏm tỏi. Nên chỉ có thể trả lời bố theo cái kiểu ba trợn của tôi. Đối với tôi. Triết học là một môn học mà người tạo ra, nguời dạy, người học nó muốn hiểu sao cũng được. Từ khi có ngôn ngữ thì người ta bắt đầu chế tạo ra triết học, ban đầu thì thô sơ, rồi dần dần nó trở nên tinh vi, nhất là sau khi chữ viết ra đời. Hiện tại thì là tất cả kiến thức của nhân loại về tất cả mọi vấn đề, được các triết gia chấp nhận, phản đối, thêm vào, bớt ra, trộn lẫn của người này với người khác… và diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ phức tạp, đa nghĩa mà ai hiểu sao cũng được, thậm chí không có nghĩa nào cả. Cũng ở đó người tha hồ mà sáng tạo ra những từ ngữ mang tính trừu tượng. Nó không giải quyết được bất cứ điều gì. Ngoại trừ một việc, là làm cho ngôn ngữ phong phú vượt quá mức cần thiết. Cuối cùng không ai hiểu gì cả. Nhưng có một điều cần phải nói rõ ràng là những người đó, hầu hết đều có một tấm lòng rất dễ thương. Nhưng dù gì thì cuộc đời vẫn thế. Muôn mặt và tốt xấu đủ đầy.
- Kể cả khoa học
- Đó là một trường hợp duy nhất được loại trừ, ít nhất cho tới thời điểm này. Nếu như nó không bị quét lên một lớp sơn triết học.
- Anh có tin rằng mình đúng?
- Tin.
- Anh chứng minh?
- Tôi cũng như những người đó. Tôi tin vào những gì mình nói.
- Anh có tin là cũng có ai đó nghĩ như anh?
- Cái này thì không. Bởi vì có một số người rất lớn chẳng suy nghĩ gì về điều này cả. Những người này chỉ nghĩ đến những điều cụ thể trước mắt như: Làm sao để có gì đó mà ăn, khi đau uống thuốc gì để hết bệnh… cùng lắm là làm sao để vợ chồng mãi mãi yêu nhau. Còn những người nghĩ tới thì chẳng ai nghĩ như tôi.
- Như vậy thì anh cho các triết gia là ai?
- Là một người mơ mộng. Rất mơ mộng.
- Nghĩa là họ không thực tế xa rời cuộc sống.
- Không phải thế. Họ sống rất tích cực. Họ muốn góp tay làm cho cuộc sống tốt hơn. Nhưng rất tiếc… Như tôi đã nói. Cuộc đời thì vẫn thế. Muôn mặt và tốt xấu đủ đầy. Hạnh Phúc và Đau Khổ… Những nhà triết học thì ôm lấy cái sau để vẽ vời, để mộng mơ cái trước.
- Anh không biết tại sao à?
- Có thể tôi biết, nhưng chưa chắc đã đúng
- Anh cứ nói.
- Có lẽ là cảm nhận và hành vi của người này không bao giờ là của người khác. Hơn nữa, không phải ai cũng đủ khả năng để hiểu, cảm nhận, rồi chấp nhận hay phản bác.
- Như vậy theo anh, cuộc đời buồn quá.
- Có thể là như thế. Nên muốn vui thì đừng nghĩ tới. Mà không nghĩ tới thì sẽ nhận được cái trước và không có cái sau.
Ông nhìn tôi, lắc đầu, rồi hỏi :
- Anh là ai ?
- Thưa bố. Tôi hiểu bố muốn hỏi gì. Nhưng thôi. Đã đến lúc bố và tôi nên chấm dứt cuộc trao đổi này. Tôi biết bố muốn tìm một cái gì đó ở tôi. Bây giờ thì bố đã tìm được rồi.
- Được rồi! Được cái gì nào?
- Sự Dốt Nát và tính Ba Trợn.
Như thường lệ, ông phán:
- Anh đúng là quỷ Sa Tăng. Nhưng thôi. Rốt cuộc, đối với anh, triết học là gì?
- Triết học là sống mà đừng gây phiền phức gì cho ai để chẳng ai gây phiền phức tới mình.
Tất cả cùng cười. Cuối cùng thì ông thượng tọa nói, như nói với riêng tôi:
- Anh là một ngưới rất khá. Nhưng tốt nhất là đừng đem bản thân mình ra để thử nghiệm những hiểu biết của mình. Về mặt khoa học thì có thể. Nhưng về những mặt khác thì không nên. Bằng chứng là trong những lần nói chuyện như thế này. Chúng tôi biết. Anh không phải là người muốn phô trương. Nhưng anh lại phát biểu lung tung nhằm mục đích tìm kiếm sự sai sót của mình. Điều đó, ở đây thì được, nhưng về với cuộc sống bên ngoài là anh thua. Thua rất đậm.
Ôi. Một câu nói rất khó hiểu. Và tôi không ngờ là nó dính chặt vào tôi.
Trước tết ba ngày. Bác ba Đặng và một số anh em khác được trả tự do. Trong số đó có ông linh mục và ông thượng tọa và Chín Đỏ. Trong khi ba người trước bịn rịn chia tay tôi. Thì Chín Đỏ, dù rất mực vui mừng, nhưng ông ta cũng có đủ thời gian để ném cho tôi một cái nhìn khinh khỉnh, và sau đó là một câu móc họng;
- Chú ở lại làm ruộng và lo cho toàn trại nhé? Tôi về đây.
Nhưng niềm vui của ông ta chợt tắt ngấm khi có một cán bộ nào đó buông cho ông ta một câu :
- Nhà nước thì khoan hồng cho ông rồi, ông cứ về. Nhưng nhân dân có tha cho ông hay không? Cái này thì ông hãy liệu hồn.
Câu nói này có thể sai về mặt chính sách vì với tư cách là cán bộ của anh ấy, nhưng hoàn toàn không sai trong thực tế. Tôi cầu mong lòng oán thù của mọi người sẽ dịu đi và ông ta sống nốt phần còn lại của đời mình bên vợ con. Từ điều này, tôi nhận ra một điều khác nữa. Hình như những người lính của chế độ Sài Gòn từ đầu tới đuôi như chúng tôi không phải nhận nhiều ác cảm như các thành phần như Chín Đỏ, Tám Điểu. Thậm chí còn có thể có được một sự cảm thông nào đó. Hố cách ngăn của cuộc phân ly hơn ba mươi năm về trước đang được lấp dần.
Trước khi ra về. Ông linh mục có một thoáng buồn khi từ giả, ông bắt tay tôi thật chặt, bàn tay mềm mại và ấm như muốn truyền gởi cho tôi một sự cảm thông. Bác ba Đặng nhìn tôi rơm rớm lệ và ông nói bằng giọng nói của một người cha:
- Không còn cái thắng nào nữa nghe con. Ráng mà chạy cho nó ngay hàng thẳng lối. Thôi bác ba về đây. Con cố gắng.
Ông Thượng tọa là người sau cùng bắt tay giã từ tôi. Nhìn quanh thấy đã thưa người, ông nói:
- Anh nói đúng. Không có nhân vật nào là Thượng Đế. Đó chính là cái mà anh gọi là Tôi Không Biết. Thôi. Tôi về. Và chúng ta khó mong gì gặp lại. Nhưng tôi sẽ không quên anh. Chúc anh nhiều may mắn, và được sống trọn vẹn với niềm tin của mình. Cám ơn anh về ba tiếng Vô Ngôn Thông. Với anh đây không phải là một tông phái của Phật Giáo mà là một thái độ cần có trong cuộc sống. Anh dữ thiệt. Cứ ba trợn, ba nạc cho đã đời rồi bảo là muốn hiểu thì đừng nên nói. Vậy thì tôi gởi lại anh hai từ Quán Tưởng.
- Vâng. Xin cám ơn thầy.
- Nhưng trước khi làm việc đó anh nên bắt đầu từ ngay bây giờ việc này. Nhớ những gì tôi nói. Đừng bao giờ nói ra hay tỏ rõ một thái độ nào đó với những gì mà mình không thích.
Tôi nhìn ông, một thoáng giật mình nhưng lòng vô cùng cảm động. Ông nghĩ là tôi muốn nói gì đó bằng cái lập luận ba trợn của tôi. Nhưng thầy ơi. Tôi xin lỗi, tôi ba trợn thôi mà. Nhìn bóng ông khuất dần, tôi hiểu mình đang bắt đầu cô đơn.
Nhưng không sao? Còn một thứ. Màu Xanh. Thứ này dù bị con người tàn phá chẳng nương tay. Nhưng may mà nó có một sức sống vô cùng mãnh liệt. Dễ gì.
Ngay sau đó trại lại tiếp nhận thêm cũng ngần ấy người từ các trại tạm giam đưa xuống. Thế là ban điều hành chúng tôi đang bở hơi tai vì lo ăn Tết lại phải lo đến việc ổn định về nhân sự. Việc sắp xếp các phạm nhân mới về các đội là do cán bộ. Nhưng việc ổn định họ là do chúng tôi.
Tôi cảm thấy trống khi bác ba Đặng và hai vị tu sĩ đã về. Đây là nơi tôi có thể thư giản bằng cách lắng nghe những lời nói từ tốn và ý nhị của ba ông. Có một điều khá đặc biệt là cả ba không bao giờ thắc mắc về những lập luận hỗ lốn của tôi. Tôi đọc được cái gì, ở đâu đó, rồi khi có dịp là tôi đem phát ra những khúc biến tấu quái chiêu ấy khi thì với ông này, khi thì với ông khác. Mấy ông chăm chú nghe, chăm chú cười. Rồi cùng nhìn tôi, rồi nhìn nhau, hay nhìn đi đâu đó. Hết. Bây giờ những hoạt cảnh thú vị ấy đã chấm dứt. Chỉ còn lại bác sĩ Lê, ông ấy thì cũng như tôi, ngày ngày cố tìm đâu đó một niềm vui trong cảnh sống tội tù. Nhưng ông ấy không tìm ai khác mà lại tìm ở tôi.
Có đôi khi tôi ngẫm nghĩ và lấy làm lạ. Ông linh mục luôn luôn gài độ. Một thái độ thường ít thấy của kẻ tu hành. Ông ấy muốn gì? Có những lúc tôi ngờ ngợ. Nhưng tôi không kềm giữ mà thả giây cho cái kiến thức tuổi Hợi của tôi tha hồ chạy rong. Tôi cũng chẳng hiểu tôi muốn gì? Hay là tại vì muốn tiêu phí đi cái thời gian dư thừa, mà nếu như không có những trò ba trợn ấy thì lấy gì vui. Nhớ lại, tôi nhồn nhột sống lưng. Những hiểu biết của tôi về những điều tôi nói là con số không. Thế thì là cái gì? Nhưng dù sao thì cũng chẳng làm mất lòng ai. Cũng có đôi khi tôi tự hỏi “ Hai ông tu sĩ này có đúng là đại biểu của một tôn giáo mà họ theo hay không ?”. Hốt nhiên, tôi chợt nhớ ra là hình như lâu lắm rồi, tôi chẳng còn để vào đầu óc mình hai từ chính trị. Thôi được rồi. Đã quên thì quên luôn. Chỉ mỗi cái việc làm sống làm sao cho ngay ngắn là đủ mệt rồi. Với lại cái hình tích ốm nhom và cái đầu tí nị này mà cứ chất lên vai, cứ nhét vào đầu những cái không đâu thì có nước mà chết. Tôi nhớ có một lần, trời mưa rất lớn, gió giật ì đùng. Chúng tôi ngồi uống trà, nghe mưa gió ầm ì trong đêm. Tôi hỏi ông linh mục.
- Mưa to, gió lớn thế này mà mình ngồi uống trà một cách ấm áp và thoải mái bố có cảm giác gì không?
Ông nhìn tôi không nói. Ông thượng toạ lại hỏi:
- Câu hỏi này anh có dành cho tôi không?
- Nếu con dành cho thầy thì thầy nghĩ sao?
- Được nhưng trước khi trả lời, anh hãy nói cảm giác của mình.
- Tôi cảm thấy hạnh phúc vì tôi an toàn trước sự cuồng nộ của thiên nhiên.
- Còn gì nữa không?
- Không biết những người lỡ đường, không nhà cửa hoặc những ngôi nhà tranh tre nứa lá bị sập… họ sẽ phải làm gì? Sự khổ sở này làm sao mà tránh đây.
Hai ông nhìn nhau và nhìn tôi, rồi ông linh mục bảo:
- Anh làm chúng tôi buồn quá. Thôi ngủ hay là vô mùng rồi mỗi người tự nghĩ về những điều anh vừa nói.
Nhưng ông thượng tọa thì nói :
- Anh không phải lo. Không ai giúp được họ ngoài chính bản thân họ. Anh chỉ có thể cho họ một túi gạo, một ít tiền hay bất cứ thứ gì anh có. Nhưng cái khổ sở của họ thì tự họ phải giải quyết thôi. Cũng như anh vậy, đang ở tù mà vẫn rảnh rang lo cho người khác thì anh có khổ không?
Trời đang mưa. Có lẽ là cơn mưa cuối mùa. Tôi chìm vào giấc ngủ trong tiếng gió mưa và những lời của ông thượng tọa.
Đêm Giao Thừa, ngoài số lượng thân nhân đến thăm nuôi, còn có một số dân ở vùng chung quanh đến xem gánh hát của chúng tôi trình diễn phục vụ. Ban lãnh đạo trại có lẽ rất vui vì lúa năm nay trúng lớn, ngoài ra các khâu chăn nuôi vịt, heo… đạt kết quả khả quan. Nên toàn thể anh em trong trại được cung cấp thực phẩm ăn tết khá xôm tụ. Thời gian thăm nuôi cũng được kéo dài hơn. Riêng bộ ba chúng tôi được thưởng thêm cho 500 gram trà, một gói Héro và một ít bánh mứt. Hình như có một sự bù trừ cho công bằng, tối đêm đó nồi thịt kho gần hai ký lô của bộ ba chúng tôi và Đăng bị chó xơi sạch bách. Sáng mồng một râm ran tiếng pháo của dân cư chung quang trại vẳng vào trộn lẫn tiếng chửi thề ròn rả của thằng Đăng.
Sau tết, công việc có vẻ nhàn nhả. Mọi sinh hoạt trong trại càng lúc càng đi vào nề nếp. Sự tin cậy mà Ban Lãnh Đạo trại dành cho tôi càng lúc càng được cũng cố. Nhưng điều này lại làm cho tôi cảm thấy bất an khi tôi nhận ra có một số cán bộ chiến sĩ của trại có vẻ e ngại tôi. Tôi đã đôi lần vô tình nhìn thấy những việc làm nông nỗi của họ, đại loại như là rượu chè be bét hay các quan hệ tình cảm nhăng nhít. Tất nhiên là việc của cán bộ thì dù thế nào cũng không phải là việc của tôi. Nên những gì đã nhìn, đã thấy, tôi làm như không hay biết. Nhưng đang có những tin tức không hay về mình. Thế là tôi phải giới hạn sự đi lại và luôn luôn cẩn trọng trong mọi quan hệ tiếp xúc với các cán bộ, chiến sĩ và những người dân sống chung quanh trại. Điều này không nằm ngoài tầm nhìn của Ban Lãnh Đạo. Và chuyện đã đến. Anh Tám, Phó Trại, là một sĩ quan trẻ, tính tình nóng nảy nhưng ngay thẳng, đã kêu tôi hỏi riêng về những việc mà anh cho là tôi đã biết. Nhất là vụ gần cả ngàn giạ lúa bị mất hồi tết khi còn ở ngoài đồng. Tôi biết rõ ai làm chuyện này. Thậm chí biết từng chi tiết. Có thể đây là lần duy nhất tôi phải vận dụng tối đa sự tế nhị ít ỏi mà tôi có, để trình bày mà không ảnh hưởng tới bất cứ ai mà không phải nói dối và may mắn thay, tôi thành công. Từ đó không ai hỏi tôi về những việc như thế nữa. Nhưng khi mọi việc đã tách bạch, thì ông Mười Can lên tiếng:
- Anh quả là ghê thật. Anh trình bày y như người trong cuộc, vậy mà mới nghe qua thì họ chẳng có tội tình gì? Nhưng thôi. Tôi hiểu là ở vị trí của anh, khó lòng mà có thể nói được những điều chúng tôi cần. Không thể buộc anh làm tinh tươm một việc ngoài vị trí của anh.
Rồi giọng ông buồn buồn, ông nói như một lời tâm sự:
- Chính bản thân tôi cũng đã buộc phải làm nhiều việc ngoài tầm với của mình. Nhiều khi tôi nghĩ mà mắc cười về việc anh phát động phong trào nói chuyện không chửi thề. Tôi biết tỏng là anh muốn gì khi đề nghị việc này. Bởi vì làm sao mà cho hết được tiếng chửi thề, khi mà cuộc sống còn có quá nhiều điều kỳ cục, nhưng vẫn để cho anh làm. Nhưng anh biết không? Mấy cái thằng cha trời đánh thánh đâm, mở miệng ra là cộc cằn, tục tỉu, chửi thề bốp trời thiên, thì chỉ có trời mới họa may làm cho họ thay đổi. Nhưng coi vậy mà họ dễ hiểu, dễ biết nên dễ tránh, dễ đối phó. Nhưng mấy thằng “khẩu phật tâm xà” thì cực kỳ nguy hiểm. Nó dạ liên tục trước quyền uy, nó nói năng nhỏ nhẹ khi cần và cả khi không cần, nhưng nếu có dịp là nó lụi ngay người mà nó từng thưa dạ ấy. Đời thì như vậy đấy. Còn anh thì tôi nghĩ là không đến đỗi nào. Anh ba gai thấy mẹ. Ai đời, tù mà dám nói là không sợ chúa ngục. Ấy vậy mà tôi hỏi anh trả lời xuôi rót. Đã vậy giao việc cho anh. Cái nào làm được thì hùng hục lủi vào. Nhắm không làm được thì quyết liệt từ chối. Chẳng lo tôi giận, chẳng sợ tôi trù. Anh coi cái quyền hành của tôi không ra cái khỉ mốc gì hết. Anh nói chuyện với mọi người thì cứ thẳng thừng ra, có khác chăng thì là giọng điệu mềm mỏng một chút thôi. Nhưng gì thì gì anh vẫn là tay bán trời không mời thiên lôi. Thôi. Công việc của anh thì anh cứ làm.
Chẳng đợi tôi trả lời ông quay lưng bỏ đi. Và tôi phải nhiều đêm mất ngủ vì những lời ông nói, không phải vì sợ mà vì không hiểu tâm trạng ông ấy ra sao khi nói với tôi như vậy. Ông như thế đấy, cứ đứng nói chuyện với tôi một lát là chấm dứt bằng cái câu ấy. Nhưng rồi công việc cứ cuốn lấy và tôi cứ thế mà làm. Ba ngàn công ruộng, mười ngàn công rừng tràm và sáu trăm công rẫy mía cùng với hàng trăm thứ hằm bà rằng. Phần thưởng dành cho tôi chính là những giây phút nghỉ ngơi để nghĩ ngợi về những đổi thay ngoạn mục của thiên nhiên và kết quả của sự cần lao.
Năm đó, lần thứ hai liên tiếp 350 hecta ruộng được cấy lấp diện trước ngày 2 tháng 9. Lúa phát triển nhanh chóng và hứa hẹn một mùa bội thu. Và điều đó đã đến. Sáu mươi ngàn giạ lúa, tương đương một ngàn hai trăm tấn. Ông trưởng trại quá phấn kích nên gom lại đổ thành một đống lúa khổng lồ trên cái sân ciment mới tráng. Cứ từ ngoài đồng về là tuôn lên đấy, từ trong tết cho đến nửa tháng giêng. Đây là lần đầu tiên và cũng có thể là lần duy nhất tôi nhìn thấy một đống lúa như vậy. Nhưng có một sự cố xảy ra. Đó là đống luá ngày hôm sau thì thấp hơn ngày hôm trước, làm như có bị mất cắp, nhưng không tìm thấy một dấu vết nào. Cả ban lãnh đạo trại ngạc nhiên. Không ai có thể vào ăn cắp một lượng lúa lớn trong một khu vực như vậy. Cuối cùng, ông trưởng trại quyết định cho vào bồ sau khi làm nghĩa vụ thuế. Khi gần hết thì mọi việc rõ ràng, không ai ăn cắp cả. Số là cái sân phơi được đăt trên một chùm hố bom B52. Khi lấp lại thì do ban điều hành trước giao chỉ tiêu khá nặng mà lại thiếu kiểm tra, nên khi anh em phạm nhân mang đất vào đắp, cứ kê “cà ràng ông táo” cho mau đủ khối lượng. Sau đó khỏa mặt, lát đan cho kịp đưa vào sử dụng. Và thế là sự cố xảy ra. Tôi lại có một lần duy nhất chứng kiến một cái chảo lá sen khổng lồ. Lại phải giở đan, lấp thêm đất và cho máy cày chạy liên tục mấy ngày cho dẽ dặt, rồi lát lại đan. Qua việc này ông trưởng trại lưu ý tôi nên tính toán kỹ luỡng trước khi bắt tay thực hiện một điều gì đó, ông nói:
- Sự sơ xuất trong công việc làm cho chúng ta hao tốn của cải, công sức. Anh thấy không khi cái sân bị lún, số lúa bị hư hỏng vì lọt xuống kẻ đan hơn hai trăm giạ và lôi theo hàng lô, hàng lốc việc khác. Điều này có thể bù đắp. Sự sơ xuất trong cung cách cư xử sẽ mang đến hậu quả không lường. Mà hậu quả đó không có gì bù đắp nổi. Anh không còn trẻ nữa mà cũng chưa hẳn là già. Cuộc đời lông bông của anh thì đã quá đủ gian nan cho anh rồi đấy. Mai kia khi về nhà nên cố mà tìm cách ổn định lại. Dù sao tôi cũng đáng tuổi cha chú của anh. Có thể kiến thức và năng lực của tôi không bằng anh. Nhưng những gì tôi nói với anh là có sự cân nhắc, nếu có sai thì cũng không nhiều lắm. Tôi mong rằng anh hiểu tôi muốn gì khi nói như thế. Tôi cũng lưu ý anh điều này. Anh khá đa đoan trong cuộc sống riêng đấy. Làm một con người mà ôm đồm ba cái chuyện ấy thì rất dễ hỏng. Cũng may mà… Thôi. Bây giờ thì anh cũng ổn rồi, cứ thế mà làm.
Ông bỏ lửng câu nói. Ông đã liên hệ vụ cái sân lúa bị lún với cái cuộc đời bị lún của tôi. Tôi biết ông muốn nói gì và trên cương vị của ông thì ông có thể vặn cỗ tôi như chơi. Nhưng ông đã không làm. Tôi cũng biết điều đó nhưng mặt vẫn cứ xanh. Tâm trạng của những người làm điều gì đó không đúng lẽ thường thì luôn luôn như thế. Và tôi thì cũng không khác.
Những sự tiếp xúc của tôi và ông Mười Can. Ngoài tính chất công việc ra, còn có một sự thăm dò nhau về quan điểm chính trị. Ban đầu tôi né tránh, nhưng về lâu, về dài những tiếp xúc loáng thoáng về việc này càng lúc càng được đào sâu. Cả hai đều có sự cảm thông, không phải vì có sự tương đồng trong quan điểm mà là tương đồng trong tính cách. Gần như cả hai đều mặc nhiên chấp nhận cái tính cách chung mà cả hai cùng có. Hành xử đúng mực vị trí mà mình có. Có một lần ông hỏi tôi về thuyết “Chính Danh“ của Khổng Tử. Tôi chưng hửng nghĩ thầm “Ông ấy moi ở đâu ra cái này vậy?” À. Mà cái này thì tôi biết và tôi phải rất khó khăn khi trả lời ông. Khó không phải là tôi biết không rõ ràng, mà là ở cách trình bày. Nhưng tôi cũng trình bày xong mà không đến đỗi tồi. Cuối cùng ông bảo tôi:
- Anh có thấy đó là một quan điểm phong kiến.
- Đúng. Sự phát triển của loài người vào thời đại của Khổng Tử không thể khác hơn. Nếu thời đó mà Khổng Tử đi rao giảng xã hội chủ nghĩa hay chỉ là tư bản chủ nghĩa thôi, thì giờ này đâu có ai biết ông ấy là ông nào. Nhưng quan điểm của ông ấy không phải là cố định vị trí xã hội của một người bởi hoàn cảnh xuất thân mà là sự hành xử của con người đó trong địa vị xã hội mà họ đãm đương. Các thế lực thế tập trong xã hội quân chủ phong kiến, cả xã hội tư bản, thậm chí trong xã hội xã hội chủ nghĩa cũng có một bộ phận không nhỏ cố tình hiểu khác đi để bảo đảm một vị trí thuận lợi trong sinh hoạt xã hội cho bản thân và giòng tộc của mình. Đặc trưng nhất là quan niệm “ Con vua thì được làm vua, con lão sải chùa thì quét lá đa”. Bây giờ tôi xin phép ông trưởng trại, tôi đổi vài từ trong câu nói này của Khổng Tử về Chính Danh “Vua ra vua, quan ra quan, dân ra dân…“ sẽ đổi thành “ Lãnh đạo ra lãnh đạo, công nhân ra công nhân, công dân ra công dân…”. Ông Mười có thể thêm vào “…Giám thị ra giám thị. Phạm nhân ra phạm nhân”. Điều này xác định cung cách hành xử đúng đắn cho một vị trí mà cá nhân đó đãm đương. Nghĩa là ông vua phải có cái phong thái, đức độ, tài năng của một ông vua, ông quan cũng thế thì lúc đó người dân sẽ tự khắc sẽ hành xử đúng đắn vai trò của một công dân. Trong phạm vi giòng tộc và gia đình cũng thế. Cha mà sáng xỉn chiều say, trưa cờ bạc thì dạy con làm sao mà nên người cho được. Thuyết chính danh có mục đích tránh cái cảnh ” Thượng bất minh, hạ tắc loạn”.
Ông cả cười:
- A. Cái này coi bộ được đây? À. Mà anh nhắc tôi phải giữ đúng vai trò của một Giám Thị?
Tôi im lặng. Ông cười ha hả, dứt tràng cười ông nói :
- Thế nên người ta mới tôn Khổng Tử làVạn Thế Sư Biểu. Mà người ta đâu giải thích theo kiểu gọn hơ như anh. Nhưng coi bộ anh cũng đúng đấy.
Trong môi trường này, những quan điểm hỗ lốn về chính trị, xã hội được tuôn ra một cách thì thầm. Nhưng quyết liệt. Tôi cố đứng ngoài bằng cách ghi nhận và nếu cần thì tiếp cận. Tôi sẽ tiếp cận với những cái mà nó tác động trực tiếp vào cuộc sống của tôi và chấp nhận ở đó sự tác động tốt nhất cho tính cách mình. Nhưng có điều làm tôi cảm thấy an tâm hơn. Là những hình ảnh nhốn nháo, ba trợn ba nạc trong giới phạm nhân, mà A. Soljhenitsyne diễn tả trong Quần Đảo Gulag, xuất hiện một cách đậm nét trong thời gian ở khám lớn, thì giờ đây chỉ còn là những nét chấm phá mờ ảo. Nguyên nhân của sự nhạt phai này thì có nhiều. Nhưng tôi không cần phải tìm hiểu, bởi vì mối quan hệ xã hội luôn luôn tự điều chỉnh. Sự tác động của một cá nhân hay một tập thể vào cái quan hệ đó, thực ra không hề có, dù có rất nhiều người, rất nhiều thế lực đã, đang và sẽ còn cố sức làm như thế. Chỉ có sự chấp nhận bị tác động bởi hệ quả của cái quan hệ ấy. Một vài trường hợp cá biệt khi người ta sử dụng ý chí mình tác động vào quan hệ ấy và có hiệu quả là bởi ví ý chí đó phù hợp với hệ quả mà cái quan hệ lúc ấy nảy sinh. Từ kinh nghiệm đó đã làm cho người ta có những nhầm lẫn. Ở đây cũng thế, dù rằng chỉ là một bộ phận thu nhỏ, khắc nghiệt, nhưng cũng không ngoại lệ, nó khu biệt nhưng không tách biệt. Thế nên những trao đổi giữa ông Mười Can và tôi quả là một điều cần thiết. Cần thiết cho quan hệ công việc. Hiệu ứng xảy ra cho cá nhân ông và cá nhân tôi đi đến chỗ đồng thuận chính là sự quan hệ. Cái mà ông ấy và tôi cần là phù hợp với nhau, hỗ tương nhau. Không phải ở sự tác động từ quyền lực của ông vào tôi hay vì cái được gọi là hiểu biết của tôi.
Từ lâu, tôi đã lao đầu vào việc thực hiện kế hoạch cải thiện bữa ăn cho trại. Tất cả những bờ bao, bờ đê nội đồng. Những khoảnh đất trống không canh tác được. Tôi đã thành lập hẵn một tổ gồm hai mươi trại viên có tay nghề trồng trọt và giao cho họ nhiệm vụ. Sau những ngày lao động cật lực. Bầu, mướp, bí rợ, sả, khổ hoa, hành, rau cải… cả dưa hấu nữa, tất cả đang cho những tín hiệu rất phấn khởi. Kết quả rất tốt và tiền tôi trong tay càng lúc càng nhiều ra. Tôi đâm lo. Cuối cùng, tôi ôm một đống tiền lên gặp ông Mười Can và trình bày cho ông nghe tất cả và xin ông chỉ thị cho việc quản lý và sử dụng. Ông hỏi :
- Anh có bao nhiêu?
- Thưa ông trưởng trại. Hơn mười triệu đồng.
- Nhiều thế. Ông ngạc nhiên. Ý anh như thế nào?
- Thưa ông trưởng trại. Tôi định gởi hậu cần khi nào có việc cần xài. Tôi làm tờ trình nhận lại.
Ông tỏ vẻ đăm chiêu. Một lát sao ông bảo:
- Không được. Đây là tiền công sức của anh em lao động ngoài giờ. Tôi tính như vầy. Anh giao cho căn tin giữ. Căn tin có thể mua hàng và bán lại cho anh em trong trại. Khi nào anh cần sử dụng vào việc gì đó, đại khái như mua thuốc cấp cứu, bồi dưỡng các khâu lao động nặng thì anh rút ra khối lượng anh cần. Nhưng nhớ sổ sách phải minh bạch. Tiền này là tiền của anh em. Chúng tôi không can dự vào. Anh cũng trong số đó. Anh sử dụng như thế nào tùy anh, nhưng anh phải chịu trách nhiệm trước tập thể trại viên. Anh thấy sao?
Tôi hơi ngần ngừ:
- E tôi làm không xuể. Thưa ông trưởng trại.
Ông cười ngất:
- Dở ẹc. Làm ra tiền mà không biết xài cho đúng thì làm làm chi? Thôi tôi giúp anh. Tôi kêu anh quản lý căntin lên. Tôi giao nhiệm vụ Anh ấy có trách nhiệm giữ. Anh có trách nhiệm xài. Sổ sách minh bạch. Hàng tuần công khai tài chánh trước trại. Có lệnh của tôi không ai ọ ẹ được. Được không ?
- Dạ được.
- Vậy thì cứ thế mà làm.
Qua cách giải quyết của ông Mười Can chứng tỏ cho tôi biết, khả năng nắm vững sự việc của ông. Trình độ học vấn không cao. Ông thường tự nhận như thế. Chính sự tự biết mình đó, nó xác định tính cách của ông đi ngược lại những gì ông tự nhận xét về mình.
Cũng trong thời gian này. Tôi gặp và quen một phóng viên đài truyền hình Cần Thơ. Anh có một tên nghe là lạ. Ngô Đình Kự. Anh bằng tuổi tôi, cả hai thừa hưởng hai nền giáo dục trái ngược nhau, ở hai vị thế đối nghịch nhau, nhưng lại tương thích với nhau về quan điểm sống. Tôi nói với anh về những sự đổi thay cần thiết của tấm lòng người. Anh cười bảo tôi :
- Không phải là sự đổi thay, mà là sự trở lại. Mười hai năm đất nước thanh bình và phải đối diện với những khó khăn vô cùng mới mẽ. Chúng ta đã đem tư duy một thời binh lửa để giải quyết những chuyện thời hòa bình, thì quả tình có lắm điều không ổn. Điều đó cũng đúng thôi. Hơn nữa, trong cuộc sống mà, làm sao không có những thằng tráo trở. Chính những con người này đã làm cho sự việc vốn đã khó khăn lại trở nên quá nhiều phức tạp. Nhưng cuộc sống bao giờ cũng có cái lý của nó. Cái lý đó gọi là chân lý. Anh có thấy không? Bây giờ chân lý đang trở lại. Tôi nói cái chân lý của cuộc sống. Trở lại chứ không phải thay đổi. Bởi vì bản chất của dân tộc mình là như thế. Chiến tranh đã qua lâu rồi. Anh thấy có đúng không? Mai kia khi trở về với cuộc sống bên ngoài. Anh sẽ thấy. Tất nhiên, con người sẽ mang một phong cách mới cho phù hợp với sự phát triển. Và còn cần có thời gian.
Cái thời mà chúng tôi cảnh giác với các anh và các anh thì nhìn chúng tôi bằng cặp mắt e de cần phải được chấm dứt. Tình đồng bào, đồng loại có những lúc bị hận thù của thời binh lửa ấy làm cho chúng ta quên đi. Vì một mục đích nào đó người ta làm cho nó hẹp lại và khu trú trong cái tình đồng chí, tình chiến hữu, tình đồng đội… gì gì đó mà chúng ta quên mất cái quan hệ đồng bào. Muốn thực hiện điều đó, mỗi chúng ta đều có bổn phận phải biết đặt niềm tin vào mình và tạo niềm tin cho người khác bằng sự chân thành.
Chúng tôi gặp nhau có hai lần. Dành cho nhau có hơn hai giờ. Nhưng bấy nhiêu đó cũng quá đủ. Và chúng tôi trao đổi với nhau khi cả hai cùng ngồi trên bờ mẫu mượt mà cỏ non, trước mặt là sóng lúa xanh rập rờn, trên đầu là bầu trời lồng lộng gió mây.
[i] Một phương pháp in phổ biến trước năm 1990 khi mà máy vi tính và máy photocopy còn chưa thông dụng. Cách in là đánh máy chữ lên giấy sáp, sau đó dán tờ giấy sáp lên một trục quay được bọc nỉ có tẩm mực, mỗi lần quay một vòng là được một trang in khổ 24 x 33. Một tờ giấy sáp, nếu in kỹ có thể được 300 trang
[ii] Phạm nhân phạm tội khi đang là cán bộ.
[iii] Ở đây được hiểu là những tội phạm xã hội
[iv] Một loại bẫy làm bằng tre, trúc đặt ở những lối mòn chuột hay đi. Khi nhiều người dùng gậy đuổi bằng các đập trên cỏ. Chuột thấy động chạy theo những lối mòn và chui vào bẫy.
[vi] Tên một tập sách mỏng của Thiền Sư Shaseki-Shu, kể lại những câu chuyện sinh hoạt, tu hành của các thiền sư. Câu chuyện này như sau: Có một lão ăn mày thường hay lui tới Thiền Viện để nghĩ qua đêm. Ông lão thường hay khạc nhỗ bừa bãi làm cho các tu sĩ trong thiền viện rất bực mình. Thiền Sư viện trưởng thấy vậy mới từ tốn bảo ông : “Đây là nơi cửa Phật, lão đừng nên khạc nỗ bừa bãi, làm ô uế cửa Thiền” Lão ăn mày trả lời ngay: “Hằng hà sa số Phật. Nơi nào không có Phật ông chỉ cho tôi phun.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét