CHƯƠNG VI :
VONG GIA THẤT THỔ VÀ … MỘT CÁI TÒNG TENG
“ Cái tình là cái chi chi
Dẫu chi chi cũng chi chi với tình.”[i]
Chi chi khi rảnh đã đành
Lu bu muốn chết cũng thành chi chi
Sáng hôm
sau tôi về Rạch Giá, chiếc đò chạy trong màn sương và ánh sáng lờ mờ của buổi
bình minh. Giòng sông Cái Lớn vẫn mang dáng vẻ ưu tư hay là chính nỗi buồn của
tôi. Tôi cũng không biết nữa. Tôi cố làm sống dậy những kỷ niệm của tôi về
giòng sông. Nhưng không thể. Tôi ngồi giữa tiếng rì rầm của máy tàu, của màn
sương tan, của bình minh đang đến. Giòng sông vẫn thế và tôi nhìn màu xanh
huyền hoặc của hàng lá dừa nuớc bên kia sông mà trong lòng lạnh tanh. Và bên
này cũng thế, cái màu xanh đầy sức sống và lấp loáng hạt nắng ban mai. Ôi giòng
sông thân quen bây giờ sao mà lạ lùng với tôi đến thế. Tôi nhớ mà. Giòng sông
có bao giờ từ bỏ ai đâu. Thế mà, hôm nay… Hay là
tôi đang từ chối quê hương mình. Đúng hơn là từ chối tấm lòng mình.
Đò qua khỏi Lô Hào Dầu. Tôi đưa mắt tìm ngôi nhà mà bọn tôi ngủ nhờ trong đêm lội qua sông. Nhưng đò thì đang chạy mà lại sương mù, nên khó mà nhận ra. Từ ngày đó đến giờ tôi đã bao lần có ý định tìm thăm ông, nhưng chưa bao giờ đến được. Không biết giờ này ông ra sao và trong đêm đó có ai chứng kiến cái cảnh ông thức canh cho bầy lính ngụy ngủ và nấu cơm cho ăn không? Nghĩ đến đây tôi rùng mình khi liên tưởng đến cái cảnh tôi gặp Thuật trong một lần hành quân. Vái trời mọi việc êm xuôi.
Khi tôi bước lên bến đò Rạch Sỏi, đang ngó dáo dác tìm xe ôm về Rạch Giá thì tôi nghe tiếng kêu tôi, giọng hốt hoảng. Tôi quay mặt dáo dác tìm người gọi thì thấy bà chị họ của tôi đang bương bả tới :
- Cậu lại đây tôi nói cậu nghe.
Vừa đi tôi vừa hỏi :
- Chuyện gì vậy chị ?
Chị nín thinh cho đến chỗ vắng người, chị bảo :
- Công An bao nhà bắt cậu. Không rõ vì chuyện gì. Bây giờ cậu tính sao ?
Tôi đứng yên lặng một lát, rồi hỏi chị:
- Chị còn tiền không ?
Chị móc túi đưa tôi 11 đồng bạc cắc. Tôi vội lấy nhét vào túi. Rồi dặn chị đôi điều. Tôi bắt đầu cuộc sống vong gia thất thổ.
Tôi đến Chợ Mới, Long Xuyên, nhà người cô họ lúc năm giờ chiều, vừa thấy tôi. Người chú họ và người dượng rể hỏi ngay:
- Chuyện gì đã xảy ra với mày?
- Con cũng không biết. Chắc có lẽ ai đó bị bắt, rồi khai bậy khai bạ gì đó.
Hai ông già nín thinh. Đây là vùng của đạo Hòa Hảo, một nơi vừa an toàn mà cũng cực kỳ nguy hiểm cho bản thân tôi lúc này. Hơn ai hết, tôi biết tôi không thể ở đây lâu. Vì lẽ cô chú thì nghèo, con thì đông. Họ sẵn sàng cưu mang tôi, nhưng trong hoàn cảnh này, lực bất tòng tâm. Một ngày mai đen tối sập xuống trước mặt tôi.
Không biết phải làm gì. Tôi đành theo người dượng rể đi làm ruộng. Lúa đang trổ lác đác, công việc thì chẳng có gì ngoài việc chăm sóc nước nôi. Tôi đi theo là để tìm một không gian thoáng đảng, ngắm nhìn bầu trời và màu xanh tuyệt vời của lúa. Những thứ ấy cuốn lấy tôi nên công việc không đủ cho tôi làm. Các bờ cỏ đã sạch bóng, chỉ có ba công thôi, nên những cọng cỏ còi xen trong lúa vì thiếu quang hợp cũng bị đôi bàn tay vô công rỗi nghề nhổ sạch. Cỏ không còn, bùn được sục xạo lên, nên lúa trông có vẻ sung hơn những mảnh ruộng kề bên. Dượng rể tôi ban đầu thì lấy làm lạ, nhung sau đó ông có vẻ hiểu ra, nên ông tha hồ để cho tôi muốn làm gì thì làm.
Và rồi lúa cong trái me, nhưng tôi thấy cô dượng tôi có vẻ chẳng quan tâm gì nhiều. Một buổi sáng hai dượng cháu lại ra ruộng. Ông thực sự khoái chí khi thấy lúa trúng hơn những mảnh ruộng chung quanh, bổng ông sa sầm mặt lại. Tôi đưa mắt nhìn quanh thì thấy mấy cán bộ đãm phụ nông nghiệp đến gần. Tôi lảng đi nơi khác và lúi húi tìm việc gì đó để làm, càng lúc tôi càng xa dần chỗ ông dượng rể đứng. Thân trốn chui, trốn nhủi nên tôi ngại gặp phải cán bộ nhà nước. Độ khoảng mười phút tôi lóng ngóng nhìn xem thì thấy ba ông cán bộ dẫn ông dượng rể vào xóm, mà xem bộ dạng có vẻ không bình thường. Tôi nấn ná một lúc rồi lỉnh vào nhà và nói với cô tôi:
- Cô năm ơi. Cháu thấy mấy ông cán bộ dẫn dượng năm đi đâu mà coi bộ có vẻ không bình thường. Cô năm sai đứa nào đi tìm xem coi ra làm sao?
Cô tôi hết hồn chẳng kịp hỏi han gì vội cắp nón ra đi. Còn lại một mình trong ngôi nhà mênh mông, tôi không hiểu mình nghĩ gì. Tất cả đều trở nên mộng mị, đầu óc ù lỳ. Tôi vấn hết điếu thuốc này đến điếu khác. Miệng mồm khô đắng, mắt mũi cay xè. Hơn một giờ sau, cô năm quay về. Buông nón xuống, chưa kịp để tôi hỏi, cô nói một hơi:
- Đồ già dịch, không biết nói móc họng người ta thì được cái giống gì mà ham nói quá. Tao chịu dượng năm mày hết xiết.
Tôi chưng hửng, vội hỏi:
- Dượng năm nói cái gì cô?
- Mày coi, mấy ông cán bộ nông nghiệp đi thăm đồng, họ thấy mấy con sâu cuốn lá. Người ta hỏi sâu đó là sâu gì? Có cách gì trị nó không? Mày biết ổng nói làm sao không?
- Dượng năm nói làm sao? Cô.
- Ổng nói ” Mấy chú biết không? Mấy con sâu này chó đẻ lắm. Lúc cày, lúc làm đất, lúc sạ, lúc làm cỏ, bón phân, bơm nước… Đều không thấy nó. Vậy mà tới lúa cong trái me thì nó vác mặt chó tới liền. ĐM. Nếu không vì vợ con, tôi cho một mồi lửa cho thấy mẹ nó luôn” Mày coi, ổng nói cái kiểu đó có phải đâm mác vót vô bản họng người ta không? Bây giờ bị phạt làm cỏ một tuần về tội nói xấu cán bộ, (?) không bị đưa đi cải tạo là may. Thế là từ đây, mỗi ngày hai bữa tao phải mang cơm. Thời buổi khó khăn. Ai cũng làm cha được hết. Nhịn nhục một chút có chết chóc gì đâu?
Ngưng một lát, cô lại chĩa sang tôi:
- Còn mày nữa, anh chị tư ở dưới hết ngủ nghê gì rồi? Không biết tại làm sao mà dượng rể, cháu vợ mà giống nhau như cha con. May mà mấy đứa em mày chẳng đứa nào giống ổng. Thôi vô dọn cơm ăn. Tao còn phải xách cơm cho ổng.
Tôi nghe lực bực trong bụng. Mọi việc xảy ra theo kịch bản hoàn toàn mới. Tôi không thể thích nghi, lại càng không chịu đựng nổi. Hai cô cháu ngồi ăn cơm, không ai nói với ai tiếng nào và nuốt cũng không trôi. Nhưng chẳng lẽ không ăn. Tôi quyết định rời khỏi nơi đây.
Ở đây thêm được mươi ngày, đến lúc dượng năm về. Tôi xin cô chút ít tiền, tôi bắt đầu cuộc sống vô định. Nay chỗ này mai chỗ khác. Nhưng rồi, một lần ghé qua chú sáu, em ruột cô năm, chú bảo tôi:
- Mày không thể chạy long rong như thế. Về Kinh H, tao giao cho mấy chục công. Tao cho mượn máy cày, lúa giống, rồi ráng mà chăm sóc thì tới mùa thuế má xong xuôi cũng kiếm được vài trăm gịa. Rồi thay tên đổi họ, lo cái hộ khẩu là êm, miễn sao mày đừng ló đầu về Rạch Giá. Mày may đấy. Năm sau vô hợp tác xã hay tập đoàn gì đó là tao vô phương giúp mày.
Thế là tôi nghe lời chú như một cái máy. Và không hiểu sao tôi lại làm một cách nghiêm túc. Sở dĩ đất của chú mênh mông thế mà chính quyền mới chưa rớ động vào là vì đất này thuộc loại ai cũng chê. Sau mười mấy ngày theo chú tập lái máy cày. Ông giao cho tôi tự cày lấy hai mươi công đất của mình. Tôi phải cày ban đêm vì ban ngày phải theo chú đi cày cho các tập đoàn. Lúc này trong túi tôi chỉ còn có khoảng mười đồng. Chẳng dám xài phí gì. Tất cả đều ăn chực, xài nhờ của chú. Thỉnh thoảng bắt chuột rắn để chú cháu cùng ăn, nếu ai hỏi mua thì bán được dăm đồng đủ mua thuốc hút. Gần cả tháng hai chú cháu quần quật với nhau, rồi ruộng cũng sạ xong. Chú giao chòi, giao ruộng cho tôi canh chừng. Ông đưa tôi thêm hai chục đồng, mua để lại hai giạ gạo, một ít đường muối. Chú cũng để lại cho tôi một cái tỉnh nước mắm nhét đầy thuốc bánh. Ông đưa máy cày xuống chẹt chở về Chợ Mới. Chí sáu nói đúng thật. Lúc này, đang có tin sẽ thành lập các hợp tác xã nông nghiệp trên diện rộng, rồi sẽ có các tập đoàn sản xuất gì gì nữa. Ôi những từ đọc lên nghe chát chúa lỗ tai.
Hàng ngày tôi long rong vừa đi trông chừng ruộng, vừa đi bắt cá, rắn, chuột làm thực phẩm. Giữa đồng không mông quạnh, xa xa một cái chòi. Tôi như là Robinson. Dù là một tay khoái ruộng vườn, cây cỏ. Nhưng trong hoàn cảnh này, nó cũng chẳng hấp dẫn tôi là bao. Mật độ mưa càng lúc càng dày. Tôi trồng được dăm ba cây ớt, một bụi sả, một giề ngò om, rau răm. Và chỉ có thế. Những lúc buồn buồn, ngồi nhìn đám lúa xanh rờn. Tôi nhớ tới kế hoạch mà chú vạch ra. Tôi hy vọng, nhưng có vẻ mơ hồ. Bổng nhiên tôi thèm viết không thể tả. Nhưng bút giấy không biết tìm ở đâu. Trong giỏ đồ của chú để lại có một cuốn tập học trò, tôi cứ lấy lật qua lật lại, nhưng rồi lần lần cũng xé ra quấn thuốc hút sạch trụi.
Thế là đã ba tháng làm Robinson, từ ngày chú về Chợ Mới gần như tôi không nói chuyện với ai, quen ai đâu mà nói. Thỉnh thoảng gặp ai đi qua thì hỏi vài câu bâng quơ cho đỡ buồn miệng.
Tôi đang nghêu ngao hát bổng nhiên ngưng bặt và hoàn toàn không tin vào mắt mình khi nhìn thấy Huy đứng lù lù trước căn chòi có ba miếng vách của tôi. Tôi cứng cả người, cứ phơi bộ xương sườn đen nhẻm và độc cái quần cụt trên người. Huy lặng người nhìn tôi, mắt như sắp khóc. Cho đến khi nhìn thấy những giọt nước mắt của Huy trào ra, tôi mới nói được, mà nói một câu lảng òm:
- Huy đếm xương sườn anh đó phải không? Nếu đếm xong thì ngồi xuống đây.
Tôi đưa tay vỗ nhẹ xuống bộ vạt. Huy vẫn đứng yên và nói:
- Tới độ này mà anh vẫn đùa.
Tôi tỉnh lại, vớ lấy cái áo bà ba đen mặc vào, rồi nói:
- Thế thì anh phải khóc theo Huy à? Bao nhiêu nước trong người thành mồ hôi cả rồi. Đâu còn giọt nào đâu mà làm nên nước mắt. Thôi ngồi đây đi. Sao biết anh ở đây?
Huy ngồi rồi nói:
- Mấy hôm trước thấy anh ở ngoài đầu kinh. Em thấy anh đi vào đây. Em ngó theo và hôm nay vô tìm đại. May là nhờ bản nhạc anh hát nên em bước vào mà không sợ lầm.
- Anh hát? Anh hát bài hát nào?
Huy lại bệu bao:
- Anh vừa mới hát mà. Anh làm sao vậy?
- Buồn thì nghêu ngao vậy? Làm sao mà nhớ.
- Anh hát bài “ Em đến thăm anh một chiều mưa”.
Tôi nghe nhoi nhói ở ngực, nhộn nhạo ở bụng, nhưng cũng đùa:
- Và đúng bon phải không? Huy này. Anh nghĩ rằng chúng ta nên chấm dứt ở đây. Em đừng dính đến anh nữa
- Nhưng anh như thế này. Em có xuống Rạch Giá tìm anh và em biết hết.
- Em yên tâm. Anh đủ khả năng để tồn tại một mình. Nhưng nếu tồn tại mà có em, dùng chỉ thấp thoáng, thì anh chết tuốt. Mà không chừng còn gây họa cho em.
Huy im lặng và tôi cũng thế. Tôi biết tại sao Huy vào đến nơi này. Tình cảm ở mức độ nào chăng nữa thì cũng không nên. Ít nhất đã không nên mà nhiều nhất thì lại càng không nên. Ở tôi thì tôi nghĩ như thế. Nhưng ở Huy thì… làm sao mà tôi biết. Một vài tiếng sấm nổ, báo hiệu trời sắp mưa. Tôi bảo:
- Thôi trời săp mưa. Đường về Long Xuyên vừa xa, lại khó tìm xe. Huy về đi. Kẻo lại quên đường về thì nguy cho cả hai. Nếu còn có một chút tình cảm dành cho anh. Huy đừng bao giờ tìm đến gặp anh. Ích gì? Về đi nghe Huy. Và đừng bao giờ tìm đến nữa. Đừng phân trần gì cả.
Huy đứng dậy nhìn tôi. Đôi mắt ráo hoảnh. Tôi biết Huy có thừa thông minh để hiểu tôi muốn nói gì, thừa can đảm để trấn áp cảm xúc của mình. Huy nói:
- Em về. Nhưng anh phải thực hiện cho em hai việc.
- Huy nói đi.
- Thứ nhất, nhận lấy giỏ đồ em mang theo. Mang về đường xa lại nặng. Thứ hai, anh hãy…
Huy ngập ngừng. Tôi tiếp:
- Huy nói đi.
- …hôn em. Như hôn cô em gái vậy mà.
Tôi cố cười:
- Việc thứ nhất, anh làm được vì lúc này quá đói, không còn hơi sức để từ chối. Việc thứ hai, Huy kể như anh đã làm xong. Thậm chí làm còn hơi nhiều.
Huy cố cãi :
- Đúng. Hôn em như hôn người yêu thì anh đã làm xong, làm một cách hoàn hảo nữa là khác. Nhưng hôn người em gái thì chưa bao giờ.
Và như để cho Huy nhanh chóng rời khỏi nơi này, tôi nói mà không nghĩ ngợi gì:
- Thôi được. Cho cô em gái biết mình mẩy ông anh này dơ bẩn như thế nào.
Một cái hôn nhẹ nhàng lên trán Huy và sau đó là nhìn bóng Huy xa dần dưới đám mây đen kịt vần vũ trên bầu trời, Tôi biết là tôi sẽ có nhiều đêm khó ngủ. Và khó ngủ thiệt, khi tôi lục cái giỏ bàng. Một bộ quần áo khá mới, hai cái quần cụt, hai cái áo thun, khăn tắm, khăn lau mặt, bàn chải răng mà không có kem… và năm mươi đồng. Ôi “ em đến thăm anh một chiều… sắp mưa…”
Những ngày không ngủ rồi cũng qua khi mà những cơn mưa tối đất tối trời kéo tới kèm theo một trận lụt ra trò. Thế là gần sáu chục công ruộng của hai chú cháu đều dâng cho hà bá. Cái số của tôi nó làm sao ấy. Sống dở cũng nhờ Hà Bá ngó lơ. Bây giờ chết dở cũng do Hà Bá ngó vào. Dẫu cho chú sáu đã tính toán rồi và đã sạ giống lúa có khả năng vượt theo nước lụt. Từ ngày giao ruộng cho tôi trông coi. Chú chỉ đến một lần. Hai chú cháu đi loanh quanh một lát, rồi ông ra về mà chỉ nói với tôi có một câu:
- Anh tư có lên nhà, hỏi thăm mày và gởi cho mày mấy chục đồng. Thôi ráng đi. Có thể đây là mùa ruộng cuối cùng. Qua năm tới thì…
Chú bỏ lửng câu nói và tôi biết cuyện gì sẽ xảy ra. Và bây giờ, trước khi điều đó xảy ra thì Hà Bá đã cuốn sạch những hy vọng cuối cùng của hai chú cháu.
Cuối cùng, tôi lặng lẽ bỏ đi khi nhìn thấy cánh đồng mênh mông chìm trong biển nước, bên dưới là những cây lúa đã bị rong bám xanh lè, không còn khả năng ngoi lên mực nước. Có lẽ tôi cũng thế. Tôi lên Cần Thơ mà không có một mục đích rõ ràng. Và may mắn lại đến với tôi khi gặp được người em họ làm cho một nhà thầu cung cấp sườn nhà cho các cơ quan quân đội. Tôi vào làm công nhân ở đó. Lương mỗi ngày ba đồng. Cơm hết một đồng năm cắc, lại có chỗ để ngủ. Lại còn được cấp cho một cái thẻ Chứng Nhận là công nhân quốc phòng, có dán ảnh đàng hoàng. Thế là tạm yên thân. Cả nhà không biết tôi ở đâu, tôi cũng chẳng dám viết thư về.
Chắc mót được vài chục đồng, bất ngờ tôi gặp Hải. Sau khi đào ngũ ở Trung Đoàn 52. Hải về thay tên đổi họ, thi lại Tú Tài, rồi thi vào Đại Học Sư Phạm, ra trường được hơn năm thì tiếp thu. Hiện nó đang dạy học ở Cần Thơ, lương tháng ba bốn mươi đồng. Hai thằng gặp nhau mừng rơi nước mắt. Đêm đó tôi về nhà nó ngủ, nhưng thực ra là thức trắng đêm. Cả hai thì thào tâm sự, nhắc thằng này, thằng kia mà không biết sống chết thế nào. Khuya, hai thằng bụng đói meo, Hải nấu cơm, nước mắm kho phồng. Ăn vào thì no mà ruột cứ cồn cào. Nấu một nồi nước sôi, để nguội lại một chút rồi hai thằng xì xà xì xụp. Lần đầu tiên hai thằng nếm cái mùi đói no không rõ. Vui thì vui không nổi, cảnh thế này sao gọi rằng vui? Buồn, buồn cũng không xong, vì bảy tám năm mới gặp nhau sao lại là buồn? Hải hỏi tôi được mấy đứa con, tôi nói chưa có đứa nào, nó bảo hên. Tôi hỏi Hải sao cưới vợ, nó trả lời, lấy vợ làm sao nuôi. Hai thằng cười khan cho cái tương lai xám xịt. Không hiểu sao tôi lại nói với Hải một câu trớt quớt, nhưng lại quá đúng “nhưng dù sao cũng không lo phải chết kiểu banh thây“. Không biết nó nghĩ gì mà nín thinh.
Sáng sớm, trời còn tờ mờ. Hai thằng ra đầu hẽm, vào quán café. Mỗi thằng một tô bún cọng to bằng ngón tay, nhưng ăn xong thấy cũng khỏe, chắc nhờ miếng cá cũng to bằng ngón tay. Rồi mỗi đứa một ly café đen pha đường cát xay. Café thì trộn cơm cháy khét nên đăng đắng, đường cát xay thì chua chua. Thế mà cũng ngon ra phết. Tôi chợt nhớ đến cái chén nước cơm pha đường mía mà tôi nếm thử khi nghe mẹ tôi kể là hồi nhỏ tôi uống thứ đó để lớn. Nó ngòn ngọt, chua chua làm tôi khó chịu. Bây giờ thì cũng nước cơm, nhưng là cơm cháy khét, cũng đường mía mà cô thành đường thẻ đem xay. Ấy vậy mà ngon ngon. Hải thấy tôi thừ người. Nên hỏi:
- Mày nghĩ cái gì thế.
Tôi kể cho nó nghe ý nghĩ của mình. Hải cười và bảo:
- Vong gia thất thổ thế kia. Chưa đủ tang thương sao mà mày còn nghĩ ngợi lung tung.
- Tao cũng chẳng biết sao. Cứ gặp chuyện lu bu này thì tao nhớ cái lu bu khác. Thậm chí còn tưởng tượng ra cái lu bu sắp tới.
Hải thở dài:
- Thế, chẳng lẽ mày lu bu mãi à?
- Chắc vậy.
- Mày điên mất Hiền ơi.
Tôi nín thinh và Hải cũng nín thinh. Đến khi nhìn đồng hồ. Thời gian còn một đống. Thế là, hai thằng tiếp tục tào lao cho tới lúc Hải phải đi dạy, tôi phải về làm. Khi trả tiền, Hải nói một câu làm bà chủ quán phì cười:
- Cái khoái của quán này hơn quán café quốc doanh ở chỗ ăn uống xong rồi mới tính tiền. Lỡ hết tiền buộc phải cho ghi sổ.
Ngồi trên xe lam về chỗ làm, nhớ lại câu nói của Hải. Tôi chợt nhận ra cái gì đó không ổn của cuộc cách mạng xã hội hiện nay. Người ta muốn thay đổi cái tập tục bao đời trong một vài ngày. Trong cuộc sống của một cộng đồng, quan hệ của con người với con người thì những lề thói thành hình trước, kế đến là đạo lý, sau cùng mới là pháp luật. Bản chất của ba cái này thì nó giống nhau là đưa ra một hay nhiều thỏa thuận nào đó để cùng nhau tuân thủ với mục đích là làm cho sinh hoạt của cộng đồng không, hoặc ít gặp rắc rối. Vì vậy nó được hình thành bởi ba tính chất quyền lực khác nhau, đáp ứng yêu cầu ở những tầm vóc khác nhau, những môi trường khác nhau. Lề thói được tuân thủ thì gọi là hòa thuận, đạo đức được xem trọng gọi là hòa hảo, luật pháp được nghiêm minh gọi là hòa bình. Nếu ba cái hỗ tương nhau thì thì cộng đồng này êm ấm, nền móng của trật tự. Nhưng nếu có một cái nào đó áp đặt. Tức là nó phủ nhận cái khác thì cộng đồng đó bất ổn. Hiện nay người ta đang làm ngược lại quy trình này. Một thứ luật pháp mang tính chuyên chính đầy bạo lực làm đảo ngược mọi thứ nhằm áp đặt một chuẩn mực đạo đức mới, lề thói mới. Mà cái lề thói ấy, đạo đức ấy lại không phải do quan hệ xã hội sinh ra mà từ trên tầng cao rơi xuống lạ lẫm, dị hợm. Có lẽ là tôi sắp sửa trở thành một nhà xã hội học rồi đây. Nhưng suy nghĩ một hồi tôi thấy mệt, với lại việc này không bao giờ là của tôi.
Ngồi cầm cây cọ quét từng lớp sơn chống sét lên các khung nhà. Tôi nghĩ về thân phận hiện tại của mình và cố vớt vát nó bằng một câu quen thuộc “mọi việc rồi sẽ qua thôi”. Nhưng nó đã mất tác dụng. Nó không còn đủ hiệu quả để cho tôi yên tĩnh lại. Những khó khăn đang chồng chất không chỉ cho riêng tôi mà là cho tất cả mọi người. Nếu chỉ cho riêng tôi thôi thì quá dễ. Gặp thằng Hải tôi tưởng rằng nó khá hơn tôi, nhưng không ngờ nó cũng như thế. Không lẽ sau một cuộc chiến tranh, cả một đất nước lại phải đối đầu với một thứ khác. Cái đầu bé tẹo của tôi lại một lần nữa quay cuồng. Và tôi làm việc như một cái máy đang vận hành. Tất nhiên, cái máy thì không có tư duy. Mà cái máy tôi thì tư duy lại đi theo hướng khác không liên quan gì đến cái việc nó đang làm. Thế thì tất cả cái máy người đang làm việc như vậy, thử hỏi cuộc sống sẽ ra sao? Ai đó đang nhắc tôi:
- Cha nội, làm ăn cái kiểu gì lạ thế. Ông sơn cái khung đó mấy lượt rồi ?
Tôi nhìn lại, một thằng nhóc con khoảng 16, 17 tuổi nhìn tôi, nhe răng cười:
- Ừ tao khùng thật, mày tiếp tao dời cái khung này xuống. Tôi nói.
Tôi lại bắt đầu sơn tiếp, ráng cố gắng kéo từng nhát sơn thật đẹp, nhưng chỉ một lúc thôi thì đâu lại vào đó. Cả một buổi sáng tôi lờ đờ, lẫn đẫn. Có lẽ do một đêm thức trắng. Ăn cơm trưa xong tôi ngủ một giấc thẳng cẳng giữa cái nóng hầm hập đổ xuống từ mái tôn.
Giấc ngủ quá mệt nhọc, nhưng dù sao nó cũng làm cho nhẹ người hơn. Sau khi tìm một cái gì đó để uống. Tôi lại bắt đầu công việc của mình bằng một sự chú tâm tương đối. Những khung nhà xám xịt lần lượt được áo lên một lớp sơn mà màu sắc của nó cũng không được tươi tắn gì cho lắm. Tôi nghĩ về màu sắc của thiên nhiên mà mình thấy được và những sắc màu của con người tạo nên. Từ lâu tôi không nghĩ đến điều này, dù khi cầm cây cọ trên tay tôi cố tình đem hết khả năng mình để bắt chước. Không biết có phải là tại cái khả năng kém cỏi của tôi hay sao, mà giờ đây nghĩ lại thì quả tình tôi đang làm một việc điên rồ. Bổng nhiên tôi nhớ một lần ngồi trên máy bay tôi nhìn xuống và tôi đăt tên cho cái màu mà tôi thấy được của đất nước tôi là màu bình yên. Ôi cái màu sắc ấy thật gần gũi nhưng cũng rất viễn mơ. Bởi vì tôi chỉ thấy thôi chớ chưa bao giờ được hòa lẫn vào trong đó. Chưa bao giờ cảm nhận, dù tôi đã cố gắng hết sức mình. Có lẽ những người chung quanh tôi cũng thế. Ôi những người cùng chung số phận, cùng chung một quê hương, từ quê hương nhỏ xíu của tôi cho đến cái quê hương mơ hồ mà hiện nay được gọi là tổ quốc. Có hay không? Khi những con người ấy, trong đó có tôi, ai cũng có lý do rất đúng của để dằn vặt nhau và tìm cách tước đoạt những bình yên của nhau. Tưởng hết chiến tranh thì điều đó sẽ không còn. Ai dè nó còn bạo liệt hơn, nó không làm cho người ta không chết, mà làm cho người ta sống dở. Thế nên cái màu bình yên vốn mơ hồ bị đẩy xa vào không tưởng (?) Vái trời cho tôi nghĩ sai. Nhưng làm sao mà sai được khi mọi thứ cứ diễn ra trước mắt. Những con người từng hy vọng một hoà bình đang cảm thấy hụt hẩng. Họ đang đối phó với nhiều thứ quan trọng hơn cả cái chết, trong đó có một cái tương lai mịt mờ vô định. Một bộ phận khác nắm lấy quyền lực trong tay đang sa vào một cái hố thăm thẳm của sự vun vén cá nhân; vun vén của cải, vun vén chức quyền và đau xót hơn là họ đang tự huyễn hoặc mình bằng một luận điệu chang chói thứ hào quang vô ích. Tất nhiên một kẻ bên lề như tôi khó lòng mà lượng định cho hết những thứ còn tàng ẩn bên trong, khi mà cái vỏ tôn tốt chói chang kia cất gói không được kỹ càng cho lắm. Nếu như tôi tìm cách ghé mắt trông vào là toi mạng như chơi. Chắc phải lựa chọn một thái độ hèn mà thôi, hèn ít hay hèn nhiều. Ối trời đất ơi. Hèn hạ mà cũng có định lượng nữa sao hả trời.
Hơn một tuần sau tôi đến thăm Hải vào ngày chủ nhật, vừa đúng lúc nó đang bịn rịn tiển cô giáo dạy chung trường. Tôi nháy mắt:
- Ê, Hải lấy gì mà nuôi?
- Chơi luôn, hai đứa cộng lại được bảy tám chục.
Chúng tôi lại rù rì chuyện trên trời dưới. Bổng dưng Hải nói một câu làm tôi sững sờ :
- Mày có nghĩ là rồi mấy cha Việt Cộng này, một ngày nào đó rồi cũng y như tụi mình hết không ?
Tôi nhìn Hải im lặng một lúc rồi hỏi lại :
- Sao mày không nghĩ ngược lại ?
Rồi cả hai nhìn nhau nín lặng, mỗi thằng một suy nghĩ, cuối cùng nó cũng lên tiếng;
- Theo tao thì nó có tác động qua lại. Chỉ có điều là nhanh hay chậm. Thú thật với mày thì tao suy nghĩ về điều này hơi nhiều. Nhưng không hiểu tại sao đến giờ mới hiểu ra. Bởi vì mấy cha nội này dẫu có cực đoan đến mấy họ cũng phải làm khác đi vì nhu cầu tồn tại. Chẳng qua là sau một cuộc chiến tranh, muốn khắc phục hậu quả của nó thì tính chuyên chế là một điều cần thiết. Bọn mình lại là đối tượng cho cái tính chuyên chế ấy tác động. Nó gây ra cho mình một cảm tưởng khó chịu. Thế thôi. Hơn nữa sâu thẳm trong tâm hồn họ, họ biết dân tộc này muốn gì. Những gì họ nói hằng ngày chẳng qua là lên gân hay nói đúng hơn là say men chiến thắng. Chứ thật sự họ gặp rất nhiều khó khăn trong tất cả mọi việc. Nhất là việc tự trang bị cho mình năng lực điều hành và quản lý đất nước…
Tôi tròn mắt nhìn Hải, đây là một điều tôi đã lờ mờ hiểu, nhưng kết luận một cách chính xác như thế này thì chưa. Tôi hỏi nó:
- Thế thì mày định làm gì? Chọn một thái độ sống ấy.
Hải nói một câu làm tôi chới với :
- Không chọn lựa gì cả. Mọi việc rồi sẽ qua.
Tôi trố mắt nhìn Hải:
- Cái gì?
- Mọi việc rồi sẽ qua. Hải lập lại
Bổng dưng tôi cười khan:
- Và việc cần phải qua trước nhất là cưới vợ?
- Tất nhiên.
Nó nheo mắt rồi hỏi tôi những kinh nghiệm làm chồng, về vệ sinh tình dục và về đủ mọi vấn đề có liên quan đến cuộc sống lứa đôi, mà kinh nghiệm của tôi trong vấn đề này là một thứ chỉ để vất đi. Dù tôi đã đem những gì mà Người Góa Phụ Trồng Hoa đã nói với tôi và tôi nói lại với nó sau khi thêm bớt ít nhiều. Tất nhiên, tôi đâu có dại dột đến độ nói với Hải rằng cái đó tôi được người khác dạy. Có thể đây là lần đầu tiên tôi chôm bản quyền. Ấy thế mà Hải vẫn thích thú ra phết khi nghe tôi tư vấn. Ôi tình yêu. Cám ơn, rất cám ơn. Bởi vì nó là mục đích sống lớn nhất của bạn tôi, nhất là trong lúc này. Nó cần sự đồng cảm, cần sự chia sẻ.
Nhưng chúng tôi lại quan tâm đến một điều khác hơn kia. Thời cuộc. Không phải chúng tôi muốn nhón chân vào hay gì gì đó. Chúng tôi muốn tìm hiểu xem cái xã hội mà chúng tôi đang nóng lạnh bước vào sẽ thay đổi như thế nào. Là những con mọt sách rất cần cù, chúng tôi đọc gần như sạch trọi các loại sách thuộc loại kinh điển của chủ nghĩa Cộng Sản và chúng tôi đi đến một thống nhất như sau. Chế độ này dứt khoát phải thay đổi cách nghĩ, cách làm nếu muốn tồn tại. Dứt khoát phải thế, nếu như họ không muốn đẩy đất nước vào chiến tranh một lần nữa. Tại sao phải vậy. Hải nói:
- Mày nghĩ gì về liên minh Công Nông?
- Một sức mạnh vô địch, bởi vì nó chiếm tuyệt đại đa số.
- Khả năng lãnh đạo của liên minh này như thế nào?
- Không có.
- Lý do.
- Trong hoàn cảnh hiện tại họ thiếu học thức, kiến thức và tri thức.
- Giai cấp công nhân đi tiên phong mà.
- Cũng không giải quyết được gì?
- Tại sao?
- Họ thiểu số trong liên minh và như tao đã nói họ cũng thiếu ba thức. Chính vì thế mà Mark tiên đoán các nước có nền công nghiệp phát triển như Anh, Pháp, Đức, Mỹ… sẽ là các quốc gia đầu tiên xây dựng được xã hội Cộng Sản Chủ Nghĩa. Lực lượng công nhân của họ đông, có đủ ba thức. Quan trọng hơn họ đủ mạnh để buộc giới chủ phải học tãp tính sòng phẳng.
- Thế thì Liên Xô và các nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa? Họ đang làm gì khi giương cao ngọn cờ Cộng Sản.
- Tao không biết. Nhưng có một cái gì đó đang có vẻ bất ổn. Họ quá cấp tiến, nói theo thời thượng là tả khuynh triệt để. Do vậy mọi giá trị cũ đã bị xâm hại không thương tiếc mà điển hình là cuộc cách mạng Văn Hóa ở Trung Quốc và mới đây ở Campuchia.
- Nhưng mày cũng thấy là họ cũng đang đào tạo và vũ trang cho cán bộ của họ ba cái thức.
- Tất nhiên. Nhưng lại theo một tiêu chí rất không giống ai. Mày phải nhớ, xã hội bao giờ cũng có hai mặt, bất cứ lĩnh vực nào cũng thế. Cái xấu chưa hẵn là đồ bỏ đi. Nó chính là động lực thúc giục cái tốt phát triển. Tóm lại cần có sự phản biện. Tất Nhiên chẳng mong muốn cái kiểu phản biện cà khịa. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa không có sự phản biện. Nếu có, thì sự phản biện ấy phải nằm trong khuôn phép. Khái niệm nhị nguyên không có trong cuộc sống hôm nay, nhưng nó luôn luôn hiện hữu. Âm dương, phải trái, đêm ngày, tốt xấu, đúng sai, trước sau, trên dưới, trong ngoài và hàng lô hàng lốc những khuôn mặt đối diện nhau. Tao muốn nói đối diện chứ không đối lập.
- Mày theo phái Âm Dương gia à.
- Tao mà biết phái đó của ai là chết liền.
- Như vậy thì mày thấy một xã hội mà hệ thống chính trị chỉ có một đảng là hơi kỳ.
- Không phải vậy? Mày biết muốn được vào đảng thì phải thế nào không? Tại sao không được vào không? Nó không dính dáng gì về vấn đề năng lực. Mà nó là thành phần xuất thân, là lý lịch và một chút năng nổ nhiệt tình, màu mè một chút cũng không sao. Vì vậy vào và không được vào vẫn là hai mặt chứ. Vấn đề mấu chốt nằm ở đây. Từ một đa số các đảng Cộng Sản tự biến mình thành thiểu số. Mà quy luật tự nhiên của xã hội là thiểu số phải phục tùng đa số. Họ ý thức điều đó, nên đã tập hợp một loạt các tổ chức quần chúng và nắm lấy quyền lãnh đạo. Họ độc quyền về chính trị và lãnh đạo đất nước. Điều này là con dao hai lưỡi. Mặt tích cực của là họ thống nhất ý chí và hành động trong lĩnh vực an ninh quốc phòng nên xác xuất hiệu quả rất cao. Nhưng về mặt xây dựng và phát triển đất nước thì e rằng quá lôm côm. Không thể điều hành đất nước bằng Nghị Quyết mà bằng Pháp Luật. Nhưng hiện nay những định chế chưa có. Quốc hội giữ một vai trò rất mờ nhạt. Tổ chức này không có phản biện, không có tranh luận mà chỉ vỗ tay, biểu quyết và gần như không bao giờ làm luật mà là điều lệ Đảng và hàng loạt nghị quyết. Vì vậy nhà nước hoạt động không theo luật của quốc hội, có đâu mà theo, mà theo sự phân công của Đảng. Nhưng chính vì vậy họ vẫn là thiểu số. Vì vậy phải đổi thay thôi, đổi thay để tồn tại. Rồi khi thay đổi, mày sẽ thấy, đất nước này công nhân và nông dân bị rẻ rúng đến độ nào, dù rằng Đảng Cộng Sản vẫn cầm quyền. Nhưng không thể giương cao ngọn cờ Liên Minh Công Nông. Mày biết tại sao không? Khi trắng mắt ra vì đói nghèo thì câu nói của Lénin sẽ phát huy tác dụng “ Lệ thuộc về kinh tế là lệ thuộc về chính trị “. Lúc đó giương gì nổi nữa mà giương. Những gì tao nói mà muốn phân tích tận tường thì phải nhìn ngắm cả đời đấy và viết một cuốn sách chừng một vạn trang. Tao chỉ đại khái thế.
- Mày nói đúng làm tao nổi gai ốc khi nhớ lại câu nói cũng của Lénin “ Nhiệt tình cộng với ngu dốt là phá hoại ”
- Mày không phải nổi gai ốc, bọn tép riu như mình cứ ngậm miệng là xong. Ai sao mình vậy. Nhưng có một điều mày nên nhớ, bọn láu cá lúc nào cũng đầy đường đấy, tụi này nguy hiểm hơn toàn bộ kẻ ngu dốt cộng lại. Lénin gọi chúng là bọn cơ hội chủ nghĩa. Chớ có tức khí.
- Tao hiểu mày nghĩ gì? Nhưng thôi không bàn chuyện này nữa. Đồng ý với mày về cái vụ ngậm miệng. Thế theo mày, ngậm miệng thì ngậm miệng nhưng phải làm gì chứ.
- Chẳng làm gì cả, mọi việc rồi sẽ qua. Mày và tao cứ hoà thuận với mọi người chung quanh là ổn. Nhưng trước tiên là mày hãy hòa thuận với con bồ của mày.
- Thế mày suy nghĩ những điều mày vừa nói để làm gì?
- Chọn một thái độ thích hợp. Hôm nay nói chuyện với mày, hốt nhiên tao đại ngộ được những gì đã đọc và thái độ thì tao đã nói rồi. Ngậm miệng.
- Mày đọc thiên kinh vạn quyển để rồi chọn một thái độ như không biết gì?
- “Như không biết gì” bao giờ cũng khác hơn “không biết gì” .
Cả hai cùng cười. Lâu lắm rồi tôi mới có một nụ cười thật là cười, có lẽ Hải cũng vậy.
Tôi trở về nơi làm việc mà trong đầu nhẹ nhàng hơn. Tôi cũng không ngờ phải hơn hai mươi năm sau tôi mới gặp lại Hải. Và tôi cũng không ngờ ngậm miệng là một thái độ rất ư cực nhọc, phải suy nghĩ nát cả đầu, phải đem hết công lực mới buộc được cái miệng của mình ngậm lại.
Thực ra với cái kiểu sống hiện tại của tôi, tất cả những gì xảy ra cho tôi đều đã nằm ngoài tầm với của bản thân. Không hộ khẩu, không giấy tờ và nặng nề nhất không có việc làm ổn định. Tôi không phó mặc cho số phận. Tôi chỉ bình thản chờ đón và chấp nhận, kể cả cái chết. Tôi suy nghĩ tiếp những gì mà Hải và tôi nói với nhau, càng suy nghĩ thì càng thấy chúng tôi đã đúng. Chúng tôi chính là đối tượng bị tác động. Mà đâu phải đây là lần đầu chúng tôi bị tác động và bây giờ thì tôi đã hiểu thế nào là “Bị quê hương coi rẻ, giống nòi khinh “. Thật ra không ai coi khinh chúng tôi cả. Nhưng nếu chúng tôi nghĩ mình không đáng bị coi rẻ, mình là một ông thần cần phải được tôn trọng thì thực sự chúng tôi sẽ bị khinh bỉ. Dù sao cũng gởi lời cám ơn đến thi sĩ Vũ Hoàng Chương.
Bổng dưng tôi nhớ Người Góa Phụ Trồng Hoa. Trời đất ơi. Đến giờ này tôi cũng không biết tên của người ấy là gì. Ôi những ngày tháng tuyệt vời bên cạnh một con người tuyệt diệu. Bổng dưng người tôi râm ran. Một quá khứ mịt mờ. Nhanh thật, mới đó đã mười năm. Nhưng giờ đây, tôi đang nhớ. Nhớ không thể nào tả được. Hốt nhiên tôi muốn đi Đà Lạt. Muốn đến nôn nao. Và tôi hối tiếc tại sao ngày đó tôi lại rời đi. Ôi núi đồi Đà Lạt kỳ ảo không cùng. Người Góa Phụ Trồng Hoa tuyệt diệu không cùng. Nhưng hởi ơi. Trong túi tôi chỉ còn có mười bốn đồng năm mươi xu. Nhẩm đếm số tiền. Hốt nhiên nó dẫn dắt cái đầu lu bu của tôi qua hướng khác. Trong cuộc sống, tính tự lập là một điều cần thiết. Tự quyết định số phận của mình lại là điều cần thiết hơn. Nhưng từ ngày rời ghế nhà trường, bước chân vào cuộc đời. Hình như cái thế hệ của chúng tôi khó có ai tự quyết định một điều gì, làm theo lệnh và lệnh là phải làm. Câu khẩu hiệu của ông Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập tự do“ khi hô lên thì mang nặng tính chính trị. Nhưng trong thực tế của cuộc sống hàng ngày thì nó đúng xiết bao. Một con nguời không tự do thì không khác gì một món đồ tùy theo từng trường hợp mà coi như là bị hay được sử dụng, cái này còn có thể chấp nhận. Nhưng con người mà không độc lập trong suy nghĩ, trong hành vi đúng đắn của mình, thì hởi ơi thê thảm biết dường nào. Tất nhiên trong cuộc sống, tính tương tác của cộng đồng cần phải được tôn trọng. Thế nên cái độc lập, tự do của một cá nhân cần phải có chừng mực. Nhưng phải có, mới biết nó chừng mực đến đâu hay vô chính phủ. Nghĩ lại, trong cuộc sống của thế hệ chúng tôi, nhất là những người có dính dáng đến chính quyền Sài Gòn thì chưa bao giờ chúng tôi có được nó. Và có lẽ các anh chàng Giải Phóng Quân cũng chắc khác hơn bao nhiêu. Dù rằng có đôi khi chúng tôi nghĩ rằng mình có. Hiểu ra điều này tôi thực sự cảm thán cho mình. Hơn mười năm lầm lủi đi trong cuộc sống. Tất cả đối với tôi chỉ là một cái gì đó mờ ảo. Và khi sáng mắt ra, thì tôi như thế này đây. Tôi chợt nhớ đến ông Cụ, không biết bây giờ ông như thế nào? Câu nói của thầy Vân về người bạn của mình văng vẳng bên tai “ Cái thằng danh không ham, lợi không muốn mà lại đút đầu vào“. Ông Cụ đút đầu vào để làm gì nhỉ ? Tôi nhớ anh Văn, anh Nam. Tôi không biết tại sao số phận của một người tài hoa như các anh mà lại thế? Dù anh chết vì lý do gì, nhưng ít ra đây cũng là một thái độ để chứng tỏ anh tự chủ được cuộc đời mình. Tôi nhớ thầy Nhiển với những giòng chữ thầy viết trên bờ tường bằng gạch non, bằng than củi. Tôi biết đó là nhiệm vụ, nhưng là một nhiệm vụ tự nguyện. Nó thể hiện một sự khát khao của chính bản thân thầy và niềm khao khát ấy hòa vào nỗi khát khao của cả một dân tộc. Ôi ước chi tôi được như thầy. Thầy ơi con cắt dán, viết, vẽ không biết cơ man nào là lần câu khẩu hiệu Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do, nhưng với sự bình thản đến lạnh người. Cũng như bây giờ con đang bình thản chờ đợi một số phận nghiệt ngã cho chính mình. Một con người hoàn toàn mất tự do. Những suy nghĩ sai trái thì không dám đã đành, nhưng những suy nghĩ đúng thì lại càng không. Bởi vì, một ngày nào nó lộ ra bằng một cử chỉ thôi cũng đủ để đi tong. Đầu óc tôi chắc thành bình vôi mất.
Tuy vậy, tôi không bao giờ có ý nghĩ sẽ ra trình diện ở một đồn Công An nào đó. Và tôi bình thản chấp nhận cuộc sống vong gia thất thổ và xem như đây là lần đầu tiên. Tôi tự quyết định cuộc đời mình. Một quyết định đầy âu lo.
Bổng dưng, tôi lại đặt ra một câu hỏi. Tôi là cái gì trong chế độ này? Hỏi tất nhiên phải tìm ra câu trả lời. Và nó có ngay thôi. Dưới mắt của chế độ mới. Những thằng như tôi, như chúng tôi là cặn bã, thậm chí là thú vật. Hãy đọc những gì họ viết. Thằng lính ngụy nào cũng giết người như ngoé, ăn hối lộ thầy chạy, tàn ác vô song, dốt nát tận cùng và thằng nào bộ mặt cũng câng câng và không thằng nào đẹp trai cả, nên nếu có vợ thì cũng ép buộc, hãm hiếp người ta. Nếu có thằng nào coi được được một chút thì là có mẹ cha tập kết, không thì cũng phản chiến, nội tuyến. Không tin đọc sách báo, phim ảnh xem. Tôi có như vậy không nhỉ? Chắc là có thôi. Cảnh Sát ngụy mà. Còn trong sinh hoạt hằng ngày ư? Không cần phải nói ra. Cứ nói mình là lính ngụy đi thì sẽ được bôi tro trát trấu cho bằng thích.
Tôi lại nhớ đến những câu thơ của cụ Phan Khôi. Ông già hay thật:
Làm sao cũng chẳng làm sao?
Dẫu có bề nào cũng chẳng làm chi?
Làm chi cũng chẳng làm chi?
Dẫu có bề gì cũng chẳng làm sao ?
Ông đặt ra những tình huống xấu nhất nhưng không cụ thể và bình thản chấp nhận hậu quả của nó như một sự khẳng định. Tôi nhớ lại và vận vào mình như một sự liều mạng. Tôi không thể và chẳng bao giờ xứng đáng là một “Hậu sinh khả úy“. Ba mươi mốt tuổi, tôi vẫn là một thằng trẻ con già háp.
Một tháng sau, tay nhà thầu bỏ đi vượt biên. Thế là tôi lại quay về tá túc với một người cô khác có chiếc tàu đò chạy đường Rạch Giá, Long Xuyên. Ăn tại tàu, ngủ tại tàu. Ở bến Long Xuyên thì còn lên chợ đi tới đi lui. Về Rạch Giá thì quẩn quanh tại chợ cầu tàu Mỹ[ii] mà phải ngó trước, dòm sau.
Tình hình lúc này khá phức tạp. Khmer đỏ tràn vào Hà Tiên. Tiếp đó Trung Quốc đưa quân vào các tỉnh phía Bắc. Có rất nhiều điều để nói về những sự kiện này. Tôi không hiểu tại sao lại thế? Quả tình là tôi ngu thật. Đúng. Tôi ngu thật. Và tôi thực sự lo sợ, nếu như cuộc chiến này không được nhanh chóng giải quyết. Thì những thành phần như tôi tiêu là cái chắc. Bọn theo đóm ăn tàn sẽ không tha tôi, bởi vì tôi không thể đồng hóa được với họ. Với lại dù sao tôi cũng đã từng có một thời gian làm cho Ty An Ninh Nhân Dân và Thông Tin Văn Hóa dù chỉ là một tên cầm cọ để vẽ lên những thứ được sai và làm lấy rồi. Còn chạy theo mấy ông Việt Cộng thì chắc cú là mấy ông này sẽ chẳng tin tôi. Lần đầu tiên trong đời tôi thật sự lo lắng đến một sự biến động về chính trị. Cái cảm giác bị cho ra rìa trở nên cụ thể hơn bao giờ hết. Nhất là cái đêm có tin đồn Khmer đỏ tràn qua Hà Tiên và đang kéo quân về Rạch Giá. Tôi chứng kiến cảnh ghe xuồng hoảng loạn tuôn xuống đặt kín cả sông. Rốt cục là tin vịt.
Những ngày lêu bêu, vong gia thất thổ này. Tôi mới nhìn thấy và cảm nhận được đầy đủ những sai lầm chết người của chính quyền mới trong việc điều hành đất nước. Thay vì chung tay xây dựng lại những đổ vở do chiến tranh thì họ lại làm cho mọi việc thêm bầy hầy. Là một tên lơ mơ, tôi ít khi quan tâm đến chuyện chung quanh, nhưng ác hại thay, nó diễn ra trước mắt. Nói một đàng làm một nẻo. Họ lên gân bằng cách tuyên bố Việt Nam không có thất nghiệp và để chứng minh nên có vô số những cơ quan được lập nên mà chẳng biết để làm gì. Chắc có lẽ để tạo công ăn việc làm. Điều này đã làm cho đất nước sống trong tình trạng vô luật pháp. Nếu có thì làm một thứ luật pháp dành cho người có quyền lực trong tay. Nền kinh tế đã kiệt quệ vì chiến tranh nay đã lên đến đỉnh điểm. Tất cả các ngành nghề sản xuất đều đình đốn vì máy móc, trang thiết bị cũ nát. Thiếu thốn nhiên liệu, nguyên liệu, vật tư. Sản xuất nông nghiệp được bơm vào bằng khẩu hiệu, bằng những chỉ tiêu cao ngất trời so với năng lực sản xuất. Công thêm vào là những chính sách quái chiêu, tập đoàn sản xuất, hợp tác xã để có cái mà ăn độn. Mà kiếm cái để độn vào cũng chẳng dễ dàng gì. Tôi không hiểu tại làm sao người ta đổ máu đổ xương để giành lại bằng được một đất nước, rồi thay vì bỏ hết hận thù, ngồi lại bên nhau, rồi cùng nhau xắn tay áo xây dựng lại những đổ vỡ của chiến tranh thì họ lại dìm nó trong phân hóa và đói nghèo. Lời kêu gọi hoà giải hoà hợp dân tộc mãi mãi mãi là lời kêu gọi chăng? Có phải lời kêu gọi ấy là lời xác định một sự phân hóa.
Tôi sống trên đất nước tôi như một kẻ mộng du trong một giấc mơ không bình yên. Nhưng với cái tính lơ đễnh của mình, tôi cũng nhanh chóng quên đi vì hai lẽ; thứ nhất tôi là kẻ ngoài lề, thứ hai, những trò chơi chính trị đã làm cho tôi ngán ngẫm. Thế xin miễn bàn. Nhưng cũng may sự kiện cũng nhanh chóng đi vào ổn thỏa. Trong khi đó các lực lượng chống đối chính quyền mới nổi lên, và giòng người rời bỏ quê hương lên đến đỉnh điểm, khi chính quyền mới cho phép tự đóng tàu để ra đi nếu nộp một số tiền vàng nào đó. Những chiếc tàu được đóng vội vả, máy móc lôm côm, người đông như nêm cối, tiền vàng chảy ra như suối và Hà Bá lại có thêm nhiều dịp để reo cười. Tôi hoàn toàn không hiểu, hay nói đúng hơn là không muốn hiểu những chủ trương này, lại càng không hiểu những người nôn nả ra đi. Cái viễn ảnh tươi đẹp không thể sờ được và cái hiện thực cụ thể thì nhọc nhằn. Một chiếc PCF của lực lượng hải quân, một chiếc tàu của thị đội cùng với tất cả thủy thủ đoàn. Ngoạn mục nhất là trưởng công an huyện An Biên, chủ tịch xã An Phước đem cả gia đình “to go oversea“. Cái này thì tôi điếc đặc. Từng một thời sống chết để bây giờ chức trọng, quyền to. Hét ra lửa, mửa ra khói. Thế mà họ ra đi. Để làm gì? Ai làm gì họ? Họ làm gì ai? Lý do họ ra đi tôi không hiểu được.
Có rất nhiều lý do khiên cưỡng được viện ra để cho những người cùng chung một bọc Âu Cơ từ chối nhau. Một cuộc tương phùng không vui vẻ lắm, để bây giờ thêm một chuyến phân ly. Không hiểu cách đây hơn bốn ngàn năm. Khi mẹ Âu Cơ dẫn năm mươi người con lên núi, cha Lạc Long Quân dẫn năm mươi người con xuống biển. Cuộc chia ly này có ngậm ngùi không? Chắc là có, vì dù sao cũng là anh em chung một bọc, nhưng không đến nổi đắng cay vì có lời thề Hẹn Ngày Gặp Lại. Nhưng bây giờ thì không ai dám nói. Vậy chắc là No see you again.
Biết bao nhiêu con người tàn lụi những hy vọng mong manh. Khi họ nghĩ rằng mình sẽ đóng góp một phần nào cái trí lực nhỏ nhoi để xây dựng lại đất nước và cuộc sống của mình. Nhưng rồi thay vì tạo điều kiện để họ toàn tâm toàn lực làm điều đó thì chính quyền mới chối từ bằnh hai cách: Tống họ vào trại cải tạo vì dính dáng với chính quyền cũ, đưa họ về nông thôn để làm những việc trời ơi, không dính dáng gì đến chuyên môn. Thế là họ dọt. Những tinh túy nhất của một thế hệ sinh bất phùng thời đành lựa chọn con đường thất thổ vong gia. Nếu chẳng may bị tóm thì bị đưa cải tạo với cái mác là phản quốc (!?).
Thỉnh thoảng có được dăm ba đồng, khi trời đã về khuya, tôi đi ra phố. Cái thị xã còn đầy dấu vết của tôi, những bảng hiệu, những panneaux cổ động… Tất cả đã nhạt phai màu sắc theo thời gian… Tất cả yên lặng trong màn đêm, nhưng hình như có mắt và đang nhìn tôi, chia sẻ với tôi. Tôi hít đầy lồng ngực cái không khí thân quen. Một gánh xôi bên nhà lồng chợ với một ngọn đèn dầu hiu hắt. Tôi đến mua một gói xôi. Khi đưa tay nhận gói xôi, trong cái ánh sáng lờ mờ tôi nhận ra cô be bé hát lớp Xuân Tình “Tống Tửu Đơn Hùng Tín” ngày nào. Muốn lên tiếng hỏi nhưng tôi kịp ghìm lại được. Thôi, mỗi người một số phận, có chia sẻ gì được cho nhau đâu mà nhìn. Tôi trả tiền, hơi ấm của gói xôi len vào lòng bàn tay làm cho cái đêm khuya bớt đi lạnh lẽo. Tôi cầm gói xôi trên tay đi loanh quanh ngoài phố, nghe bên tai đang rộn rả tiếng đàn kìm. Đi bán xôi đêm. Ôi cực nhọc thay, nhưng dù sao thì cô cũng thoát kiếp đọa đày. Nhờ ơn cách mạng chăng hay đã tàn phai hương sắc!?
Và tôi, lần đầu tiên cảm nhận được một cách rõ ràng nhất. Cái thị xã nhỏ bé này là của tôi, một phần rất lớn của cuộc đời tôi. Ôi. Hình như con người bao giờ cũng thế. Chỉ cảm nhận được cái giá trị đích thực của cái mình có khi nó sắp mất đi. Nhưng dù thế nào chăng nữa tôi cũng không bao giờ dứt áo ra đi. Thế là lời rủ rê vượt biên mới tác động được tôi chút ít, bây giờ nó bị triệt tiêu. Vĩnh viễn. Vâng. Vĩnh viễn. Tôi cố gắng hết sức để níu kéo những hình ảnh của thị xã này còn lại trong tôi. Tôi chợt nhớ ông cống Hiến. Không hiểu bây giờ ông ấy ra sao? Và khi nhìn thấy cái bằng Cử Nhân Sử Địa. Ông nghĩ gì về sự cố gắng cuối cùng của mình. Với kiến thức ấy, ông hiểu ra sao về lịch sử và đất nước của mình, về những con sông, giòng suối, rặng núi, triền đồi, những làng mạc, phố phường với những con người đã hiện diện trên đó từ những bốn ngàn năm. Nhưng có một điều tôi biết chắc là ông đã tri thiên mệnh. Tôi nghe văng vẳng lời ông nói ở Grival ngày nào “Chà cái hỗn danh “cống Hiến” này nghe hay đấy, nhưng cống hiến được gì cho ai đây?”. Tôi cũng như ông, cố gắng biết bao nhiêu và ưỡn ngực tự hào với cái hỗn danh “ ông Văn Sử Địa”. Và bây giờ tôi hiểu ra rằng đã là hỗn danh thì vẫn là hỗn danh. Chẳng ra cái tích sự gì? Những điều tôi biết chẳng qua là để nói dóc nghe chơi.
Tôi trở về, nằm trên mui tàu nghĩ vẩn vơ về những khó khăn của mình và không lối thoát, chỉ có một con đường duy nhất dành cho tôi. Nhưng quả tình tôi không đủ can đảm để lựa chọn. À không. Để chấp nhận. Có một thoáng phiền trách cuộc đời, chỉ một thoáng thôi. Sự khởi đầu của cuộc đổi thay những tấm lòng, xem ra không đơn giản. Tôi lại lan man nghĩ về những thứ chẳng liên quan gì đến mình và nó cũng đã qua rồi. Chiến tranh. Cái từ vừa mới nghe qua xem ra cũng không có gì ghê gớm lắm, nhưng khi đã trải qua thì mới thấy hết những hãi hùng của nó. Từ ngày nhân loại có tư duy, cuộc sống càng ngày thêm nhiều thuận lợi, nhưng điều này tỷ lệ thuận với những bất trắc, mà hầu hết những bất trắc ấy do con người tạo nên với cái chiêu bài mới nghe qua rất đúng, nhưng nghĩ lại thấy buồn cười. Lập Một Trật Tự Mới Cho Cuộc Sống Tốt Đẹp Hơn. Chỉ riêng trên đất nước này đã xảy ra bao nhiêu cuộc chiến tranh với cái chiêu bài ấy. Tất nhiên các thế lực xâm lược lại là kẻ sử dụng mạnh mẽ nhất cái chiêu bài này. Những thành bại của các thế lực đối kháng nhau thì không là gì cả. Nhưng trong quá trình thành bại ấy thì có bao nhiêu tan tác phủ chụp xuống nhân loại. Sự phân định của địa giới quốc gia chỉ mang tính tượng trưng. Nhưng sự phân hóa của lòng người mới là một điều vô cùng kinh hãi. Nó hiện diện trong lòng người, nó làm cho bà chị đố kỵ với ông anh dù rằng họ cùng chung tiếng nói, màu da. Thậm chí chung cùng một bụng mẹ. Ai ai cũng nhìn thấy và nhận ra. Nhưng không ai tránh được, chẳng những thế khi mà thấy mình trên cơ một chút là hò hét um sùm, rồi làm cho mọi thứ trở nên tầy huầy ra và hậu quả thì chỉ có những người còn lại, với cõi lòng tan nát, mới biết nó cay đắng ra sao? Ai làm cho cuộc sống của nhân loại mất trật tự. Con người. Ai tái lập lại trật tự. Con người. Trong quá trình làm mất và lập lại trật tự ấy có rất nhiều những Con Người Biết Giữ Gìn Trật Tự bị hy sinh.
Nhưng thôi, cuộc sống vốn là sự đổi thay. Đã qua rồi cái thời đổi thay bằng máu lửa. Hãy bắt đầu hy vọng vào sự thay đổi của những tấm lòng. Nhưng đợt đánh tư sản lần thứ hai, không ầm ào dữ dội như lần trước. Nhưng hậu quả thì không lường. Đường phố quạnh hiu, phố xá tiêu điều và ruộng vườn thì xơ xác. Tệ nạn tham nhủng đang lấn sân. Không biết cái này có phải là tàn dư chế độ cũ không nhỉ ?
Dù mới hiểu lỏm bỏm về chủ nghĩa Cộng Sản qua sách vở, nhưng tôi cũng nhận ra ông Kark Mark có lý. Thế Giới Đại Đồng là một kết hợp của tuyệt đại đa số những thành viên có chung một tấm lòng. Nhưng trong quá trình đi tới một xã hội như thế tôi thấy có cái gì đó không ổn. Hình như là đi nhanh và đi mạnh quá mà lòng người thì chưa quen? Khi ai đó hỏi ông Kark Mark “Xã hội cộng sản chủ nghĩa ra làm sao? ” Ông Kark Mark trả lời “Hãy sống tới đó đi rồi sẽ biết“. Câu trả lời nghe sống nhăn như là nói đùa. Nhưng ở đó bao hàm một nhân sinh quan hòa bình không chê vào đâu được. Tự thân của những quan hệ xã hội sẽ loại trừ dần cho đến hết những điều không phù hợp với cuộc sống đương đại, trong đó mọi biện pháp và các quyền lực chế tài sẽ không còn cần thiết nữa và nó cũng bị loại trừ nốt. Trong quá trình đó chính trị mang tính hỗ trợ chứ không phải là tính chủ đạo. Xã hội cộng sản chủ nghĩa sẽ hình thành. Và hình thái của xã hội đó nó ra làm sao? Khó lòng mà tiêu liệu. Bởi vì lấy cái quan điểm của hôm nay, dù rằng đã có một tiền đề rất thuyết phục, mà khẳng định một hình thái của tương lai là khiên cưỡng. Vô cùng khiên cưỡng, thậm chí tào lao. Cũng chính câu nói đó lại phủ nhận toàn bộ những gì mà các học trò ông nhận xét về chủ nghĩa tư bản. Họ cho rằng giới tư bản càng lúc càng giàu thêm, người lao động càng lúc càng nghèo đi. Người ta đã quên hay cố tình quên là quan hệ xã hội sẽ tự điều chỉnh quá trình đi đến chủ nghĩa cộng sản, trong đó có quá trình hoàn thiện chủ nghĩa tư bản. Họ cũng quên luôn là chủ nghĩa tư bản là cuộc sống hiện thực trong khi chủ nghĩa cộng sản là mộng mơ và là mơ mộng rất, rất có khả năng trở thành hiện thực. Có thể nói đây là một sai sót duy nhất của quá trình hiện thực hóa chủ nghĩa Cộng Sản, nhưng lại là sai sót chiến lược. Từ đó, sau những chiến thắng vĩ đại, đã thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và sau đó là kế hoạch hóa tất cả mọi thứ và thiết lập một quan hệ xã hội hoàn toàn không phù hợp với cuộc sống đương đại. Họ phăng phăng lao về phía trước, phủ nhận gần như toàn bộ những thành tựu của quá khứ, chỉ chừa lại những thứ mà người ta cho là phù hợp với quan điểm mà họ vừa thiết lập. Và họ tin họ sẽ thành công. Một sự thành công dưới áp lực của chuyên chính vô sản của bạo lực cách mạng (!?).
Tại sao lại có một khẳng định chắc cú thế kia? Một bước tới thiên đường ư? Ông Kark Mark và các đồng chí cùng thời với ông hoàn chỉnh “Duy Vật Biện Chứng“ với ước mơ tiến đến xã hội cộng sản chủ nghĩa bằng trái tim. Hướng quan hệ xã hội đi về hướng tích cực. Nhưng những học trò của ông thực hiện thì bằng ý chí. Nhanh, mạnh và triệt để. Thiết lập ngay tức khắc một quan hệ xã hội hoàn toàn mới. Và dục tốc bất đạt. Thay vì sử dụng liên minh công nông, một lực lượng cực mạnh mà họ tạo dựng được, để đẩy mạnh phát triển kinh tế làm chìa khóa đi đến tương lai thì họ lại biến sức mạnh vô địch ấy làm nhiệm vụ chính trị và cả biện pháp chuyên chính, bạo lực để thiết lập tức thì một quan hệ xã hội mà chính liên minh ấy hoàn toàn không thích nghi nổi với những gì mà mình thiết lập. Nhưng thôi, việc ấy không phải là của tôi. Đối với tôi, cái làm tôi kinh hoàng nhất là chiến tranh, bây giờ đã hết rồi. Hoà Bình và Chuyên Chính và người chết không bình thường vẫn tiếp tục, và máu đã đổ, đang đổ và còn tiếp tục đổ nếu Chủ nghĩa Cộng Sản còn tồn tại.
Tôi tin chủ nghĩa Cộng Sản, thậm chí thích thích nữa là khác. Nhưng tiến tới đó bằng cái kiểu này quả lôm côm, quá tàn ác này. Nhưng hiện thực thì sờ sờ trước mắt, nên có thể là mới quá nên không quen, nên thấy khó chịu. Mà phải khó chịu thôi. Bởi vì, hơn ai hết, những con người lâm vào hoàn cảnh như tôi mới có thể cảm nhận mình bị bóc lột, bị bòn rút như thế nào. Và mọi cái trở nên khó khăn. Ngoài ý chí của bản thân còn có sự trợ giúp của cộng đồng mà cộng đồng thì lại chia hai, một phần tự lo cho bản thân, một phần khác thì nhìn chúng tôi và phủ nhận. Nhưng nhu cầu tồn tại sẽ chỉ cho người ta biết mình phải cư xử như thế nào? Nên khi, cần sự đổi thay của mọi người, thì chí ít ra tự bản thân tôi cũng phải có những sự chuyển biến nào đó. Mọi người và tôi cần tương thích. Hay nói rõ hơn là tôi cần tương thích với mọi người. Có thể đạt được đấy nhưng không yên lòng. Cũng như không. Và tôi ngủ quên trên mui tàu lúc nào không hay. Cũng may trời tháng giêng không mưa.
Tàu không còn chạy tuyến Rạch Giá, Long Xuyên, mà chuyển về chạy Rạch Sỏi, Vĩnh Thuận hay Thứ Mười Một. Cũng hay, giòng sông Cái Lớn ngày ngày trải dài ra dưới mắt tôi. Những tháng ngày lênh đênh như thế. Tôi một lần nữa cảm nhận về giòng sông mà cuộc sống của tôi luôn luôn không thể tách rời. Đúng là ngàn đời giòng sông vẫn thế. Sóng vẫn thì thầm đến bất tận, những bông lục bình tím ngát, những rặng lá dừa nước lấp loáng ánh nắng, ánh trăng. Nhưng giòng sông hình như xa lạ với tôi. Tôi bổng nhớ chuyến vượt sông ngày ấy. Nhưng không còn có cái cảm giác gai gai ốc nữa. Một ý nghĩ điên rồ nhưng thèm muốn biết bao. Hãy cho tôi vượt sông một lần nữa. Để giòng sông tiếp nhận tôi vào lòng và dắt dìu tôi vào cõi sống vĩnh hằng. Nhưng cái cảm giác những sóng nước nhấp nhô, xô phủ vào người trong suốt cuộc hành trình trở lại, mơn man tâm hồn tôi mà không mang theo những nguy hiểm chết người. Thế mà trên những chuyến theo tàu như thế, những cảnh đời oái oăm làm cho lòng tôi tê dại. Những trạm thuế và cán bộ của trạm luôn luôn là nổi kinh hoàng của những người qua lại. Tất cả mọi thứ thuộc dạng hàng hóa đều bị tịch thu, bất kể là chở ra hay chở vào, số lượng ít nhiều, miễn là nó đang di chuyển. May mà chưa có một trạm thuế nào đặt giữa hủ gạo bếp lò. Số phận của những món hàng ấy ra sao có trời mà biết. Số phận của những người có hàng hoá bị tịch thu thì nghèo khó và sau đó là thêm những khó nghèo. Còn các cán bộ trạm thì… Những tiếng khóc, những tiếng kêu trời, kêu đất làm tôi đau nhói. Đã bao lần tôi buộc miệng chửi thề “ĐM. Bọn này tàn ác thật… còn hơn là ăn cướp“. May mà chẳng ai nghe. Nhưng rồi, sau là sự chai lỳ. Hơi đâu mà xót cho người xa lạ trong khi bản thân tôi chỉ là một thủy thủ cơm. Một loại thủy thủ không lương. Bữa đói, bữa no, tương lai mù mù như đít chó mực.
Những đêm nằm trên mui tàu, tôi nhớ lại những gì mình đã trải qua, những gì mình đã thấy, đã nghĩ. Tôi hoàn toàn không hiểu tại sao mình lại như thế này? Và lại càng không hiểu tại sao đất nước lại tơi tả như thế này? Tại sao một dân tộc khởi đầu cuộc chiến tranh đánh đuổi thực dân Pháp bằng những cây tầm vông vạt nhọn. Bắt đầu cuộc giải phóng dân tộc, đánh đuổi đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước bằng những cây súng ngựa trời. Liên tiếp hai cuộc chiến tranh không cân sức. Và đã thắng, một thắng lợi vĩ đại. Thế mà bây giờ người ta lại xây dựng một đất nước hoà bình bằng những cảnh trì độn, tréo ngoe. Bổng nhiên tôi nhớ lại những lời nói cay cú của Bác Chín Phước, câu nói móc họng của dượng năm, chuyến đi xay gạo bốn năm ngày và những cảnh mà tôi gặp hàng ngày ở các trạm gác. Không hiểu? Thật tình tôi không hiểu. Cái gì đã làm cho đầu óc của những người lãnh đạo của chính quyền này mịt mờ như thế. Men chiến thắng chăng? Có thể lắm. Nhưng say chi mà lâu thế nhỉ? Những lần như thế, tôi lại ngủ dưới sao đêm. Nhưng rồi tôi cũng hiểu ra là không phải chỉ một mình tôi, mà có rất nhiều người, nếu không muốn nói là cả một dân tộc, đang sống như thế, nghĩ như thế và buồn như thế. Có khác chăng là mỗi một con người đều có cách cảm nhận riêng và giải quyết riêng và một nỗi buồn riêng. Và làm cho người ta khô héo lại. Nhưng ở trên cao cao kia vẫn cứ khẩu hiệu, cứ hô hào, cứ say say men chiến thắng.
Cuộc sống phập phều của tôi cứ thế trôi đi như những vạt lục bình héo úa. Một số nhu cầu nho nhỏ hàng ngày dạy tôi những trò láu cá vặt. Và khi tôi mới mon men thực tập vài chiêu thì… tôi gặp Út Giữa. Cuộc gặp bất ngờ. Không biết, cô ấy lên tàu từ lúc nào. Khi tàu ra khỏi vàm Tà Niên, lúc đó tôi ngồi trên mui tàu, thì Út Giữa đến và hỏi :
- Anh hai Hiền đó phải không ?
Tôi nhìn cô ngờ ngợ. Nhưng không tài nào nhớ ra. Cô lên tiếng, giọng đon đả :
- Út Giữa nè, bộ anh hai quên em rồi hả ?
- Út Giữa. Xin lỗi tôi gặp cô ở đâu?
- Xời ơi. Hồi đó anh băng bó cho em. Sau em tìm ra nhà trả lại cho anh cái mền đó. Bộ anh hai quên thiệt hả?
- À. Nhớ ra rồi. Cô út lúc này ra sao rồi?
- Việc của em không phải nói. Việc của anh hai mới đáng bàn hơn.
Tôi hơi lạ lẫm với cách nói chuyện của Út Giữa cũng như cách ăn mặc của cô với cái quần tây và cái chemi trắng, được may bởi người thợ thì không mấy khéo tay. Nhưng cũng may chưa có lớp phấn hồng. Mà tôi lo hảo. Lúc này tìm thứ đó ở đâu? Nhớ lại lần đó cô ra tìm tôi, đâu có như thế này. Cô gái quê của ngày nào, hãy chuyển đổi từ từ thôi nhé. Son phấn dù tốt cách mấy, bản chất vốn đã giả tạo rồi, mà son phấn chất lượng giả lại càng thảm thê hơn. Ô, tại sao tôi lại nghĩ thế. Cô ấy có gì đâu? Chỉ là bộ quần áo khác xưa thôi mà. Tiếng Út Giữa lại vang lên trong tiếng phần phật của gió, tiếng ầm ì của máy tàu.
- Anh hai, anh làm sao vậy? Vừa nói Út Giữa vừa hất mái tóc sang bên trong cái kiểu cách tự nhiên và để lộ ra một vết sẹo to tướng. Cũng may tôi kịp trấn tỉnh và không để lộ một sự ngạc nhiên nào. Tôi vội trả lời :
- Không sao cả. Chẳng qua gặp cô Út hơi bất ngờ.
- Thôi không nói chuyện đó nữa. Anh hai bây giờ hơi kẹt đó nghen. Mấy lần em ra nhà tìm anh hai, mà những người chung quanh nói cái gì đâu không hà. Nhưng rồi em cũng biết hết. Nhưng anh hai đừng lo, em mắc anh hai một món nợ. Em phải trả, anh hai không được từ chối nghen. Lát nữa đến Xẻo Kè anh hai ghé nhà em chơi cho biết. Nhớ nghe. Có rất nhiều chuyện em sẽ nói cho anh hai nghe. Thôi em xuống dưới đây. Để thằng nhỏ ở dưới một mình lâu quá không được.
Tôi chưa kịp nói gì thì Út Giữa vụt đi. Thật sự tôi không thể nào hiểu nổi, cái chuyện gì đã xảy ra với Út Giữa như thế. Nhưng dù sao cái cung cách nhà quê đáng mến của ngày nào vẫn còn, gần như nguyên vẹn. Khi tàu qua khỏi Xẻo Rô. Cô leo lên mui ngồi cạnh tôi, nói huyên thuyên hết chuyện này sang chuyện khác. Thỉnh thoảng lại đưa ra lời mời vào nhà. Tôi không hiểu chuyện gì là chuyện gì. Như là một tên cùng đường. Tôi chỉ ậm ừ và thỉnh thoảng cười cười cho phải phép. Cuối cùng, không rõ trời xui đất khiến thế nào mà khi gần tới Vàm Xẻo Kè. Tôi quyết định đi. Không phân vân, không đắn đo. Sau khi nói với mấy đứa em, con của cô tôi. Không hiểu sao tôi không một thắc mắc nào về việc gia đình của cô cũng như cái quan hệ của cô với thằng bé. Có lẽ con người tôi đang khô cứng lại rồi đây, cái cảm giác vượt sông ngày nào trở lại và lần này thì tôi thực sự kinh hoàng. À không. Không phải thế, chính là một thời gian thật dài tôi phải và đang bập bủng bơi qua giòng sông đố kỵ, mà bến bờ thì không biết là đâu, có lẽ vì thế mà tôi bấu lấy cái phao bụp bè này chăng? Tôi buớc lên vàm Xẻo Kè với một bộ đồ duy nhất trên người, rồi cùng Út Giữa tìm xuồng có giang vào nhà. Suốt đoạn đường gần hai cây số tôi không nói một lời nào. Việc cô ấy lúc này lại không nói gì thì tôi không biết tại sao? Nhưng tôi không nói gì là bởi vì… trong túi còn có bảy đồng và tôi nghĩ thằng bé là con của Út Giữa. Tôi không biết phải hỏi cô ấy ra sao về việc gia đình? Nghĩa là tôi hoàn toàn không còn kiểm soát được mình. Thậm chí những lời trao đổi giữa cô và người bơi xuồng cho có giang, tôi cũng chẳng nghe. Khi quyết định vào đây. Cô ấy nói gì thì tôi nghe vậy.
Một căn nhà lá nằm phía sau cái sân rộng, tất cả khá tinh tươm. Ngôi nhà nằm cho vơ một mình mà ngôi nhà gần nhất cách khoảng chừng mười công bề đứng. Út Giữa mở cửa mời tôi vào nhà. Đơn giản như mọi căn nhà của vùng quê, nhưng có sự chăm sóc chu đáo ở đây. Tôi chưa kịp nói gì thì thằng bé lên tiếng hỏi út Giữa :
- Ông này là ai mà vô nhà mình vậy má?
- Con chào cậu đi. Cô không trả lời mà bảo thằng bé.
- Con chào cậu. Cậu có phải là ba không má? Thằng bé hỏi.
Tôi nhận thấy mặt Út Giữa đỏ lên. Tôi vội nói:
- Cậu chớ không phải ba. Cháu đến đây cậu bảo.
Thằng bé khá dạn dĩ, nó đến gần, tôi xoa đầu nó:
- Cháu đi học chưa ? Tôi hỏi một câu thừa. Thằng bé tối đa là bốn năm tuổi.
- Ba cháu đâu ? tôi hỏi tiếp
- Cháu không biết. Thằng bé chỉ trả lời câu sau.
Mang cho tôi ca nuớc mưa, rồi Út Giữa bắt đầu kể cho tôi nghe. Sau khi ra tìm tôi ở Rạch Giá về. Cô có chồng là một du kích xã. Cả hai ra chính quyền cách mạng đăng ký. Rồi thôi. Không làm lễ cưới tiệc tùng, không cha mẹ hai bên, không cả hôn thơ, hôn thú. Gia đình hai bên quắt quay trong giận dỗi. Sau đó, chồng cô khám phá ra cô thẹo vít đầy mình. Nhất là vết sẹo trên mặt được che kín bởi lọn tóc. Những lọn tóc ấy đã làm cho say đắm ban đầu bùng lên và phía sau những lọn tóc đó lại làm cho cái ban đầu tắt ngấm. Một tháng sau chồng cô bỏ đi bộ đội và hy sinh lúc nào cô chẳng biết, nhưng cũng kịp để lại cho cô một đứa con. Ngày 30.4, mọi người nô nức trong niềm vui trùng phùng, thì cô ấy tay bồng đứa con vừa giáp thôi nôi và đón nhận tin chồng đã hy sinh. Cuộc sống đẩy đưa cô vào cuộc sống khá khó khăn. Không đuợc gia đình bên chồng thừa nhận. Cha mẹ cô thì quá nghèo. Thế là tay xách nách mang làm thuê, làm mướn nuôi con. Nhờ được đưa vào diện chính sách. Cô được chính quyền mới cấp cho cái nhà và năm công ruộng. Từ đó cô rời Hốt Hỏa về Xẻo Kè làm ruộng, nuôi gà, nuôi vịt, nuôi heo để nuôi mình, nuôi con. Thấy cô khấm khá cũng có một vài người đeo đuổi, nhưng khi thấy vết sẹo kia thì bọn họ bỏ giò chạy mất. Ngoài công việc ruộng nương thỉnh thoảng cô ra Rạch Giá mua món này, bán món kia cũng kiếm thêm ít đỉnh. Út Giữa kể cho tôi mà nước mắt lưng tròng, cô nói:
- Không có ai tốt hết anh hai ơi. Bây giờ, hai mẹ con em sống như vậy thì cũng được đó, nhưng nếu em mà đau yếu hay bệnh hoạn gì thì chết hết cả hai.
- Cô út nói vậy chớ còn hàng xóm láng giềng nữa, ai mà nỡ bỏ cô. Tôi an ủi cô.
- Anh hai nghĩ coi. Nhà này cách nhà kia gần cả chục công đất, nửa đêm nửa hôm, cô bác hay được thì em lạnh ngắt rồi.
Nghe út Giữa nói mà tôi muốn lạnh xương sống. Cô lại tiếp
- Tự nãy giờ, em biết anh hai lo lắm, nhưng không sao đâu? Cái xứ này người ta nghe chuyện anh hai giúp em. Mọi người biết hồi lúc chưa tiếp thu kìa, chớ hổng phải mới đây đâu? Ai cũng nói anh hai lính ngụy mà như vậy là tốt lắm. Thôi anh hai nằm võng nghĩ nghe, em đi nấu cơm. Cũng may mấy con heo bán hết rồi. Em tính mua heo con lại, nhưng chưa tìm được heo tốt.
Út Giữa quày quả ra nhà sau. Còn thằng bé tự nãy giờ ngồi nhìn Út Giữa nói chuyện với tôi, bây giờ thì nhìn tôi ;
- Cậu ở đâu vậy ?
Tôi cười nhìn nó. Thằng bé trông khá kháu khỉnh, sạch sẽ chứng tỏ được sự chăm sóc đàng hoàng. Không có vẻ nghịch ngợm của trẻ con. Có lẽ không có bạn bè cùng lứa. Tôi không biết phải nói gì với nó. Và cũng không biết tại sao tôi lại chui vào đây. Nhưng rồi tôi cũng cố gắng vận dụng cái tính mê trẻ con đã lâu rồi không sử dụng, và tôi cũng không tồi. Chỉ một thoáng thôi là hai chúng tôi đùa giỡn với nhau thoải mái. Thằng bé tên có cái tên nghe ngồ ngộ, thằng Bỏ. Tôi hỏi nó sao có cái tên nghe ngộ vậy, thằng bé trả lời một cách vô tư :
- Má nói tại ai đó bỏ má, nên má đặt tên con là Bỏ.
Tôi không thể nào nói được cái cảm giác của mình, chỉ có thể nói là trong lòng tôi có một cái gì đó nhộn nhạo, khó chịu. Nhưng tôi gạt qua một bên bằng cách tìm một trò chơi nào đó với thằng bé. Tôi lấy một cây que vẽ lên nền đất chữ i, chữ tờ rồi nói với thằng bé:
- Cậu dạy cho con học nghe?
- Học là làm sao. Hả cậu? Thằng bé mở to mắt hỏi.
- Là cho biết chữ để đọc sách và để làm nhiều chuyện khác.
Thằng bé cứ tiếp tục hỏi và tôi phải giải thích mãi và cuối cùng nó chịu học. Khi mà tôi xóa bỏ chữ I, tờ vừa mới viết, rồi thay bằng chữ b, a, chữ m, á. Cứ thế thằng bé con mới hơn bốn tuổi tỏ vẻ thích thú với cái trò chơi mới lạ này. Chỉ không đầy nửa tiếng nó thuộc được mấy mặt chữ. Tôi cũng không biết nó có thông minh không. Nhưng chắc chắn đó là tính tò mò của trẻ con. Tôi nghĩ nếu có ai đó chịu khó chỉ dạy chắc thằng bé học rất nhanh. Hai cậu cháu cứ viết viết, xoá xoá hết chữ này sang chữ khác. Cuối cùng thằng bé nói:
- Cậu dạy con chữ “má” thì con biết rồi. Nhưng chữ ba thì con không biết.
Không hiểu sao tôi lại nói:
- Cháu ráng học đi, rồi mai mốt cháu biết.
Út Giữa bưng mâm cơm ra tự lúc nào nhìn chúng tôi châu đầu vào nhau cứ cậu cậu cháu cháu. Nghe tiếng động, tôi quay lại và út Giữa đứng đó yên lặng nhìn chúng tôi. Khuôn mặt và đôi mắt ánh lên một một thần sắc rất lạ mà tôi không hiểu là gì. Nhưng tôi lại kêu thầm trong bụng “thôi chết mình rồi“. Cô luống cuống để mâm cơm lên bàn, rồi cúi xuống bồng thằng bé và mời tôi ăn cơm. Bữa ăn đơn giản nhưng thật tinh tươm. Tô canh rau đủ loại, hái quanh quanh đâu đó, một ui cá kho cũng nhiều thứ sặc, rô, lòng tong, cá chốt. Nhưng cái mà tôi thực sự thích thú là nồi cơm gạo trắng tép, những hạt cơm gạo trắng tép, trắng gần như trong suốt, nhỏ dài và đều tăm tắp, mềm mại và thơm thơm. Lâu lắm rồi tôi mới có một bữa ăn như thế này. Một cái không khí có vẻ như là một gia đình trẻ, vừa ăn Út Giữa vừa gắp đồ ăn cho thằng Bỏ và mời tôi món này, món kia. Cô gần như làm luôn tay, nói luôn miệng để cố gắng trấn áp một cái gì đó và tôi thì cứ yên lặng. Vừa ăn vừa nhìn ra cửa, nhìn buổi chiều dần xuống trên con rạch Xẻo Kè. Thỉnh thoảng có vài chiếc xuồng bơi qua, chậm rãi, bình thản.
Và rồi bữa cơm cũng xong. Trong khi mẹ con Út Giữa ở nhà sau, tôi nằm trên võng hút thuốc. Nghĩ đi, nghĩ lại tôi thấy mình quả là hơi liều, không một mảnh giấy lộn lưng. À không, có chứ. Một giấy chứng nhận là công nhân của cục Doanh Trại Quân Khu 9. Nhưng không biết là có hù ai được không? Vào nơi này, nếu lòi cái đuôi lính ngụy ra là xong. Liệu cái quá khứ mấy tháng làm giao liên của Út Giữa có đủ để che chắn cho tôi không, với lại nhà người ta mẹ góa con côi. Đúng là tôi liều thật. Nhưng thôi, mình có quyết định được gì cho cuộc đời mình đâu. Cứ xem đây như là một quyết định vậy. Tôi chợt nhớ tới mái tóc của cô ấy, đầy, dài khỏi thắt lưng và óng mượt. Khi quyết định vào đây thì tôi không hiểu tại sao mình làm vậy, nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu. Chính mái tóc ấy cuốn tôi theo. Màn đêm dần xuống và đàn muỗi thức dậy bắt đầu cuộc sống của nó. Ở vùng này có sự phân chia khá rạch ròi giữa muỗi và người. Cũng như phía bên kia sông Cái Lớn thời chiến tranh vậy. Ngày Quốc Gia, đêm Việt Cộng. Bây giờ bên ấy thì đã hết rồi nhưng bên này thì vẫn vậy. Muỗi và người.
Út Giữa mang ra một cái lò un, rồi thắp đèn. Cô nói với tôi :
- Phải có cái lò un mới được anh hai ơi, ở đây muỗi dữ lắm. Anh nằm chơi nghe, em dỗ thằng Bỏ ngủ xong em ra giăng mùng cho anh hai. Nó ngủ mau lắm.
Nói xong cô ra sập cái cửa xuống, rồi vào buồng. Tôi nằm yên không nói gì, mà thật ra thì không có gì để nói. Út Giữa mời tôi vào đây với một lý do không rõ ràng. Tôi nhắm mắt theo vào mà không biết để làm chi. Tôi quanh quẩn với cái ý nghĩ “mình liều thật“ không biết bao nhiêu lần. Mẹ con Út Giữa nói gì đó tôi nghe tiếng được tiếng không, rồi muốn đi tắm mà không biết làm sao? Nước dưới sông thì mặn chát.
Nhưng rồi Út Giữa cũng bước ra. Cô nói với tôi:
- Tự nãy giờ lu bu, quên chỉ chỗ cho anh hai tắm. Thôi anh hai ra sau hè, em chỉ cho.
Cô lại trở vào buồng lấy ra một cái khăn tắm, một cục xà bông. Tay với lấy cây đèn rồi bảo tôi :
- Đi. Anh hai, ra đàng sau, tắm.
Tôi chỉ mặc có một bộ đồ, và cứ để nguyên vậy đi theo Út Giữa. Cũng như mọi vùng quê khác, cái nhà tắm chỉ là bốn miếng vách dừng bằng lá dừa nuớc. Út Giữa xô cửa rồi đưa cho tôi cục xà bông và cái khăn. Khi thấy tôi chỉ có một bộ đồ cô cười rồi bảo;
- Anh hai cứ tắm đi, em vô lấy cho anh hai cái quần cụt. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Ở đâu mà cô út có sẵn vậy.
- Của em. Quỷ anh này, bộ anh nghĩ là của ông nào hả. Có ông nào dám tới đây đâu. Em có mấy cái. Nhờ vải bán chế độ, may dư, bỏ thì uổng em mót lại may mấy cái quần cụt để ban đêm mặc ngủ cho mát.
Út Giữa quay vào. Tôi chờ một lát không thấy ra. Thôi tắm vậy. Thế là tôi phải mò mẫm trong cái ánh sáng nhờ nhờ. Đã bao lâu rồi chuyện tắm táp của tôi là phóng xuống sông, nước ngọt đã đành, nước mặn cũng chơi luôn. Nó không còn là một hạnh phúc mà cơ thể có quyền đòi hỏi phải đáp ứng. Ở đây chắc cũng thế. Nhưng không phải vậy, một làn nước mát, một cục xà bông, một không gian yên tỉnh… Mình mẩy hết nháp nhúa, tóc tai sạch bon, đầu óc nhẹ nhàng, mùi xà bông làm cho bọn muỗi tránh xa. Khi tôi vừa mới lau xong thì một cánh tay đưa cái quần cụt:
- Quần cụt nè anh hai.
Tôi cầm lấy cái quần cụt và mang luôn vào người một thứ cảm giác là lạ. Út Giữa lại lên tiếng :
- Anh hai để quần áo đó rồi vô mùng ngủ nghe. Chút xíu nữa em tắm, rồi em giặt luôn cho. Anh hai không quen muỗi cắn chết.
Tôi im lặng làm theo, rời nhà tắm với độc cái quần cụt trên người đi vào nhà. Cầm đèn đưa tôi vào nhà, rồi Út Giữa trở ra. Tôi thấy cái mùng đã giăng sẵn trên bộ ngựa. Tôi lên võng nằm một lát, nhưng muỗi quá đành chui vào mùng, vừa chui vào tay tôi chạm phải cái poncho laine. Trời lúc này không lạnh lắm, nếu không muốn nói là nóng. Vậy cô ấy mang nó ra để làm gì? Hay là một sự nhắc nhớ. Cô này ghê thật. Có một cái mùi gì đó rất lạ không biết từ đâu. Nhưng tôi khó lòng phân biệt, bởi lẽ một thời gian quá dài tôi không ngủ ở một nơi nào nhất định. Mùng mền chiếu gối chưa bao giờ là của riêng mình. Nằm lăn qua lăn lại một hồi, đầu tôi vướng vào cái poncho laine. À thì ra cái mùi này xuất phát từ đây. Tôi chìm nghĩm tại đây mà tôi đâu có biết. Và trong bóng đêm tôi nằm ngó lên nóc mùng suy nghĩ vẩn vơ một lát giữa cái mùi lạ lẫm hay hay, cái mền là của tôi, nhưng cái mùi của tôi thì không còn nữa. Nghĩ một lúc rồi ngủ khi nào cũng không biết.
Tôi giật mình thức giấc khi có cảm giác ai đó đang bò ngang bụng. Tôi mở mắt ra và hết hồn khi thấy Út Giữa đang cầm đèn soi muỗi. Thấy tôi thức giấc Út Giữa nói rất tự nhiên:
- Anh hai ngủ lăn quá trời, muỗi vô nhóc một mùng luôn.
Tôi lồm cồm ngồi dậy tốc mùng toan chun ra ngoài, Út Giữa nắm vai tôi ấn xuống :
- Anh hai cứ nằm yên đó, còn mấy con nữa để em soi cho hết, anh hai chun ra, chun vô một hồi là anh hai hết ngủ.
Tôi lại phải nằm xuống, mà trong người cứ nhồn nhột. Cô ấy tự nhiên bò qua bò lại người tôi theo đường bay của mấy con muỗi. Nhưng rồi cũng qua. Khi Út Giữa giủ giủ mí mùng rồi bưng cây đèn ra ngoài. Tôi thở phào, tôi sợ mà chẳng biết sợ gì... Tôi lại nghe có tiếng cọt kẹt bên ngoài nhìn ra thấy Út Giữa đang khêu lại bếp un và ngồi đong đưa trên võng. Một lát tôi nghe cô hỏi nhỏ:
- Anh hai ngủ chưa anh hai?
- Tôi sắp ngủ đây. Sao cô không đi ngủ, không sợ muỗi à?
Im lặng một lát, Út Giữa ngập ngừng hỏi tôi :
- Em… em vô mùng nói chuyện với anh một chút được không anh hai. Ở ngoài này muỗi cắn quá.
- Được, cô út vào đi, tôi ra nằm võng.
Tôi toan chui ra khỏi mùng thì Út Giữa đã ngồi kế bên tự bao giờ, cô ngăn tôi lại, nói nhỏ:
- Anh đừng có ra ngoài, muỗi cắn chết. Em hỏi chuyện một chút thôi mà.
Tôi nín thinh. Cô lại hỏi tiếp:
- Bị công an bao nhà bắt, rồi anh đi trốn phải không ?
Tôi nghĩ thầm “Rồi tiêu luôn, mình chui vào rọ rồi“. Út Giữa chui vào mùng khẽ khàng ngồi cạnh tôi:
- Anh hai đừng lo. Chuyện này em biết lâu rồi, em biết lúc này anh hai khổ lắm. Em cũng biết anh đâu có làm gì sai đâu, chắc là tại anh hai là lính ngụy mà không đi cải tạo. Nhưng anh có trình diện đàng hoàng mà. Em tìm anh hai tới năm sáu lần mà không gặp. Nghe mấy người chung quanh nói mới biết. Hồi trưa thấy anh ở dưới tàu em mừng quá. Không biết làm sao mà giúp cho anh đây. Từ hồi chiều tới giờ, em nghĩ hoài. Bây giờ em nói cái này anh hai đừng cười nghen. Anh hai …
Bổng nhiên cô im bặt. Tôi hỏi:
- Cô Út sao vậy? Có gì nói đi.
Cô lại ấp úng :
- Anh hai ... anh hai giả bộ làm chồng em đi, em lên xã báo rồi xin nhập hộ khẩu cho anh hai. Ở trên xã em quen nhiều lắm, em lên là họ giúp hà. Việc anh hai giúp em, ở đây ai mà không biết. Mấy anh trên đó thấy em lấy anh chắc họ cũng không nói gì đâu.
Út Giữa nói một hơi cho hết cái ý nghĩ rất ư khó nói. Có lẽ cô ráng hết sức mình. Rồi sau đó như bình tỉnh lại cô rì rầm hết chuyện này sang chuyện khác. Hình như cô sợ rằng ngưng nói thì cô không biết sẽ làm gì. Cô ấy đã xem sự việc của tôi đơn giản như là nấu một nồi cơm và không lường được hết những hậu quả. Cuối cùng cô nói nhỏ, giọng như đứt quảng:
- Nghe anh hai, ừ đại với em một tiếng đi.
Tôi thực sự bối rối Một đề nghị rất dễ dàng chấp nhận cho một ngươi có hoàn cảnh như tôi. Nhưng với tôi thì không thể, nhào vô là dính chấu liền chớ giả bộ cái nỗi gì? Còn nói ra cái lý do để từ chối hay chấp nhận thì tôi biết nói làm sao đây? Từ chối thì sợ cô ấy cho là mình chê cô ấy thương tật, mà chấp nhận thì mình lại lo là lợi dụng lòng tốt của cô ấy. Không hiểu cái gì xui tôi lủi vào đây. Út Giữa nói như năn nỉ:
- Anh hai nghe em đi, anh hai ở lại đây, đâu có ai bắt anh đâu (?) Em biết, buộc anh phải ở với một người xấu xí như em là không nên. Anh hai chê em cũng được, chỉ giả bộ thôi. Anh hai cứ ở đây, chừng nào mọi việc yên ổn rồi thì anh đi đâu thì đi, em hổng có giận đâu. Kể như em trả ơn anh hai vậy.
Tôi cố chống chế:
- Út này. Anh hai đâu có chê cô út xấu đâu. Nhưng sự có mặt của anh trong nhà cô út, nó gây rất nhiều phiền toái. Trả ơn cho anh hai như thế mà làm gì? Ai gặp chuyện như thế thì cũng phải làm như vậy thôi chứ đâu riêng gì anh hai.
Giọng của Út Giữa như hờn dỗi.
- Anh hai không chê mà không chịu ở lại. Em có bắt anh hai ở với em luôn đâu. Cứ như vậy cho tới khi nào êm êm rồi thì tính. Miễn khi anh hai ở đây đừng làm những chuyện không đúng thì có ai nói gì anh hai. Ừ đại với em đi. Bắt đầu từ ngày mai ai hỏi anh hai thì em nói anh hai là chồng em. Rồi từ từ mình tính.
Chết tôi rồi. Cô vạch ra một kế hoạch rất đơn giản mà coi bộ rất quyết liệt. Tôi nói gần như năn nỉ :
- Út ơi. Cuộc sống không đơn giản như cô út tưởng. Khi mà mọi việc lùm xùm ra thì cô Út khổ biết bao. Chuyện của anh hai, can hệ gì tới cô Út. Với lại. Anh hai không quen ruộng nương, không biết bơi xuồng, chèo ghe. Anh hai chỉ biết ăn thôi, ở đây mẹ con cô Út sống đã vất vả rồi. Nay thêm anh hai nữa cô Út lo sao nổi. Thôi đi Út. Ngày mai anh đi sớm
- Không có đi à nghen. Mời anh vô được đây khó khăn lắm chớ bộ. Em tìm anh muốn rả giò.
Tôi nín thinh vì chẳng biết nói gì. Một lúc cô lại tiếp:
- Anh hai không cần phải làm gì cả. Chỉ cần anh hai dạy cho thằng Bỏ biết chữ là được rồi. Nghe anh hai. Bây giờ em nói thiệt. Em… em thương anh hai đó. Thương dữ lắm đó. Bộ anh hai hổng thương em sao?
Và như để cho tôi không từ chối nữa. Tôi nghe tiếng nút áo gấp gáp bật ra và Út Giữa đổ sập người xuống, ôm chầm lấy tôi. Sự quyết liệt của cô ấy đã lên đến đỉnh điểm và nó đang làm cho cô trở nên bất động. Nhưng có một thứ đang chuyển động trong thân thể ấy, đó là khát vọng yêu đương đang lan tỏa ra từ mái tóc với mùi hương của nó, cùng với hơi thở thơm tho, nồng ấm phả lên mặt tôi. Tôi cảm nhận được sự run rẩy của thân thể ấy. Rồi tất cả những gì cô có, những gì vừa xuất hiện trong cô bắt đầu lan tỏa sang tôi, êm đềm, cháy bỏng và uy lực vô song. Bao nhiêu sự kềm chế của tôi bị cái phức hợp tuyệt vời đầy uy lực kia tước đoạt sạch sành sanh. Như vô thức tôi tìm đến đôi môi đẹp đẽ và sau một thoáng ngập ngừng, nó đã hút tôi vào cơn mê đắm không có gì chống đỡ nổi. Một ý nghĩ lướt nhanh qua đầu “Trời ơi. Giả bộ mà như thế này sao Út. Cái gì làm cho em liều mạng thế. Không có người đàn ông nào khác cho em sao?” Nhưng rồi ý nghĩ đó bị đẩy đi về đâu mất biệt. Và tôi thật sự bàng hoàng trước sự đón nhận của cô. Trong ánh sáng chập choạng của ngọn đèn hột vịt, tôi thấy Út Giữa vừa cố gắng kềm chế, vừa buông thả xúc cảm của mình làm cho thân thể cô ấy run rẩy. Cuối cùng là đỉnh điểm của yêu đương làm nước mắt cô trào ra và cắn chặt răng để khỏi bật ra những tiếng kêu rên. Khi mọi việc đi vào yên ắng. Cô lại dụi đầu vào ngực tôi. Tôi ôm cô vào lòng và mân mê tấm thân tràn trề nhựa sống ấy. Xúc giác đã báo cho tôi những bất hạnh mà Út Giữa đã gặp phải trong cơn bão lửa ngày nào. Những vết sẹo gần như rãi đều khắp nửa thân người bên trái và tôi không hiểu có cái phép lạ nào đã làm cho cô sống. Nếu như không có trái pháo ấy. Thì với cái thân thể này, nhan sắc ấy và cái tính cách quê mùa, chất phác, chắc chắn sẽ đưa Út Giữa đến tận cùng của bến bờ hạnh phúc. Nhưng chỉ vì những thương tật của chiến tranh mà... Phải chi không có người khai mở những khát vọng ấy thì có lẽ Út Giữa đã không thế này. Mà có thể cô sẽ bằng lòng và sống lặng lẽ với số phận mình. Út Giữa gối đầu lên tay tôi, những giọt nước mắt của cô chảy xuống. Tôi đưa tay vén mái tóc rồi mân mê lên vết sẹo, nghiêng người đặt môi vào đó và tìm đến môi cô. Hơi thở cô nồng nàn, với cái cuống quýt vụng về khi hôn. Sự hưởng ứng nhiệt tình của Út Giữa đã xác tín lại tấm lòng chân thật của cô dành cho tôi. Tuyệt đối không phải là sự mồi chài mà lẽ đời thường áp đặt cho những cô gái góa chồng khi còn tuổi thanh xuân. Cô ấy đã bắt đầu xem tôi như là của riêng mình, sau khi tự biến cô thành là của riêng tôi. Lần ân ái thứ hai cách lần đầu không đầy hai giờ. Nhưng hoàn toàn khác biệt. Cô ấy hoàn toàn thông thuộc, cô đã chiều chuộng, đón nhận, dâng tặng cảm xúc không e dè và đầy ắp chân thành. Và ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn hột vịt ấy bổng nhiên rực rỡ cả lên. Không gấp gáp trong ái ân, mà từ tốn dịu dàng và nhìn ngắm thân thể của nhau. Cùng lắng nghe những xúc cảm choáng ngộp mà cả hai cùng mang đến.
Khi tôi thức dậy thì trời đã sáng bét. Thằng Bỏ đang ngồi ăn cháo, tôi nhìn mình và thấy buồn cuời với cái quần cụt của Út Giữa. Thấy tôi chui ra khỏi mùng, thằng bé kêu lên :
- Má ơi. Cậu gì đó thức rồi, rồi nó quay lại tôi. Má đang chờ cậu ăn cháo
- Tôi cười vì câu nói của thằng bé thì thấy Út Giữa bước lên, hai tay bưng mâm cháo, vùa đi vừa nói:
- Em định bắt con gà nấu cháo ăn, nhưng một mình rượt nó không kịp. Một hồi anh hai tiếp em nghe. Rồi quay sang thằng bé. Con kêu bằng cậu hai, đừng kêu bằng cậu gì đó nữa nghe. Lại quay sang tôi. Thôi anh hai đi rửa mặt rồi ăn cháo.
Tôi ra sau rửa mặt trong khi Út Giữa cuốn dọn mùng mền. Khi tôi trở ra, cả ba quây quần bên nồi cháo trắng. Gạo trắng tép nấu nhừ, nêm tí muối, cá chốt kho tiêu bằng nước mắm đồng. Cái mùi hăng hắc, cái vị mặn mặn cay cay trộn lẫn trong cái béo ngậy dòn tan của trứng cá. Hương vị đậm đặc nét làng quê này lâu lắm rồi tôi mới có được. Tôi lại lạc vào một cơn mơ mộng khác. Phải chi Út Giữa tìm gặp tôi sớm hơn, khi mà cái thòng lọng tội tù chưa treo lơ lửng trên đầu. Tôi tự nguyện sẽ về với nơi này cày sâu cuốc bẩm với cô vợ quê mùa, thương tật, mà đảm đang này. Cảm giác này mơn man tôi, dẫn dắt tôi đến chỗ lảng quên mình là người vong gia thất thổ. Nhưng tôi quên rằng, chưa chắc là tôi bằng lòng cái hiện tại này, nếu như tôi không lâm vào cảnh thất thổ vong gia. Tôi húp từng ngụm cháo trắng, nhìn khuôn mặt rạng rỡ của Út Giữa. Bổng nhiên tôi muốn quăng chén cháo rồi tự sỉ vả mình. Tại sao tôi lại gieo chi một thoáng hy vọng mong manh. Để rồi lát nữa đây bỏ chạy như một thằng bại hoại. Dù bất cứ vì lý do gì tôi cũng không thể biện minh cho sự có mặt thoáng chốc của tôi ở đây. Nhưng cô ấy. Cô viện dẫn cái lý do trả ơn nghe rất buồn cười để mà che chắn cho… một ý muốn khác. Tôi hiểu và …
Ăn cháo xong trong khi Út Giữa đang loay quay dọn dẹp thì tôi cùng thằng bé bắt đầu cuộc chơi của ngày hôm qua. Tôi viết lại những chữ ngày hôm qua rồi kêu nó đọc, không sai một chữ nào. Tôi dạy tiếp cho Bỏ những chữ mới, rồi tập ráp vần. Thằng bé coi bộ thích thú với kiểu chơi này. Khi tôi nhìn lên thấy Út Giữa đứng đó nhìn chúng tôi tự bao giờ. Ánh mắt cô ngời lên niềm sung sướng, và phần khuôn mặt lộ ra bên ngoài mái tóc đang rạng rỡ lên. Trong cuộc đời tôi đã gặp rất nhiều dung nhan rất đẹp. Những nhan sắc ấy có thể làm cho con người ta đắm đuối, làm cho người ta ngưỡng mộ. Út Giữa thì không như vậy, nếu không có mái tóc dài che cái thẹo trên mặt, thì là một cái đẹp của sự tròn đầy, chân thật làm cho người thấy phải rất lâu sau mới thấm. Ở đó, ánh lên nỗi khao khát làm cho thấy gần mà không cần mời gọi, làm cho thấy sự bình yên mà không nhàm chán. Tuyệt nhiên không có sự kiêu kỳ. Nhưng cũng chính mái tóc đang ở vị trí chết người này, nó làm cho một tên mơ mộng như tôi đành phải khuất phục. Dù tôi biết bên trong vệt tóc kia là cái gì, nhưng không kinh sợ. Chẳng trách chi những người đã đến với cô. Họ bị cái khuôn mặt rạng rỡ với cái nhan sắc thuần phác và mái tóc bí ẩn kia mê hoặc. Rồi khi sự thật bị phơi bày, mà họ thì không đủ can đảm để chấp nhận. Phải chăng chính vì tôi đã chứng kiến, đã hiểu, nên… Nhưng thôi. Út Giữa ơi, cái hạnh phúc mong manh và ngắn ngủi này chúng ta hãy tận hưởng. Nếu phải chia lìa thì ít ra cũng còn lại nỗi tiếc thương.
Bổng thằng bé lay lay tay tôi :
- Cậu hai ơi đừng nhìn má nữa. Cậu hai nhìn một hồi má khóc cho coi.
Không cần hỏi lại tôi cũng biết tại sao, tôi nói với thằng bé:
- Không sao đâu cháu. Má cháu không khóc đâu. Cậu biết cách làm cho má cháu không khóc.
- Thiệt hả cậu. Vậy thì cậu giỏi thiệt đó. Có mấy cậu đến đây. Rồi như không nhìn cái thẹo của má một hồi, là má khóc liền .
Nhưng tôi đã lầm, út Giữa chạy nhanh vào buồng và ở đó cô khóc. Và tôi, tôi hiểu vì sao cô khóc. Tôi muốn vào để dỗ dành, nhưng không hiểu sao rồi lại thôi. Tôi lại tiếp tục dạy thằng bé học. Rồi dạy cho nó hát những bài hát dành cho trẻ con ở những lớp mẫu giáo mà tôi cũng không biết tôi thuộc từ hồi nào. Và thằng bé tỏ vẻ thích thú với cái trò này.
“ Nếu hỏi rằng em yêu ai. Rằng em này em yêu ba. Rằng em này em yêu mẹ. Yêu chị, yêu em. Yêu hết cả nhà. Nhưng nhất là em yêu mẹ cơ.
“ Nếu hỏi rằng em yêu ai. Rằng em này em yêu ông. Rằng em này em yêu bà. Yêu cậu, yêu cô. Yêu hết họ hàng. Nhưng nhất là em yêu bà cơ.
“ Nếu hỏi rằng em yêu ai. Rằng em thì yêu quê hương. Rằng em thì yêu mái trường. Yêu thầy, yêu cô. Yêu hết bạn bè. Nhưng nhất là em yêu cô giáo cơ”
Sau khi hai cậu cháu hát hò cho đã đời. Thằng bé thắc mắc tại sao phải yêu nhiều thế, mấy người đó là ai? Thằng bé nói nó chỉ biết có ông ngoại và mẹ thôi. Tôi lại phải giải nghĩa. Và hai cậu cháu cứ thế mà loay hoay hát hò với nhau.
- Anh hai ơi. Tiếp bắt con gà với em. Tiếng Út Giữa gọi sau hè. Không biết cô ấy ngưng khóc từ bao giờ.
Tôi vội nói với thằng bé :
- Đây cháu tập viết mấy chữ này nghe, cậu hai tiếp mẹ bắt gà.
Thằng bé nhanh nhẩu :
- Rồi con ở đây. Cậu nhớ bắt con gà bự bự nghe. Má nấu cháo ăn xong cậu dạy cho con hát nữa.
- Rồi. Cậu sẽ dạy cho con. Tôi vừa với nó vừa đi ra hè
Tôi bước ra thấy mấy con gà mái chạy luống cuống và Út Giữa mặt đẫm mồ hôi. Tôi đến bên cô choàng tay qua vai cô nói nhỏ :
- Thôi út, có gì ăn nấy, để mấy con gà nó đẻ ra được ít trứng. Dù sao cũng tốt hơn.
Út Giữa ngước mặt nhìn tôi, đôi mắt long lanh. Từ trong vô thức tôi vén tóc cô lên. Một vết thẹo chừng hai ngón tay, chạy dài từ mí tóc mai đến ngang cánh mũi. Tôi mân mê lên đó nhẹ nhàng, trân trọng. Đôi môi ấy run run chờ đợi, nhưng bằng một sự cố gắng phi thường, cô gạt tôi ra. Nói nhỏ;
- Đừng anh hai. Chút nữa vô nhà.
Khi cô ấy quay vào nhà. Tôi nhìn lên khung trời mênh mông trải dài lên cánh đồng khoáng đạt và xa kia tôi biết là Thầy Quơn, quê ngoại tôi. Nơí ấy đầy ắp những kỷ niệm của tuổi thơ. Ôi chỉ cách một cánh đồng mà muôn trùng cách trở. Không biết cây ổi cổ thụ bên hè nhà ngoại bây giờ có còn không? Và bao giờ tôi được nghe lại tiếng ca vọng cổ của cậu Năm vẳng lại từ đầu vườn ông Tuần Chung khi đi chơi về khuya như là lời báo hiệu cho dì Sáu tôi ra mở cửa, hay những đêm ngồi dằn lái cho cậu Năm đi soi cá lóc. Tôi đưa mắt nhìn quanh, thấy mảnh vườn con mọc đầy rau dại. Tôi rảo bước ngắt từng đọt rau dềnh, bù ngót, rau diệu, rau đắng… Khi đầy hai búng tay, tôi ngó quanh toan tìm cái gì đó để đựng thì có cái rổ chìa ra. Út Giữa đứng sau lưng tôi, tươi cuời rạng rỡ :
- Anh hai coi vậy cũng biết ghê hén, lặt rau gọn đeo. Cô nhìn quanh, rồi quay lại nói nhỏ. Em thương anh hai thiệt đó. Ở đây luôn với em nghen. Em biết anh hai cũng thương em mà.
Tôi nhìn cô nghẹn họng, nói thầm “ Út ơi, dính vào anh, em khổ trăm bề “
Bữa cơm dọn ra. Cũng như mọi khi, ui cá kho có đủ thứ lòng tong, cá chốt, cá rô non, cá sặc… và tô canh chua cá úc nấu với bần chín, chén nước mắm đồng đen sẩm làm cho màu đỏ mấy trái ớt hiểm rực rỡ cả lên. Bữa ăn đặc trưng của vùng quê hai nên bờ sông Cái Lớn. Cả ba ăn ngon lành, nhưng thằng bé thì cứ cằn nhằn cậu hai không tiếp mẹ bắt gà.
Ăn cơm xong thì đã quá trưa. Út Giữa sau khi dọn dẹp xong ra dỗ thằng bé ngủ trên cái võng. Nhưng thằng bé cứ bi bô hát. Tôi nằm bên bộ ngựa ngó lên trần nhà nghe, rồi tôi ngủ giữa tiếng hát ấy hồi nào tôi cũng không hay.
Có ai đó khều nhẹ nhẹ mấy ngón chân. Khi tôi hé mắt nhìn thấy Út Giữa ló đầu ở cửa buồng và đưa tay ngoắc. Tôi ngồi dậy thấy nhà đã sập cửa xuống. Tôi vừa buớc tới thì cô ôm ghì lấy tôi, dúi đầu vào ngực tôi. Mái tóc dài còn mang đầy hơi nước xổ tung ra mơn man vào người tôi mát lạnh, đôi tay cô luôn luôn lay động và cô xem thân thể tôi như là một tài sản mà cô được quyền sở hữu. Cô không e dè, không tự trấn áp mình nữa. Tôi nhìn lại thân thể ấy và tôi thực sự kinh hoàng. Hàng chục vết thẹo nhỏ có, lớn có chạy dài từ đùi đến mặt, gần như nửa thân trái của Út Giữa đều có thẹo. Có những vết lâm nhâm, một vài vết gồ lên và tôi biết trong đó còn có miểng của trái pháo ngày hôm ấy. Tạo hoá đã cho cô một thân thể vẹn toàn. Cuộc sống đã cho cô sức lực. Nhưng chính con người đã tàn phá cuộc đời cô và hạnh phúc của cô. Bổng dưng tôi mang cái cảm giác mình là người có lỗi. Cô ngồi chống tay qua người tôi. Tôi thực sự bị mê hoặc bởi mái tóc đen nhánh mượt mà, gọi là suối tóc có quá đáng lắm không? Khi cái giòng chảy mê đắm ấy chỉ cho phép lộ ra cái một phần khuôn ngực đầy đặn, rắn chắc và hai phần ba khuôn mặt trắng hồng, làm cho dung nhan tuyệt diệu ấy mang theo nhiều bí ẩn, và sau đó là thả xuống ngực tôi những rung động mơn man. Cái vết sẹo dữ dằn ẩn bên trong, nhưng nếu lộ ra cũng không che lấp được vẻ phúc hậu, diệu hiền. Đôi mắt to long lanh và hàm răng đều đặn, trắng muốt lấp lánh sau đôi môi hồng nhạt. Tôi thật sự kinh ngạc. Út Giữa quá đẹp, một vẻ đẹp tự nhiên, khỏe mạnh. Không cần viện dẫn đến bất cứ thứ gì bên ngoài. Trong suối tóc ấy có một mùi rất lạ đang phả xuống mặt tôi những đắm mê không thể cưỡng nổi. Tôi nghe thấy lòng mình xôn xao khi nhớ lại, tôi đã hưởng thụ trọn vẹn trên thân thể ấy những cảm giác đẹp đẽ.
- Anh hai, đừng bỏ đi. Cô nói khẽ với những giọt nước mắt chực chờ. Chỉ có anh hai mới thương em. Những người khác đến hứa hẹn với em đủ điều, nhưng khi thấy vết thẹo trên mặt em thì họ vội vã bỏ đi, không nói một lời nào. Em buồn quá anh hai ơi.
- Út. Làm đàn ông thì phải là trụ cột của gia đình. Nhưng anh thì bây giờ thì trốn chui, trốn nhủi. Ở lại đây liệu yên phận được bao lâu và giúp gì được cho em. Chẳng những thế mà còn là một gánh nặng. Giữ nhà, giữ con cho em cũng không xong. Giao cho anh, rồi khi em đi đâu đó, người ta tới bắt anh đi thì thằng bé phải làm sao. Hãy để cho số phận anh nổi trôi thế nào cũng được. Anh nói nè. Ở đây, mình cứ quấn quýt thế này hoài rủi nhè lúc em có bầu, anh bị bắt rồi em làm sao? Sinh thằng Bỏ, em được cái nhà, năm công đất. Nhưng có con với anh thì em được gì ngoài chuyện khổ sở, đau lòng. Đó là không kể người ta còn buộc tội em chứa chấp kẻ gian.
Tôi biết những điều tôi nói là thật, nhưng nghe sao nó giống cái giọng điệu của một tên mạt hạng. Út Giữa đổ xuống nằm vắt ngang người tôi và rấm rứt. Tôi cố gắng vỗ về:
- Nghe lời anh đi em, mặc quần áo vào con nó sắp thức. Nghe lời đi.
Bổng dưng cô ấy nói, giọng ráo hoảnh, quyết liệt pha một ít giận hờn:
- Không. Em thương anh, thương biết bao lâu rồi. Thương hoài cho tới chết luôn. Nên ngày nào em còn ở bên anh là ngày đó em vui mừng. Còn không được thì thôi, không thèm buồn, không thèm khóc, không thèm lấy ai, không thèm nhớ anh luôn. Anh thấy hết rồi mà anh không bỏ chạy, anh không ghê sợ. Như vậy em không thương anh thì em thương ai. Em thương anh là đúng, em không có lầm đâu. Còn chuyện chị ở nhà. Anh khỏi lo. Chị bảo thế nào em nghe thế nấy, miễn sao chị đừng buộc em phải bỏ anh. Không cho ở với anh cũng được, nhưng phải cho em nhớ thương anh. Bây giờ thì anh thương em đi. Thương thật nhiều em mới chịu.
Dứt lời cô ấy đổ xuống người tôi và ghì miết cái thân thể rắn chắc ấy vào tôi, không cho tôi nói một lời nào nữa và bằng chính những hành động của mình, cô ấy buộc tôi phải nâng niu chiều chuộng.
Thằng bé vẫn còn ngủ. Trời sắp xế chiều, tôi nằm trên bộ ngựa hút thuốc mà tận hưởng những cảm xúc đã qua cùng với những xốn xang trong lòng. Cuộc sống của tôi vốn đã nặng nề, hơn một năm rày đây mai đó, phó mặc số phận. Thằng Ngọc đã về, mà tôi không thể về thăm em, Thằng Nam cưới vợ tôi không có mặt. Ông bà ngoại gần đất xa trời, bao lâu rồi tôi không thể về thăm hỏi. Và bây giờ ai xui cho tôi chui vào đây để nảy sinh một uớc vọng mong manh và một trời buồn.
Tôi chợt nhớ cái tết vừa qua ở Long Xuyên, tết mà trời mưa tầm tả. Tôi gặp Huy. Hai đứa chui vào một quán café ngồi đó kêu café ra để khuấy. Không nói với nhau một lời nào, rồi chia tay. Không ràng buộc gì về trách nhiệm, chỉ có nỗi xót xa, nhưng rồi cũng nhanh chóng bị những nỗi buồn khác xua đi. Những hệ lụy đều do tự tôi gây thì tôi chịu. Nhưng bây giờ ở đây, cái hệ lụy này thì xem ra lớn chuyện rồi. Nỗi buồn của tôi tại sao tôi lại đùn đẩy qua người khác, mà lại là một người đã quá nhiều bất hạnh. Những yêu chiều tôi dành cho Út Giữa có làm cho cô hạnh phúc được bao lâu? Nó chỉ là một nhát dao cứa mạnh thêm vào những vết thương chưa lành sẹo. Không thể đổ thừa cho hoàn cảnh hay cho ai cả. Tôi, không ai khác, chính là thủ phạm. Cách duy nhất có thể chuộc lại lỗi lầm là tôi ở lại nơi này. Nhưng hởi ơi chính điều này lại là điều không thể thực hiện.
- Cậu hai, dạy con học. Tiếng thằng bé gọi tôi.
Tôi ngồi dậy và cái hồn nhiên của tuổi thơ làm cho tôi bớt nặng nề. Hai cậu cháu lại cầm cây que, những con chữ lại hiện ra trên nền đất, thằng bé nhanh chóng bị cuốn hút vào. Tôi cố gắng làm mọi cách có thể và tôi cũng không thể ngờ là cả hai cậu cháu tài thế, mới có ba buổi mà tôi gần như một ông thầy thực thụ. Út Giữa thỉnh thoảng ra nhìn chúng tôi rồi quay vào lục đục làm cái gì đó, lát lát lại trở ra đứng nhìn, ánh mắt long lanh càng lúc càng lấp lánh hơn. Thực tình tôi không muốn rời khỏi nơi này, Út Giữa mới chỉ là một lý do. Chính thằng bé. Vâng chính cái hồn nhiên, trong sáng của nó mới là tác nhân khó xử của tôi.
- Anh hai, coi chừng cháu dùm em, em đi có chuyện chút. Út Giữa vừa nói vừa cắp nón ra đi.
Tôi hỏi với theo:
- Đã chiều rồi, em còn đi đâu?
- Em đi có chút chuyện. Lẹ thôi mà anh hai.
Tôi và thằng bé lại châu đầu vào công việc của mình. Tôi bắt đầu dạy cho nó viết, viết một lúc mỏi tay mà không ra hình thù chữ gì cả. Cũng phải thôi, những ngón tay nhỏ xíu. Quăng cây que, nó bảo :
- Viết khó quá, cậu dạy cho con thêm mấy chữ nữa đi.
Từ hồi nào có biết dạy học, dạy hò gì đâu, nên nhớ ra chữ nào, viết ra chữ đó. Tôi kiểm tra xem thằng bé thuộc được bao nhiêu mặt chữ, cũng như kiểm tra xem mình nhớ lại được bao nhiêu những gì hồi mới học i tờ. Cứ thế, hai cậu cháu quây quần với nhau cho đến khi Út Giữa trở về. Tiếng cô ấy vọng từ bến sông, cái vóc dáng mập mập, tròn tròn trong bộ bà ba đen với một bao gạo nách bên hông, tay kia thì xách một cái giỏ bàng đầy nhóc, tôi ngạc nhiên không biết Út Giữa mua cái gì mà lắm thế. Tôi sững sờ nhìn. Tôi buớc ra đỡ lấy bao gạo từ tay cô ấy. Mùi mồ hôi, mùi nắng, mùi tóc… làm tôi choáng ngộp. Một hạnh phúc tràn về xua đuổi hết những mịt mờ. Và một cơn sóng trào ra. Tất cả những hình ảnh của bao người đàn bà đi qua đời tôi đều chỉ là minh họa cho cái quá khứ mờ nhạt thuở ban đầu. Từng nét mơ hồ ấy đã cuốn tôi vào, tôi không thể nào có được một điều gì gọi là phản kháng. Và giờ đây. Cô ấy, bằng cả tính cách và vóc dáng tự nhiên, thể hiện một cách cụ thể và hoàn hảo cái bóng dáng mơ hồ ấy. Có một linh cảm báo cho tôi biết là tôi không có cách nào thoát khỏi cô ấy. Đây mới đích thực là nơi tôi kiếm tìm, mới là sợi dây đủ sức trói chặt lấy tôi, tâm hồn tôi. Ấy thế mà tôi đến như một tình cờ. Khi cả hai đặt mọi thứ lên bộ ngựa. Cô nhìn tôi cười, hai con mắt cười theo. Trên bàn bây giờ là một cuốn tập, một cây viết, bàn chải đánh răng, mấy bánh thuốc rê và mấy dung giấy hút. Vừa soạn ra vừa cười hể hả, cô ấy nói:
- Thầy bà gì mà dạy học không có một cuốn tập, để mai mốt em mua thêm một cuốn sách học vần nữa.
Tôi không nói được gì cả. Rất vô tình, nhưng bằng chính hành động của mình, Út Giữa muốn giữ chặt tôi ở lại nơi này. Hôm nay thì mua ngần ấy, thì liệu có ai ngăn được ngày mai cô ấy sẽ mua thứ khác. Còn tôi thì túi không lưng túc với một bộ dính da.
Thằng bé đang thích chí mân mê quyển tập và cây viết. Với đầu óc non nớt của nó, đây chính là món đồ chơi mới lạ. Mà có ai không như thế? Ngày xưa, lần đầu tiên cầm cuốn tập trên tay, tôi tò mò nhìn nó lạ lùng và nôn nao sung sướng. Bao nhiêu năm trong tuổi học trò, cái giây phút làm tôi sung sướng nhất chính là giây phút chuẩn bị cho năm học mới với cái mùi thơm này đây. Mùi thơm của con đường dẫn vào kiến thức. Đã cơ man nào lần tôi phổng mũi hít thật sâu cái mùi thơm lạ lẫm, tinh khiết của tương lai. Và hôm nay cũng thế. Chính cái giây phút ban đầu với một cảm giác mới mẽ đó sẽ mở ra một chân trời. Bỏ ơi. Cậu mong sao cho chân trời của cháu khác hơn cuộc đời mịt mờ của cậu. Còn ở đây ngày nào, cậu sẽ hết lòng vì cháu. Vâng. Hết lòng vì cháu.
- Anh hai, em giắt cây bàn chải ở đây, phía sau có hũ muối bọt. Hồi nãy em định mua kem đánh răng cho anh, nhưng ở đây không có bán. À bánh thuốc em để trên bàn với mấy dung giấy. Em không biết thử, nhưng bà hàng xén nói thuốc ngon lắm, cháy tàn trắng không hà. Còn mấy bánh em nhét vào cái tỉn, để anh hai hút lâu lâu.
Chết anh rồi Út Giữa ơi. Em làm cái kiểu này thì anh sống làm sao nổi. Cô ấy nhanh chóng vào vai của một người đàn bà có gia đình một cách hoàn hảo, như là một sự đáp trả lại những giây phút ái ân mà cô vừa nhận được. Hạnh phúc rất mong manh được cô thể hiện, nó chứng tỏ cho tôi biết rằng, đối với cô ấy, nó rất tuyệt vời. Và hình như cũng như thế, với tôi.
Hai mẹ con đang ríu rít cái gì đó ở phía sau nhà. Tôi đến mân mê bánh thuốc, rồi xé giấy quấn một điếu, khói thuốc làm tôi bình tỉnh hơn. Nhìn cái tàn thuốc trắng tinh, tôi lại thẩn thờ nhìn ra sân. Cơn nắng xế đang mang chiều đến, rực rỡ đến lạ thường. Trong đầu tôi nhảy múa hàng ngàn chữ phải chi, phải chi, phải chi… và cũng chính nó đã phủ nhận tất tần tật cái hiện tại bình yên này, cái mà tôi cần, tôi cần có thế. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi đau xót nhận ra. Khi mà người ta mất hết tất cả, thì lúc đó người ta mới nhận ra cái giá trị lớn lao của những cái bình thường nhất. “Út Giữa ơi, lần đầu tiên gặp em tại nhà anh. Anh có bao giờ nghĩ là em, một cô gái quê mùa với thương tật đầy mình, giờ đây lại cần thiết cho anh đến thế. Ấy vậy mà giờ đây anh không dám nhận ”
Lại một bữa cơm ngon lành. Nó ngon vì cần thiết. Thế thôi. Tôi biết trong bữa cơm cực kỳ đơn giản kia, có một điều không đơn giản. Đó là bên trong những cái vị ngọt, mặn, chua, cay… còn có một tấm lòng. Tấm lòng được gởi vào không điều kiện. Bất chấp một kết cục không vẹn toàn. Chỉ có thế, mà hơn ba mươi năm rồi tôi không hiểu. Những bữa cơm của mẹ tôi, của vợ tôi, của em tôi và cả những người chung quanh. Chính những bữa cơm đó làm cho tôi nên một con người. Chúng tôi ngồi ăn cơm cũng ngần ấy những động thái và cảm nghĩ như ban sáng. Nhưng riêng trong tôi thì có một thứ khác hơn. Cũng như mọi khi, tôi có thói quen ngắm nghía người khác, nhưng rất ít khi nhìn ngó lại mình. Chính bữa cơm chiều nay, tôi cảm nhận được hương vị ngọt ngào, thơm thơm của gạo trắng tép. Vị mặn kèm theo cái mùi nồng nồng của nước mắm đồng[iii]. Cay cay của cây ớt hiểm sau hè. Vị chua chua của những trái giác[iv] hái từ đám sậy dưới mé kinh. Cuối cùng là cái nhìn long lanh của Út Giữa. Đôi mắt ấy làm cho tôi nhận ra cái vô tích sự của mình. Lâu lắm rồi tôi cứ mãi mê quay quắt với những viễn mơ, từ trong tình cảm cho đến mọi thứ khác. Để rồi hôm nay trở thành một tên vong gia thất thổ, tôi vẫn còn mơ màng với những nghĩ suy về những điều không thuộc về mình. Về cái tài năng, mà tôi cho là mình có, chưa bao giờ tạo nỗi cho tôi một bữa ăn. Và để giờ đây cái bữa ăn đơn giản này lại đến từ một cô gái thương tật đầy mình, ở đó chất chứa một ước muốn giản dị, chân thành là được sống với người mình yêu. Cô ấy biết mình cần cái gì và toàn tâm toàn ý với cái đó và đã trải qua, rồi sẽ còn gặp nhiều khó khăn. Và cũng chính lẽ đó, tôi nhận ra cái mà tôi cần, sau một thời gian dài không biết mình muốn cái gì. Nhưng để gìn giữ vẹn toàn cái mình có được thì có lẽ đã vô phương. Ôi, tôi là cái gì đây?
Khi thằng bé đã ngủ. Út Giữa ra nằm kế bên tôi. không biết từ bao giờ, cô luôn sẵn sàng với hơi thở nồng nàn, thân thể mát lạnh và không vướng bận gì khi đến với tôi. Sẵn sàng đón nhận và hưởng thụ những cảm giác vô giá của ân tình. Cô làm việc này một cách tự nhiên, không e dè, không khêu gợi. Chỉ duy nhất một điều là sẵn sàng cho tôi cũng có nghĩa là sẵn sàng cho chính mình. Nhưng cái lớn hơn là cô đã chấp nhận mọi bất trắc mà tôi sẽ mang đến. Út Giữa sẽ mất tôi và kèm theo bao nhiêu phiền toái. Điều này phải xảy ra, chỉ có điều là sẽ xảy ra như thế nào, lúc nào? Những cảm xúc mà Út Giữa mang đến cho tôi, khi thì bùng lên, khi thì lắng xuống. Tôi biết là Út Giữa có một niềm tin khá vững vàng về tôi. Nhưng niềm tin đó sẽ tan vở vì rất nhiều lý do. Đó chính là những ngỗn ngang đang dày xéo trong tôi. Nhưng cuối cùng, ai hiểu sao cũng được, cái con người thật của tôi cũng lộ ra khi một cái ý nghĩ thoáng nhanh trong đầu “hãy cho nhau những gì có thể”. Tôi đáp ứng lại những yêu cầu của Út Giữa bằng một thái độ trân trọng, cuồng nhiệt nhất mà tôi có. Và chỉ có bấy nhiêu. Không đủ. Biết thế, nhưng khả năng tôi không có nhiều hơn.
Tôi ở lại với Út Giữa đã mười ngày. Thằng bé quấn quýt lấy tôi và nó học rất nhanh, dù rằng cái khả năng làm thầy của tôi tồi đến mức không thể tả nổi. Tôi lại dạy cho thằng bé một bài hát khác. “Hai con thằn lằn con hè nhau cắn nhau đứt đuôi. Cha thằn lằn buồn hiu bèn kêu đến mắng cho. Anh em nên thương nhau. Đừng nên cắn nhau hoài “ Thằng bé có vẻ thích bài hát này nên hát đi hát lại nhiều lần. Cho đến khi đã đời, nó nói một câu làm tôi gai gai cả người:
- Mai mốt có em bé. Con thương em, không cắn em.
Tôi nói như lảng tránh:
- Thế thì cháu ngoan lắm. Thôi viết bài.
Thằng bé có thể viết được những chữ đơn giản và đọc được những từ ngắn. Lúc này là thời gian nông nhàn, nên cả ba chỉ quấn quýt lấy nhau. Không biết Út Giữa tìm đâu ra một bộ quần áo cho tôi, rất vừa vặn và khá mới. Bằng hết khả năng mình, cô tìm cách chặn bước chân tôi. Cô như muốn cho tôi biết rằng không có ở đâu tôi được bình yên hơn ở đây. Chúng tôi hưởng thụ ở nhau từng giây từng giờ. Tất cả mọi hành động của chúng tôi lúc này là chỉ dành cho nhau. Thậm chí, ngay cả khi chúng tôi ân ái. Những cảm xúc trao nhau là chỉ vì người mình yêu, chớ không phải là hưởng thụ. Tôi biết điều đó khi thỉnh thoảng nghe được tiếng thở dài. Nhưng khi tiếng thở dài ấy chấm dứt, chúng tôi lại quấn vào nhau. Cả hai đều sợ sự chia lìa và dấu kín nó vào lòng, che dấu nó bằng những cảm xúc ái ân. Có một điều tôi sợ, nhưng cô ấy thì không, chẳng những không mà còn trông mong nó đến. Một đôi lần, tôi nghĩ cứ thế này mãi thì việc cô ấy mang thai là không tránh khỏi. Nghĩ tới điều này tôi muốn chết giấc. Không phải tôi sợ trách nhiệm, mà sợ không thể gánh được trách nhiệm. Nhưng bức ra khỏi cô ấy là rất khó. Phải chi tôi đừng vào, phải chi cả hai đừng giả bộ làm vợ, làm chồng. Cô ấy đơn giản và cụ thể hoá tình yêu bằng cách giao hết thân thể cho tôi, sau đó là chăm chút cho tôi bằng tất cả những điều kiện và khả năng cao nhất mà cô có. Có một lần tôi nói rằng cô ấy có một thân thể rất đẹp, tôi rất thích ngắm nhìn. Thế là, mỗi khi có thể thì cô để cho tôi nhìn. Sự e dè ban đầu cứ phai dần từng chút một vào những lần sau và nó được thay bằng một thứ khác rất lạ kỳ. Và tôi hiểu, cô thầm lặng mà quyết liệt trong việc giữ gìn tôi. Đã đôi lần tôi chứng kiến cô ấy đi lại trong nhà một cách tự nhiên thoải mái trước mặt tôi mà trên người không mặc gì cả. Tất nhiên là nhà đóng kín cửa và thằng bé ngủ trong buồng. Tôi bảo cô đừng làm vậy. Cô cười:
- Anh thích nhìn em như vậy nên em chiều anh mà anh cũng rầy em.
Trong một lần như thế. Hốt nhiên những hình ảnh của những ngày ở Đà Lạt hiện về. Tôi thực hiện chuyện yêu đương một cách cuồng nhiệt và chân thành. Cô có vẻ như vừa hốt hoảng vừa e dè, nhưng rồi cô ấy nhanh chóng thông thuộc một cách không ngờ. Phải rất lâu sau khi tàn cuộc yêu đương, cô gọi nhỏ:
- Anh…
- Gì em?
- Anh kỳ cục thiệt. Như vậy mà anh cũng… chiều em. Bộ anh thương em lắm hả?
Tôi im lặng gật đầu. Cô ôm chầm lấy tôi và nói câu gì đó. Tôi không nghe rõ.
Tôi xới đất, lên liếp, trồng thêm cho cô những luống rau. Đốn sậy rào lại để không cho gà vào phá. Chọn những cây sậy tốt bện đăng chuẩn bị cho cô cái đó hứng tép khi mùa mưa tới. Đào đất đắp cho cao lên nền nhà tắm, rồi đi đốn những cây tạp làm một cái vỉ lót nền phòng trơn trợt khi mưa. Tôi thấy có những trái dừa khô nằm lăn lóc dưới sàn. Tôi mang bốn trái đã nhú mộng ra bờ sông đặt xuống. Mai kia nó sẽ trở thành bốn cây dừa và nó sẽ làm cho ngôi nhà bớt trơ trọi khi chẳng còn tôi. Thấy cây cầu lên xuống bờ sông có vẻ ọp ẹp, tôi đốn trâm bầu sửa lại chắc chắn cho cô. Cứ thế từng ngày, từng ngày một tôi tìm một việc gì đó để làm. Một phần để góp cho ngôi nhà thêm tinh tươm và cái phần nữa thì quan trọng hơn chính là để cho tôi có một chút an lòng. Khi tôi làm những công việc mày hai mẹ con quấn quýt bên tôi. Thằng bé bi bô hỏi cái này, cái khác. Trong khi đó Út Giữa đang ngắm nhìn những việc tôi làm bằng một đôi mắt hạnh phúc vô hạn. Nó đến từ những hiệu quả nhỏ nhoi trong công việc của tôi và cái hơi hướm đàn ông từ trong tôi đang lan tỏa. Ôi. Một bóng dáng đàn ông còm cõi, một hơi hướm đàn ông nhạt nhòa.
Đúng như Út Giữa nói, hình như mọi người ở chung quanh đây không ai quan tâm đến việc mẹ con Út Giữa sống thế nào. Điều này có hơi bất thường. Những người đàn ông không tới đã đành, nhưng những người đàn bà cùng trang lứa thì cũng thế. Thỉnh thoảng tôi có thấy Út Giữa cũng chào hỏi những người bơi xuồng ngang qua và họ cũng đối đáp lại một cách bình thường. Nhưng không một ai ghé lại. Riêng Út Giữa thì vẫn có những lần vắng nhà để đi đâu đó và khi trở về thì mang món này món kia.
Buổi trưa khi thằng bé đã ngủ, tôi và Út Giữa nằm cạnh nhau, tôi đem điều này ra hỏi. Út Giữa im lặng rất lâu rồi rút đầu vào ngực tôi và khóc. Không hiểu chuyện gì nhưng tôi vẫn cứ vỗ về. Một lát sau Út Giữa mới nói :
- Anh hai biết không, mấy thằng cha tìm đến ve vãn em, hứa hẹn tùm lum tà la. Nhưng khi nó thấy cái thẹo trên mặt em thì hoảng hồn bỏ chạy, rồi khi nó xỉn say nó đồn đại lung tung. Thằng cha nào cũng thế, có tốt lành gì đâu. Còn mấy bà thì nói em có số sát chồng. Nên đứng xa xa nhìn chớ không ai dám lại gần. Ban đầu em tủi lắm, riết rồi thây kệ. Em rán làm, để có tiền dành dụm nuôi con. Bổng Út Giữa nấc lên rồi mếu máo tiếp. Còn anh nữa, mai mốt rồi anh cũng bỏ em.
Tôi chết điếng trong lòng. Tôi đến đây để làm gì. Tại sao tôi lại chui vào cái thòng lọng này. Gỡ ra hay để vậy đàng nào tôi cũng ngộp thở. Bổng Út Giữa nói giọng ráo hoảnh:
- Thây kệ. Sao cũng được. Dù thế nào em cũng phải nuôi thằng Bỏ nên người. Khi nào đủ tuổi em cho nó đi học, bằng mọi giá. Còn anh hai nữa, anh ở với em được ngày nào hay ngày nấy, em không cầm giữ anh hai.
Rồi Út Giữa lại bắt đầu lật tẩy tôi ;
- Anh hai nói anh hai chỉ biết ăn thôi chớ không biết làm gì hết. Thế mà tự hỗm rày anh hai là biết bao nhiêu chuyện. Mà chuyện gì anh hai làm cũng ngon lành hết trơn. Em có với anh một đứa con. Nó mà giống anh hai thì có ra làm sao em cũng chịu. Nhất định phải có.
Nghe cô ấy xác định một cách quyết liệt như thế. Tôi không còn hồn phách nào nữa. Những gì cô ấy nói mà xảy ra thì chết tôi. Bây giờ cô ấy đã xác định. Tôi có chạy bằng trời cũng không khỏi. Chỉ thầm mong… Trong hoàn cảnh này mà tôi tỏ lộ một thái độ bằng lòng hay phản đối chuyện này, cũng là một điều không thể. Dù đó là một ước mơ cháy bỏng trong tôi. Nhưng tôi đâu biết rằng với cô ấy việc có con với người mình yêu thương là một việc hết sức tự nhiên, tự nhiên đến thiêng liêng. Vâng tôi thật sự không biết. Tôi quay sang ôm cô vào lòng như là một thái độ để trấn an. Cô xô nhẹ ra, nói như hờn dỗi:
- Bộ anh hai định an ủi em đó hả? Anh hai muốn thì em chiều. Nhưng đừng có an ủi em là em không có chịu đâu.
- Ừ thì anh muốn. Tôi nói giả lả.
- Nếu anh hai nói anh hai muốn thì em mừng, vì như vậy là anh hai không chê em .
- Thôi mà. Tối ngày em cứ xấu với xấu. Anh mà biết như thế này, hồi đó anh chẳng thèm băng bó làm gì, để cho em muốn ra sao thì ra. Bây giờ thì anh ở đây với em và chưa bao giờ anh xem những cái thẹo của em là một điều đáng ghê sợ.
- Ờ há. Nếu hồi đó không có anh hai băng bó cho thì máu ra một hồi chắc em chết thiệt. Thôi cám ơn nghe. Muốn làm gì đó thì làm đi. Mà em hỏi thiệt, nếu mai kia mốt nọ. Khi phải dẫn em đi đâu đó, gặp người quen anh có mắc cỡ không ?
- Có. Mắc cỡ dùm em. Vì em đẹp thế mà có ông chồng ốm nhách.
- Thế thì ráng ở đây em nuôi cho mập.
Đúng là đàn bà chết vì hai cái lỗ tai, bởi thế cho nên mấy thằng đàn ông ba trợn mới giở được trò. Có lẽ tôi cũng nằm trong số đó. Thấy tôi nằm yên, Út Giữa lại hôn tôi.
Nhưng rồi việc phải đến hình như đang đến. Khi mẹ con Út Giữa không có nhà thì hai người công an đến nhà tìm tôi. Tôi nghĩ “Phen này thì tiêu thật rồi“. Nhưng tôi cố trấn tỉnh:
- Vâng tôi là Hiền đây. hai anh tìm tôi có việc gì?
- Cô Út có mang giấy tờ của anh lên đồn báo cho chúng tôi biết về việc ngày xưa anh cứu cô ấy. Nay thấy cơ quan anh giải thể, không có việc làm. Cô ấy muốn trả ơn xưa và có xin chúng tôi cho anh về nhập hộ khẩu ở nhà cô để thong thả rồi anh tìm việc làm. Nhưng hiện tại tình hình trong xã rất phức tạp. Chúng tôi vì tình cảm riêng, chỉ có thể giải quyết cho anh ở đây một tháng, sau đó anh phải đi nơi khác. Báo cho anh biết để chấp hành cho tốt.
Nói xong cả hai xuống xuồng đi mất. Tôi bần thần không biết việc này may hay rủi. Út Giữa đã toàn tâm toàn ý với tôi rồi. Bao giờ cũng thế, việc còn lại là việc của tôi. Họ đã không cho, nhưng nếu họ cho thì sao. Tôi cũng không biết nữa. Tôi nhẩm tính còn hai mươi mốt ngày nữa. Phải có cái gì đó để bù đắp cho cô ấy, dù chỉ một chút xíu thôi, nghĩ đi nghĩ lại một hồi. Tôi buớc ra hè đứng nhìn năm công đất của cô ấy. Đúng là đồ cho có khác. Dù đã cày xong nhưng chỗ thấp chỗ cao. Lại có một con kinh lạng chảy vắt ngang, chắc cũng lâu rồi nên không sâu lắm so với mặt ruộng. Ruộng nương như vậy mà có lúa ăn là may.
Thế là tôi vào bếp lấy cây len, chụp lên đầu cái nón lá của Út Giữa. Mới khoảng tám giờ trời còn mát. Tôi bắt đầu công việc của mình với một mong ước cháy bỏng là phải làm cho tinh tươm trước ngày mình buộc phải rời khỏi nơi đây. Khi tôi làm được khoảng hai tiếng đồng hồ, nắng bắt đầu nóng. Tôi chống len nhìn lại công việc của mình, tôi nghĩ thầm “thế là gay đây, khoảng đất hốt đi để quăng vào chỗ trủng thì phải xới lên. Mà muốn xới thì phải chờ mưa xuống, rồi lại phải kiếm rơm rác mục rãi lên. Nếu không thế thì lúa nào sống nổi, phải chi có mấy bao vôi thì hay biết mấy “. Mà tôi thì chỉ có được một tháng. Thôi làm được tới đâu hay tới đó. Tôi lại bắt đầu với công việc của mình, cái gò hơn chục tầm vuông hy vọng ngày nay có thể dứt điểm được, Hơn một chục gò như vậy, lớn có, nhỏ có, phải ráng thôi. Khi tôi quay lưng lại nhà để tiện quăng đất xuống trủng thì Út Giữa đi ra nên tôi không thấy, mãi cho đến khi cô lên tiếng :
- Anh hai ơi, đất này anh hai ban sao nổi. Thôi kệ nó anh hai, được hột nào ăn hột nấy.
Tôi quay lại, cô cười. Lấp lóa dưới ánh nắng, tôi thấy trên khuôn mặt ấy lóng lánh những giọt nước mà tôi không rõ có phải là mồ hôi. Tôi cười nhìn cô:
- Thì anh làm lần lần, mỗi ngày một ít, rồi cũng xong mà.
- Thôi nghỉ đi anh hai, vô ăn cơm rồi em nói cho nghe.
- Ừ. Em vào trước đi, anh làm một lát nữa là bứt cái gò này.
- Bao lâu?
- Chút nữa thôi mà.
- Vậy lẹ nghen, em chờ đó.
Cô quay vào cái ánh nắng phả vào dáng đi tất tả. Mái tóc lất phất làm cho tôi nhớ lại cái hình ảnh của ngày hôm đó. Phải chi ngày ấy đừng có đạn bom như bây giờ. Dù cực khổ thế nào cũng có thể an lòng với hai tiếng bình yên. Tôi làm nốt phần còn lại.
Khi tôi rửa tay, rửa mặt xong vừa bước vào nhà thì thấy một bà khoảng năm mươi đang ngồi ăn trầu trên bộ ngựa. Tôi chào bà. Bà nhìn tôi bằng bộ mặt lạnh tanh, rồi hỏi:
- Cậu là cậu Hiền, cảnh sát ngụy, phải không ?
- Dạ thưa phải.
- Thất cơ lở vận mới mò vào đây ăn bám con tôi đó hả? Coi bộ cũng siêng dữ ha. Được mấy ngày?
Tôi nghe hai tai mình nóng lên và cơn giận chợt bung ra. Nhưng tôi cố ghìm lại, Tôi không thể làm cho Út Giữa phải khổ thêm. Và tôi im lặng để cho Út Giữa lên tiếng:
- Má à. Nếu không có anh ấy thì tui chết rồi. Bây giờ anh ấy vào đây là tại ý tui. Giọng út Giữa có hơi sẳng.
- Mày mà. Tao biết mày giỏi lắm. Mẹ goá con côi mà dám rước trai về nhà.
- Má nói mà má không nghĩ. Lúc tui thương tích đầy mình, nhờ ảnh băng bó cho. Người ta đòi bắn tui bỏ. Ảnh can ngăn. Rồi khi tui về nhà ai lo lắng cho tui. Ráng lết tới, lết lui tự chăm sóc cho mình. Rồi từ đó đến giờ có ai ngó ngàng gì tới tui đâu. Chỉ thỉnh thoảng bên xã đội đem qua cho ít thuốc. Tui thấy nhà nghèo quá nên tui có dám nói gì. Tự tui có chồng, chồng chết, tự tui nuôi con, nuôi mình. Mới có được mấy chục giạ lúa má cũng mượn, mượn rồi tới mùa không trả. Hai mẹ con hết gạo qua xin má, má không cho. Thôi tôi bỏ hết. Bữa nay qua thăm ba má. Tôi muốn má qua để má biết mặt người ơn của tôi mà bây giờ má qua má chửi ảnh
Út Giữa vừa nói, vừa khóc, bà mẹ cứ nhai trầu ngó xéo, ngó ngang :
- Mày có biết anh hai, anh ba mày chết làm sao không?
- Biết chớ, đi bộ đội thì trời kêu ai nấy dạ. Súng đạn như vải trấu thì lính nào không chết. Mà anh Hiền có bắn mấy anh đâu?
- Mầy giỏi quá ha, mê trai đến độ quên mẹ quên cha. Từ ngày chồng mầy chết, tới giờ mầy mấy thằng rồi, hả cái con quỷ? Bây giờ mày lại rước thằng này về rồi nói ơn nói nghĩa. Tao banh bụng đẻ mày sao mày không nói nghĩa nói ơn.
- Ai làm mai, làm mối? Má hay là tự tui. Má dẫn đến đây bao nhiêu người. Đến khi thấy tui có cái thẹo chà bá trên mặt là bỏ đi một nước. May là tôi cứng lòng, nhìn trước ngó sau, nên chưa đến đỗi để lại cho má một bầy cháu ngoại mà rể không có một thằng.
Bà ấy thì xỉa xói, Út Giữa thì vừa khóc rấm rứt, ăn miếng trả miếng gọn gàng. Tôi nhìn vào cửa buồng nơi thằng bé mặt mày xanh mét, mở to mắt nhìn mẹ nó, rồi nhìn bà ngoại.Tôi lại dắt tay nó nói nhỏ:
- Cậu cháu mình ra ngoài chơi.
Thằng bé ngoan ngoản theo tôi. Hai cậu cháu qua bên chái ngồi, tôi đốt thuốc hút. Thằng bé biết thân ngồi nín thinh. Trong nhà hai mẹ con cãi nhau ỏm tỏi. Qua những cãi cọ của họ tôi biết được mẹ của út Giữa có cái máu đỏ đen. Tôi thật sự chán nản. Cái tệ nạn này bao giờ mới chấm dứt được đây. Tôi chợt nhớ đến những ngày tôi còn hét ra lửa, mửa ra khói. Tôi nào có nương tay các tệ nạn xã hội. Nhưng những việc làm của tôi quả tình là vô ích. Tôi đã đem cả nhiệt tình của mình để làm một việc mà tôi không thể. Bây giờ thì tôi là ai, tôi là cái gì của thế gian này. Một con chó giữ nhà, bắt chuột không chừng còn có gía trị hơn tôi. Những cái gọi là tư duy, gọi là kiến thức đã làm cho người trở nên ưu việt mà tôi thì luôn luôn mày mò tìm kiếm. Nhưng bây giờ, với nó làm tôi trở nên cái gì đây. Tấm thân còm nhom và mớ kiến thức tạp nham không tìm nổi cho mình một bữa ăn. Một bàn tay đặt lên vai tôi, tôi biết đó là ai. Bà mẹ của Ut Giữa đã bỏ về tự lúc nào.
Tôi không thể nào ăn cơm nổi. Út Giữa bới cho thằng bé một chén cơm rồi nó ngồi ăn ở đâu đó. Út Giữa ra ngồi kế bên tôi thút thít khóc, ai sẽ an ủi ai đây, mỗi người có riêng một nỗi tủi buồn. Khóc chán chê, cô ấy đứng lên bảo tôi :
- Anh đi tắm đi. Như không em lại kêu má qua chửi anh.
Tắm xong, tôi nhẹ người một chút, nhưng cơm thì ăn chẳng vô, Như thường lệ, ăn cơm xong thì Út Giữa dỗ thằng bé ngủ. Cái sinh hoạt của Út Giữa thì bình thường với tôi. Nhưng có vẻ khác đối với vùng quê. Sáng nào cũng thế, không một nồi cháo trắng thì cũng mấy trái bắp hoặc khoai luộc. Trưa, cơm nước xong thì dỗ thằng bé ngủ. Cái sinh hoạt ấy khó thấy trong nhà của một ai đó ở vùng sâu. Con cái biết đi lẫm đẫm thì tha hồ, muốn đi đâu thì đi. Đã có biết bao đứa trẻ rơi tòm xuống sông, xuống mương. Nhưng với Út Giữa thì hoàn toàn khác. Có lẽ thằng bé chính là lẽ sống của cô ấy. Việc ngủ sớm, dậy sớm và mẹ con quanh quẩn bên nhau là lẽ đương nhiên. Với lại buổi tối ở đây không biết đi đâu và phải làm gì. Khi thằng bé ngủ, cô bảo tôi ăn cơm. Tôi lắc đầu và cô cũng đồng tình:
- Em cũng không ăn nổi.
Út Giữa dọn dẹp, còn tôi thì nằm hút thuốc nhìn lên nóc nhà. Dọn dẹp xong cô xập cửa xuống. Khi cô đi ngang tôi với tay nắm lại:
- Anh hai để em đi ...
- Khỏi. Em ngồi đây anh nói em nghe.
Tôi kể cho cô nghe về việc hai anh công an, rồi nói:
- Út này. Anh có thể yên tâm ở lại đây thêm một tháng. Anh sẽ cố gắng ban cho bằng phẳng năm công ruộng cho em, còn cái việc xới nó lên rồi rải phân xanh, phân chuồng là em phải tự làm lấy. Nếu có thể, em mua mấy bao phân vôi rải đều lên những chỗ gò vừa mới ban ra. Phải làm thế cho hạ phèn, ruộng mới trúng được, có vậy em mới giảm bớt những chuyến đi buôn. Rồi còn phải đưa đón con đến trường nữa. Năm học tới em gởi con vào trường được rồi. Em đừng cản anh, bởi vì anh thương em. Làm thằng đàn ông mà đến với em trong hoàn cảnh này làm anh cảm thấy khó chịu quá. Cái gì anh làm được cho em thì anh cố làm. Em đừng có cản. Mai mốt anh đi rồi. Mỗi lần em làm ruộng trúng, em có cái mà nhớ anh.
Không trả lời những điều tôi vừa nói, mà cô lại hỏi tôi:
- Anh hai có biết tại sao em có chồng không?
- Thì tại em thấy chồng em rồi em thương, rồi em lấy.
Út Giữa lắc đầu :
- Hổng phải. Em lấy ảnh là vì ảnh có cái mền giống hệt cái mền mà anh hai đắp cho em.
- Trời đất. Thương cái mền. Rồi cái mền đó đâu?
- Khi ảnh bỏ em theo bộ đội, ảnh mang theo luôn. Em biết ảnh theo bô đội là vì ảnh ghê mấy cái thẹo của em.
Tôi bụm miệng út Giữa lại:
- Em đừng có nói vậy. Anh ấy không còn. Bỏ ý nghĩ ấy đi. Tội nghiệp cho con. Này anh hỏi. Anh ấy có thương em không?
- Em không biết.
- Rồi anh ấy cư xử với em như thế nào?
- Lần đầu em có biết gì đâu. Ảnh bảo sao nghe vậy Nhưng những lần sau thì anh ấy chỉ đến với em khi say mèm. Xong rồi lăn ra lảm nhảm là em gạt ảnh.
- Những lúc không say thì sao?
- Ảnh nhìn em rồi thở dài. Trước ngày ảnh đi, anh nói là anh sẽ đi bộ đội, lâu lắm mới về. Em cứ ngở là phải năm ba ngày ảnh mới đi. Ai dè, sáng hôm sau, em thức dậy thì ảnh đi mất. Em tưởng là đi đâu đó. Ai dè ảnh đi luôn. Còn để lại cho em mấy chữ bảo kiếm chồng khác làm ăn. Hơn tháng sau em mới biết em mang bầu thằng Bỏ.
- Thôi em đừng nhắc gì cả. Nếu sau này con có hỏi, em lựa lời mà nói. Đừng để cho con nó nghĩ quấy về cha mình.
- Ừ bỏ. Còn việc của mấy anh công an, em xin gia hạn cho anh một tháng nữa, được đủ ba tháng nhập khẩu luôn.
- Rồi ở đây cuốc đất trồng khoai với em luôn.
Tôi ngồi dậy choàng tay qua vai cô. Tôi cố tình làm cho cô ấy quên đi. Tất nhiên là chỉ quên được lúc nào hay lúc ấy.
- Em chưa tắm rửa gì. Cô giãy nẩy rồi chạy băng ra nhà sau.
Hai cậu cháu lại tiếp tục việc học của thằng bé. Hết học, rồi lại hát. Cứ thế. Hôm nay, nó viết chữ hơi đường được, kể ra thì cũng khá nhanh. Tiếng đọc bài ê a hay tiếng hát ngọng nghịu của nó làm dịu lại cái không khí buồn buồn còn váng vất.
Những ngày tiếp theo. Cả hai đều cố quên chuyện đã xảy ra, bằng cách không ai nhắc tới. Việc ban đất vẫn làm hàng ngày và tôi không còn phải làm một mình. Tôi đốn cây trâm bầu làm một cái cáng, hai đứa cùng khiêng nên công việc có nhanh hơn, Thằng bé thỉnh thoảng cũng lon ton chạy ra, nhưng tôi bảo Út Giữa không cho, bởi nắng lớn quá. Nó mà trúng nắng là gay go, lúc này thuốc men rất hiếm. Nhờ hai đứa cùng làm, nên sau một tháng, năm công đất bằng ran coi mát mắt. Buổi tối sau khi thằng bé ngủ, tôi rủ Út Giữa ra xới đất. Cô có vẻ phấn kích, ruộng bây giờ đã đúng là ruộng, ít ra là trên hình thức. Cô đỏ mặt khi khi nghe tôi nói:
- Em thấy không. Đồng vợ đồng chồng tát bể đông cũng cạn.
Tôi không ngờ câu nói đùa của mình đã gây ra một hệ lụy quá lớn lao. Nó cho tôi hạnh phúc và đầy ray rứt.
Mỗi tối, sau khi thằng bé đã ngủ. Chúng tôi lại xách len ra xới đến mười giờ hơn. Còn sáu ngày nữa, lúc này trời lại có trăng và cũng ít muỗi, với lại cô ấy đã cẩn thận đặt một lò un khá lớn ở phía trên gió. Một hôm, đang xới nữa chừng Út Giữa bảo tôi :
- Anh làm nghe, em vô nhà một chút.
Một lát sau cô ấy tay xách, nách mang ra tấm đệm và một nồi cháo gà. Chọn nơi bằng phẳng cô lót tấm đệm rồi bày cháo ra, hai đứa cùng ăn cháo. Hành động của Út Giữa hơi lạ, việc chăm sóc miếng ăn miếng uống cho tôi hàng ngày cô làm rất chu đáo, nhưng hôm nay thì lại quá chu đáo. Nồi cháo gà toàn thịt, không có miếng xương nào, cô múc cho tôi từng chén, gắp cho tôi từng miếng. Lúc này nhờ làm nặng nên tôi ăn nhiều và ngon miệng. Đến khi no nê, cô rót cho tôi một ly nước nóng, tôi đưa lên miệng, một mùi thơm ngát bốc lên. Trà, ở đâu vậy? Tôi nhìn cô, đôi mắt cô lấp lánh dưới ánh trăng. Tôi hớp một ngụm trà. Thú thật. Có thể đây là một giây phút hạnh phúc nhất từ trước đến giờ mà tôi gặp được. Một cảm giác tuyệt diệu mà mãi mãi đến sau này tôi không thể nào quên. Uống xong ly trà, tôi chợt nhận ra chén cháo của cô vẫn còn nguyên, mà nồi cháo thì đã hết. Tôi tròn mắt hỏi :
- Em không ăn à.
Cô cúi mặt xuống, đáp nhỏ:
- Em ăn một chén hà, em… Rồi cô bưng chén lua một loáng là xong. Để chén xuống cô lại rót thêm một ly trà cho tôi. Tôi bảo :
- Em uống đi. Cô lắc đầu :
- Em không uống nóng được.
Cô ấy lẳng lặng dọn dẹp, tôi ngồi uống trà, hút thuốc, nhìn miếng đất lấp lóa dưới trăng, trăng hôm nay sáng thật. Có những cơn gió khá mạnh. Có lẽ trời sắp mưa. Hình như chưa bao giờ tôi có một đêm trăng như thế này. Vầng trăng rất sáng mà cũng rất huyền hoặc, có lẽ trăng quá sáng nên muỗi cũng ít xuất hiện. Một đêm trăng hoàn toàn bình yên.
- Anh.
- Gì em?
- Em lau mặt cho. Mặt anh mồ hôi không kìa.
Tôi chưa kịp trả lời. Cô ấy lấy cái khăn thấm nước lau mặt cho tôi. Khoảng cách gần lại. Tôi bảo:
- Thôi đi em. Mình mẫy của anh dơ lắm. Mồ hôi, bụi đất nữa. Với lại ở đây…
- Anh mới tắm ban chiều. Chỉ là mồ hôi thôi, thì để em lau cho mà.
Cô ấy lau người tôi bằng cái khăn ướt. Đến khi cô buông cái khăn xuống. Tôi nhìn thấy ánh mắt ấy có một điều gì đó kỳ lạ và khi nó chạm vào mắt tôi thì bổng nhiên mờ lại. Tôi biết điều gì đang xảy ra và nếu xảy ra thì sẽ vô cùng quyết liệt:
- Thôi em. Mình vào nhà. Anh tắm rửa xong. Anh chiều.
- Hông. Em… anh thương em ở đây đi. Hổng có ai đâu? Mà có cũng thây kệ họ.
Tôi không ngờ cô ấy liều đến thế. Cô ấy lại tiếp giọng như đứt quảng:
- Em… thích vậy mà. Anh… không thương em… Em…
Út Giữa không để cho tôi phản ứng, cô ấy tựa người vào tôi, cái cơ thể mát lạnh kia lại chuyển sang tôi một cảm giác nóng rực. Dưới ánh trăng, khuôn ngực trắng ngần thấp thoáng dưới hai vạt áo đã mở tự bao giờ, phập phồng theo từng hơi thở gấp. Cô ghì mặt tôi vào đấy, một sức hút ở nơi đó cuốn tôi vào và cả vòng tay cô ấy nữa, càng lúc càng chặt hơn, nhấn tôi chìm vào một không gian êm đềm. Từ trong ấy toả ra một mùi hương nồng nàn ký thú. Đắm say.
- Anh… anh chờ em chút.
Cô buông tôi ra. Và từng hình ảnh quen thuộc gấp gáp hiện ra. Đã từ lâu tôi biết đến câu “rõ ràng trong ngọc trắng ngà “ và tôi cho là các nhà văn, nhà thơ nói quá. Nhưng hôm nay là sự thật, khi mà thân thể của cô ấy được phơi bày dưới ánh trăng. Hai thứ hòa trộn vào thành một màu trắng tuyệt diệu. Tôi nhận ra thân thể ấy như một bức tượng bằng đá với màu trắng gần như trong suốt lấp lóa, lấp lóa... Tôi sững sờ nhìn, đắm say nhìn… cho đến khi bàn tay cô ấy dẫn dắt tay tôi để cho tôi cảm nhận đuợc cái bức tượng đó êm đềm, kỳ thú xiết bao.
- Anh…
Tiếng gọi nhỏ ấy như là một mệnh lệnh và tôi để cho mình tan vào trong pho tượng ấy. Tạo Hóa đã chuyển gởi ánh trăng mang thêm cho chúng tôi sức lực. Chúng tôi sử dụng bằng hết những gì đã được ban cho. Rồi trên ấy, trên không gian lồng lộng. Đấng Tạo Hóa mặc tình chiêm ngưỡng những thành quả tuyệt vời của mình khi dạy dỗ cho nhân gian về việc truyền sinh. Gần như chúng tôi không còn làm chủ được những động thái của mình mà nhất nhất làm theo sự kêu gọi của cảm xúc, càng lúc càng dâng cao… dâng cao. Trong khi cơn xúc cảm lên đến choáng ngộp, chợt tôi bắt gặp ánh mắt xanh biếc, lấp lánh dưới ánh trăng, hơi thở gấp gáp, những lời kêu gọi cuống quýt. Hốt nhiên hơi thở của cô ấy phả vào tôi một mùi hương thật nồng, thật thơm… bủa chặt lấy tôi. Tất cả… làm chúng tôi hoà lẫn trong thân thể của nhau. Cứ như thế… như thế… Rất lâu sau, cô ấy lại mở to mắt nhìn tôi, ánh mắt vẫn long lanh, đôi môi vẫn mấp máy như đang gọi mời. Tôi cúi xuống và nghe tiếng nói thật nhẹ thả một âm điệu lạ lùng:
- Em… em thương anh quá anh ơi. Anh… anh ác với em.
Tiếng nói hụt dần và tôi chỉ còn nghe và cảm nhận những hơi thở của cô ấy bằng chính hơi thở của tôi. Bây giờ, tôi mới cảm nhận thấy hơi thở ấy tỏa ra một mùi rất lạ, một mùi thơm thật đậm và cuốn hút. Những lần ân ái trước cũng thế, nhưng hôm nay thì hương thơm ấy gần như tăng lên rất nhiều lần. Vẫn còn thấp thoáng một màu xanh biếc lạ lùng trong đôi mắt. Tôi chưa bao giờ thấy ánh mắt như vậy, chưa bao giờ ngửi được mùi thơm như vậy từ hơi thở ấy. Mọi lần, trong những giây phút như thế này, thường thì cô ấy khép hờ mắt lại và chưa bao giờ mở to đến thế. Tôi không hiểu tại sao hôm nay lại thế? Tôi nằm yên trên người cô ấy, cố gượng nhẹ, nhưng cô thì không chịu thế, quấn chặt tôi vào. Và tôi thì vẫn cứ để cho cô ấy tiếp tục mê hoặc mình bằng sự của chặt chẽ của đôi tay, run rẫy của thân thể và nồng nàn của hơi thở. Hay thật. Tạo hóa thương con người quá đỗi. Và cả những giọt mồ hôi hạnh phúc của cả hai đang hoà quyện cùng nhau cũng thế. Trong khi cái ánh sáng của vầng trăng cũng đẫm đầy một mùi hương thần thánh ấy, đổ lên thân thể chúng tôi một một bộ trang phục lấp lánh tuyệt vời. Những hơi thở phập phòng từ hai lồng ngực đang áp sát vào nhau từ từ dịu lại. Tôi rời khỏi thân thể cô ấy, chống tay ngồi dậy, nhìn cô ấy đang nằm yên, một tư thế nằm thoải mái tự nhiên, phơi bày trọn vẹn thân thể dưới ánh trăng. Tôi với lấy cái áo định che lại. Nhưng không hiểu sao tôi lại thôi và nhìn như bị thôi miên. Mãi cho đến khi cái mát lạnh của đêm khuya làm cho chúng tôi lại chìm sâu vào cơn say đắm mới. Không là sự say đắm của ái ân mà là say đắm ngắm nhìn nhau, chúng tôi để cho bản thân hoà nhập vào trăng, vào gió và vào hơi thở của chính mình. Nhưng tôi biết chỉ có tôi nghĩ thế, cảm nhận như thế. Còn cô ấy thì lại giản đơn hơn, thương tôi và tất cả cho tôi.
- Anh.
- Gì em?
- Em nói anh đừng cười em nghen.
- Em nói đi.
- Anh cõng em vô nhà. Chiều em đi.
- Vậy thì mặc quần áo vào.
Cô kề tai tôi nói nhỏ:
- Khỏi. Sáng em ra dẹp.
- Nếu ai thấy thì sao?
Cô nói như liều:
- Kệ họ. Hồi nãy còn không sợ mà bây giờ lại sợ. Cõng em đi anh.
Bỏ lại tất cả, tôi cõng cô ấy vào nhà khi trăng lên khỏi đỉnh đầu. Nhưng được mươi bước thì cô ấy lại bảo:
- Thôi anh để em xuống đi. Em nặng lắm.
- Để lên để xuống, mắc công quá. Đi luôn đi.
- Thôi mà. Nặng lắm mà. Đất cày, lại xa, lại mỏi chân anh.
Tôi vẫn chưa để cô ấy xuống:
- Biết vậy mà còn đòi. Nhưng anh đâu có mỏi.
- Làm sao mà không mỏi được. Em nhỏng nhẻo với anh một chút thôi. Coi anh thương em tới đâu mà.
Thế là tôi phải thả cô ấy xuống, rồi cả hai lại líu díu che chắn nhau, dìu nhau vào nhà. Ô tại sao lại thế?
Khi tắm xong, tôi chui vào mùng. Chưa bao giờ cái dư vị ái ân làm cho tôi lâng lâng đến thế và tôi chờ đợi. Không phải cho một lần ân ái tiếp theo mà chờ đợi cô ấy đến bên tôi dù vẫn biết, chỉ một thoáng nữa thôi.
Út Giữa lại đến. Cô ấy sẽ sàng nằm xuống cạnh tôi, người đẫm nước, mát lạnh. Mái tóc mượt mà còn đầy hơi nước dù cô đã cố lau khô. Cả thân thể ấy lấp lóa trong ánh sáng mờ mờ của cây đèn hột vịt và mấy vệt trăng len qua vách lá. Đã hơn mười ngày nay, khi đêm xuống, khi cô vào với tôi thì đều như thế. Tôi hỏi :
- Tại sao em lại làm thế? Em không mắc cỡ à?
- Ở đó mà mắc cỡ. Em biết anh thích thế. Với lại …
- Với lại làm sao?
- Lúc em muốn anh thương. Trời có sập em cũng không sợ. Anh có thích em như vậy không? Em sẵn sàng cho anh khi anh…
- Ừ. Thì anh thích. Rất thích. Nhưng anh sợ
- Anh sợ cái gì?
- Anh sợ trời sập chết em. Uổng
- Anh đừng lo. Ông trời thương hai đứa mình lắm. Còn bây giờ thì em biết rồi.
- Em biết cái gì?
- Hồi nãy đó. Em đòi nhiều chuyện kỳ cục như thế mà anh cũng chiều. Như vậy anh thương em. Từ đây về sau. Khi đến với anh. Em cứ như vậy. Nếu xứ này chỉ có hai đứa mình thôi. Em cứ như vậy ra đồng luôn. Mình muốn thương nhau là xáp vô liền.
- Em khùng thiệt. Rủi ai nhìn thấy thì sao?
- Ừ hén. Nhưng mà mình ở trong nhà của mình, ai chui vô đây. Anh hén.
- Rồi hồi nãy ở ngoài đồng?
- Ai mà ra đó lúc khuya lơ, khuya lắc như vậy. Hổng có con. Em bắt anh ngủ luôn ngoài đó với em. Cho mát.
Cái gì cô ấy cũng nói được. Chúng tôi nhìn nhau trong bóng đêm, nhưng thấy rõ nhau từng chân tơ kẽ tóc, trao đổi cho nhau từng hơi thở và cô chìm dần vào trong giấc ngủ. Ánh trăng đang nghiêng dần, len qua khe vách để lại một vệt trăng lấp lánh trên khuôn ngực trần. Ánh sáng của cả một vầng trăng như tích tụ lại trong vệt sáng ấy. Sức tưởng tượng đẩy tôi đi đến thật xa và cảm nhận rằng vầng trăng ấy đang làm cho hai ngọn tuyết sơn lấp lánh. Tôi mê đắm ngắm nhìn và nghĩ ngợi về chuyện vừa xảy ra. Lòng tôi nôn nao. Tôi không sợ gì khi ân ái với cô ấy ở một nơi như thế, cũng chẳng ngại ngần khi tôi cõng cô ấy mà cả hai không một manh vải trên người. Thậm chí thích thú là khác. Tạo hóa đã tạo ra chúng tôi và ban tặng cho chúng một một khả năng như thế. Không ai sinh ra mà có cân đai mũ áo đi kèm. Lề thói cuộc đời làm cho con người phải nương theo và rồi nhìn lại bản năng bằng một cái nhìn dè bỉu. Tìm mọi lý luận để phủ nhận nhưng lòng thì ưa thích. Thậm chí tìm mọi cách thỏa mãn mình mà không cần biết có sự đồng thuận hay không. Chúng tôi cho và nhận lại ở nhau bằng cả một tấm lòng, chưa bao giờ có một ý nghĩ nào về sự chiếm đoạt hay áp bức nhau. Chúng tôi tìm mọi cách quyến rũ nhau. Có sao đâu? Cả hai cùng muốn thế. Tôi đang ở đây, đang nhìn ngắm con người này và cái thân thể tuyệt vời đang được ánh trăng tô điểm cho tuyệt vời hơn. Nhưng cái gì xui cô ấy đòi hỏi ở tôi một điều như thế và tôi đáp ứng bằng lòng sung sướng không cùng. Có thể là chúng tôi không biết, nhưng vầng trăng, ánh sao, cơn gió và bầu trời thì biết. Thiên nhiên không dấu diếm bất cứ điều gì. Tại sao chúng tôi phải dấu, phải e dè trước thiên nhiên khi chúng tôi đồng thuận bằng xác thân và bằng cả tấm lòng. Nhìn cô ấy chìm dần trong giấc ngủ. Hốt nhiên, tôi buồn cười trước những bước đi lóng ngóng của chúng tôi khi nãy. Ôi những lề thói mà con người tự đặt ra để gây phiền lụy cho mình. Tôi muốn đánh thức cô dậy và cả hai cùng đi dạo dưới trăng bằng những bước thong dong vì cả hai tấm thân đều không vướng bận gì.
Hạnh phúc làm tôi không ngủ được. Tôi nhẹ nhàng ra khỏi mùng, tìm một ly nước uống rồi vấn một điếu thuốc rê. Tôi chợt nhớ lại lần đầu tiên cô ấy ra Rạch Giá tìm gặp tôi và sau đó cái gì xui cho tôi đọc cuốn Một Thời Để Yêu. Một Thời Để Chết của E.M. Remarque. Dưới bom đạn ngợp trời sẵn sàng mang đến cho họ cái chết bất cứ lúc nào. Viên trung úy Đức, từ chiến trường trở về với khuôn mặt thất thần hốc hác vì nhà cửa tan hoang, gia đình thất lạc và gặp một cô gái lạc loài xanh xao, ốm yếu vì thiếu ăn. Họ gặp nhau sống với nhau trong cái chết chực chờ. Chưa bao giờ họ nói tiếng yêu nhau. Trong lúc sự kinh hoàng đang phủ chụp trên đầu, hốt nhiên họ nhận ra có một thứ hạnh phúc trong đời không bao giờ rời xa họ. Ái ân. Những run rẫy vì lo sợ cái chết đã được thay bằng sự run rẫy tuyệt diệu của hạnh phúc. Họ chộp lấy nhau và đã đem bằng hết sức lực mình để vầy cuộc yêu đương dưới lưỡi hái của tử thần. Bom rơi, đạn réo trên đầu. Mặc, cứ đón nhận và dâng hiến hết cho nhau. Chưa bao giờ họ cho đó là một cứu cánh để lãng quên một hiện tại kinh hoàng. Nhưng chính cái hiện tại kinh hoàng ấy làm cho những cuộc yêu đương của họ trở nên thần thánh. Dưới cái cái nhìn của E.M. Remarque thì chưa có một cặp nào, có đầy những lời thề non hẹn biển, mà lại có những cuộc yêu đương tuyệt vời như thế. Bây giờ đây, tôi và cô ấy cũng đang đem hết sức lực của mình để yêu đương như thế dưới cái thòng lọng của tù tội và sự phân ly. Và có phải vì lo sợ điều này, nên cô ấy như thế. Không. Tôi biết chắc như thế. Đơn giản chỉ vì cô ấy yêu tôi.
Ánh đèn dầu lóe lên rồi phụt tắt. Hốt nhiên tôi nhớ một câu thơ xưa “ Tàn đăng diệc hựu minh” Tôi mang trong đầu câu thơ ấy chui vào mùng, nhìn cô ấy ngủ trong cái ánh sáng của vệt trăng len qua vách lá. Tôi cố thu nhận hình dáng này, ân tình này và vô vàn hình ảnh nơi đây để làm hành trang cho bước đường vô định. Càng làm việc đó, thì từng giây, từng giây tôi bị mái tóc, rồi thân thể của cô đang phô bày một cách huyền ảo cùng với hơi thở thơm ngát. Không hiểu từ bao giờ, tôi thường hay ngửi lấy hơi thở của vợ tôi và bây giờ là út Giữa, nhất là khi họ vừa cùng tôi ân ái. Đêm càng lúc càng khuya dần. Ngoài kia trăng đã nghiêng dần về tây đẩy vệt trăng huyền hoặc ấy xuống khỏi ngực cô kéo thành một vệt dài qua khỏi bụng. Quầng sáng không còn mờ ảo nữa mà sáng lên một cách huyền hoặc và rực rỡ đang làm lồ lộ một vùng nhỏ với những sợi tơ đen mượt mà, phản chiếu ánh trăng thành những điểm sáng lấp lánh li ti. Ôi trăng, cô ấy và nơi ánh trăng đáp xuống lại đem đến cho tôi một cơn mê muội tuyệt vời. Không biết tôi ở trong trạng thái ấy bao lâu. Để rồi cuối cùng, một ý nghĩ lóe lên trong đầu, tôi đặt cho nơi ấy bằng một cái tên rất thiêng liêng. Cổng Truyền Sinh và tôi kính cẩn hôn lên đấy và cùng khắp mọi nơi trên thân thể tuyệt diệu này. Đắm say từ mái tóc thơm thơm, đôi môi he hé đậm đầy hơi thở âm ấm, thơm thơm, và… cho đến những ngón chân sần sùi thô ráp. Cuối cùng là tôi ôm chặt lấy bằng tất cả sức mạnh của mình. Cô giả như giật mình và ú ơ. Nhưng sau đó là sự đáp trả hoàn hảo. Tôi hụt hơi. Rồi sau đó…
- Anh. Thôi anh…
- Sao vậy em?
Giọng cô chấp chới giữa đêm khuya.
- Chút… chút nữa em… chiều anh mà. Nghe em nè.
- Ừ. Anh nghe?
- Đừng bỏ em nghe anh.
Tôi yên lặng vì không biết trả lời sao.
- Chỉ cần lúc nào anh cũng thương em. Dù anh có ở đâu, làm gì. Anh cũng phải nhớ em. Hứa với em nghe.
- Rồi. Anh hứa. Có lẽ đây là lời hứa hẹn thật thà nhất mà tôi có thể.
- Hứa thì phải thiệt tình nghen. Em chỉ cần anh nhớ em. Nhớ hoài, nhớ hoài. Ừ. Mà quên, em đang chiêm bao, anh lại làm giật mình. Uổng hết biết.
Tôi phì cười :
- Em chiêm bao thấy gì?
Tôi nghe cô ấy cười nhỏ, rồi ôm choàng lấy tôi:
- Em thấy em có con với anh. Con trai, con nó giống anh lắm. Em đang cho con bú. Anh làm em giật mình.
Tôi nhói đau trong lòng và nằm lặng yên vì không biết phải nói gì. Như từ trong vô thức, tôi áp mặt lên bụng cô:
- Em muốn có con?
Cô ấy nghiêng người lại cho bàn tay tôi nằm trọn vẹn trên ấy rồi nói nhỏ, giọng lập bập:
- Tại em… em thương anh. Mà anh cũng thương em lắm mà. Thương anh thì phải đẻ con cho anh. Anh biết không? Em ghiền cái mùi của anh. Hồi nãy anh thương em ngoài đồng đó. Cái mùi mồ hôi thoang thoảng của anh làm em hết biết…
- Khùng. Nó hôi rình. Của anh mà anh còn chịu hổng nổi.
- Kệ em. Tại em thích. Em thương anh mà. Cái gì của anh em cũng thương.
- Em này. Tại sao anh nói cái em cũng nghe theo, làm theo hết vậy?
- Em cũng hổng biết tại sao? Chỉ nghe má nói là em mắc cãi. Mà thôi. Đừng nhắc chuyện đó. Hồi nãy, em nằm yên cho anh thương em. Bây giờ anh nằm yên như em để cho em thương lại coi.
Tôi nín thinh. Và cô thương tôi y như là tôi vừa mới thương cô ấy vậy. Đôi môi đẹp đẽ và tham lam ấy gần như không bỏ sót một nơi nào.
Sáng sớm, khi mới tờ mờ sáng tôi đã vác len ra đồng, từng mảng đất nhỏ khô cằn ấy tơi ra, tơi ra. Nó sẽ làm cho hạt lúa đầy hơn, có nghĩa là hai người tôi yêu mến sẽ có cuộc sống tốt hơn. Chỉ còn hai ngày nữa, là tôi không còn ở lại nơi này. Nhưng điều đó không làm tôi quan tâm. Tất cả mọi việc làm của tôi là hưởng thụ cho bằng hết cái hạnh phúc mong manh mà tôi còn có được. Tôi không có quyền phí phạm nó. Bởi vì tôi có lỗi xiết bao khi ngơi nghỉ những yêu chiều dành cho cô ấy. Và tôi biết rằng những việc là này, dưới ánh nắng như đổ lửa này, là tôi đang yêu chiều cô ấy. Những giọt mồ hôi tuôn ra nó mang theo những thứ thừa thải của thân thể tôi. Nhưng khi rơi xuống đất này là tôi đã gởi lại nơi đây một tấm chân tình cũng như những giọt mồ hôi tuôn ra khi cùng cô ấy vầy cuộc yêu đương. Tôi cũng biết mai đây trên bước đường vô định của mình. Ít ra còn có thêm một nơi nữa để tôi nhớ về. Tôi làm việc một cách miệt mài chăm chỉ đến độ tôi quên không để ý đến việc là tại sao gần trưa rồi mà không thấy Út Giữa ra. Đến khi tôi nhấc cái can nước không còn một giọt, tôi mới nhớ. Nhưng thôi, chắc cô ấy có việc gì đó. Làm một mình công việc tương đối nặng nhọc này tôi lại có một cái cảm giác mình là người đàn ông đích thực, gánh hết nặng nhọc cho vợ con (?) Tôi bổng vui vui trước ý nghĩ này. Bổng nhiên, tôi có linh cảm là mình có con. Rồi một cảm giác rất khó tả làm cho tôi nổi gai ốc giữa cái nắng ban trưa. Một thứ cảm giác rất lạ kỳ lạ, vừa sung sướng, vừa lo sợ. Tôi cố trấn áp, nhưng không được. Để rồi miên man với một ý tưởng tuyệt vời. Nuôi dạy, chăm sóc, chơi đùa với con và nhìn nó lớn lên. Và khi cái hiện thực len vào… Tôi thẩn thờ nhìn lên bầu trời xanh, rồi vác cuốc vô nhà.
Rửa tay, rửa mặt xong tôi bước vào nhà, nhà vắng hoe. Tôi chẳng biết mẹ con Út Giữa đi đâu, lại thấy mâm cơn dọn trên bàn. Tôi giở cái lồng bàn, đồ ăn đã lạnh tanh. Khi bới chén cơm tôi nhìn thấy có miếng giấy viết mấy chữ “ Anh ăn cơm chước, mẹ con em lên sả, nếu đồ ăn ngụi, anh hăm lại rồi hả ăn “. Nhìn nét chữ thô ráp, trật chính tả lung tung. Tôi nhói lên trong lòng. Chợt nhìn thấy cuốn tập và cây viết trên bàn. Tôi buông chén, chộp lấy và viết. Viết cho đến khi nghe tiếng hai mẹ con líu ríu ngoài sân. Tôi buông viết, đến chỏi cái cửa lên, thì hai mẹ con đã vòng cửa sau vào nhà. Thấy chén cơm đã bới và thức ăn vẫn nguội ngắt. Út Giữa lườm tôi một cái dài ngoằng:
- Em dặn rồi mà cũng vậy, lạnh ngắt như vầy mà ăn ngon lành gì hổng biết nữa.
- Tại anh đói bụng quá. Nhưng anh chưa ăn mà.
- Chưa ăn mà bới. Em mà không về kịp… Mà anh đó. Mới sáng sớm là mang bụng đói ra đồng là có ngày anh chết. Đã vậy còn ăn nguội, uống lạnh nữa.
- Anh đã nói là anh chưa ăn mà. Thôi từ đây về sau không dám vậy nữa.
Cô bưng mâm cơm ra sau hâm nóng lại, thằng bé lon ton chạy theo. Tôi ngẫm nghĩ một hồi chợt ngớ người ra. Thái độ vừa rồi của Út Giữa đúng phóc cái kiểu của mấy bà vợ dành cho mấy ông chồng ăn ẩu, uống tả.
Bữa cơm trễ tràng nên rất ngon lành, tôi không biết vì chuyện gì nhưng thấy Út Giữa rất vui, thằng bé thì bi bô đủ thứ. Nó bảo mọi người nghe nó đọc chữ ai cũng khen nó giỏi, nó hát ai cũng khen hát hay. Tôi hỏi Út Giữa dẫn con đi đâu, thì cô chỉ cười không nói. Tôi cũng không gặng hỏi thêm, vì đói nên tôi ăn cật lực, nên khi buông chén thì lại muốn nằm, thế là tu một ca nước xong, tôi leo lên bộ ngựa nằm hút thuốc để mặc mẹ con út Giữa ríu rít với nhau sau nhà bếp. Trời chắc sắp mưa, nên những cơn gió ngày hè lất phất và sau đó là tiếng võng kẻo kẹt cùng lời ru nho nhỏ của cô ấy. Tôi ngủ trong cái hạnh phúc bình dị thô sơ.
Tôi giật mình, dụi mắt, ánh nắng chênh vào xế, tôi lồm cồm ngồi dậy rủ Út Giữa đi xới đất. Cô tươi cười nhìn tôi, bảo :
- Chiều nay nghỉ đi anh, em nói cho anh nghe chuyện này vui lắm.
- Thì mình ra ngoài ấy vừa xới vừa nói cũng được. Với lại… Cô đưa tay bụm miệng tôi lại;
- Đừng có lo. Anh biết bữa nay em đi đâu không? Em đi lên công an xã, má em lên trển quậy. Mấy anh công an xuống kêu em lên. Gấp quá nên em không cho anh hay. Lên tới trển, vừa thấy em, má em chửi em một trận te tua luôn. Mấy anh công an can hoài. Má nói em chứa chấp anh, còn nói anh lợi dụng em để chiếm mấy công đất. Mấy anh công an giải thích hoài má hổng chịu nghe. Còn em thì tức quá, em khóc không. Thằng Bỏ thấy em khóc, nó khóc theo luôn. Cuối cùng anh biết mấy anh công an nói sao không ? Mấy ảnh can hoài không được. Mấy ảnh tức quá, lấy cái giấy tạm trú của anh gia hạn thêm một tháng nữa, mà còn nói sẽ dẫn má tới coi mấy công đất nữa, để cho má thấy ai lợi dụng ai. Má bỏ về. Mấy anh công an lại chọc thằng Bỏ và đùa với nó. Nó hát mấy bài hát anh dạy. Mấy anh Công An khen quá trời.
Cô nói một hơi, sợ rằng ngưng lại thì quên đi vậy. Nó làm cho cô trở nên rực rỡ hơn trước mắt tôi. Tôi nhìn cô mà trong lòng nao nao. Còn với tôi, được ở lại đây thêm là rủi hay may. Công An ở đây họ làm việc theo cảm tính, nhưng điều này sẽ giúp được gì cho tôi hay nó làm cho tình trạng của tôi trở nên xấu hơn. Tôi chợt nhớ đến cái cảm giác ban trưa. Để rồi một hy vọng mơ hồ kèm theo một nỗi lo âu không rõ nét đang trộn lẫn vào nhau. Tôi thẩn thờ nhìn cô ấy và im lặng.
- Anh. Sao anh không nói gì hết vậy, hay anh muốn bỏ em?
Tôi giật mình, rồi kéo cô lại gần;
- Anh mừng quá nên không nói được.
Cô đẩy nhẹ tôi ra, rồi bảo;
- Anh đi tắm đi, mình mẩy mồ hôi không?
- Em thích mà.
Mặt cô ấy đỏ bừng, đôi mắt như mờ lại:
- Anh đó nghen. Em… nhưng không phải bây giờ. Mấy bữa nay anh làm sao vậy?
- Làm sao là làm sao?
- Thôi… Hổng nói nữa. Ban ngày thì làm cho cố vào. Tối cũng không chịu ngủ, mà… Bộ chán em rồi hả?
- Điên. Bây giờ em kêu làm gì anh làm nấy. Khỏi tắm luôn.
Mặt cô ấy đỏ lên:
- Thôi à. Anh đi tắm đi.
Nước làm cho tôi sảng khoái hơn, bước khỏi nhà tắm tôi nhìn ra năm công đất phẳng ran, lấp loá dưới ánh nắng, tôi nghĩ cần phải đắp lại bờ, rồi ước lượng khoảng thời gian mà mình phải làm. Từ trước tới giờ chưa bao giờ tôi làm một việc gì mà toàn tâm toàn ý đến thế.
- Tắm rồi thì vô nhà. Anh đứng ngoài nắng chang chang như thế bị cảm nắng bây giờ. Coi bộ anh mê miếng đất đó hơn em.
Tiếng Út Giữa vang lên phía sau. Hình như tôi không thể nào có thể biến mất khỏi tầm mắt của cô ấy rồi. Tôi quay lại vừa đi vừa nói :
- Tại vì anh mê em, nên mê luôn miếng đất.
- Thiệt hông? Út Giữa nguýt tôi
- Thiệt. Đứa nào nói dóc bị muỗi cắn.
- Anh khỏi lo. Tối anh ngủ, em giở mùng cho muỗi vô.
- Rồi em vô soi muỗi.
- Đồ quỷ.
Chúng tôi vào nhà, nằm bên nhau. Cô nói lần đầu tiên cô gặp tôi ngoài Rạch Giá, cô sợ lắm, nhưng khi về cô nói tôi hiền. Má cô thì bảo lính ngụy không ai hiền cả. Cô không tin, cô nói con người có nguời hiền, người dữ… Nghĩa là bằng mọi cách cô bênh vực cho tôi. Vâng cô nói đúng, nhưng không phải ai ai cũng nghĩ như thế. Rồi tôi khuyên cô:
- Em đừng có nói với má em như vậy nữa, dù gì cũng là cha mẹ của mình. Thương thì nhờ, không thương thì chịu, đừng có cãi tay đôi, người ta nghe được người ta cười chết.
Tôi khuyên cô bằng cái giọng điệu của người anh khuyên em. Cô chống tay dậy, nhìn tôi rồi nói;
- Anh nói thì em làm theo, nhưng cái việc má tính đuổi anh đi khỏi đây thì em cự tới cùng.
- Trời đất. Bỏ cha, bỏ mẹ theo…
- …theo chồng. Cô ngắt lời tôi bằng một giọng dứt khoát. Em nói rồi, một tháng, một năm anh cũng là chồng em, một ngày anh cũng là chồng em. Anh bỏ em, anh cũng là chồng em.
Tôi sững sờ nhìn cô :
- Em điên. Mà nói gì thì nói em cứ yên lặng. Không thôi má em nói anh dạy em thì chết anh.
Tôi nhìn cô, đôi mắt ấy ánh lên một cái gì đó cương quyết đến dữ dằn. Cô ôm tôi rồi nói:
- Chút nữa thằng Bỏ thức dậy em dạy nó kêu anh bằng ba, thử coi ai làm gì được em. Nếu cần, em nói là em lấy anh từ lâu rồi, từ cái ngày em ra Rạch Giá tìm anh, chớ hổng phải mới đây. Thằng Bỏ là do em lấy anh mà có. Nó là con anh. Ai làm gì em. Hổng lẽ em lấy anh phải la làng cho người ta biết. Nhưng bây giờ thì em la. Em lấy anh đẻ ra thằng Bỏ.
Ghê thật. Tôi thật sự hơi hoảng, nhưng trong lòng thì mơn man một cảm giác được yêu thương và tôi nín lặng không nói được tiếng nào. Cô ấy lại bảo tôi hãy nằm yên để cho cô ấy thương. Cái tôi sợ mà cũng là cái tôi thầm mong bây giờ đã tới, quyết liệt như một cơn lốc. Không hiểu sao tôi lại áp mặt vào bụng cô và lắng nghe.
Công việc sửa sang mảnh ruộng được chúng tôi thực hiện một cách nhanh chóng. Bờ bao được đắp lại cao ráo, dẻ dặt nhờ mấy cơn mưa đầu mùa. Những đụn rơm, mô cỏ mục được chúng tôi gánh về rải đều lên mặt những chỗ gò vừa mới ban ra. Tôi chưa hài lòng như thế, những lau sậy cỏ khô, rơm rạ, thứ gì có thể đốt được thì chúng tôi gom về rãi đều trên mặt ruộng. Lúc này là giữa tháng tư trời oi bức và đã có vài cơn mưa, tôi canh mưa để đốt đi những thứ đó. Khi trời mưa xuống thì cả mảnh ruộng bằng ran, đen nhánh. Út Giữa nhìn tôi sung sướng. Trong đôi mắt ấy đang có ánh lên một niềm hạnh phúc. Nó như là một giòng nước mát và tôi chỉ còn có một cách duy nhất phải làm là uống cạn.
Việc học của thằng bé vẫn được tiến hành, khi nó có thể đọc viết được thì tôi lại tịt ngòi. Không biết phải dạy cái gì tiếp theo và cái gì ngưng lại. Đành kể cho thằng bé nghe chuyện hoàng tử Lang Liêu với bánh dầy, bánh chung, Sự tích Trầu Cau. Út Giữa đi tìm mua sách cũ nhưng kiếm không ra, khi kiếm ra thì không đúng. Nhưng tôi vẫn cố tìm cách nào đó cho thằng bé có cái mà đọc, có cái mà viết. Nhưng rồi con nó có chịu đâu. Thế là kể cho nó nghe chuyện Phù Đổng Thiên Vương, Hai Bà Trưng, Triệu Nữ Vương, Bố Cái Đại Vương… Tôi bảo cô ấy mua thêm tập, viết. Những lúc rỗi rảnh tôi nhớ gì viết nấy những câu chuyện lịch sử, để dành khi con biết đọc. Cứ thế, tôi viết được hơn mươi truyện và tiểu sử các nhân vật lịch sử dày khoảng hai cuốn tập một trăm trang. Những ngày này tôi có hai niềm hạnh phúc rất lớn lao đó là chúng tôi yêu thương và sự xác lập quan hệ cha con với thằng bé. Tôi xem nó như con tôi, máu thịt của tôi.
Nghĩ đến ngày phải rời đây làm tôi không ngủ được. Cô ấy thì đã đi đâu đó hay đã vào soi muỗi cho thằng bé cũng không chừng. Tôi chui ra khỏi mùng đi ra phía sau nhà. Ánh trăng mùa hè đang chập choạng vào mưa. Trời lãng đãng mây làm cho ánh sáng trở nên kỳ ảo. Tôi nghe tiếng nước reo ngoài cầu ao. Tôi nhìn ra và sững sờ. Út Giữa đang tắm ngoài cầu ao, thân thể trần truồng của cô lấp lóa dưới ánh trăng. Từng động tác của cô như là một điệu múa huyền hoặc khi tỏ, khi mờ, làm cho mái tóc mượt mà khi dìu dặt, lúc lượn lờ. Khi cô cúi xuống, hai mông tròn lẳng, đẫm nước, lấp lánh ánh trăng. Thỉnh thoảng, tôi thấy cô đang đùa nghịch với thân thể mình và thì thầm điều gì đó. Tôi không còn phân định được đâu là trăng và đâu là cô ấy. Trăng, thân thể loang loáng nước của cô ấy và mặt ao sóng sánh đang hòa lẫn vào nhau. Cô vẫn tắm mà không biết rằng việc làm ấy khiến cô không còn là của tôi quen thuộc mà là một sự ban tặng bất ngờ. Trong ý thức của tôi vẫn cho tôi biết rằng con người tuyệt vời này là của tôi, nhưng giờ đây đang pha trộn một điều gì đó rất thần thánh, rất thiêng liêng. Một phức hợp làm cho tôi nhận được một hình ảnh, một cảm xúc chưa hề có. Đêm mùa hè chợt mát, trời mùa hè chợt trong và... mây bềnh bồng cho tôi cũng bồng bềnh. Một cảm xúc đắm say gần như không có thật đang vây bủa lấy tôi. Những cảm giác nửa là thế tục, nửa là thần tiên mà tôi vừa nhận trên tấm thân ấy, từng lúc, từng đã phai dần phần thế tục. Lòng tôi sạch không, lòng tôi bổng bổng bay bay trong kỳ thú, tuyệt nhiên không còn những xao động thế tục cho đến khi cô đứng cạnh bên tôi, cô vẫn như thế và thêm cả hương thơm. Tôi như sực tỉnh khi cô ấy nói:
- Anh xấu. Nhìn trộm em tắm.
Tôi nhìn đôi mắt lấp lánh và thân thể ấy như chưa từng nhìn thấy bao giờ. Khuôn ngực này, cặp đùi này đã bao nhiêu lần tôi áp mặt vào. Nhưng giờ đây lại cuốn tôi vào một cảm giác mới. Cảm giác không phân định được, bềnh bồng và nhẹ như tơ. Cô choàng tay qua hông tôi, có vẻ ngạc nhiên:
- Anh làm sao vậy?
Không biết phải nói gì. Rồi hốt nhiên tôi nhớ lại đêm trăng tháng trước. Tôi cõng cô ấy vào nhà mà cả hai không manh vải trên người. Tôi cúi xuống kề tai cô, lập bập:
- Em… em làm anh muốn ngộp. Em thơm quá. Em… mát quá. Như… như tiên vậy.
Cánh tay ấy run run. Cô nói:
- Anh… kỳ cục.
Tôi choàng tay vào hông cô;
- Để anh cõng em. Hôm trước mới êm êm có một chút xíu.
Tôi quay lưng lại, cúi xuống. Cô choàng tay qua cỗ tôi, nói nhỏ:
- Anh muốn cõng em bao lâu?
- Chừng nào hết nổi thì thôi.
Khuông ngực mát lạnh. À không. Cả tấm thân và tấm lòng đầy đặn, mềm mại ấy ấp ủ lưng tôi. Tôi vòng tay ôm trọn lấy hai bờ mông êm ái cùng hơi thở thơm tho, ấm áp phả bên tai. Cái cảm giác lần trước khi tôi cõng cô, tôi chưa nhận đủ thì giờ đây lại được nhân đôi, nhân ba hay nhiều vô kể. Ôi giá như mà tôi được cõng cô ấy đi hết cuộc đời. Tôi không vào nhà và cứ để cô ấy trên lưng. Tôi cảm nhận từng hơi thở, từng nhịp đập của trái tim cô. Tất cả càng lúc càng nhanh hơn, thơm hơn và gì gì hơn nữa thì làm sao tôi nói được. Tôi vẫn đứng yên nhìn lên bầu trời, nhìn chung quanh và cảm nhận sự kỳ thú của thiên nhiên. Trong đó, có cả một thiên nhiên tuyệt diệu trên lưng.
- Anh… Vào nhà đi anh. Em…
Tôi vẫn lặng yên rảo bước quanh mảnh vườn con. Tôi đang đón nhận một cảm giác thật tuyệt diệu, chưa hề có bao giờ, mà tuyệt nhiên không có một ham muốn ái ân nào. Tấm thân mềm mại ấy trên lưng, mát mẻ, dịu êm. Hơi thở bên tai vẫn thơm thơm nồng nàn. Từ cửa nhà sau vào đến bộ ngựa không đầy mười mét. Tôi lại tiếp tục cõng cô đi vòng vòng trong nhà cho đến khi cô thúc giục:
- Anh chiều em một chút thôi. Nặng lắm mà. Hay là ngồi lên ngựa đi, em ôm anh như thế này cũng được.
Tôi vẫn cứ làm theo ý mình. Bởi vì… bởi vì tôi không muốn dừng lại, tôi muốn cõng cô đi hết cuộc đời mình. Cô lại thúc giục:
- Anh… em biết rồi mà. Anh để em xuống. Em… em.
Giọng cô lập bập. Hơi thở càng lúc càng nhanh hơn. Tôi ngồi xuống bộ ngựa, khoác mùng trùm lấy cả hai. Cô vẫn ôm lấy lưng tôi, chặt chẽ hơn, hơi thở càng lúc càng gấp gáp hơn. Đôi môi cô đang chạm vào cỗ tôi, hai vai tôi và…:
- Anh… em…
Tôi đặt cô nằm xuống. Tôi nhẹ nhàng nằm xuống bên cạnh, cô gối đầu lên ngực tôi. Cả hai im lặng. Và rồi không hiểu tại sao tôi lại nói:
- Em ngủ đi. Rất muốn thương em. Nhưng… để hôm khác.
- Sao vậy anh
- Hôm nay em như tiên vậy. Được ôm tiên trong lòng là quá lắm rồi. Anh đâu còn dám làm gì nữa.
Tôi nghe như cô ấy run lên và giọng thì thào:
- Nhưng… anh đừng buông em nghe.
- Ừ. Không buông ra. Dễ gì buông ra.
- Thiệt nghe. Buông ra tiên giận không xuống tắm nữa.
Đêm chỉ còn tiếng thì thào của hàng lau sậy dưới bờ sông. Rồi từ từ những tiếng thì thào ấy lại chuyển vào đây. Rồi những hơi thở êm đềm xua đêm oi nồng đi khỏi.
Thằng bé kêu tôi bằng ba ngọt xớt, tính hồn nhiên của trẻ con làm cho chuyện này dễ dàng hơn. Dù ao ước có một đứa con và vì những gì Út Giữa dành cho tôi, nhưng khi tôi xưng ba với nó thì ngọng. Không phải vì tôi ngại ngùng. Mà vì cái lẽ tự nhiên của bất cứ ai lần đầu tiên sử dụng nhân xưng này ở ngôi thứ nhất. Phải mất mấy buổi mới trơn tru. Tôi nhìn nó, quả tình thằng bé giống tôi thật. Cái mặt xương xương, đôi mắt mí lót. Được cái là mình mẩy nó không mốc thích như tôi hồi nhỏ. Tôi không tự huyễn hoặc mình. Tôi nghe người ta nói khi người đàn bà mang thai, họ thương ai quá hoặc ghét ai quá thì sinh con sẽ giống người đó. Trong thời gian cô ấy có mang, không có chồng bên cạnh. Sự nhớ thương thay gì dành cho chồng thì cô ấy lại dành cho tôi, và kề bên là cái phoncho laine đầy hơi hướm chết tiệt của tôi. Ôi. Nếu thế thì… trước khi cô ấy đến với tôi bằng cái thân thể tuyệt vời kia. Thì cô đã đến với tôi bằng một thương nhớ đến dị kỳ?
Quan hệ giữa chúng tôi thay đổi từng giờ, từng phút. Những quyết định trong ngôi nhà nhỏ bé này không biết từ lúc nào đó được chuyển cho tôi. Chúng có một quan hệ vợ chồng thực thụ. Khi thằng bé ngủ là chúng tôi nhảy xổ vào nhau. Cũng như thường lệ, lần nào cũng như đó là một lần duy nhất. Mà tại sao lại thế?
Có một lần ba cô ấy đến, khi tôi đang đắp bờ. Ông ra sau hè nhìn miếng ruộng, rồi đi lần về phía tôi. Ông đứng nhìn. Tôi cứ ngỡ là ai trong xóm. Tôi chào ông. Ông nói:
- Coi cái bộ dạng của chú giống công tử bột mà làm ruộng coi bộ bài bản dữ ha. Chuyện này thì ai cũng biết, nhưng mấy công đất trời thần này mà ban bằng len thì chỉ có chú mới dám làm. Nhưng coi chừng đó, lúa không có một bông.
- Ý chú muốn nói là lúa bị lốt chứ gì? Chuyện đó dễ mà chú, nếu siêng thì bứng ra rồi cấy đôn lại, làm biếng thì kêu trâu bừa sơ lại hai ba quận[v]. Nhưng khi sạ thì mình phải tính là cấy đôn hay bừa. Nếu cấy đôn lại thì sạ thưa, nếu bừa thì sạ hơi dầy một chút.
Ông nhìn tôi châm bẩm :
- Chú nói nghe dễ như ăn cháo, chú mới làm, mặt đất này chưa biết làm sao? Nè làm hai ba năm, biết tính, biết nết nó rồi thì mới mong mà tính. Năm ngoái con Út được có hai ba chục giạ.
Tôi nín thinh. Ông ấy chắp tay bỏ đi một nước. Tôi lại tiếp tục công việc của mình. Đang lui cui thì Út Giữa ra. Cô cười bảo tôi:
- Anh biết cái ông hồi nãy hông ?
- Ai mà biết. Ông còn bảo anh coi chừng lúa không có một bông.
Cô cười nói với tôi:
- Ngủ với con gái người ta muốn có chửa rồi mà chẳng biết ai là ai. Ba đó.
Tôi há hốc mồm :
- Trời đất. Ba đâu rồi ?
- Ba về rồi. Ba nói anh được lắm, nhưng ốm nhách. Ba bảo em ráng mà ăn ở đàng hoàng với anh. Mặt cô ấy đỏ bừng lên. Thôi vô anh, trưa rồi. Em nghe lời ba. Dọn cơm đàng hoàng cho anh ăn
- Còn gì nữa?
- Anh bảo em làm cái gì em cũng làm đàng hoàng. Ba bảo như vậy mà. Không nghe lời, ba đánh chết
Dọc đường vào nhà, cô kể cho tôi nghe về việc gia đình, anh chị Tư thì nghèo, làm không đủ ăn. Má cô ấy thì có máu đỏ đen, ba cô nói hoài không được, ông buồn quá bỏ bê công việc, nhậu hoài. Lúa làm được hột nào trả nợ hột nấy. Mấy năm nay cô làm được bao nhiêu thì má cô qua mượn bấy nhiêu, không cho thì cũng kỳ, mà đong xong thì kể như đi đứt. Ông sống bằng tiền tuất của hai người con. Món này thì ông không bao giờ cho bà ấy đụng vào, dù rằng nó chẳng là bao. Ông để dành nấu mấy mâm cơm ngày giỗ và nhang khói hàng ngày.
Tôi chỉ còn có đúng một tuần, mọi việc tôi dự định làm thì đã làm xong, phần còn lại, nếu có muốn tôi cũng không làm được. Thế là tôi lại vận dụng cái kiến thức sư phạm i tờ của mình để dạy cho thằng bé, nhưng có một sự việc mà tôi không thể ngờ được là những lời đồn đại. Ngày nào cũng có người đến xem mảnh ruộng, rồi hỏi tôi tại sao phải làm vậy. Thực ra thì tôi cũng chẳng biết trả lời ra làm sao? Vì không biết hiệu quả nó như thế nào? Dù về mặt hình thức thì coi rất bắt mắt. Những việc của tôi làm cho Út Giữa trên mảnh ruộng ấy thì không phải do kinh nghiệm, mà do tôi đọc được trong các tài liệu nông nghiệp và nghe người lớn nói. Khi tôi nói cho họ nghe, thì lại có những xì xào tôi là kỷ sư nông nghiệp (!?). Nhưng cũng may chẳng ai quan tâm. Họ đến là vì hiếu kỳ, với lại chỉ có dăm ba người đến gặp tôi thôi. Còn phần lớn đến dòm dòm một chút rồi đi, chẳng ai nói gì với tôi. Tôi cũng lấy làm lạ. Ở các vùng quê chuyện của một người là chuyện của cả xóm. Sự có mặt của tôi hơn cả tháng ở đây, thì mọi người làm như chẳng biết chẳng hay. Nhưng tôi đã lầm, thực ra mọi người biết hết. Nhưng họ không nói gì là có hai lý do; thứ nhất là họ biết khá rõ về tôi và những quan hệ của tôi và cô ấy. Nên cái ác cảm dành cho lính ngụy thì đối với tôi nó cũng nhẹ đi. Nhưng đến gần thì ngại. Thứ hai là họ âm thầm xem coi tôi có thực sự vì thất cơ lỡ vận, nên đành phải cắn răng mà đến nương nhờ một cô gái thẹo vít đầy mình để kiếm miếng cơm. Và Út Giữa cũng thỏ thẻ với tôi là công an xã cũng đánh giá như thế. Nhưng hình như chẳng ai có ý nghĩ là tìm cách hại tôi. Tôi cũng lấy làm lạ là công an ở đây không có một thái độ gì. Út Giữa bảo tôi “ Kệ họ. Miễn tụi mình thương nhau là được, anh hén “. Út Giữa đã xác tín như vậy bao nhiêu lần rồi mà mỗi lần như vậy là mỗi bận yêu đương. Tôi thấy đôi vai nặng thêm và coi bộ tôi gồng gánh việc này không được bao lâu?
Hốt nhiên tôi thèm viết. Tôi lấy cuốn tập. Cuốn tập đã đầy kín. Tôi viết lên mặt trong của bìa sau. Những giòng chữ gấp khúc nhưng đầy say đắm hiện ra. Rực rỡ trên cái màu vàng úa của cái bìa tập chất lượng xấu. Trong đó có trăng, có mặt ao lấp lóa, có một thân thể trong suốt đến tuyệt vời đang chuyển động trên cầu ao và có suối tóc đong đưa, đong đưa. Tôi cố gắng ghi lại những cảm xúc khi nhìn cô tắm, khi cõng cô ấy trên lưng. Ôi cái tấm thân rắn như đá này, tại sao khi tôi nhìn, khi tôi tiếp xúc lại êm đềm đến thế. Và những cái ôm chặt chẽ thì làm cho tôi ngộp nỗi đắm say đến độ như muốn tan vào trong ấy.
Thỉnh thoảng thì Út Giữa vắng nhà một buổi, nhưng vẫn về kịp lúc để cơm nước cho cha con tôi. Lúc này không có việc gì nên thằng bé ở nhà để cho tôi dạy được chữ nào hay chữ nấy hay kể chuyện cho con nghe. Tôi cũng không hỏi cô ấy đi đâu làm gì. Nhưng khi về thì ríu rít kể cho tôi nghe cái này cái nọ. Lúc này, ngoài bộ quần áo cô mua cho tôi. Không biết bằng cách nào cô mua được cho tôi mấy cái quần cụt, mấy cái áo thun và một bộ bà ba đen. Tôi chấp nhận nó mà lòng thì nao nao. Bao giờ cũng vậy mua được cho tôi món gì cô mừng ra mặt. Cô ấy và có lẽ cả tôi nữa, làm như là chúng tôi nhận ở nhau chưa bao giờ đủ. Luôn luôn chúng tôi bày trò để mà đem niềm vui đến với nhau. Với tính cách của mình, cô ấy thực hiện ý định bằng một cách thức dễ làm cho tôi cảm động. Càng lúc tôi càng thấy buồn và có lỗi xiết bao nếu rời bỏ nơi đây. Tôi sẽ nhớ biết bao mảnh ruộng này, nhớ cô ấy, nhớ từng vết sẹo trên người, cái gì cũng nhớ. Bởi vì ở đây mọi cái đều bình yên tuyệt đối cho tôi. Những cái bất trắc âu lo, nếu có, thì chính ở tôi. Tôi xem coi có cần dặn dò Út Giữa cái gì phải làm, cái gì không nên làm, khi không còn tôi bên cạnh. Tất nhiên những gì tôi muốn nói lại chưa chắc đã đúng.
Như thường lệ chúng tôi nằm bên nhau thì thầm đủ thứ chuyện. Tôi hỏi Út Giữa:
- Con có khai sinh chưa em ?
- Chưa. Chi vậy anh ?
- Em đi làm khai sinh cho con, để nó còn đi học.
- Muốn làm khai sinh thì phải làm sao ?
Tôi chỉ cho cô ấy cách làm và bảo cô nên hỏi thêm ở ủy ban xã. Nghe xong cô cười cười bảo tôi :
- Em ghi tên cha là Nguyễn văn Hiền.
Tôi giật nẩy mình :
- Bộ em điên hả?
- Hổng dám điên đâu, nó là con anh, thì làm khai sinh, phải ghi tên cha phải là tên anh. Em nói là em làm.
Tôi phải giải thích cho cô ấy nghe tại sao không nên làm như vậy, nhưng cô vẫn kiên quyết với cái lý do rất riêng:
- Ba nó bỏ nó khi nó còn trong bụng, ông bà nội nó không nhìn. Anh dạy nó biết chữ, nó chỉ biết một mình anh là ba nó. Anh biết không, con nó hỏi em mấy lần là nó có kêu anh bằng ba được không. Nó là con anh mà. Nếu hồi đó anh không cứu em thì nó lấy cái bụng nào mà chun ra. Bộ anh tính bỏ mẹ con em phải không?
Cô bắt đầu giãy nẩy, rồi sụt sịt khóc. Tôi lại phải dỗ:
- Thôi tùy em, em muốn thế nào cũng được. Nhưng như vậy thì hơi khó cho em và thiệt thòi cho con nó sau này.
Cô ấy coi bộ cãi hăng quá :
- Khó cách mấy em cũng làm được. Còn thiệt thòi hả? Cái gì mà thiệt thòi? Có cha còn hơn là mồ côi. Nè hàng ngày anh nói chuyện với con, anh xưng ba ngọt xớt. Còn con thì nó kêu anh bằng ba. Chuyện rõ ràng như vậy mà anh cũng cãi với em. Thiệt tình. Em đã nói với má ở trên xã là em lấy anh khi em ra Rạch Giá đó. Rồi đẻ ra nó. Ai cãi được em. Em lấy ai có chữa thì em biết chớ.
- Trời đất. Em điên thiệt rồi.
- Ai biểu anh băng bó cho em làm chi. Anh cứu em thì em là của anh. Anh muốn làm gì em cũng được, đánh đập bỏ bê gì cũng được. Nhưng hổng được bỏ luôn. Con của em là con anh, mai mốt em đẻ cho anh một chục đứa. Anh ngồi một chỗ tha hồ sai.
Cô nói liên tu bất tận để chứng minh cho tôi biết là tất cả những gì của cô là của tôi.
- Thôi thôi. Anh thua, nhưng em đặt tên cho con anh kiểu đó thì anh không chịu. Con trai của anh thì phải ngon lành như từ cái tính tình cho tới cái tên. Tôi buông xuôi, mừng mừng rồi lại lo lo.
- Vậy hén. Coi… mà thôi anh đặt đi. Con của anh, thì anh đặt tên. Không một chút đắn đo suy nghĩ, cô ấy trao cho tôi một cái quyền mà bất cứ người cha nào cũng mơ ước.
Tôi chấp nhận cái sung sướng ngang xương này như là một sự thật hiển nhiên. Đầu óc tôi lâng lâng tìm kiếm cho con tôi cái tên để cho cô ấy ghi vào khai sinh:
- Để coi… anh tên Hiền. Thôi như vầy. Đặt tên khai sinh cho con là Nguyễn Hiền Hòa. Sau này nó sống hiền hoà như cái tên của nó thì không ai ghét nó. Được không?
Út Giữa gần như muốn nhảy cẩng lên :
- Ý anh đặt tên hay quá. Nguyễn Hiền Hòa. Rồi. Ngày mai em đi làm khai sinh liền. Đã nói là em lấy anh mới đẻ ra nó mà.
Bổng nhiên Út Giữa như lặng người đi một lúc rồi hỏi:
- Nếu em sinh một đứa nữa thì đặt tên gì hả anh?
Tôi như bị điện giật, nhưng cố làm tỉnh đưa tay sờ vào bụng cô ấy :
- Bộ em…
Cô ấy lại bắt đầu nói lung tung:
- Hổng phải. Nhưng em hỏi vậy mà. Nhưng em biết là em phải đẻ con mà. Anh thương em như vậy mà không đẻ sao được. Mà anh cũng ác thiệt. Mỗi lần thương em, em muốn xỉu, thương cái kiểu gì kỳ cục. Anh nói đi. Đặt tên gì hả anh?
- Thì anh đặt một đứa, em một đứa.
- Thôi con anh thì anh đặt tên.
- Em làm y như thiệt. Thôi chừng nào có thì tính.
- Anh.
- Cái gì?
- Em nói rồi. Em phải đẻ cho anh một đứa con. Có rồi. Nói đi. Con tên gì?
Tôi lại như bị điện giật, chồm dậy áp tai vào bụng cô ấy:
- Thiệt không em. Nói anh nghe coi.
Cô ôm lấy đầu tôi nói nhỏ, giọng buồn hiu:
- Em mong như vậy mà không biết có được không?
Thế là những điều tôi muốn dặn dò biến đi đâu mất hết. Trong lòng tôi trăm mối ngổn ngang. Không đầy một phút, cô đưa ra dự báo là có con tới hai lần. Nếu cô ấy xác định là có, tôi biểu lộ sự vui mừng của mình làm sao đây. Còn nếu để lộ sự âu lo thì tội nghiệp cho cô ấy xiết bao. Những giọt nước mắt chực trào, tôi cố nuốt vào. Bởi vì chỉ một giọt rơi trên bụng cô ấy là…
Cô lại cuốn tôi vào một niềm vui khác, một niềm vui mà cô nói là để đẻ cho tôi một chục đứa con. Tôi cố ghìm, nhưng không được, khi mà cái thân thể tuyệt vời ấy gấp gáp phơi bày trước mắt tôi đầy gợi mở, hiến dâng Thế đấy. Cô hưởng thụ và dâng hiến theo sự khát khao của mình tự nhiên, chân thật đến thô ráp, không màu mè. Bất cứ lúc nào, khi cô ấy vui, khi cô ấy phấn kích là tự nhiên cái niềm vui ấy cuốn tôi vào. Cô luôn luôn sẵn sàng. Sạch sẽ, tinh tươm và cuồng nhiệt. Xem việc ái ân với tôi cũng tự nhiên như là đói thì ăn, khát thì uống. Với chúng tôi, nơi nào trên thân thể cũng đều đầy ắp đắm say.
Chắc cũng đã khuya rồi, chúng tôi vẫn không ngủ được. Sau cơn hoan lạc, cô ấy ra bếp tìm cái gì đó cho hai cùng ăn, cô pha trà cho tôi uống. Cô ăn xong rồi ngắm nhìn nhìn tôi như nhìn ngắm một ông thần. Cô nói:
- Anh hay thiệt hén. Cái gì anh làm cũng được, ai cũng khen anh. Anh biết hông, ở đây người ta nói em bỏ bùa anh đó. Ba cũng nói nữa.
Tôi nhìn cô ấy :
- Đúng rồi. Em bỏ bùa anh. Anh lậm rồi, gỡ ra đi.
- Bỏ thêm luôn chớ gỡ hả.
- Cho anh coi lá bùa một chút đi .
Cô chìa mặt cho tôi :
- Nè.
Lá bùa linh nghiệm thật. Thôi thì em cứ bỏ nữa đi, càng nhiều càng tốt. Nhưng tôi phải nói hết ý mình nói :
- Anh dặn nè. Khi nào con đi học là em phải mua ngay chiếc xuồng. Năm nay nếu lúa có trúng. Anh chắc như vậy. Thì em bán hết, chừa một ít đủ ăn. Em lấy tiền đó làm vốn, mua cái gì đó về bán tại nhà, như nuớc mắm, cá khô hay gì gì đó mà nhà nước không cấm. Bán nhỏ thôi, nếu có khá thì cũng đừng bày biện ra cho lớn, chẳng những không tốt mà mệt thêm, lại không có thời gian lo cho con. Ngày mai anh sẽ xới đất trồng cho em thêm một vài thứ gì đó. Rồi ráng mà kiếm thêm giống để trồng. Ăn không hết thì bán. Nuôi thêm vài con heo. Ở sau hè có cái ao rửa chén, em thả cá vô nuôi đặng có cái mà ăn khi không mua được. Trời đã sắp mưa, vài hôm nữa anh đặt đăng xuống, mỗi chiều em đặt đó, hai mẹ con canh chừng, nếu được nhiều tép không ăn hết thì bán lấy tiền để dành hay phơi khô dành khi mùa nắng khó kiếm đồ ăn. Còn nữa, nhớ là trong nhà phải có chai dầu gió, với mấy viên thuốc cảm, khi mua về lâu chừng hai ba tháng mà không dùng tới thì bỏ đi, rồi mua cái khác. Ngoài ra khi con đi học thì nó có nhiều bè bạn, con nít thì hay xéo xắc. Em phải để ý đến, thấy con mang cái gì lạ về thì phải truy cho rõ nguồn gốc, đừng để nó quen cái tính tham lam. Đối với người lớn phải dạy cho nó lễ phép, phải biết sợ và kính trọng người lớn tuổi, không cho ăn nói trả treo, hỗn láo. Con nít có phải cấm ngặt hai thứ đó. Đừng cho con rong ruỗi nơi này, nơi khác. Ở đây sông, rạch, hầm hào tùm lum. Nhất là cái ao sau nhà. Đó là cái hố bom, em thấy không. Mùa này trời nắng chan chát mà nước vẫn trong veo, mát rượi. Nó sâu lắm. Con đi học về thì ở nhà với em. Nhớ buồn khổ gì cũng ráng mà cắn răng, đừng có giận cá chém thớt rồi đánh con. Con có làm gì phật ý, mà nói không nghe, muốn đánh thì bắt cúi xuống đánh một hai cái thật đau vào mông, đừng đụng đâu đánh đó. Tuyệt đối không được chửi rủa con. Em cố mà nhớ. Thương anh thì làm theo lời anh dặn. Mà có ghét anh thì lại càng cố mà làm theo như vậy. Chớ đừng làm cho lợi gan rồi khổ mẹ, khổ con.
Út Giữa ngồi nghe tôi nói, vừa sụt sịt khóc. Còn tôi thì nói như ma đuổi, bởi vì khi tôi ngưng lại là tôi không chịu nổi. Chúng tôi ngồi nhìn nhau trong bóng đêm, lòng dạ đứa nào cũng xót xa.
Thấy quá khuya. Tôi bảo cô ấy vào ngủ. Hai đứa nằm bên nhau một lát. Bổng Út Giữa lên tiếng, giọng ráo hoảnh :
- Bộ anh tính bỏ mẹ con em thiệt sao mà dặn dò dữ vậy?
- Anh không bỏ em, nhưng liệu có sống được với em không. Anh thương em, thương con. Anh dặn hổng được à ? À mà nếu như anh đi rồi. Em giữ mấy cuốn tập cho kỹ, để khi con nó đi học, biết đọc rồi thì đưa cho con đọc.
Giọng cô ấy như sắp khóc:
- Anh đừng nói nữa. Anh hết thương em rồi
Tôi nói như vỗ về:
- Thôi đi mà. Làm sao mà hết được.
- Không hết mà nói như vậy ?
- Hay là để anh cõng em đi chơi? Giờ này đâu ai thấy
- Thôi. Nhỏng nhẻo với anh hoài. Anh hết thương em, với lại lúc này hổng biết tại sao lúc này em cứ mắc thèm ăn hoài, người mập ra. Em sợ anh nặng, anh mệt.
- Vậy bây giờ phải làm sao?
Cô có vẻ ngần ngừ, một lúc sau cô nói, giọng ngập ngừng:
- Anh... Có một lần em bảo là anh kỳ cục không?
- Ừ. Anh nhớ. Em muốn thế.
Cô không trả lời tôi mà thực hiện ý định của mình.
Giấc ngủ đến với cô ấy. Nhưng tôi thì lại không ngủ được. Dưới ánh sáng tù mù của ngọn đèn. Cũng như bao lần. Tôi nhìn cô, cố ghi trọn vẹn những hình ảnh của cô và những ngày tuyệt đẹp ở đây. Tôi biết rằng khi tôi rời khỏi nơi này thì sự trở lại của tôi là không thể. Nhưng với cô, tôi đang trở thành một người không thể thiếu trong đời. Nhưng chính vì thế mà khi tôi ra đi, thì những gì tôi để lại cho cô còn lớn hơn là một nỗi buồn. Trong cuộc đời tôi, tôi chưa bao giờ cầu nguyện để xin Phật Trời bất cứ một điều gì. Nhưng hôm nay tôi cầu xin đấng linh thiêng nào đó hãy giúp cho cô ấy có đầy đủ nghị lực và dũng cảm vượt qua. Tôi cũng biết sự hỗ trợ thần bí này là một điều không thể. Nhưng nếu như mẹ con cô ấy vượt qua, thì đây là một hạnh phúc lớn lao mà tôi có được. Tôi sẽ đón nhận hạnh phúc ấy bất cứ ở đâu, bất cứ nơi nào, dù nơi ấy là dưới một nắm đất phủ đầy cỏ hoang. Nhìn cô ấy ngủ say. Thân thể đầy sức sống ấy đang phơi bày và luôn luôn dâng hiến. Không biết cô ấy thức giấc từ bao giờ, nhưng vẫn nằm yên giao phó thân thể cho tôi và run rẩy đón nhận lại những cảm giác mà tôi mang tới. Chúng tôi chấm dứt cuộc yêu đương… kỳ cục lần thứ hai khi trời đã sáng bạch.
[i] Thơ của Nguyễn Công Trứ
[ii] Nằm trên đường Nguyễn Thoại Hầu, nay không còn nữa. Khu vực này đã trở thành công viên
[iii] Một loại nước mắm thứ phẩm của mắm cá đồng. Hương vị nồng và đậm hơn nước mắm cá cơm.
[iv] Một loại giây leo mọc hoang dã ở Miền Tây Nam bộ có những trái như trái nho, nhưng nhỏ hơn. Khi trái chín cho màu tím sẫm. Vị chua. Được dân địa phương hái vào nấu canh chua.
[v] Có nghĩa như là hai ba lượt, hai ba lần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét