CHƯƠNG II.
HAY THỜI KHÔNG HAY, TỒI CHƯA TỒI.
Cái mộng văn chương cứ nhạt dần.
Tìm không ra hướng chạy loăng quăng,
Cơm ăn mà nhịn thì xơi cháo,
Áo mặc dù không cũng phải quần.
Lóng ngóng lo toan cơm áo mãi,
Ngẩn ngơ gác lại thẩn thơ luôn.
Nhưng trò chữ nghĩa bỏ không được,
Đem chữ thầy cho tập bán buôn!
Cuộc
sống càng ngày càng khó khăn vì tình hình an ninh ngày càng phức tạp. Ba tôi
không thể đi về trên giòng sông ấy nữa. Và tôi, chán phèo cái cảnh ngồi không
lại bị ba tôi cằn nhằn. Lúc này, ba tôi rất khó khăn với con cái. Cuộc sống
càng lúc càng bẩn chật. Anh em chúng tôi đang tuổi lớn và hằng trăm thứ bà rằn
khác đổ vào. Nên chúng tôi hở ra một chút là bị rầy.
Thế là tôi đi bụi.
Việc tôi tập tành làm thơ đã tạo nên
một sự cố khá buồn cười. Những bài thơ được làm và được gởi đi đăng báo, mà báo
có đăng hay không thì tôi không bao giờ biết. Vì những tờ báo tôi được xem
thường là coi cọp, mà coi cọp thì một bữa có năm mười bữa không. Còn báo mua
thì không bao giờ có tiền để mua. Với lại lúc này thơ đăng không có nhuận bút.
Đúng là thơ rẽ hơn bèo. Ồ. Mà có giá cả chi đâu mà mắc với rẻ.
Trong một chuyến đi ngang qua Cần Thơ. Tôi vào nhà vệ sinh của bến xe mới, chìa ra mười đồng và nhận một tờ giấy báo cắt vuông vức mỗi cạnh khoảng ba tấc. Trong buồng vệ sinh vừa đi cầu vừa xem manh giấy báo và… Trời ạ. Trên manh giấy báo ấy hiện ra trọn vẹn một bài thơ của tôi. Thế là mọi giấy tờ táp nham trong bóp được lôi ra thế mạng cho manh giấy báo và kèm theo lời thề độc không làm thơ, không viết văn và bất cứ thứ gì gởi lên đăng báo cả. Tôi nghĩ chắc ai đó muốn đọc bài thơ này lắm. Thì đây, cứ đọc. Nhưng nếu có mùi thì hãy cảm thông cho
TU
Ăn một hạt cơm chay,
… nhớ Em thêm một chút.
Tụng một thời kinh,
… tụng một thời tình.
Những buổi chiều bên hàng dâm bụt xanh.
Anh đứng chờ Em qua cổng.
Cơn gió chiều bay lồng lộng,
Anh chờ Em…
Đến bạc áo nâu sồng.
Từ đó, tôi không bao giờ đi vệ sinh bằng sách báo với quan điểm rất rõ ràng “mất văn hoá“ và sau này khi có triệu chứng bệnh trĩ tôi thêm vào “Vừa mất văn hóa, vừa mất vệ sinh“. Nhưng tôi cũng đem manh giấy báo ấy đi khoe mẽ với bạn bè. Khi mọi người thắc mắc vì đề tài cũng như tình huống được diễn tả trong bài thơ. Tôi bịa ra theo cái dạng nửa có, nửa không như sau:
Khi còn đi học tôi có lẽo đẽo đi theo một cô bé học dưới tôi một lớp. Mà tôi chưa bao giờ được dịp để nhìn rõ khuôn mặt cô ta, tôi chỉ thấy rõ có hai con mắt. Bởi vì khi gặp tôi thì cô ta vội vã lấy cái gì đó để che mặt lại, khi thì bằng cái cặp da, khi thì một cái gì khác… Nếu khi không có gì cả thì nép sau lưng người khác hay lấy tay che từ mũi trở xuống. Phải nói là cô ta có mái tóc tuyệt cú mèo. Mái tóc đã gây cho tôi nhiều hệ lụy. Nếu như những sợi tóc ấy mà đem làm bẫy cò ke thì chết khối chim. Tất nhiên là cô ấy không bao giờ đem những sợi tóc đẹp tuyệt vời kia đi bẫy chim, nhưng lại có một con chim dại khờ đang muốn chết. Sau này tôi bị một mái tóc khác y chang như thế quấn chặt lấy cuộc đời, không có cách gì gỡ ra được và tôi quên đứt mái tóc này. Cô ấy là một phật tử thường hay theo mẹ lên chùa Tam Bảo Tự[i] nghe kinh, nghe thuyết pháp vào ngày rằm, ba mươi. Tất nhiên, những ngày đó tôi luôn luôn có mặt y như những Phật tử thuần thành. Cái này thì có thật. Khi thấy cô ta tỏ vẻ ngưỡng mộ các nhà sư. Tôi ao ước trở thành một nhà sư để được nàng ngưỡng mộ, Tôi đã trở thành một nhà sư trong trí tưởng tượng.
Đó không phải là lý do tạo nên bài thơ quái chiêu ấy, nhưng tôi nói thế với mọi người. Nhưng dẫu sao nó cũng thể hiện được phần nào tính cách oái oăm trong tôi. Có ai mà tu hành theo một kiểu như thế. Ý tứ của bài thơ thì chẳng có gì, nhưng bạn bè thì lắm thằng bàn ra, tán vào, mỗi thằng một kiểu, mà kiểu nào thì cũng thuộc loại trời ơi đất hởi và sau này cũng thế, bổng nhiên nó trở thành tuyệt phẩm(!?) Đã thế, bạn bè tôi thì cứ khoe khoắn mãi vì có một thằng bạn có thơ được đăng báo. Và bài thơ càng ngày càng nổi tiếng trong giới bạn bè của tôi không phải vì nó hay mà vì cái cú xuất hiện rất quái chiêu của nó. Hậu quả của việc khoe khoang và lộng giả thành chân này không thể nào khắc phục được. Nó đi theo tôi như quỷ ám. Và cũng không ít lần tôi tiếp tay cho con quỷ ấy. Thôi thì giờ đây, nếu có cô bé tóc dài kia, nếu biết tôi lộng giả thành chân thì xin vui lòng mà tha thứ. Bởi vì cô ấy có thật.
Sau một thời gian ngắn lê la gần khắp Miền Tây, làm đủ mọi nghề, mọi việc để kiếm cơm. Tôi mò lên Sài Gòn mà không biết để làm gì? Ở đấy tôi tìm đến các bạn bè dưới tỉnh lên đây, đứa còn đi học, hoặc đứa cùng đi bụi như tôi. Những đứa bạn ấy và tôi sau này trở thành một phần trong cuộc sống của nhau. Thằng bạn đầu tiên tôi tìm tới là thằng Điện, nó cũng có thành tích học hành lụi hụi như tôi. Bọn tôi xuống ở dưới xà lan neo tại cầu Tân Thuận. Chiếc xà lan này thuộc một đơn vị bảo vệ Thương Cảng do ba nó làm chỉ huy trưởng. Hai cu cậu được ông ấy cho mỗi ngày 20 đồng đủ để ăn cơm, phần còn lại thì tự xoay sở lấy. Không biết nó thì làm gì, còn tôi thì làm đủ thứ, kể cả bán bánh mì rong. Tôi gặp thằng Hải cũng bỏ Rạch Giá mò lên Sài Gòn và học ở trường Thượng Hiền đường Trần Quý Cáp và tôi cũng vào học, nhưng chỉ được một vài tháng rồi nghỉ vì không có tiền đóng học phí. Từ đó tôi và Hải phải rất lâu sau mới gặp lại. Sau cùng tôi tìm được việc ở một Công ty Quảng Cáo, và ở đây tôi được bao cà phê, cơm, không có lương. Chiều lội bộ từ đường Trần Hưng Đạo quận 2 về Tân Thuận. Những đêm trời có trăng tôi nhớ vô cùng giòng sông Cái Lớn, nhớ đến bật khóc. Thằng Điện trêu tôi, rồi sau đó rủ tôi lên bờ uống cà phê. Thành phố Sài Gòn hoa lệ không làm tôi choáng ngộp vì đầu óc tôi luôn luôn bận bịu bởi cái hiện tại không một cắc lộn lưng, cái tương lai mịt mù và ước mơ tổ bà chảng. Sài Gòn đang có nhiều biến động; Chỉnh lý, đảo chính, biểu tình… Nhưng rồi cũng chính những biến động ấy đã làm tôi sống được. Nhờ vẫn còn bộ vó học trò lại thêm kẽ vẽ có nghề. Tôi được thuê kẽ banderoll cho các cuộc biểu tình. Dĩ nhiên là nguy hiểm chết người, nên không nhà vẽ nào dám nhận, thế là tôi sống khỏe. Nhưng phải lâm vào tình cảnh phải nhìn trước, ngó sau và hầu hết đều được thực hiện vào ban đêm. Ngoài cái tình trạng vô gia cư, cộng thêm tính láu cá là khi kẽ, tôi nghiên cứu khá kỹ nội dung và ngắt ra một số từ chủ yếu làm cho câu có nghĩa để kẽ sau cùng, khi các từ khác đã khô, tôi xếp lại chừa một khoảng trống vừa đủ để điền vào, y như thời học tiểu học, chọn chữ điền vào chỗ trống cho câu đủ nghĩa, những mánh lới vặt ấy đã làm cho công việc có vẻ như trôi chảy, nhưng cùng lắm thì chỉ gạt gẫm được người vô tình, chứ gặp cò bót có nghề thì thua. Công việc ở Công ty Quảng Cáo tương đối thất thường nhưng tôi vẫn bám vào. Bởi vì tôi biết bám vào đâu. Ngày tháng rồi trôi qua, nghề nghiệp của tôi khá lên và có ít lương. Ông chủ lại giao cho tôi giữ tiệm, thế là ổn định. Những đồng tiền kiếm được, bao giờ cũng được vuốt xếp phẳng phiu nhét kín vào trong bóp. Mỗi tối tôi lại đi học và thêm một lần thi Tú Tài 1! Rớt nữa. Tôi ngậm ngùi ngâm câu “Thi không ăn ớt…”. Cuộc sống cứ thế chông chênh, và một ngày kia thế chông chênh kia bị phá vở. Tôi bị bắt. Cái nguyên nhân tôi bị bắt nghe rất buồn cười, nhưng rất hợp logic.
Số là ở ngang xưởng vẽ có một cô bé học ở trường Gia Long. Tôi khoái mà nào có dám nói gì đâu, cứ ngồi ở quán café ngang nhà nhìn cô ấy ngày hai buổi đến trường. Thế thôi. Nhưng đùng một cái một ngày kia cô ta bị Cảnh Sát Chiến Đấu[ii] đập cho một trận ra trò vì đi biểu tình đòi tự do dân chủ. Thế là tôi mua cam, mua sữa mon men theo các đoàn thể chống đối chính quyền đến thăm, mà có nói được với cô ta tiếng nào? Rồi chất quà cáp ở một góc phòng, đứng xớ rớ một lúc rồi lui. Ra đến cổng thì tôi gặp một tay sinh viên đã từng thuê tôi vẽ banderoll. Anh lớn hơn tôi vài tuổi. Tôi đoán thế. Anh mời tôi ra quán café gần đó, và thì thầm:
- Anh thấy không, cô ta là con gái mà còn ý thức về việc quốc gia. Còn anh, cứ đi vẽ banderoll thuê mãi, anh không cảm thấy gì sao? Thay vì nín thinh, tôi giật mình ngẫm nghĩ “tại sao hắn biết mình nhỉ?” Nhưng rồi cũng ậm ừ hỏi lại
- Theo anh thì tôi phải làm gì?
Anh ta nói
- Phải dấn thân.
Dấn thân, từ này tôi thấy nhan nhản trên báo chí hằng ngày. Thậm chí ở Huế, người ta còn lấy đó làm tên một tờ báo. Chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì về nó. Nhưng đọc riết, nghe riết đâm ra tưởng như mình hiểu. Nhưng có một suy nghĩ nghiêm túc về nó thì chưa bao giờ. Ngồi im lặng hồi lâu, tôi chợt hỏi một cách ngô nghê như bị bùa mê:
- Thế thì phải làm sao để dấn thân ?
- Anh hãy theo tôi, tôi chỉ cách anh dấn thân.
Thế là anh ta đèo tôi đến chùa Ấn Quang, giới thiệu tôi cho một nhà sư. Tôi được bố trí nơi ăn ở một ngôi chùa khác trong một con hẽm vắng vẻ ở Chợ Lớn và nhiệm vụ cho cuộc dấn thân của tôi vẫn là kẽ vẽ banderoll. Có khác hơn trước một chút là không lấy tiền công. Tất cả đồ đạc cá nhân của tôi bỏ lại hết ở xưởng vẽ. Dấn thân mình trần, lưng trụi. Hơn mười ngày, sau khi xơi những bữa cơm chay cực kỳ giản dị và vẽ hàng mấy tá banderoll tôi được các thầy biểu dương. Nhưng những ngày ở đấy cũng có một vài điều thú vị. Đó là sách, đủ loại, nhưng nhiều nhất vẫn là sách Phật Giáo và tôi đọc. Chẳng hiểu gì cả. Vẫn cứ đọc. Hơn nửa tháng, tôi đắm mình trong giòng nước lạ, mát trong, tinh khiết, từng lúc thấm vào người, nhưng sức cảm nhận của tôi thì bé bỏng, mơ hồ. Rồi một ngày tôi được giao nhiệm vụ mới. Theo xe lam cầm máy phóng thanh kêu gọi tẩy chay chính phủ độc tài Nguyễn Khánh. Cha! Vụ này lớn đây? Không biết sao mà tôi nín thinh không biểu lộ một thái độ nào? Sau đó tôi đi hỏi tìm tay sinh viên giới thiệu tôi dấn thân. Nhưng không gặp mà lại gặp một thằng bạn học chung thời trung học ở Rạch Giá. Thằng Trọng. Hai thằng gặp nhau nơi xứ người. Nhưng không tay bắt mặt mừng mà chỉ hỏi thăm nhau làm gì ở đây? Những câu trả lời dấm dớ cho qua chuyện. Rồi mạnh ai nấy đi, tôi về nơi nghỉ, nhưng không biết phải làm gì? Bổng dưng thấy nhớ nhà, nhớ lạ lùng, nhớ không kể xiết, một thái độ chưa bao giờ có ở tôi. Đêm đến tôi ngủ sớm, không đi loanh quanh như mọi khi. Không khí nhà chùa yên ắng lạ thường, rồi tôi cũng thiếp vào giấc ngủ giữa những tiếng rì rầm của thành phố về đêm. Bây giờ nghĩ lại thấy cũng lạ. Ai chết cứ chết. Ai đấu tranh cứ đấu tranh. Ai phá hoại cứ phá hoại và những người thành phố vẫn cứ đi chơi thâu đêm suốt sáng. Giới nghiêm cũng có kiểu chơi của giới nghiêm. Tất nhiên là tôi chỉ đứng xa xa mà ngó vào.
Khoảng ba giờ sáng tôi được đánh thức để chuẩn bị. Thực ra thì chẳng chuẩn bị gì. Tôi nhận một ít tiền, được lệnh đón xe bus ra chợ Bến Thành đến quán cà phê Mai Hương, góc đường Công Lý-Lê Lợi ngồi chờ. Khi nào có người đến bảo làm gì thì làm nấy, y chang như phim trinh thám. Được rồi, đi thì đi.
Sau bốn tiếng đồng hồ ngồi muốn cụp xương sống ở quán cà phê. Uống không biết bao nhiêu bình nước. Đọc hết mấy tờ báo không sót một chữ nào và nhận không biết bao nhiêu cái liếc mắt dỗi hờn của cô ngồi case, chắc con bà chủ quán. Thì có một anh chàng khoảng độ tuổi tôi đến kéo ghế ngồi cạnh và kêu một ly trà đá chanh đường. Anh ta chụp vội cái ly hớp một ngụm, xong anh ta nói khẻ với tôi “ Đến giờ rồi chúng ta đi “ Trả tiền và đứng dậy, tôi theo anh ta. Khi ấy tôi nhìn quanh và kêu thầm “Ôi người ở đâu mà lắm thế?“. Anh ta kéo tôi nhập vào đám đông và cả hai chen vào đến chân tượng Quách Thị Trang. Một chiếc xe lam đậu sẳn, và tôi làm theo lời dặn. Nhưng tôi chỉ hét lên được hai ba lần rồi thì không biết gì nữa. Khi tỉnh lại tôi thấy mình bị giam ở buồng giam, đầu đau buốt và khát khô cả cổ họng. Không biết ai đó đưa cho tôi ca nuớc, tôi uống như chưa bao giờ được uống. Khi xong trả lại cái ca mà không nói nổi một tiếng cám ơn. Qua ngày sau tôi mới biết đây là bót Lê văn Ken. Chung quanh tôi lỉnh kỉnh nằm ngồi, trẻ già đủ cả, chẳng một người quen. Tất cả khoảng ba chục mạng, không ai nói với ai một lời. Tôi mụ người đi. Ôi cái thân thể cò ma này bị Cảnh Sát chìm dợt cho một tăng thôi, thì cóc còn gì, tôi nghe người ta nói thế. Tất nhiên tôi chưa từng thấy, từng bị bao giờ. Thậm chí còn không hiểu cảnh sát chìm là cái gì? Chỉ nghe kể thôi cũng đủ nóng lạnh. Tôi nằm ở bót Lê văn Ken được 2 ngày đêm. Không ai nói đến tên kể cả gọi cho cơm nước. Trong 2 ngày đó nó bộc lộ ra cho tôi nhìn thấy một khía cạnh hoàn toàn mới của con người. Trong cái cảnh gian nan, đối diện với những nguy hiểm chết người, thì thiện ác bộc lộ một cách rạch ròi. Tất nhiên cũng không thiếu những kẻ đem đời mình đầu cơ vào nỗi hiểm nguy. Bọn này cực kỳ nguy hiểm chúng sẵn sàng dối trá cho đến giây phút cuối cùng của đời mình. Buổi sáng đang nằm đói meo và đang thèm một mẩu bánh mì, bổng nghe chộn rộn một hồi rồi tất cả vở òa lên “Nguyễn Khánh tiêu! Nguyễn Khánh tiêu rồi!“ Từng đợt, từng đợt. Tôi có cảm tưởng như cái trần nhà sắp bị thổi tung và rồi một anh Cảnh Sát mặt mày tươi rói vừa mở cửa phòng cũng vừa hét “ Nguyễn Khánh tiêu rồi, từ chức rồi, đi làm Đại Sứ lưu động rồi. Các anh sướng nhé! “ Mọi người ùa ra và tôi cũng ùa ra, trước cửa bót ôi thôi đủ cả; tăng ni, phật tử, linh mục, cha xứ, thân hào, nhân sĩ, trí thức, học sinh, sinh viên,… cùng nhau đón lấy chúng tôi, công kênh chúng tôi như những anh hùng. Anh hùng thấm mệt vì hơn hai ngày không một hạt cơm, tôi ngất xỉu vì đói. Rồi tôi được đưa vào bệnh viện dưỡng thương. Giường nệm trắng tinh. Bộ đồ mặc trên người hôi hám được thay bằng bộ đồ bệnh viện.
Hết phái đoàn này, đến phái đoàn nọ đến ủy lạo tặng quà. Ôi thôi nào sữa đường, nào cam quýt, nào thuốc hút và một cái phong bì nữa… chất nhóc cả phòng. Tôi tê mê cả người, thế thì cứ ăn, cứ nằm dưỡng thương. Dấn thân đã thiệt (!?). Nhưng đến ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa, không còn ai đến. Lúc này tôi mới biết mình lãnh ba bốn cái dùi cui vào đầu. Cũng may không nứt sọ. Ba ngày nằm bệnh viện tôi như một kẻ mồ côi. Một vài mũi thuốc tiêm, dăm ba viên thuốc uống cho mỗi ngày, may mà cháo cơm có đủ. Bổng có ai đó đưa cho tôi tờ báo, liếc nhìn tờ báo trên tay, tôi sững người. Ảnh anh chàng giới thiệu tôi dấn thân được in hình trên trang nhất với một vệt băng đen lên góc trên bên trái. Tôi buột miệng “anh ấy tiêu rồi “. Xương sống tôi nổi gai, lạnh buốt. Theo tin đăng trên báo anh bị bắt một ngày sau khi chỉ đường cho tôi dấn thân. Anh được thả cùng ngày với tôi từ trại giam khác. Nhưng bị bể lá lách và chết tại bệnh viện Saint Paul . Lúc này tôi mới biết tên anh. Nguyễn Vân Sắc, Hôm nay cả thành phố Sài Gòn đưa tang. Tôi nhét tờ báo vào túi và mặc nguyên bộ đồ bệnh viện ấy lần ra cổng nhà thương và đón xích lô máy về xưởng vẽ. Cũng may trong số đồ ủy lạo ấy có một phong bì đựng hai tờ giấy bạc 200 đồng[iii]. Thấy tôi bước vào với bộ dạng như trên. Ông trưởng xưởng và cả ê kíp thợ trố mắt nhìn tôi. Rồi ông hỏi
- Thằng mắc dịch gần hai tuần nay mày đi đâu
Tôi trả lời .
- Đi nằm bệnh viện.
- Tại sao mày nằm bệnh viện ?
Tôi nói dối bằng một giọng nhát gừng :
- Tôi bị máu xâm, xỉu giữa đường, bị xe lủi vào luôn, nhờ một bà nhà giàu động lòng đưa vào bệnh viện, ngày hôm nay mới về.
- Thế mà tao tưởng mày đi theo con nhỏ nào rồi chớ. Thôi thay đồ đi, rồi tao giao việc cho làm. À, mà tay chân, đầu cỗ có hề gì không?
Tôi lấp liếm:
- Không sao anh ạ. Chỉ trầy sướt sơ thôi. Nhưng vì cái vụ máu xâm mà bác sĩ không cho về.
Lần đầu tiên tôi nói dối. Ngon ơ. Không ai ngờ là tôi đi dấn thân. Nhưng nhờ vậy mà tôi không bị đuổi mà còn được cảm thông. Tôi đi vào góc xưởng bật ghế bố ra nằm, ngó lên trần nhà mà không thấy gì cả. Hình ảnh cô bé ngang xưởng vẽ cũng biến đâu mất rồi. Chưa bao giờ tôi có thể hình dung được mặt mũi của cô ta. Rồi suy nghĩ về những việc đã xảy ra, tôi tự hỏi “Tại sao là mình mà không là ai khác? “. Một việc làm như thế mà lại giao cho một kẻ bá vơ như tôi. Thế là thế nào? Cuối cùng tôi cũng hiểu ra là “Mình được Chúa chọn để…” Bổng nhiên cơn giận dữ trào lên kèm theo là nỗi sợ hãi nhộn nhạo trong lòng. Có một bạn nghề nào đó nói với ông trưởng xưởng. “Mai hẳn giao việc cho nó, hình như nó chưa được khỏe hẳn”. Một câu nói bình thường rất thường được nghe. Nhưng với tôi, trong lúc này có một giá trị tuyệt đối. Tôi thật sự cảm động. Ôi cái tình người không ở đâu xa mà ở kề cận bên tôi. Những con người khó nghèo chơn chất thường có một lối quan tâm nhau như thế. cụ thể mà ấm lòng.
Sau vố đó. Tôi lầm lầm, lì lì làm việc như điên, chuyện được giao làm xong. Khi chờ được giao việc mới, tôi làm tiếp mọi người, bất kể, nắng mưa, sớm tối. Có chút thời giờ rảnh, tôi chui vào nhà sách Khai Trí coi sách cọp. Thi ca, Tiểu thuyết, Lịch Sử… cả các sách phê bình văn học, khảo luận, thậm chí cả triết học, vớ được cuốn nào nhai ngấu nghiến cuốn đó. Tôi bắt đầu đọc các tác phẩm của Eric Maria Remarque, Pearl Buck, Victo Hugo, Herman Hesse, Hemingway. Chiến Tranh và Hòa Bình của Léon Tolstoi, đọc Tự Lực Văn Đoàn, và không biết cơ man nào là sách, miễn sao vớ được vào tay. Thích thì đọc kỹ, không hợp gu thì đọc lướt nhanh và cũng xin thưa tất cả đều là coi cọp. Cả xưởng nhìn tôi ngạc nhiên. Ông trưởng xưởng nói tôi khùng. Có thể đây là khoảng thời gian mà tôi đọc sách nhiều nhất. Nhưng có một điều lạ là trong khi những bạn bè cùng lứa chúi đầu vào “Ý Thức Mới Trong Văn Học và Nghệ Thuật” của Phạm Công Thiện rồi sau đó thì bàn tán lung tung. Còn tôi, sau khi lướt qua vài giòng thì không bao giờ ngó tới. Tôi xoay ngược lại bằng cách đọc các tài liệu về lịch sử, sách viết về Phật Giáo, thi ca và truyện Tàu. Không đi chơi, tối đến đóng cửa xưởng, ngủ. Nếu không thì ra Khai Trí đọc sách cọp. Các anh chị bán hàng ở nhà sách Khai Trí nhẵn cả mặt tôi, nhưng tất cả họ đều cho tôi cái nhìn thông cảm. Sinh viên nghèo mà (?) Có một lần tôi mua tập truyện ngắn Anh Phải Sống của Khái Hưng, mua vì thích một phần, nhưng phần chính là nó ít trang và mỏng tiền. Anh nhân viên của nhà sách, người bán quyển đó cho tôi, thấy tôi mua sách, vừa nhận tiền vừa cười:
- Chú mày mua sách là tao trúng số
Ai dè anh trúng số thật, được một trăm ngàn. Một trăm ngàn là cả một gia tài. Sự trùng hợp ngồ ngộ này làm cho tôi được ưu ái hơn khi đọc sách cọp và còn được anh dẫn ra quán café gần đó, bao cho một chầu café và tặng cho tôi bộ sách mà tôi thích và đã đọc cọp, đọc ké chẳng bao lần mà chưa mua nổi. Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh. Hoài Chân. Quyển sách này liền lưng tôi suốt mười năm. Thôi thì đủ mặt thi nhân với cả một thế giới mộng mơ, lãng mạn. Nó đưa tôi đi sâu vào thi ca như là một định mệnh. Tôi vật vã với nó và tôi hạnh phúc với nó đến suốt đời. Tôi vẫn tiếp tục làm thơ, viết thành tập, đọc cho bạn bè nghe chơi hay tặng cho một ai đó. Nhưng dứt khoát không bao giờ gởi đăng báo và chưa bao giờ có ý nghĩ là sẽ đem xuất bản, mà có thì chắc chẳng ai dám in. Còn tự in thì không có tiền, với lại thơ mà đem bán thì ít ai mua, mà đem cho thì lắm người cảm động. Và không biết tự bao giờ, thơ trở thành một thứ ngôn ngữ mà tôi sử dụng để tự giải tỏa mình. Những đêm không ngủ được thì thức nhớ nhà. Nhớ giòng sông Cái Lớn. Nhớ bạn bè ngày xưa đi bắt cá lên, cá cạn, đi bắn culi. Nhớ những cơn mưa, nhớ những ngày ở Rạch Giá. Nhưng nhớ nhất là thằng Bình, với những ngày tuổi nhỏ, lăng quăng trong sân vườn nhà ông ngoại nó, hai đứa săm soi từng cây bông móng tay, bông cúc hay những vệt bông mười giờ, gan heo chạy dọc theo những hàng rào hay đường đi lối lại trong sân vườn. Thỉnh thoảng cả hai thằng được ông ngoại nó sai đi vô bầu những cây bầu, cây mướp vừa mới ươm và được hai ba lá rồi dạy cho cách chăm sóc, tưới nước. Tôi nhớ, nhớ vô cùng màu xanh của quê tôi. Hốt nhiên tôi nhớ bụi bông trang, một cảm giác nhẹ tênh tràn vào, lâu quá rồi tôi không nhìn thấy. Và tôi lại để cho mình chìm vào trong cảm giác ấy, nhẹ tênh, nhẹ tênh… và hình bóng ông ngoại thằng Bình lại hiện về, hiền từ nhưng khó tính, ông dạy chúng tôi cách trồng và chăm sóc cây. Đặc biệt là không bao giờ ông cho phép chúng tôi tự tiện bẻ cành vặt lá, nhất là hái một bông hoa nào, nhất là hái vì thấy bông hoa ấy đẹp. Ông bảo một bông hoa đẹp cũng không bao giờ cho được trái ngon. Ông chỉ nói thế và không cắt nghĩa, mà nếu có thì chưa chắc chúng tôi hiểu. Nhưng ý tưởng ấy được ông trồng vào mảnh đất non chong của tôi và nó đang phát triển.
Sự khép kín cùng với sự làm việc không kể nặng nề khổ cực đã được đền bù. Đồng tiền kiếm được nhiều hơn, dành dụm được nhiều hơn. Được chủ và trưởng xưởng tin cậy, tay nghề nâng cao và anh em thương mến. Việc đọc sách cọp làm kiến thức được mở rộng. Dù chỉ là một loại kiến thức tạp nham không hệ thống. Nhưng cũng đủ làm nhiều người khoai khoái. Lần hồi tôi lấy lại được quân bình. Nhưng chưa bao giờ tôi gởi thư về nhà. Thỉnh thoảng tôi cũng mon men đến ngôi chùa mà tôi đã có hơn mười ngày dấn thân. Chỉ còn một người biết mặt tôi là ông từ giữ chùa. Ông cho tôi vào đọc sách. Không khí vẫn tĩnh lặng và tôi cũng tĩnh lặng theo, không còn những lăng xăng lộn xộn như lần đầu đến đây. Mấy trăm cuốn sách đó vẫn im ắng và an tĩnh như nội dung nó chuyên chở. Từng chút một, thật nhỏ nhoi, chen vào cái đầu óc háo sự của tôi. Quả tình, tôi không thể nào ngộ được, dù có được tái sinh nhiều kiếp nữa. Nhưng khi nào rối rắm là tôi tìm đến, có khi chẳng đọc giòng nào mà chỉ đi quẩn quanh trong chùa đắm mình trong an tĩnh. Hoặc cùng ông từ trò chuyện lan man. Nhưng có một lần ông nói với tôi:
- Sống hay chết không là gì cả. Không ai được lựa chọn việc sống chết. Nhưng mình có quyền chọn cách sống, dù trong một phạm vi thật hẹp.
Tôi ngạc nhiên nhìn ông:
- Nếu vậy mình phải làm sao? Thưa chú.
- Đừng để ai làm phiền mình. Muốn vậy thì mình đừng làm phiền ai. Cháu cố mà làm như vậy. Đó cũng là một cách sống.
Ôi. Một câu nói rất rõ ràng nhưng đầy ẩn dụ. Tôi vẫn nhớ mãi đến sau này. Nhưng có một thời gian thật dài tôi không hiểu.
Các cuộc biểu tình xảy ra như cơm bữa. Đảo chính, chỉnh lý, biểu dương lực lượng… xảy ra liên tục. Thậm chí nó đã trở thành một phần của cuộc sống tại thành phố này. Đòi hỏi lung tung, thỉnh nguyện đủ thứ, phản đối mọi chuyện. Cảnh sát chiến đấu mệt phờ người. Càng mệt thì càng quạu, mà khi quạu lên dùi cui phang tới tấp, phi tiển bắn ầm ào. Và tôi thì nhìn các cuộc biểu tình bằng cặp mắt bực bội. Một số bạn bè thời trung học nay đã là sinh viên, thỉnh thoảng gặp nhau. Thấy thằng nào thở ra hơi có mùi là tôi tìm cách biến.
Tôi có một ông anh họ, đi lính và mướn nhà ở hẽm 235 đường Lý Thái Tổ, con hẽm rộng và sâu. Thỉnh thoảng tôi có ghé thăm anh chị và đùa giỡn với cháu. Những lần ghé thăm anh như vậy, tôi thường hay qua quán ngang nhà ông anh, để uống café, và tôi quen chị chủ quán. Với tôi là một sự quen biết mang tính chất bình thường của một người bán và một khách hàng thường hay lui tới. Nhưng với chị ấy thì không. Chị chủ quán mập mập, tròn tròn ấy, hình như giống ai đó quen quen. Nhưng tôi nghĩ hoài không ra. Cho tới một ngày, tôi được chị chủ quán mời uống café, nhưng ở một quán khác. Tôi bị bất ngờ và rất bối rối, nhưng rồi tôi cũng đi. Cả hai đèo nhau trên chiếc Vélo Solex[iv] của chị ấy ra quán café Tuyết Lan ở đường Lê Lợi. Cái quán ấy rất quen thuộc với tôi, nhưng lần này lại mang theo sự bối rối, vì lần đầu tiên tôi đi uống café với một người hoàn toàn khác với đám bạn bè rất ư lộn xộn của mình. May mà hôm đó không gặp thằng nào. Chị ấy nhìn tôi gần như thương hại, và gọi cho tôi một thức uống khá lạ. Đá chanh Rhum và một gói Capstan, cả hai nhìn nhau im lặng cho đến mọi thứ được bày ra. Tôi hỏi một câu rất bình thường nhưng bằng cái giọng mà sau này tôi mới thấy cái ngớ ngẩn của tôi cũng hay hay. Và tiếc thay nó chỉ đến có một lần.
- Chị tên gì vậy? Tại sao chị mời tôi đi uống café?
Chị mỉm cười trả lời.
- Lan. Bộ tôi già lắm sao mà Hiền gọi bằng chị?
Tôi lại lúng túng đổi cách xưng hô.
- Tôi… Hiền… Hiền không biết.
Cứ thế chúng tôi nói với nhau toàn những chuyện đầu cua tai nheo suốt cả giờ rồi tranh nhau trả tiền, rồi đèo nhau đi lung tung. Lúc này tôi bình tỉnh hơn. Chúng tôi nói với nhau biết bao điều không đúng vói ý nghĩ của mình. Dù rằng có suông sẻ hơn. Nhưng có một điều tôi biết chắc chắn là đó là những lời dối trá chân thật nhất, đẹp nhất.
Tôi đưa Lan về đến đầu hẽm, rồi lên xe bus mang về xưởng vẽ một cảm giác mới, rất mới và rất dễ chịu. Đêm ấy tôi có một giấc ngủ sâu, đẹp, không trăn trở. Loáng thoáng những giấc mơ mang tên Vélo-Solex.
Công việc càng ngày càng nhiều hơn, thu nhập tất nhiên cũng nhiều hơn và thời gian đi đọc sách cọp thì thưa dần. Quỹ thời gian dư thừa còn phải đưa chị chủ quán café đi uống café (!). Cho đến một lần không biết thần xui quỷ dục mà tôi chở Lan đến nhà sách Khai Trí. Cả hai cứ vô tư cặp kè đi suốt quầy sách này đến quầy sách khác trước con mắt kinh ngạc của anh bán sách cho tôi mà trúng số. Một tuần sau, khi tôi trở lại nhà sách tôi mới được biết lý lịch của Lan. Lan là một cô đào hát khá nổi tiếng. Nhưng chị ấy không biết chữ, và có thể đó là một lý do để cho Lan bỏ nghề? Tôi không nhớ rõ lúc đó tôi nghĩ gì? Nhưng tôi vẫn cứ đến với Lan bằng thái độ vô tư và cũng không bao giờ cho chị ấy biết một chút gì về những điều tôi biết. Và tôi, tôi chỉ biết có một điều duy nhất về Lan, đó là chị chủ quán café và là người bạn gái đầu tiên tôi được cho chở đi chơi. Lan đã chấp nhận tôi không e dè, thậm chí còn chủ động, và tôi thật sự xúc động trước sự quen biết này. Nói thế, chứ thật sự một ý niệm rõ ràng về tình yêu thì chưa có trong tôi. Mối quan hệ này về phía tôi như là một niềm an ủi. Khi mà gia đình, bè bạn thì xa, mà tôi thì cần một ít trìu mến, một ít quan tâm, và tôi giữ gìn mối quan hệ này như là một cứu cánh của tâm hồn mình. Hơn thế nữa là ở tuổi mới lớn, sự háo hức và niềm rung động trước một người khác phái gần như là một quán tính. Nên mọi nghĩ suy, phán đoán đều bị loại trừ. Nhưng dù thế nào thì tôi cũng đón nhận bằng một thái độ chân thành. Dù rằng lúc ấy tôi chẳng hiểu gì ráo và thậm chí cho đến rất lâu sau này. Trong tôi vẫn còn mù mờ một khái niệm được nhân gian gọi là tình yêu.
Một ngày trời rất đẹp. Tôi chở Lan trên chiếc Vélo Solex cọc cạch ấy đi loanh quanh Sài Gòn, và Lan rủ tôi đi Vũng Tàu. Không hiểu sao tôi lại lưỡng lự và mãi cho đến một tuần sau chúng tôi mới khởi hành. Nhưng khoảng thời gian đó lại loáng thoáng những giấc mơ mang tên Vélo-Solex.
Chúng tôi dung dăng dung dẻ khắp cái thị xã nhỏ bé lính nhiều hơn dân này. Những câu chuyện chẳng ra đầu ra đũa, được chúng tôi tuôn ra vui vẻ và bất tận. Đêm xuống hai đứa ngồi sát bên nhau trên một băng đá ở Bãi Trước. Ánh trăng huyền hoặc, trải thảm bạc lên mặt biển lấp lánh đến vô tận và chuyển động không ngừng. Những điệp khúc của ánh sáng và âm thanh rạt rào ấy đang xô vào lòng tôi những cảm xúc mới mẽ. Hương gió biển và hương của đàn bà con gái lạ lẫm làm tôi ngây ngất, tất cả hòa tan vào nhau. Thiên nhiên và con người. Tâm hồn tôi bay bay, tôi gần như quên có Lan bên cạnh. Nhưng trong ý thức lờ mờ của tôi lúc đó vẫn hiểu rằng chính Lan làm cho tâm hồn tôi bay bay chứ không phải là cảnh quan huyền diệu này. Lâu lắm, hình như vậy, cái khoảnh khắc ấy đã trở nên vô cùng. Cho đến lúc một anh Cảnh Sát nhắc nhở chúng tôi là sắp đến giờ giới nghiêm. Cả hai đứng dậy lí nhí cám ơn.
Chúng tôi về khách sạn, và tôi run khi mở cửa phòng khách sạn. Run thực sự. Để trấn áp nó tôi vội vã leo lên giường nằm gối đầu lên hai tay nhìn trần nhà trắng xóa, trái tim đập bình bịch, bình bịch… cho đến khi hơi thở của Lan phả vào mặt tôi và rồi tất cả nhòa đi. Tôi đang bị cuốn vào cơn bão đầu đời. Tôi hoàn toàn bị động trong cơn bão ấy như một thủy thủ lần đầu tiên đối diện với sóng to gió lớn. Bối rối, ngượng ngùng, nhưng tôi đối phó bằng cả sự háo hức đến ngờ nghệch. Những cảm xúc mới mẽ ập đến tràn ngập đến độ tôi đang quên rằng mình đang thở. Bổng nhiên Lan quấn chặt lấy tôi bằng hết sức mạnh của mình, tôi có cảm giác như nửa người tôi như thoát ra và tan biến vào trong một biển cảm xúc bồng bềnh, bồng bềnh. Rồi gió cũng êm, sóng cũng lặng kèm theo một cảm giác mệt mỏi. Mệt mỏi dịu dàng và thú vị. Tôi thiếp đi trong sự dịu dàng ấy và hơi hướm của đàn bà toát ra từ thân thể của Lan trùm phủ lên tôi, tâm hồn tôi.
Tôi chợt thức giấc và nhận ra cả hai đều không mặc quần áo. Một thoáng ngượng ngùng và sau đó tôi nhìn Lan trong giấc ngủ. Trong ánh sáng lờ mờ của bóng đèn ngủ tôi mê đắm và lạ lẫm trước thân thể người khác phái, cái thân thể mà mới đây thôi tôi đã muốn tan biến vào trong ấy. Ở đó, toát lên một điều gì đó cuốn hút tôi, làm tôi ngây ngất, nhưng cái gì thì trời ạ, chỉ có ông tạo ra con người ông mới hiểu được. Còn tôi thì có biết cái gì đâu? Nhưng tôi xin cám ơn ông, chân thành cám ơn. Lan trở mình thức giấc, thấy tôi đang chăm chú nhìn. Lan vội kéo chăn đắp và mỉm cười. Cảm giác của mấy giờ trước lại hiện ra kỳ thú và đổ vào tôi một sự háo hức không kềm chế nổi. Tôi cúi xuống và gấp gáp kéo lấy cái chăn. Lan chỉ chờ có thế để cuồng nhiệt cuốn lấy tôi. Chúng tôi quấn quýt lấy nhau, vồ vập, ngấu nghiến lấy nhau, thời gian, tư duy, ngôn ngữ và mọi thứ tan biến. Chỉ chúng tôi thôi. Vâng chỉ chúng tôi. Không, chỉ có cảm giác của chúng tôi tồn tại và cũng như không tồn tại. Vâng, tôi không hiểu chuyện gì đã xảy ra, dù lờ mờ trong ý thức, tôi hiểu rằng mọi việc do chính chúng tôi. Nhưng khi qua đi cơn ân ái. Tổi bổng có một cảm giác là như mình có lỗi khi mà bỏ mặc Lan. Tôi cố trấn áp sự mệt mỏi để làm một vài động tác âu yếm ngờ nghệch. Và tôi ngờ nghệch thật khi mà những hành động ấy đã gây cho tôi rất nhiều hệ lụy sau này. Những cái ban đầu này đang trở thành thói quen. Nhưng lúc này thì tôi có biết gì đâu?
Chúng tôi ở lại Vũng Tàu suốt một tuần. Ăn uống rong chơi và ân ái. Mọi cái Lan chủ động bằng một thái độ âu yếm, dịu dàng. Tôi hoàn toàn bị khuất phục và luôn luôn háo hức tham dự. Đêm cuối cùng ở Vũng Tàu, hai đứa leo lên sân thượng của khách sạn. Nhìn lên bầu trời đầy sao và cũng đầy những ánh đèn di động của những máy bay quân sự bay đêm. Chúng tôi hiểu rằng đất nước đang chiến tranh và chỉ hiểu thế thôi. Lan kể cho tôi nghe cuộc đời mình. Lan sinh ra trong một gia đình mà cha mẹ là đào kép của một gánh hát bộ lênh đênh trên sông nước khắp cả đồng bằng Miền Đông và Miền Tây Nam Bộ. Lan lớn lên trong hoàn cảnh ăn quán ngủ đình. Không được học hành mà được học nghề. Ánh đèn manchon[v] phủ giấy kiếng màu, mùi son phấn, những giai điệu tuồng đã cuốn hút và quấn quýt lấy Lan trong suốt tuổi thơ cho đến một ngày tai họa ụp đến. Một tai nạn trên sông làm Lan trở thành mồ côi khi vừa mười tuổi. Lan được một ông thầy đờn nhận dưỡng nuôi và chấm dứt cuộc đời sông nước. Nhưng cuộc sống rày đây mai đó vẫn tiếp diễn vì người cha nuôi theo một gánh hát bộ khác nổi tiếng hơn. Trong môi trường đó Lan trưởng thành theo tuổi tác và nghề nghiệp. Điều này tỷ lệ thuận với nỗi đắng cay mỗi ngày thêm chồng chất lên cuộc đời của một cô đào hát được mệnh danh là thanh sắc vẹn toàn, Lan kể cho tôi nghe khi Lan sắm vai Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu hoặc Thần Nữ dâng Ngủ Linh Kỳ. Lan đẹp lắm chứ không xấu như ngày thường vẫn xấu. Biết bao người tìm gặp Lan trong hậu trường nhưng khi gặp Lan không son phấn thì họ chạy tuốt. Tôi cười:
- Nhưng có một người không như thế.
Lan nói tiếp :
- Tại Hiền không thấy Lưu Kim Đính hay Thần Nữ.
- Hiền không cần Lan phải vậy. Mấy nhân vật đó đẹp thì đẹp thật, nhưng ghê quá…
Lan thật sự sung sướng. Vâng, quả nhiên Lan không đẹp nhưng có cái gì đó làm cho người ta có thể đắm say, ít ra là tôi. Rồi Lan kể tiếp, những đắng cay của cuộc đời nghệ sĩ. Một năm sau trở thành vợ không hôn thú với một người hâm mộ thì Lan nghỉ hát vì cái thai trong bụng. Khi mà những hào nhoáng rực rỡ dưới ánh đèn màu không còn nữa thì Lan trở thành một cô gái xanh rớt vì thiếu ăn và cái bụng chửa lặt lè. Người chồng đầu môi chót lưỡi quất ngựa truy phong. Lan một thân một bóng với số tiền dành dụm được trong đời đi hát và đứa con vô thừa nhận. Lan thuê một căn nhà nhỏ ở hẽm 235 Lý Thái Tổ mở quán café cà tàng bán cho cả hẽm cùng với hằng chục thứ hằm bà rằn khác. Tôi gặp Lan sau ba năm khi Lan bỏ nghề đào hát và Lan hơn tôi bảy, tám tuổi gì đó. Lan kể cho tôi nghe bằng một giọng khô khốc đều đều như kể một câu chuyện của ai khác. Kết thúc câu chuyện Lan hỏi tôi:
- Bây giờ Hiền có hối hận vì đã đến với một cô gái như Lan không ?
Tôi choàng tay qua vai kéo Lan sát vào lòng, lặng yên và nghe lòng mình trào dâng lên nỗi thương cảm. Lan tựa đầu vào vai tôi và cả hai cùng nhìn lên những vì sao đang nhấp nháy trên bầu trời đêm. Ánh trăng hạ huyền từ dưới biển từ từ chui lên phả một quầng sáng yếu ớt, nhưng không kém phần lạnh lẽo lên nền trời.
Đêm đó, chúng tôi nằm bên nhau. Nói cho nhau nghe đủ thứ chuyện trên trời dưới đất. Bổng nhiên tôi nói:
- Lan diễn cho Hiền xem một đoạn nào mà Lan thích nhất.
Lan nhìn tôi, tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Hiền thích hát bộ.
- Hồi nhỏ, mỗi lần đình làng cúng Kỳ Yên. Hiền đều lén chui vào coi cọp.
Cái cảnh này thì không lạ. Nhưng Lan lại tròn mắt nhìn tôi tỏ vẻ thích thú:
- Hiền không sợ bị bắt gặp à?
- Lúc đó nhỏ xíu, mới mười một, mười hai tuổi. Cùng lắm là bị đá vào mông thôi. Nếu bị đuổi ra thì kiếm chỗ khác chui vào.
Lan ôm bụng cười ngặt nghẽo. Khi dừng lại Lan bảo:
- Thế thì Hiền thích tuồng nào nhất.
- Thần Nữ dâng Ngũ Linh Kỳ.
- Hiền thích Tiết Ứng Luông?
- Không. Hiền thích Thần Nữ. Tiết Ứng Luông dở ẹc. Yêu mà sợ má.
Lan ngồi dậy nói vừa cười vừa nói:
- Thế Hiền có sợ má không ?
Tôi trả lời chắc nịch mà không hiểu mình muốn gì:
- Không.
Lan cười thật buồn và nói tránh đi:
- Lan diễn cho Hiền xem lúc Thần Nữ dâng Ngũ Linh Kỳ nghe. Nhưng không thể hát lớn được. Chọc người ta thức, người ta chửi chết.
Thế là Lan với bộ piyama, không son phấn, không đạo cụ. Lan diễn cho tôi xem. Tất cả lời thoại và phong cách được Lan thực hiện một cách xuất thần. Toàn bộ vũ đạo và ngữ điệu đều được thể hiện vì một mục đích, tình yêu dành cho Tiết Ứng Luông. Tôi biết trong vai diễn ngày hôm nay Lan muốn gì. Khi động tác cuối cùng chấm dứt Lan ngã vào lòng tôi :
- Lâu lắm rồi không lên sân khấu. Hiền thấy Lan diễn có giống mèo múa không?
Tôi lắc đầu, lấy khăn lau những giọt nước mắt đang rơm rớm trên mắt Lan. Khi tôi lau xong. Lan gục vào vai tôi và tôi biết lời yêu cầu của tôi là quá đáng. Tôi ngượng ngịu :
- Hiền xin lỗi. Hiền đã yêu cầu Lan một việc mà đáng lý ra là không nên.
Lan không nói gì, lắc đầu nhè nhẹ trên vai tôi. Tôi chẳng biết phải làm gì và nói gì và bàn tay cứ thế mà vuốt ve trên tóc, trên vai và Lan lại là người gợi mở. Chúng tôi lại quấn quýt với nhau như lần đầu nhưng táo bạo hơn, cuồng nhiệt hơn và thành thạo hơn. Chúng tôi quên rằng trời đã sáng. Trong ánh bình minh rực rỡ. Chúng tôi nhìn rỏ thân thể nhau hơn và nhận rõ những cảm xúc mà chúng tôi nhận được ở nhau. Mê đắm, trân trọng, nâng niu nhau như báu vật. Những giọt mồ hôi của chúng tôi thấm đẫm vào nhau như đã hơn một tuần nay thấm đẫm. Cho đến khi cả hai ngã vật ra chúng tôi vẫn ghì chặt lấy nhau như trong tư thế cuối cùng, Lan nằm vật lên tôi hổn hển và chúng tôi nằm lặng yên và say đắm. Rồi tôi đỡ Lan nằm ngay ngắn lại và ngây ngất trước cái thân thể đang phơi bày trọn vẹn trong ánh sáng chan hòa tuôn qua cửa sổ. Cái thân thể đã mang đến cho tôi những cảm xúc mới lạ, thần tiên. Và tôi bắt đầu táy máy tay chân. Lan vẫn nằm yên cho tôi nghịch ngợm.
Chúng tôi về Sài Gòn, Những ngày bên nhau để lại trong lòng tôi một dấu ấn hoàn toàn mới, nhưng nó ra sao thì tôi không biết. Sau khi đưa Lan đến Ký Nhi Viện đón con và đưa hai mẹ con lên xe, tôi trở về xưởng vẽ. Lần đầu tiên tôi trằn trọc vì một niềm vui. Tôi thiếp đi trong giấc ngủ với ý nghĩ một ngày mai… Những ngày hôm sau là công việc, tôi được giao phóng lớn maquètte bằng bút chì lên các tấm panneaux, bảng hiệu và ghi khối lượng màu cho các thợ tô vẽ, hết tấm này sang tấm khác. Lại phải làm đêm để kịp giao cho khách hàng, đến khi buông ra thì ngủ. Tất nhiên là công việc nhiều thì thu nhập nhiều. Cả xưởng khẩn trương làm việc và tôi cũng bị cuốn hút vào đó. Gần ba tuần kể từ ngày ở Vũng Tàu về tôi không đến thăm Lan và cũng không có thời gian đi xem sách cọp ở Khai Trí. Nhưng rồi công việc cũng qua đi. Tôi vội vã đón xe vào thăm Lan, vào tới nơi tôi thấy nhà khóa cửa, hỏi thăm nhà kế bên được trả lời Lan đã trả nhà, dọn đi nơi khác. Tôi không hiểu gì cả, thẩn thờ qua nhà ông anh gặp bà chị dâu, chị cười giọng đâm hơi:
- Thôi mà chú, chỉ là một cô đào già mà chú buồn chi lắm vậy? Tôi lặng yên ngó vơ vẩn một lát rồi về xưởng
Những ngày tiếp theo tôi sống, làm việc và sinh hoạt như kẻ mất hồn. Mọi sự diễn ra như một giấc mơ, đẹp, buồn và cay đắng như một bài thơ (?). Ba ngày sau lúc tôi đang hì hục với cây êke và bút chì thì ông Trưởng Xưởng vào đưa cho tôi một phong bì mỏng tanh và phán một câu chắc nịch “ Ê. Nhóc con nhận thư tình nè mày “. Tôi nhận lấy phong thư vội vã mở ra
“ Cậu Hiền.
Cậu hãy đến địa chỉ trong danh thiếp gởi kèm theo, để nhận một số đồ đạc”Ký tên: Không rỏ
Danh thiếp ghi “Soạn giả Thu Huyền. Địa chỉ :../…/…/ Phan Thanh Giản, nhìn cái địa chỉ, tôi muốn tối tăm mặt mũi, cộng thêm cái món gì đó mà tôi hoàn toàn không biết. Nhưng linh cảm cho tôi biết, tôi có thể nhận ở cái địa chỉ này một ít tin tức gì đó của Lan. Tôi vội xin phép ông Trưởng xưởng và mượn chiếc xe đạp gò người chạy bằng hết cái vận tốc có thể. Bổng dưng hôm nay tôi căm thù mấy cái đèn đỏ không thể tả nổi. Nhưng rồi sau một giờ tìm kiếm tôi cũng gặp cái địa chỉ oái oăm kia với cái lưng và khuôn mặt ướt đẩm mồ hôi. Tôi mang tâm trạng của một đứa bé mất một món đồ chơi mà mình thích. Ra đón tôi là một cô trạc tuổi Lan. Chị nhìn tôi dò xét:
- Cậu là Hiền, thợ vẽ.
- Vâng. Chị là…Thu Huyền. Chị gật đầu và mời tôi vào nhà, chỉ ghế cho tôi ngồi, mời tôi cốc nước lạnh, tôi không khách sáo nốc một hơi sạch bách, chị nhìn tôi cười rồi nói.
- Cậu trông có vẻ mệt và sốt ruột.
- Vâng, xin chị vui lòng cho nhận…
Chị quay vào mang một gói nhỏ và một phong bì để xuống bàn và nói với tôi:
- Cậu có thể đọc thư tại đây, nhưng cái gói ấy thì về nhà hẵn mở.
Tôi vồ lấy bức thư, run run mở ra, một giòng chữ y chang như cái thư trước hiện ra, tôi ngước nhìn dò hỏi. Chị mỉm cười nhìn tôi ra hiệu:
- Cậu cứ đọc đi
Tôi bắt đầu đọc lá thư
“ Cậu Hiền
Xin lỗi, cho Lan xưng hô như thế, khi cậu đọc những giòng chữ này thì mẹ con Lan đã đi xa lắm rồi. Trong hành lý mang theo có một kỷ niệm rất tuyệt vời, phải chi trong những ngày đó, Lan đến với cậu bằng một ít thẹn thùng, một ít vụng về thì ngày hôm nay Lan không phải để lại và cậu cũng không phải đọc lá thư này. Nhưng cuộc đời đã xô đẩy cậu đến với Lan, Lan đón nhận bằng một thái độ mà người ta gọi là mồi chài, cũng đúng thôi. Lưu Kim Đính đã chẳng mồi chài Cao Quân Bảo. Thần Nữ đã chẳng mồi chài Tiết Ứng Luông đó sao. Lan là bản sao của họ, mà lại là một bản sao tồi. Hiền đã thấy rõ Lan ra sao trong vai diễn ở Vũng Tàu. Dù sao họ cũng đến với người mình yêu bằng cả một thân xác và một trái tim nguyên vẹn. Có khác chăng là họ đấu tranh quyết liệt để yêu và để được yêu. Còn Lan, Lan đến với cậu cũng thế, nhưng bằng một tấm thân hoen ố và một trái tim tan nát. Trong khi cậu đến với Lan nguyên lành bằng một tâm hồn không so đo, chìu chuộng nâng niu Lan như nâng niu chính trái tim mình. Thân xác mạnh mẽ, tình yêu thuần khiết, trái tim cuồng nhiệt. Tất cả cậu đã cho Lan bằng hết sự đắm say mà mình có, cậu có biết không, Cậu chân thành hơn Cao Quân Bảo và Tiết Ứng Luông, còn Lan thì…Cậu có thể nghỉ Lan là Hồ Nguyệt Cô. Khi tàn cuộc ái ân, lần nào Lan cũng nhìn cậu ngủ, Lan thấy mình hạnh phúc, hạnh phúc không cùng. Nhưng cũng xót xa, xót xa cũng không cùng và Lan đã có quyết định ngay sau lần ân ái đầu tiên “Lan không có quyền, Lan không đủ tư cách để nhận được hạnh phúc này, thôi thì được chút nào hay chút nấy”. Cậu thấy Lan chưa? Lan như vậy đó, tất cả nghĩ suy của Lan, Lan chỉ nghĩ cho mình, kể cả khi quyết định xa cậu. Ngoài ra còn một điều nữa, chắc cậu không biết đâu. Lan hiểu rất rõ về cậu, mà cậu thì biết Lan quá ít. Có một điều quan trọng, dù Lan đã kể cho cậu nghe rồi. Nhưng cậu nào có để ý đến, đó là Lan không biết chữ. Trong cuộc sống hôm nay, một kẻ dốt nát liệu có giúp ích được gì cho người thân của mình. Lan sẽ là một gánh nặng cho cậu. Thư này Lan nhờ chị Huyền viết, Lan chỉ nói lên cái ý mình thôi. Có thể chị Huyền sẽ thêm thắt cho nó văn hoa hơn hoặc gì gì khác nữa. Nhưng dẫu sao thì cũng nói lên được phần nào những suy nghĩ của Lan, mong cậu hiểu cho. Đấy cậu thấy không, một cô gái như Lan, dốt nát, xướng ca vô loại… cậu có chịu nổi không? Giả như cậu chịu nổi. Nhưng những thân tình chung quanh cậu, bạn bè của cậu và thời gian nữa. Trốn tránh cậu, trái tim tan nát của Lan thêm một lần đớn đau, mà lại lần đau đớn nhất. Nhưng kéo dài thêm sự liên hệ này thì Lan càng đớn đau hơn. Cậu thương Lan thì hảy quên Lan đi. Cám ơn cậu vì cậu phiền trách Tiết Ứng Luông yêu mà còn sợ má. Thôi. Quên đi nhé người tình tuyệt vời duy nhất trong đời Lan… Vĩnh Biệt
Cô đào hát hết thời. Lan
Tôi thẩn thờ nhìn chữ ký tên bằng dấu thập nhoè dần, nhòe dần… và thay vào bằng những hình ảnh Lan tươi cười bên tôi. Ánh trăng huyền hoặc, biển lấp lánh, sóng rạt rào và Lan trong vòng tay ngờ nghệch của tôi. Tôi gần như cảm nhận được những thớ thịt của Lan run run, mơn man lấy tôi và hương Lan hình như còn vương vất trên lá thư. Khi bình tỉnh lại, thì bổng dưng tôi cáu giận, thì ra dưới mắt Lan tôi chỉ là thằng bé con. Ôi cái thằng bé con tội nghiệp. Tôi hỏi Huyền một câu vô nghĩa:
- Chị có biết hiện giờ Lan ở đâu không ?
- Không. Tôi không biết.
Tôi xếp lá thư cho vào túi, cầm lấy gói giấy, thẩn thờ đứng dậy như một kẻ vô hồn, không chào từ giả Huyền, thót lên xe chạy về. Dọc đường, tôi như kẻ mộng du, về đến nơi, trả xe không một lời cám ơn, không chào hỏi ai. Đi thẳng vào nơi nghỉ, nằm vật lên giường. Thật tình, tôi không đánh giá đúng được sự mất mát này. Quyết định của Lan là đúng hay sai. Tôi đớn đau, tôi hối tiếc, tôi bực bội… y như đứa trẻ chạy rong rong làm rơi mất gói kẹo. Tôi cứ như thế trong sự rối rắm cho đến khi phố đã lên đèn. Tôi chợt nhớ đến cái gói giấy, tôi mở đèn, lôi gói giấy và mở ra xem. Một cái khăn mà chúng tôi đã dùng chung trong suốt thời gian ở Vũng Tàu, gần như vô thức, tôi áp cái khăn vào mặt mình. Cái khăn được giặt sạch sẽ nhưng cái lạ lẫm mà tôi vừa nhận biết cách mấy tuần vẫn như hiển hiện đã đổ vào lòng tôi nỗi bức rức vì sự mất mát. Tôi thiếp đi lúc nào cũng không rõ và khi tỉnh dậy thì đã quá nữa đêm. Xưởng vẽ vắng tanh, ngổn ngang những bảng hiệu nhỏ to. Trong cái ánh sáng mập mờ của những vệt đèn xe quét vào khung cửa sắt không có lá làm những nét sơn đầy màu sắc, nhảy múa trước mắt tôi như ma quái. Đốt một điếu thuốc, rít một hơi dài, khói thuốc làm tôi tỉnh lại. Cái khăn vẫn nằm vắt ngang mặt tôi nhưng đầu óc trống rổng và tôi thấy đói. Tôi thay quần áo và, lấy bức thư gói trong cái khăn và xếp vào góc valy, để rồi nó đi theo tôi cho đến khi… Tôi ra phố, phố đã vắng người tôi đi dọc theo vĩa hè tìm một quán nào đó. Bổng có tiếng gọi:
- Anh ơi. Em nè. Tôi quay lại nhìn, một cô gái mặt đầy son phấn ngoắc tôi. Không hiểu cái quái gì xui tôi lên tiếng:
- Em nè. Rồi sao ?
- Đi với em đi
- Đi đâu ?
- Đi chơi.
Cái cảnh này thì tôi quá rõ, quá rõ vì nghe nói và thỉnh thoảng thấy và tôi trả lời theo kiểu giả nai. Không, vụ này tôi nai thiệt, mà là nai non chớ chưa được nai tơ.
- Chơi cái gì ?
- Cái anh quỷ này, biết mà còn làm bộ.
Lại một con quái nào đó xui tô
- Biết gì mà biết. Ừ mà muốn đi thì đi
Thế là tôi dẫn cô vào quán, cô ta khoảng bằng tuổi tôi, nhưng có vẻ gì đó lớn hơn và hơi kỳ cục, tôi hỏi:
- Cô tên gì ?
- Em tên Lan. Tôi giật nẩy mình:
- Cái gì ? Nói tên khác đi.
- Thiệt mà.
Tôi trợn mắt nói gần như hét:
- Không… đổi tên khác. Cô ta tròn mắt nhìn tôi, chắc cô ta nghĩ tôi khùng. Tôi dịu giọng nói tiếp:
- Tên đó không hay. Đổi tên khác. Nếu không. ăn rồi thì về nhà.
Lại tới phiên cô ta trợn mắt nhìn tôi rồi cười cười và nói:
- Thế thì anh gọi tên gì ? Em mang tên đó. Tôi cộc lốc:
- Tự mà đổi lấy
- Thôi anh gọi tên thiệt của em vậy. Em tên là Xoài. Cô ta vừa nói vừa cười
- Chà, vậy ngọt hay chua? Tôi vừa nhát gừng vừa móc họng.
Đồ ăn mang lên, cô ta không trả lời tôi và mạnh ai nấy nhận phần mình rồi cắm cúi ăn, ăn xong, uống café. Tôi uống như trâu uống nước phèn, uống xong vừa kêu tính tiền vừa đốt thuốc. Tính tiền xong tôi bỏ đi, cô Xoài chạy theo kêu ơi ới, tôi quay lại gắt gỏng.
- Bộ cô thích người ta dày vò cô lắm hả, khuya rồi, ăn cũng no rồi về ngủ đi. Cô ta tiu nghỉu bỏ đi. Bổng dưng tôi thấy tội nghiệp, nhưng phải làm sao đây? Tôi lầm lủi đi về, cái máy hát dĩa mắc ma của ai đó vọng lại “ Từ lúc từ giả nhau về. Lòng đếm từng bước anh buồn. Lặng lẽ giữa đô thành. Đêm nỉ non phố phường ngã nghiêng. Tâm hồm đau nói không thành tiếng, buông đời qua những đêm độc hành…“.[vi] Tôi nói thầm “ Xạo bỏ mẹ, ta mới một đêm đã muốn chết “
Mười tám tuổi, tôi trải qua một cuộc tình như thế, có thể mọi người cho rằng tôi còn con nít, vướng vào một cuộc tình như vậy là xui rủi. Nhưng dù gì chăng nữa thì tôi vẫn mang cái cảm giác của một đứa trẻ con bị tước đoạt một món đồ chơi mới lạ mà mình thích. Tất nhiên là Lan không bao giờ là một món đồ chơi mà là một điều gì đó khác hơn nhiều. Nhưng là cái gì thì tôi không rõ, cảm giác đó là có thật và xác định cho đúng đắn thì lúc này tôi không thể làm được. Nhưng rồi theo tháng ngày, dù phải là rất lâu sau kia, tôi hiểu được rằng giá trị của cuộc tình này gần như tác động khá nhiều vào việc hình thành tính cách của tôi trong việc cư xử với người khác phái. Không biết từ lúc nào tôi có thói quen trân trọng họ. Luôn luôn dành mọi dễ dàng, ưu tiên cho người khác phái, dù trẻ hay già. Tôi cũng rất ghét những cô gái chanh chua. Dù vậy tôi cũng chẳng làm gì họ mà thường thì tránh đi. Nhưng dưới mắt tôi đã là đàn bà thì ai cũng đẹp. Không có người đàn bà xấu. Nếu không tin, hảy nhìn thân thể họ, khuôn mặt họ và cung cách sinh hoạt bình thường của họ, dĩ nhiên là phải loại trừ lúc họ nổi tam bành lục tặc, bằng một cái nhìn khách quan hơn thì sẽ thấy người đàn bà nào cũng đẹp. Với cái định kiến đó nên rất ít khi tôi chịu phân tách cái đẹp của người đàn bà theo quan điểm tạo hình. Tất nhiên những suy nghĩ này từng lúc, từng lúc thấm sâu. Nhưng ngay lúc này thì họ luôn luôn cuốn hút tôi, gieo cho tôi một thứ tình cảm rất lạ. Tuyệt nhiên không phải cái tình cảm của một đàn ông dành cho đàn bà. Trở lại việc của tôi và Lan, quả là tôi có đau xót. Bởi vì tôi không hiểu tại sao mọi chuyện lại đến rồi đi như là một cơn gió. Nhưng rồi, hoàn cảnh đã làm cho tôi nhanh chóng lấy lại bình tỉnh. Dù rằng cho mãi tới rất lâu, rất lâu sau này trong ký ức của tôi chất chứa biết bao điều. Và mỗi khi nhớ lại, tất cả mọi hình ảnh với những chi tiết nhỏ nhất của cuộc rong chơi đó, đều hiển hiện rõ nét. Cũng phải thôi. Cái giây phút ban đầu mà. Không thể phai nhòa y như là nó vừa mới xảy ra. Cái nỗi đau chát chúa ban đầu được thay thế bằng nỗi ngậm ngùi sâu lắng hơn, bền bỉ hơn và Lan ơi, tôi nhớ mãi. Bởi vì lúc đó khi Lan quyết định như vậy, Lan khôn ngoan hơn tôi, hiểu biết hơn tôi, và Lan yêu tôi thật lòng. Cám ơn Lan, Cám ơn cuộc đời, cám ơn Tạo hóa đã tạo ra chúng tôi và đã cho chúng tôi gặp nhau như thế và chia lìa như thế. Dù tôi biết rằng lời cám ơn này thể hiện rất rõ tôi là một tên đểu cáng.
Chắc có lẽ mọi người chung quanh tôi đang chờ đợi ở tôi những bài thơ sẽ được viết về cuộc tình này. Không, mãi mãi không bao giờ có. Bởi lẽ nó đến và đi như một tia chớp rực rỡ, sáng lóa mang theo một cường độ quá lớn mà trái tim non nớt của tôi không chịu nổi. Nên việc sử dụng ngôn ngữ thi ca để viết về nó là không hiệu quả. Có đôi khi tôi nghĩ là thử viết xem sao. Nhưng khi cầm viết lên thì… đầu óc trống không, nếu có thì lại quá bộn bề và tôi không có khả năng để diễn đạt. Đành tịt. Chỉ có giữ kín trong lòng để nhớ tiếc, hoài niệm mới xứng đáng và ít buồn hơn.
Cuộc sống dù có thế nào, nó vẫn cứ tiếp diễn. Tôi là một thành viên, dù là một thành viên dở nhất, mờ nhạt nhất. Những rối rắm về chính trị cùng với cường độ chiến tranh mỗi lúc một dâng cao. Tôi biết chắc rằng mình sẽ bị cuốn vào. Không thể vùng vẩy, không có lối thoát. Tôi có thái độ gần như phó mặc, làm việc như điên, cập nhật đủ loại kiến thức. Từ thư viện, nhà sách đến quán ăn, tiệm café, và cả ngoài đường phố. Ngắm nghía mọi người và cả mình… với những mơ ước viễn vông không có khả năng thực hiện. Và tôi có một thú vui mới, đi coi hát bộ. Không phải bây giờ tôi mới coi hát bộ. Lúc còn ở quê tiếng trống rao bảng của các gánh hát bầu tèo vào dịp Tết hoặc đình làng cúng Kỳ Yên đã chẳng từng cuốn hút tôi là gì. Biết đâu chừng cái thời “ở truồng tắm mưa“ đó tôi cũng đã được xem Lan sắm vai Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu hay Thần Nữ dâng Ngũ Linh Kỳ hoặc là Hồ Nguyệt Cô hóa cáo không chừng.
Đình Minh Phụng là nơi đóng đô của các gánh hát bộ. Sau khi Lan bỏ đi tôi thường hay đến đó coi hát bộ. Đối với dân Sài Gòn, ở cái tuổi của tôi mà đi coi hát bộ, là thuộc loại ấm đầu. Khi khám phá ra tôi thường đi xem hát bộ. Ông trưởng xưởng tuổi ngoài bốn mươi cũng trố mắt nhìn tôi và ông ra bộ như một kép tuồng chính cống:
- Ải, ải. Quần vải đổi quần hàng, như ta đây là Trương…, đưa tay vuốt râu, …Phì, em của Trương Phi. Chết mẹ quên mang râu…
Cả xưởng có một phen cười lên ruột. Việc đi xem hát bộ của tôi mục đích ban đầu là để tìm Lan. Nhưng rồi dần dần nó làm sống lại trong tôi hình ảnh của những ngày thơ ấu. Và tôi mê hát bộ tự bao giờ cũng chẳng hay. Tính ước lệ tuyệt vời trong hóa trang, điệu bộ và ngôn ngữ của hát bộ. Nó diễn đạt sinh động, tách bạch mọi động thái đúng sai, trung nịnh của con người trong cuộc sống. Không nửa vời, không che dấu. Tôi cảm thấy mình như được an ủi và cũng chợt nhận ra rằng cái không khí của rạp hát khi diễn tuồng. Ở đó có một sự cuốn hút cũng không kém những gì diễn ra trên sân khấu. Cám ơn Lan, cám ơn Lưu Kim Đính, cám ơn Thần Nữ, cám ơn Phàn Lê Huê… và các người đã tạo ra và tham gia vào cái không khí thấm đẫm tính ước lệ này.
Sau khi Lan bỏ đi, một thời gian khá lâu. Tôi mới bình tĩnh lại. Lúc này, công việc và thu nhập của tôi khá ổn định, đã có dư dã ít tiền. Tôi thường hay tìm đến bạn bè, thằng Bích ở hẽm 219 Trần Hưng Đạo, thằng Kiến ở 35 Bùi Duy Thạnh, thằng Long ở Ngả Tư Quốc Tế, còn thằng Điện thì muốn gặp phải gởi thư qua KBC… của ba nó để hẹn gặp, thằng Vân thì phải chờ đến thứ bảy, chủ nhật từ trường Võ Bị Thủ Đức đi phép ra. Thằng Trung thì thỉnh thoảng, nghèo nên kỷ tính, thực ra là thằng nào cũng nghèo, mẹ cha cho tiền đi học là ráng hết sức mình rồi. Chỉ có thằng Điện là bạt mạng cô hồn, còn tôi thì lại thuộc thành phần ba trợn. Chúng tôi tụm ba tụm năm nói đủ thứ chuyện trên trời dưới dất. Thằng nào cũng kể về mấy mối tình hàm thụ của mình bằng một giọng y như thiệt. Tôi cũng thế, nhưng chuyện của Lan thì… nín thinh. Có một việc mà mấy thằng bạn của tôi không tài nào hiểu được. Số là chúng tôi khi có tiền thường hay rủ nhau ra quán café Tuyết Lan. Chúng tôi thường yêu cầu chủ quán cho nghe Thanh Thúy, Thái Thanh hay Ngọc Cẩm, Nguyễn Hữu Thiết… Dilida, Johnny Hallyday. Pat Bon… Nhưng khoái nhất là Silvie Vartan hát Les Tempes à L’Amour. Nhưng từ sau chuyện của Lan tôi không vào Tuyết Lan nữa mà qua uống quán Hà Nội gần bên. Mấy thằng bạn phản đối quá trời. Nhưng phải thua tôi thôi vì tôi là người thường trả tiền. Tôi cũng chiều lại tụi nó bằng cách mua cái đĩa hát đó tặng cho cô ngồi két để mỗi lần chúng tôi đến thì mở cho chúng tôi nghe. Thỉnh thoảng tôi cũng ghé lại Tuyết Lan, nhưng chỉ đi một mình và chọn những lúc mà mấy thằng bạn trời ơi của tôi không có khả năng xuất hiện. Tôi cũng không rõ lại sao tôi làm vậy. Chẳng lẽ vì cái tên Lan chăng?.
Trong một lần đến quán Hà Nội, cả bọn cùng nhau ngồi vừa nghe nhạc vừa rù rì đủ thứ chuyện thì anh bồi bàn đến bảo tôi:
- Có người muốn gặp cậu, ở bàn kia. Tôi nhìn vào hướng anh bồi chỉ, nhưng chẳng nhận ra ai. Nhưng rồi cũng đứng dậy đi theo anh ta, trong bụng vái thầm “Đừng có ai rủ dấn thân một lần nữa“. Nhưng tôi lo hão, đến nơi tôi nhận ra là Thu Huyền:
- Chào chị. Chị khỏe. Chị kéo ghế mời tôi ngồi và hỏi
- Lúc này cậu ra sao rồi, tôi có đến xưởng vẽ tìm cậu nhưng không gặp.
Tim tôi đập loạn xạ, chắc là có tin tức của Lan đây :
- Chắc chị có tin của Lan. Chị cười :
- Bộ chưa quên được sao, đã nửa năm rồi, tuổi trẻ mấy cậu mau quên lắm mà. Tôi lặng thinh vì không biết Thu Huyền nói gì, mãi lâu sau tôi mới lên tiếng:
- Tôi không hiểu. Thu Huyền lại cười:
- Bất ngờ gặp cậu, muốn mời cậu uống café. Thế thôi. Còn việc đến xưởng tìm cậu là vì việc khác. Chứ thật ra tôi không có tin tức gì của Lan cả. Cô ấy ngông và cứng cõi lắm. Thú thật tôi với Lan không thân lắm, việc tôi viết thư dùm Lan. Chẳng qua là tôi tội nghiệp cô ấy không biết chữ. Dù sao tôi cũng đâu phải là kẻ viết thư thuê?
Tôi thực sự bực bội. Cái tôi cần biết đâu phải là những lời nói như thế, Lan không cần ai tội nghiệp, kể cả tôi. Dù chúng tôi chỉ quen nhau không quá hai tháng. Nhưng tôi cũng hiểu được một phần nào về tính cách của Lan. Tôi đứng dậy, nói
- Tôi đi với mấy người bạn. Cám ơn lời mời của chị. Nhưng xin chị cho phép tôi được hẹn chị khi khác. Và tôi dợm bỏ bỏ đi.
- Khoan đã, hảy để tôi nói lý do tôi đến xưởng tìm cậu.
Tôi ngồi xuống và nói:
- Vâng xin chị cứ nói.
- Tôi đến tìm cậu tại xưởng là muốn bàn một số công việc thuộc về nghề nghiệp của cậu. Nhưng thôi, bây giờ cậu đang đi với bạn, với lại câu chuyện hơi dài, Nếu có thể, ngày mai cậu đến chỗ tôi vào lúc 10 giờ. Đừng đến sớm hơn, tôi dậy muộn.
Có lẽ vì muốn rời đi, nên tôi chấp nhận cái hẹn.
Trở về bàn, tôi thấy thằng Điện đã có mặt tự lúc nào, nó nháy mắt hỏi tôi:
- Mày chôm được ở đâu con đào sinh năm 1940 thế.
Cả bọn cùng cười. Tôi trợn mắt nhìn nó:
- Quen thôi. Tao mà làm kép chị ấy, có mà kéo râu dài ra thêm. Người ta là soạn giả cải lương đấy. Lại thằng Điện nheo mắt, đâm hơi:
- Tác giả tuồng Trần Ai Đỗ Lệ.[7]
Thằng Long chen vào:
- Ông Quy Sắc kiện mày bây giờ.
Thằng Kiến tiếp theo:
- Nó từng cặp với con Loan quán cơm xã hội lớn hơn nó 8 tuổi, mày với nó là bạn, thì mày như nó là phải rồi.
Thằng Bích cà khịa vào
- Mấy thằng mày ba trợn hết rồi. Nói chuyện với anh Loan cho đàng hoàng coi. Thằng Điện nín thinh, hết vui.
Cả bọn lại chia nhau mỗi thằng một điếu Capstan, rồi yêu cầu chủ quán cho nghe lại S.Vartan. Phải nói chúng tôi khá Pháp văn là nhờ nghe nhạc Pháp. Chúng tôi là như thế đấy, tụm năm tụm ba lại thì toàn là chuyện tào lao. Rồi khi chia tay nhau thì thằng nào học cứ học, thằng nào kiếm tiền cứ kiếm tiền, gộp lại thì cứ vui chơi khi có thể được. Nhưng chúng tôi không sa đà vào bất cứ một thứ nào. Có lẽ cái linh cảm sẽ bị hút vào cuộc chiến tranh càng ngày càng rõ nét. Nó làm cho chúng tôi phân vân khi lựa chọn. Một sự lựa chọn như không lựa chọn. Thế nên chúng tôi gần như không chủ động trong bất cứ một chuyện gì dù là học tập hay vui chơi. Chúng tôi đến với nhau, chung góp niềm vui mình có, xua đuổi nỗi buồn mình gặp. Thậm chí, không một xếp đặt cho tương lai. Trong bọn chúng tôi và phần nhiều những nhóm như thế. Rất ít khi tỏ rõ một thái độ nào về Quốc Gia hay Việt Cộng. Còn cái tả pín lù của chính trị, thì chúng tôi gần như rất ít khi bàn tới. Tôi là thằng đau nhất trong trò chơi quái quỷ này. Nếu có nhắc tới Nhất Linh. Nhân vật mà chúng tôi yêu quý nhất, thì chúng tôi chỉ nhắc tới Đôi Bạn, Nữa Chừng Xuân, Giòng Sông Thanh Thủy… hay Tự Lực Văn Đoàn hoặc cùng lắm là tiếc rẽ cho cái chết của ông. Nếu có hơn nữa thì chúng tôi tìm hiểu xem Chu Tử nghĩ gì khi mà ông viết Yêu, Điên, Loạn… cào cào. Hay Doãn Quốc Sĩ muốn gởi gắm cho ai khi viết Tình Yêu Thánh Hóa, Khu Rừng Lau, Hồ Thùy Dương hoặc ngôn ngữ của Bùi Giáng trong thơ. Nghĩa là chúng tôi chuyền tay nhau những quyển sách vớ được, đọc và bàn tán, cự cãi lung tung xèng. Có phải chính vì thế mà chúng tôi gặp khá nhiều thuận lợi trong cuộc sống sau này. Khi mà còn sống sót sau một cuộc chiến dài ngoẵng, rồi tiếp theo là một thời kỳ khốn khó. Tôi vẫn đi học, nhưng bữa đực bữa cái. Nhưng không hiểu sao năm đó lại đậu Tú tài 1, dù chỉ là cái tú tài ban C[viii]. Mà cái chuyện tôi thi đậu cũng khá kỳ cục. Đáng lý ra tôi đã có cái tú tài từ lâu. Nhưng cái môn Anh Văn thì tôi chẳng tài nào biết được dù chỉ một từ. Không biết tại vì nó là sinh ngữ hai hay là tại vì khi mới bắt đầu “to be, to have” thì tôi đã mất căn bản vì bận lo nhìn cô bé ngồi bàn kế bên. Cứ ”bị gậy” mãi nên tôi gần như chẳng còn màng tới. Và khi thi mới biết rõ đá vàng. Nhưng sở dĩ kỳ này tôi có được là nhờ năn nỉ thầy giám thị một câu nghe rất mủi lòng:
- Thưa thầy. Thầy chỉ cần chỉ cho em một câu. Em được một điểm là em đậu. Không thì đi lính. Tội lắm thầy ơi.
Ông thầy giám thị trợn mắt nhìn tôi rồi đi thẳng, chẳng nói chẳng rằng. Nửa giờ sau, ông quay lại nói nhỏ;
- Câu thứ ba. Em chỉ ghi vào chữ Yes ở cuối câu là có một điểm. Khi nào làm quan nhớ tôi nghe.
Và ông phải đọc nho nhỏ ba ký tự. Kẻo không thì rất có thể tôi lại viết sai.
Yes. I had a first high-school diploma. Phải mười mấy năm sau, tôi mới viết được một câu như thế.
Lúc này, tôi để dành được chút ít. Thế là tôi long rong tìm những thứ mình thích. Nếu như trước kia, tôi luôn luôn tìm cách để tiếp cận, để nhìn thấy và sau đó là tìm hiểu về việc làm, về đủ thứ chuyện có liên quan đến những nhân vật nổi đình nổi đám trên chính trường. Thì bây giờ tôi không quan tâm nữa. Tôi xoay qua các nhà văn, nhà thơ. Tôi đã một lần diện kiến nhà thơ Bùi Giáng và tôi hết hồn. Một ông già ở tuổi trên dưới bốn mươi. Tôi không nghĩ rằng một người viết được những tác phẩm, những bài thơ trứ danh lại là dường hơi lưng tưng thế (đó la nhận xét của tôi lúc ấy). Tôi nhìn thấy nhạc sỹ Phạm Đình Chương với chiếc Citroen cũ nhất nước. Tôi nhìn ra một Vũ Hoàng Chương mặt mày xám xịt vì là đệ tử của nàng tiên nâu. Thế tại sao ông ấy lại viết ra được bài thơ Lửa Từ Bi nhỉ? Tôi nhìn thấy một Phạm Công Thiện mơ mơ màng màng như người ở cõi trên. Còn cái mơ màng của Đinh Hùng là sự trung hòa giữa Bùi Giáng và Phạm Công Thiện. Tôi cũng thấy Kiên Giang Hà Huy Hà, nhà thơ cùng quê với tôi. Ôi người cùng quê nên đẹp trai hết biết. Ông già Sơn Nam thì ốm nhách như tôi. Nhưng tôi lại nhìn thấy một Phạm Duy với một phong độ hết ý và nhà văn Chu Tử với một khuôn mặt tưng tưng và nhiều… nhiều nữa. Lúc này thì cặp Trịnh Công Sơn và Khánh Ly đang là hiện tượng và tôi chỉ nghe họ trên cassettes. Những giai điệu họ mang đến cho tôi một cái gì đó buồn buồn mà trong suốt, nằng nặng mà nhẹ tênh, gần gũi mà xa xăm như là một giấc mơ. Có điều là một thằng nhóc con như tôi thì chỉ đứng xa xa mà nhìn, mà ngưỡng mộ, mà nhận xét theo kiểu của tôi. Cũng có những tay bằng hoặc hơn tôi một vài tuổi bắt đầu nổi đình nổi đám. Mấy tay mắc dịch này sao mà tài vậy ta? Duyên Anh, Từ Kế Tường, Mường Mán, Đinh Tiến Luyện, Đoàn Thạch Biền, Lê Hoa Niên… Tôi chưa bao giờ có được cái vinh dự được nói với những người này một câu nào cả, dù chỉ là một lời chào. Dù vậy nhưng khi có dịp thì tôi tìm đến để nhìn họ và nghe họ nói một điều gì đó. Và chỉ có thế thôi.
Riêng tôi, có một điều mà tôi không thể hiểu. Tuổi còn quá trẻ, làm ra khá tiền, thu nhập của tôi gấp đôi anh binh nhì, có tháng gấp ba, lại sống trong một môi trường mà các điều kiện ăn chơi đầy rẫy mà tôi thì… Chẳng những thế, mà tôi cũng không dám bắt chước theo những thần tượng của mình. Phải chăng vì chuyện của Lan đã làm cho tôi bị miễn nhiểm. Sau này, chỉ sau này, chớ bây giờ còn ngây thơ lắm, mỗi khi tham dự những trò vui thâu đêm suốt sáng. Khi chấm dứt cuộc chơi. Trước khi ra về, tôi thường hay quay lại ngắm nhìn cái bừa bộn, dư thừa của cuộc chơi. Thái độ của các người tham dự, trong đó có tôi. Rồi so sánh nó với những gì xảy ra khi mới bắt đầu. Sự tương phản hiện ra tách bạch đến kinh người. Rồi phải một thời gian lâu lắm, tôi mới có thể tham gia lại được trò chơi đó.
Đúng con nít, không hiểu tại sao tôi đến nhà Thu Huyền đúng giờ hẹn. Thu Huyền đón tiếp tôi khá chu đáo, lịch sự, đầy đủ café, thuốc lá và nụ cười. Nhưng có điều sau khi bày biện xong mọi thứ Thu Huyền ra khép cửa lại rồi đến ngồi đối diện với tôi và nói đủ thứ chuyện trên trời, dưới đất. Trong khi tôi nôn nóng muốn biết là chuyện làm ăn gì? Đợi khi Thu Huyền dứt câu, tôi chen vào:
- Chị Huyền, xin chị cho biết việc có liên quan đến nghề nghiệp của tôi.
- Tất nhiên, nhưng chúng ta có thừa thời gian mà.
- Chị thì thừa, nhưng chị hiểu cho tôi đang làm công cho người khác, tôi chỉ xin nghỉ được có hai giờ. Chị nheo mắt nghiêng đầu nhìn tôi.
- Sao cậu không xin nghỉ một tuần nhỉ? Tôi thật sự bực bội:
- Chị Thu Huyền. Xin chị giữ lời cho. Thôi xin phép chị. Tôi về. Tôi đứng dậy.
- Khoan đã, cậu hãy để tôi cho cậu xem cái này.
Thu Huyền đứng dậy bước vào trong khi tới cửa buồng còn quay lại ra hiệu cho tôi ngồi xuống. Tôi đành phải ngồi lại. Trong khi Thu Huyền lục đục trong buồng. Tôi nhìn vẩn vơ lên những bức ảnh treo trên tường. Lòng tự hỏi “ làm soạn giả gì mà trẻ thế nhỉ? Soạn được bao nhiêu tuồng“. Rồi tôi lục óc ra xem mình đã từng gặp một tuồng hát nào mà Thu Huyền là soạn giả. Đành chịu. Trong lúc tôi đang vẩn vơ như thế, Thu Huyền đứng kế bên lúc nào tôi cũng không hay. Đến khi Thu Huyền lên tiếng, tôi quay lại và há hốc mồm ngồi chết trân không nói được tiếng nào. Thu Huyền chỉ có quần áo lót trên người. Cái thân thể trắng toát và bộ ngực quá bề bộn kia làm cho tôi tối tăm mặt mũi và Thu Huyền nhìn tôi, cười khiêu khích:
- Như thế này, có thể trở thành người mẫu cho cậu vẽ được không?
Lúc đó, tôi vẫn chưa tỉnh hồn, lắp bắp, như một thằng khờ:
- Tôi… tôi không vẽ được, tôi chỉ là một thợ kẽ bảng hiệu thôi. Tôi chưa dứt lời chị ngồi xuống và toan ôm lấy tôi. Tôi hoảng hồn đứng dậy nói nói như líu lưỡi :
- Chị Huyền, tôi không...
- Tôi có khác gì Lan đâu ?
Tôi thật sự nổi giận:
- Khác rất xa, Lan không cư xử với tôi như vậy. Chào chị. Tôi về. Tôi quýnh quáng bước vội ra, nắm lấy cửa.
- Thế cậu muốn mọi người nhìn tôi như thế này à? Tôi buông tay xuống không quay lại. Tôi nghe tiếng sột soạt sau lưng, và tiếng chân Thu Huyền đến bên tôi và chị nói tiếp:
- Cậu quay lại đi và ngồi xuống ghế, chúng ta sẽ nói chuyện nghiêm chỉnh.
Tôi ngao ngán quay lại. Thu Huyền đã mặc lại quần áo. Cả hai trở lại ghế ngồi với tâm trạng hoàn toàn khác nhau. Thu Huyền mở lời trước:
- Xin lỗi cậu về hành động vừa rồi. Tôi thực sự mừng cho Lan, nhưng cũng tiếc cho nó. Nhưng… mừng và tiếc cái gì nhỉ? Thu Huyền ngưng nói và ngồi đăm chiêu. Tôi nấn ná một lát rồi đứng dậy cáo từ. Thu Huyền nhìn tôi, im lặng Khi tôi ra đến cửa Thu Huyền bổng nói trong tiếng thở dài:
- Cậu không ở lại?
Tôi nín thinh, bước ra và đi như chạy. Về tới xưởng, tôi lại phải làm việc trong trạng thái lờ ngờ, nhưng mọi việc được giao rồi cũng xong. Và tôi mệt rã rời. Mệt đến quên đi mình vừa đậu Tú Tài I. Không hiểu tại sao lại thế? Sau khi tắm rửa tôi định tìm một nơi nào đó để ngồi một mình, nhưng chưa biết phải đi đâu, thì thằng Bích tới. Nó mang tới một niềm phấn kích lớn, nó cũng vừa thi đậu Tú Tài 1. Và tôi cho nó biết là tôi cũng thế. Niềm vui của bạn bè xua đi nỗi bực dọc còn sót lại trong tôi. Hai thằng kéo nhau ra chợ Bến Thành rửa bằng. Bích rủ tôi lên nhà hàng Tropical[ix] và lần đầu tiên trong đời chúng tôi uống rượu, mà lại uống thứ dữ. Gin[x] pha cocacola và chỉ một ly thôi cho mỗi đứa, cũng đủ đưa chúng tôi lên mây. Tất cả như đảo lộn, quay cuồng. Khi chúng tôi bước xuống đường, thì mọi người gần như biến mất, cả thành phố như một dãy ngân hà có thể sờ được. Mà sờ được thì chết. Những vầng sáng nhỏ to, nhập nhòa chuyển động chung quanh chúng tôi. Hai thằng bá vai nhau bồng bềnh trong cái cảm giác kỳ thú và mông muội. Chúng tôi dìu nhau về nhà thằng Bích ở hẽm 219 Trần Hưng Đạo. Không hiểu chúng tôi đi đứng như thế nào, mà cứ xoay qua, xoay lại một lát là gặp Quách thị Trang. Không hiểu chị ấy có cười chúng tôi. Chúng tôi có cái cảm giác như chị ấy và cái áo dài trắng dấp dới bay qua, bay lại trong cái không gian đầy ngập những vì tinh tú, dù bức tượng của chị chỉ là bức tượng bán thân. Cuối cùng cả hai đành ngồi xuống chân bệ. Sài Gòn nhấn chìm chúng tôi trong biển ánh sáng lấp lánh.
Thức dậy, tôi không hiểu tại sao mà mình về được, sau khi rửa xong mặt mày thì cả xưởng đang vào việc. Và thằng Điện, thằng Bích xuất hiện rủ đi uống café. Lúc đó tôi mới biết thằng Điện gặp chúng tôi đang ngồi ở chân tượng và đã gọi taxi đưa chúng tôi về. Tôi không hiểu tiền ở đâu mà nó xài sang và hào phóng đến thế,
Tôi lại tiếp tục công việc của mình với một tâm trạng không còn hưng phấn nữa. Cố dành thật nhiều những thời gian rỗi rảnh để đọc bất cứ thứ gì có được trong tay, và đi học. Lúc này tôi đọc Kim Dung, và kiểu đọc sách của tôi có khá hơn lúc trước, không đọc cọp nữa mà đọc sách thuê. Cách giết tác giả tinh vi hơn coi cọp. Những mảnh đời đầy giông tố. Những cuộc tình lãng mạng đầy bi kịch. Những cá tính quái dị của các nhân vật võ lâm… tất cả cuốn hút tôi vào một thế giới viễn mơ. Những Thạch Phá Thiên, Quách Tĩnh, Hồng Thất Công, Lão Ngoan Đồng, những Hoàng Dung, Vương Ngọc Yến[xi]… cả cái truyện võ hiệp nhảm nhí Lệnh Xé Xác với những nhân vật quái đản Dương Chí Tôn, Ngọc Diện Diêm Bà… Tất cả những con người, sự kiện hư cấu ấy mơn man tâm hồn tôi, an ủi tôi, kéo tôi vào những khóc cười của họ. Quân tử, tiểu nhân, thuyền quyên, ma nữ… Cái ranh giới phân định nhân cách con người mang đầy tính tượng trưng, mỏng hơn sợi tóc. Trong cái không gian và thời gian của sự viễn mơ ấy. Tất cả diễn đạt rất chân thật một thực tế kinh người mà tôi đang sống. Một lần nữa tôi lại nói tiếng cảm ơn. Cảm ơn Kim Dung. Có một điều lạ là trên các nhật báo thời bấy giờ. Tờ báo nào cũng có loại tiểu thuyết feuilleton của các tác giả như bà Tùng Long, bà Lan Hương, Trọng Nguyên, Dương Hà, Ngọc Linh… cả những tiểu thuyết dạng võ hiệp nữa, nhưng ít khi nào tôi đọc tới. Có lẽ là không thể nào mua báo thường xuyên. Báo tôi mua thường xuyên thì hầu hết là tạp chí.
Rồi thì cái việc phải đến đã đến. Tôi bị gọi nhập ngũ. Trốn và đi, sự lựa chọn đã làm nhiều đêm tôi mất ngủ. Không ai chia sẻ được với tôi. Những thằng bạn của tôi cũng lâm vào tình trạng như tôi. Nên khi túm tụm với nhau chúng tôi vẫn như mọi lần. Nhưng hiện tại thì có thêm chuyên mục trốn hay đi và đi thì đi lính gì? Rồi chúng tôi cũng tạm quên đi nỗi buồn để lao vào một cuộc lựa chọn chết người. Lần lượt từng thằng, từng thằng đi lính, và cũng có những thằng biến mất không phải đi lính, cũng không phải trốn quân dịch, không lẽ theo Việt Cộng. Vô lý? Tôi không là đứa cuối cùng trong bọn. Khi còn lại một mình, tôi vẫn tiếp tục đi vẽ nhưng phải nhìn trước ngó sau. Ông trưởng xưởng bảo tôi nên mua giấy tờ giả. Tôi ậm ừ cho qua chuyện, chứ thực ra thì tôi cũng chẳng biết mua ở đâu. Đáng lý ra tôi không lâm vào hoàn cảnh này, nhưng tên thì đã được ghi vào sổ đen vì cái cú dấn thân, nên có thể bị tống vào Thủ Đức[xii] bất cứ giờ nào.
Một hôm có một người đến xưởng nhờ vẽ một số câu châm ngôn lên tường nhà, tôi được ông trưởng xưởng kêu đi. Thế là tôi sơn cọ đi theo người ấy. Chúng tôi đến một ngôi nhà xưa trong Chợ Lớn. Ngôi nhà đẹp cực kỳ, nhưng tôi không thể ngắm nhìn nó. Vào trong tôi được chỉ cho biết phải kẽ câu gì, ở đâu, kích thước, kiểu chữ và được yêu cầu phải thực hiện xong trong ngày. Nếu cần phải làm thêm buổi tối, thức ăn, nước uống được cung cấp đầy đủ. Tôi thực sự ngạc nhiên vì đây là lần đầu tiên tôi làm việc này trong một ngôi nhà riêng với những yêu cầu khá ngặt nghèo. Nhưng cũng phải cố gắng. Dù đã dành dụm dược chút ít, nhưng lúc này là lúc tôi phải tích cóp càng nhiều càng hay.
Khi công việc chấm dứt thì phố đã lên đèn. Tôi thu xếp đồ đạt và dọn dẹp, lau chùi cẩn thận những vệt sơn rơi xuống gạch. Khi mọi việc đã tinh tươm tôi tìm người trong nhà để cáo từ ra về thì tôi gặp một Sĩ Quan Cảnh Sát đang nhìn tôi. Ông ta còn khá trẻ. Lớn hơn tôi độ bảy tám tuổi là cùng, nhưng có một điều là ông cũng có bộ dạng còm nhom và xấu trai như tôi vậy. Ông ta nhìn tôi rồi nói:
- Em vẽ chữ đẹp đấy. Nhưng cái cái kiểu cách kỹ lưỡng thì hình như không phải là của em.
Tôi giật thót người, ấp úng:
- Thưa… sao ạ.
- Không sao cả. Em tên gì ?
- Dạ em tên Hiền
- Tôi tên Lập. Em bao nhiêu tuổi rồi. Còn đi học không?
Tôi đánh liều :
- Dạ em nghỉ học rồi, nhà nghèo lắm, ở Rạch Giá. Em đến tuổi đi lính, nhưng…
Ông ta nheo mắt nhìn tôi cười cười:
- Nhưng em trốn quân dịch phải không ?
Tôi lí nhí :
- Dạ…
- Thôi tôi hiểu rồi. Kể ra em cũng gan thật đấy. Trốn quân dịch mà dám vào nhà Cảnh Sát
Tôi nín thinh nghĩ thầm đi lính là cùng. Bổng anh lên tiếng:
- Xong rồi phải không. Thôi em ngồi xuống, nói chuyện chơi. Lát nữa ông quản gia ra trả tiền cho rồi hãy về.
Tôi nhè nhẹ ngồi xuống chiếc ghế ông ta chỉ. Rồi thì ông ta hỏi đủ thứ chuyện trên đời, chuyện học hành, chuyện gia đình, rồi lan man sang chuyện văn thơ và tôi có dịp nổ. Nổ tới quên hết nỗi lo sợ bị bắt quân dịch. Không khí càng lúc càng có vẻ thoải mái cho đến khi ông quản gia vào trả tiền cho tôi, rồi lấy chiếc mobyletre đưa tôi về xưởng vẽ. Tôi bước ra khỏi nhà mới nhớ lại là nhà của Cảnh Sát. Hú hồn
Ba ngày sau, Ông Sĩ Quan Cảnh Sát chạy xe Jeep đến tìm tôi. Cả xưởng chưng hửng, trố mắt nhìn tôi leo lên xe. Rồi vút đi. Ông ấy chở tôi đến La Pagode. Ở đó chúng tôi ăn uống và tôi được biết thêm anh ấy là Biệt Đoàn Trưởng Biệt Đoàn 222 CSDC đóng ở trại Amac[13]. Anh có hai anh em, người em trạc tuổi tôi học rất giỏi, vẽ rất đẹp, bị chết trong một chuyến về quê ngoại ở Mỹ Tho khi xe bị giật mìn. Ba anh ấy là hiệu trưởng trường trung học nổi tiếng ở Sài Gòn. Chúng tôi ăn uống và chuyện trò cho gần tới giờ giới nghiêm anh đưa tôi về. Dọc đường anh dặn nên về quê đi cảnh sát chữ thọ nó bự hơn và có thể anh sẽ giúp được điều gì đó cho tôi.
Sáng hôm sau là cả một rừng câu hỏi, và tôi chỉ trả lời câu đúng, câu không. Một tuần sau tôi giã từ xưởng vẽ và ông Trưởng Xưởng. Chúng tôi chia tay và mãi mãi không gặp lại nhau.
Rồi không hiểu cái gì xui giục, thay vì về quê.Tôi mang mấy bao sách đến hẽm 219 Trần Hưng Đạo gởi cho em thằng Bích. Với bảy chục ngàn đồng trong túi, một số tiền khá lớn. Tôi chạy tuốt lên Đà Lạt, làm một chuyến phiêu lưu.
Lạ cảnh, lạ khí hậu, chẳng có ai quen. Nhưng điều đó không làm tôi chùng bước, mà còn thêm háo hức, háo hức đến độ quên rằng, mình đã bị tước mất quyền lựa chọn một tương lai. Phải hai ngày lang thang, bụi bặm tôi mới tìm được một chỗ trọ ở ngoại ô thành phố. Một căn nhà gỗ nằm chơ vơ trên sườn đồi, gần Trại Mát và cách thành phố chừng bốn năm cây số, chung quanh là những gốc thông già, trên cao hơn một chút là những luống hoa hình bậc thang. Ngôi nhà nằm tách biệt giữa một không gian tĩnh lặng vây quanh. Căn nhà lợp tol, vách đóng bằng ván thông, khá tinh tươm chỉ có hai mẹ con. Thằng nhóc con khoảng bảy tuổi, chị chủ nhà khoảng gần ba mươi và ông chủ nhà ngồi trên bàn thờ mặc bộ đồ lính có cái lon trung sĩ và huy hiệu của sư đoàn 23. Phía sau là một vườn hoa hình bậc thang khoảng một ngàn mét vuông với mimosa, hồng, pensé, glaieul và nhiều thứ nữa mà tôi chẳng biết tên. Một chỗ ngủ với giá một trăm đồng, hai mươi đồng tiền dầu và nước. Cơm với hai mươi đồng ngày, ăn bữa nào đóng tiền bữa đó. Hôm nào sáng mà không đưa tiền chợ. Xem như ngày đó chẳng ăn cơm. Cũng tiện. Sau một ngày ổn định. Tôi lại cuốc bộ ra thành phố tìm việc làm. Ngày đầu tiên không kết quả. Bay mất mười đồng tiền ăn vặt và café. Ngày thứ hai, thứ ba cũng thế. Nơi cuối cùng tôi tìm đến là một nhà vẽ bảng hiệu gần chợ Hòa Bình, sau một giờ đứng múa cọ cho ông chủ tiệm xem và tôi trở lại cái nghề mà mấy ngày trước tôi không muốn làm nữa. Tôi được nhận vào làm với lương ngày, mỗi ngày bốn chục đồng, cho một buổi cơm trưa. Sau một tuần làm việc, lãnh được hai trăm tám mươi đồng. Tôi móc thêm tiền dành dụm khi ở Sài Gòn mua một chiếc xe đạp cà tàng, sửa sang thêm một ít nữa. Thế là có xe đi làm và đi long rong. Nhưng cũng phải nhìn trước ngó sau. Dù rằng cái bằng Tú Tài cho phép tôi long rong thêm vài năm nữa, khi mà ở đây chẳng ai biết gì về cái trò dấn thân quái quỷ của tôi ngày ấy.[14]
Những giờ rỗi rảnh thì đi long rong. Tôi đi thăm vườn lan của nhà văn Nhất Linh ở suối Đa Mê. Không có ai trong gia đình ông còn ở đó, chỉ có người giữ vườn. Tôi không đến được khi ông còn sống, nhưng những gì tôi biết khi đọc báo hay người khác kể lại, tôi vẫn mường tượng những cành lan đang lay lay trong gió kia đang lắng nghe tiếng kèn clarinette của ông từ quá khứ vọng về. Một đời người, một đời văn, một đời nghệ sĩ. Ông đem cái phẩm chất nghệ sĩ đầy tài hoa của mình đi vào chính trị. Cái chấp nhỏ nhen của chính trị kia đã triệt tiêu không thương tiếc cái phá chấp tuyệt vời của nghệ sĩ. Có lẽ cái chết của ông chính là ông muốn làm cho đẹp đẽ lại một nơi mà bản thân nó không có. Phải chi ông chỉ là một nhà văn thôi, ông đã có thể thêm cho mình, cho đời nhiều thứ nữa như đã từng thêm cho mình nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ… Nhưng tại sao ông còn thêm cho mình cái nhà chính trị. Chắc giờ đây ông đang ở đâu đó trên khung trời rực rỡ kia mà cuời ruồi khi nhớ lại có lắm điều đơm đặt về ông; đại loại như chuyện ông ăn cắp một triệu đồng tiền Đông Dương khi ông làm bộ trưởng bộ Ngoại Giao cho chính phủ lâm thời của ông Hồ Chí Minh, hoặc những cái mũ mà người ta quy chụp cho ông sau ngày 11.11.1960 để đưa ông đến một sự lựa chọn làm cho những kẻ hậu sinh phải ngậm ngùi. Tôi, thằng oắt con vô danh tiểu tốt, đang ngậm ngùi cho những cành lan vô chủ thì ít, mà cho cuộc đời ông thì nhiều. Nhưng cái tâm hồn bé bỏng của tuổi mới lớn chợt nhận ra mình vô cùng nhỏ bé trong cái lớn lao không cùng. Trong những cái lớn lao ấy có một cái mà tôi nghe ai đó nói, đó là cái tình đời khó lường. Mà khổ thay tôi thì không biết gì cả. Tôi hướng về tương lai mình khi nhìn lại người đi trước. Tại sao thế? Tôi chỉ mới sắp bước vào tuổi hai mươi. Bổng tôi nhớ lại những nhận xét của mình khi gặp những nhà văn, nhà thơ lúc ở Sài Gòn. Sự phá chấp của những người này, ít nhất ở bề ngoài đã làm nên người nghệ sỹ. Phải thế không? Không biết. Giờ đây những nhận xét của tôi về những người ấy thì cũng thế, nhưng lại gói ở bên trong một sự thấu hiểu và ngưỡng mộ. Và chưa bao giờ có ý nghĩ là phải học theo và làm theo.
Tôi cũng lò dò đến Giáo Hoàng học viện[xv] vào ngày chủ nhật. Cái không khí trang nghiêm, không gian và cảnh quan sạch sẽ, tươm tất từ mọi thứ kể cả vệt cỏ ven lối vào. Tất cả mọi thứ làm tôi choáng ngộp, nơi này mang dáng dấp của một thiên đường không bụi bặm. Nhưng tôi chỉ là thằng nhóc con, không phải thiên thần, của cái trần gian khốn khổ. Nên cái thiên đường này quả tình không quyến rủ được tôi hay đúng hơn là không dung nạp được tôi. Tôi thích suối Đa Mê hơn.
Tôi cũng mon men đến các đền đài dinh thự của Hoàng Triều Cương Thổ. Những dấu ấn của thời gian không xóa nhòa hết những dáng vẻ vương giả của một thời vàng son. Chỉ đứng ngoài nhìn thôi cũng đủ cho tôi buột miệng “Làm vua sướng thật”. Dù chỉ là một ông vua có vị, không quyền. Nhưng gì thì gì tôi vẫn thích suối Đa Mê hơn.
Tất nhiên là cái tính tò mò háo sự, tôi cũng mon men đến trường võ bị Đà Lạt[xvi], Trung tâm Nguyên Tử. Chẳng biết để làm gì. Tôi cũng đến nhà Lao Động Thanh Niên… nhưng những nơi đó không có chỗ cho tôi. Dù rằng tôi đang ở tuổi thanh niên, loại thanh niên bụi bặm.
Những nơi vừa kể, không một nơi nào có thể dung nạp được tôi. Dĩ nhiên là đứng xa xa mà ngó vào, nhìn ngắm cái dáng vẻ bên ngoài thôi?
Tôi đến thác Cam Ly. Thác không lớn nhưng vẫn đủ làm cho tôi thán phục thiên nhiên. Nước ở đâu mà chảy mãi thế? Thiên nhiên và khí hậu ở đây cuốn hút tôi. Ngoài công việc thì tôi lang thang đây đó. Nhưng đêm về thì quả tình tôi không chịu nổi với cái lạnh như từ trong xương lạnh ra. Mùi thơm toát ra từ những trái thông khô trong lò sưởi rất ngọt ngào, rất quyến rũ cũng không làm sao cho tôi có những giấc ngủ ngon lành. Nhiều đêm tôi tự trách mình tại sao lại chui lên đây. May khi mặt trời lên thì mọi thứ lại cuốn hút lấy tôi. Công việc và thú long rong. Hồ Xuân Hương, hồ Than Thở… Ôi đứng bên bờ hồ Than Thở mà than thở một tình yêu hay thân phận một con người thì có nước buồn mà chết. Đôi khi rỗi việc tôi cũng làm những chuyến rong chơi. Trại Mát, Trại Hầm và tôi nhìn thấy những khoá sinh của trường CSDC, họ trạc tuổi tôi và tôi thầm nghĩ, bao giờ đến phiên mình và bộ đồ sẽ mặc là màu gì. Tôi nhớ anh Lập có bảo tôi nên đi cảnh sát cho chữ thọ lớn hơn. Nhưng CSDC thì quả là ghê thật. Tôi cũng mò lên cả Đơn Đương. Nhìn cái thị trấn nhỏ xíu bên đập nước Đa Nhim khổng lồ. Từ thán phục thiên nhiên, tôi quay sang thán phục con người. Tôi không điên khùng chút nào khi làm một chuyến phiêu lưu còm lên xứ Ngàn Thông. Thỉnh thoảng tôi cũng phụ giúp chị chủ nhà săm soi tưới bón mấy luống hoa. Ban đầu chị từ chối, nhưng sau đó thấy tôi những ngày không việc mà chẳng có đi đâu nên chị cũng bằng lòng. Thực tình, công việc khá nặng nhọc, nhưng thích thú. Tôi có thể nhìn thấy và cảm nhận những bông hoa nở, những sắc màu rực rỡ, những hương hoa nồng nàn. Nhưng thích thì có thích. Có thể tôi bị choáng ngộp trước sự lộng lẫy của sắc, nồng nàn của hương. Nhất là mùi hoa hồng, nó đầm đậm đến say người và tuôn vào lòng những nôn nao của niềm ao ước lứa đôi, thảo nào thiên hạ hè nhau mua hoa hồng để tặng cho người yêu và cả những người sắp yêu. Nhưng tôi vẫn cứ bị cuốn hút bởi những cánh sim rừng, những bông hoa dại chẳng biết tên gì rãi rác đó đây. Cũng đơn giản như hoa mua, hoa bí, hoa bầu, bông móng tay, hoa lục bình tim tím mong manh hay hoa ô môi đẹp không thua gì hoa đào của Đà Lạt. Những loài hoa quê quê ấy thì lại làm lòng tôi xao động.
Thông thường thì những khi rỗi việc hay những giờ nghĩ trưa. Tôi thường hay lăng quăng nơi này, nơi khác để nghĩ về… mình. Quả tình, tôi cũng có nhiều điều để nghĩ. Mộng học hành tới nơi, tới chốn đã tịt ngòi. Mọi cổng trường tôi ngưỡng mộ đã đóng kin với tôi. Những ngày tháng long rong này, không phải tôi lắng nghe, mà cuộc sống dội vào những giai điệu kỳ thú lẫn kỳ quặc. Tôi bị háo hức, bị mê hoặc và bị… bực bội. Tôi đang sống giữa một môi trường đầy những ngôi sao và là sao thật. Vì thế, tôi chỉ có thể chiêm ngưỡng từ xa, vô phương tiếp cận. Sài Gòn và bây giờ thì ở đây. Tôi vẫn đứng ngoài khuôn viên của những công trình lộng lẫy, đứng ngoài khuôn viên của những con người lộng lẫy, kể cả thi sĩ trung niên Bùi Giáng lại lộng lẫy hơn. Nhưng ước muốn xâm nhập vào luôn luôn cháy bỏng trong tôi. Thế mà, cuộc sống của tôi vẫn cứ lặng lẽ quay quắt càng lúc càng xa những nơi tôi muốn đến. Thứ duy nhất tôi có thể tiếp cận thoải mái và tha hồ thả vào đó mộng mơ và ước vọng (tất cả đều không rõ nét). Đó là những bông hoa dại và màu xanh của cây lá. Tôi có quá thất vọng không? khi tuổi tôi vừa chơm chớm hai mươi.
Công việc của tôi vẫn cứ đều đặn. Cứ sáng sớm ra đi, mãi đến bốn giờ chiều mới đạp xe về. Một giòng chảy chầm chầm lững lờ trôi theo ngày tháng. Một giòng chảy yên bình và thú vị. Những khi ít việc tôi đi loanh quanh thăm thú nơi này, nơi khác với một quyển sách bất chợt ghé mua. Nhưng thường là tạp chí Văn[xvii] và Cảo Thơm Quê Mẹ[xviii]. Quả là tuyệt vời khi ngồi giữa cái không gian thoang thoảng mùi nhựa thông, cái khoáng đạt, tĩnh lặng của đất trời và đọc. Và bất chợt tôi nhớ lại và hiểu ra được phần nào những gì tôi đọc ở ngôi chùa trong khoảng thời gian dấn thân quái quỷ của tôi. Trong nhân gian này, không lẽ chỉ phải lo toan thoát khỏi vòng “sinh, lão, bệnh, tử”. Đức Phật đã nhìn thấy và ngài đã an nhiên đi qua đó mà không hề cho là một nỗi đau. Bao nhiêu người đã không hiểu một cách thấu đáo và cho rằng đó là một nổi khổ và vận dụng tối đa cái trí thông minh còm cõi của mình để tìm cách thoát ra. Không tin rằng mình đã hiểu thấu đáo. Thế là, tìm mua và đọc. Một đôi khi tôi nhớ câu nói của ông từ già, nhưng vẫn không hiểu ông muốn khuyên tôi điều gì. Thỉnh thoảng thì nghĩ suy. Tôi đang bước vào ngưỡng cửa của cuộc sống đầy lạ lẫm; bất trắc và… một, một điều gì nhỉ?
Quan hệ của tôi và những người quen biết chung quanh khá tốt, có lẽ vì quá ít ỏi nên cũng dễ giữ gìn. Hơn bốn tháng ở nơi này. Yên tĩnh và thú vị. Còn hơn hai mươi ngày nữa là Tết. Không hiểu sao tôi lại không nhớ nhà. Cuối tuần lãnh lương. Tôi xách xe chở thằng bé, con chị chủ nhà, ra chợ Đà Lạt mua cho nó một bộ quần áo và đôi dép. Tôi cũng mua thêm một ít bánh mứt góp chung ăn tết với chủ nhà. Khuôn mặt trẻ con khi rạng rỡ vui mừng bao giờ cũng đẹp, cũng dễ thương. Nhất là khi nó nếm thử thanh chocolat, cũng như tôi khi hít vắt đá bào chế sirô ngày nào. Hai cậu cháu lăng quăng suốt buổi sáng mới về nhà.
Về nhà. Thằng bé bi bô khoe món này món khác. Chị nhìn tôi, ánh mắt thật lạ và kèm theo lời phàn nàn:
- Cậu làm tiền bạc không biết được là bao. Con nít thì thấy gì cũng đòi. Cậu chiều riết nó đâm hư. Chưa kể đến khi hết tiền thì lấy gì trả tiền nhà, tiền cơm cho tôi.
- Chút đỉnh mà có gì đâu chị? Với lại chiều nào chị cũng pha café cho tôi mà chị có lấy thêm tiền đâu? Còn tiền cơm, tiền nhà thì chị yên tâm. Khi tôi sắp hết tiền thì tôi tìm cách biến đi.
- Cậu lại nói lăng nhăng cái gì thế? Thôi. Ăn cơm.
Bữa ăn đã sẵn sàng chờ đón chúng tôi. Cũng đơn giản như mọi khi. Bắp cải luột, rau muống xào và thịt heo kho cá ngừ. Cá thịt đều đông lạnh khi bày bán, ăn chẳng ra cái ôn hoàng gì, nhưng dù sao cũng là cá thịt. Nhưng cái món mà tôi khoái nhất chính là nước luột rau nóng sốt có “thêm tí muối, tí chanh, một ít bột ngọt nồi canh tuyệt vời“. Dân Nam Kỳ chính cống mà tôi thích thứ này kể cũng lạ.
Càng gần tết, công việc càng nhiều, có nhiều hôm tôi phải tròng thêm hai ba lớp áo, để vẽ đến chín giờ. Công việc chấm đứt khi chỉ còn hơn mười hai tiếng đồng hồ là hết năm. Anh chủ tiệm tính sổ; lương chính thức, phụ trội của tuần cuối cùng là ba trăm tám. Ông cho thêm hai trăm hai là chẳn sáu trăm kèm theo một câu đủ làm cho tôi vui trong cái tết tha hương:
- Từ ngày có chú vào làm. Nhà vẽ thêm được nhiều khách. Công việc có vẻ trôi chảy hơn. Chúc chú năm mới vui vẻ. Ráng kiếm một cô bồ để dẫn đi chơi.
- Cám ơn anh. Chúc anh chị và các cháu vui vẻ, năm mới làm ăn phát đạt. Còn vụ cô bồ thì anh cho em xin. Gò lưng kẽ vẽ, quệt quệt, tô tô cùng lắm chỉ đủ nuôi thân. Làm sao nuôi nổi bồ.
- Phát đạt là nhờ chú. Phải công nhận là chú làm nhanh thật. Nhanh mà đẹp, mà kỹ lưỡng. Còn cái vụ các cháu thì để tết này vợ chồng tôi ráng.
Tôi ngớ người ra vì cái vô tâm của mình:
- Xin lỗi anh chị. Vậy thì năm mới chúc anh chị như ý.
Chị chủ tiệm chen vào :
- Chú mà nghe ông ấy nói thì có mà điên với ổng. Thôi sắp tối rồi chú về. Gần cả tháng nay hôm nào chú cũng về khi trời tối mịt. Mồng hai nhớ ghé. Tôi làm vài món cho hai anh em, rồi tôi giới thiệu cho một cô.
- Cám ơn chị trước về cái khoản lai rai. Còn khoản thứ hai thì em xin chịu.
Tôi từ giả ra về và cảm nhận một cái Tết tha hương nữa đang đến gần và lần này thì có thêm giá lạnh với đầy đủ hai nghĩa đen và bóng. Tôi chạy chầm chầm nghe mùi nhựa thông thoang thoảng trên đường. Tôi đạp xe quanh hồ Xuân Hương. Bờ hồ hôm nay vắng lặng. Mọi người đang chuẩn bị vào xuân. Nắng, hoa và tiếng lá thông hòa cùng tiếng gió thổi bay sạch những trúc trắc trong lòng của một thằng nhóc lêu bêu. Tôi tìm một chiếc ghế đá, ngồi hút thuốc nghe tiếng lá reo. Thỉnh thoảng có những trái thông rơi tạo thành một âm thanh mơ hồ giữa những xào xạt vây quanh. Không biết trong tiếng reo bạt ngàn này có tiếng reo nào là của Uy Viễn Tướng Công.
Tôi về đến nhà thì đã bốn giờ chiều. Trời se sắt lạnh. Thấp thoáng những vệt sương mù bắt đầu trang điểm cho buổi hoàng hôn cuối cùng trong năm, để ngày mai là mùa Xuân đến. Vừa dựng xe. Chị chủ nhà bảo tôi:
- Cậu làm ơn đi tắm dùm cho. Tôi đã đun xong nước cho cậu rồi đấy. Cả tuần nay tôi không thấy cậu tắm. Như vậy mà chịu nổi, cậu hay thật. Với lại Tết tới nơi rồi.
- Trời lạnh muốn thấu xương, mà ngày nào chị cũng bắt tôi nhúng nước, thì tay chân run lập cập thì có mà vẽ giun.
- Không lẽ ngày mai là Tết mà cũng làm. Cậu mang cái bộ dạng đó mà đón Tết thì xúi quẩy suốt cả năm cho mà xem.
- Thôi thì nghe lời chị vậy. Kể ra mỗi năm tắm một lần cũng tiện.
- Ai chớ cậu cũng dám lắm à. Thôi tắm đi. Nước nguội hết bây giờ.
Quả tình. Cái chuyện ở dơ thì tôi đã bỏ bớt từ lâu rồi, nhưng ở đây lạnh quá, mà tôi thì không quen. Thế là cứ tắm đại khái suốt. Đứng trong phòng tắm tuềnh toàng, nước ấm không đủ sức làm cho cái lạnh vơi đi, đã vậy mà ngọn gió len qua khe ván bén ngót như dao cắt. Nhưng tôi cũng phải tắm thôi, mỗi năm chỉ tắm lớn có một lần mà. Thế là bậm gan mà tắm. Vừa tắm, vừa run và ôi thôi bao nhiêu hờm ghét cộng thêm bụi bặm trần gian. Sao mà nhiều thế? Có thể nói đây là lần đầu tiên tôi mới biết ghê sợ thế nào về cái sự ở dơ. Khi mọi việc xong xuôi thì cái hơi ấm từ trong cơ thể tích tụ lại bao ngày có dịp toát ra. Tôi cảm thấy cuộc đời này cũng còn có một cái khoái nữa mà từ hồi nào tới giờ tôi đâu có biết. Tắm.
Người ngợm sạch sẽ, tâm hồn thoải mái. Tôi ngồi vào bữa cơm chiều. Bữa cơm cuối năm có khác, ngoài cái ngon lành tươm tất ra, còn có một chai rượu mận, mấy cành hoa cắm trong cái lọ sành và một cành đào cắm trong cái độc bình kê giữa nhà. Một cành nữa, nhỏ hơn mà lại cành đẹp nhất cắm trên cái bàn thờ anh trung sĩ. Trong bóng chiều chập choạng và những nụ đào lấp lánh, tôi mường tượng thấy anh cười. Nhưng tôi không thấy thằng bé đâu. Dù vậy, tôi cũng thấy ngôi nhà như ấm lại. Không biết do hơi ấm trong người tôi hay là không khí của mùa Xuân. Tôi hỏi:
- Cháu đâu rồi chị?
- Bà nội cháu ở Đơn Dương[xix] xuống rước về hồi sáng, qua Tết cháu nó mới về. Nhà chỉ có hai mẹ con, nhưng nội nó muốn thế nên đành phải chịu. Nhưng dù sao, năm nay vẫn có cậu. Thôi cậu ăn đi, để nguội mất ngon. Cậu uống tí rượu cho ấm. Để tôi đi thắp đèn, tháng này tối nhanh quá.
Chị quay đi và trở lại với cây đèn. Chị đặt cây đèn xuống rồi rót rượu ra ly mời tôi:
- Uống đi cậu. Đàn ông phải biết uống chút đỉnh.
Tôi cầm lấy ly rượu nhìn chị:
- Chị không rót mời anh à?
- Rồi, một chung nhỏ thôi. Lúc anh ấy còn sống, anh uống biết bao nhiêu mà kể. Có thèm thuồng gì nữa mà cậu lo.
Tôi lạ lùng nhìn chị và hớp một ngụm nhỏ. Cái mùi thơm và vị ngọt ngọt dù có cảm nhận được nhưng không sao át nổi sự cay nóng đang thấm vào đầu lưỡi. Tôi nuốt nhanh và nghe một cảm giác là lạ chạy suốt sống lưng. Sau lần uống rượu với thằng Bích ở Sài Gòn, đây là lần thứ hai tôi uống rượu. Không biết nó ngon chỗ nào mà thiên hạ uống chí chết. Quả tình tôi nuốt không vô, đặt cái ly xuống tôi nói:
- Uống không được chị ơi. Khó uống muốn chết.
- Tôi cũng biết thế. Nhưng không hiểu tại sao mà thiên hạ cứ nốc hết chai này sang chai khác. Ông nhà tôi cũng thế. Nốc cho cố mạng vào, rồi hết biết trời đất gì. Đến lúc Việt Cộng đánh vào cũng hết biết đường biết sá gì, chạy lạng quạng một hồi rồi bị bắn chết queo.
Chị thở hắt ra một cái :
- Thôi cậu không uống được thì thôi. Đừng tập. Cậu chạy trời cũng không khỏi lính. Ráng mà tỉnh táo đặng biết đường tránh. Thôi cậu ăn đi. Năm hết tết đến mà nói cái chuyện không vui? Tôi cũng lạ thật.
Cả hai cắm cúi ăn. Một thoáng buồn về làm vẩn đục ngày cuối năm. Thỉnh thoảng tôi nhìn chị. Đôi mắt lấp lánh dưới ánh đèn. Những nét cực khổ tảo tần làm chị như già hơn cái tuổi chơm chớm ba mươi, nhưng bù lại chị nhận được một thân thể rắn chắc. Sự rắn chắc ấy đang luôn luôn tìm cách thoát ra khỏi cái giới hạn của thân thể. Bổng dưng tôi có cái cảm giác hơi là lạ. Tôi không hiểu gì nhiều về chị dù đã ở đây hơn ba tháng. Thậm chí cả tên chị là gì. Đi đã rồi về, về tới nơi là tôi tìm cách trốn cái lạnh. Còn chị thì gần như suốt ngày ngoài những luống hoa, tưới bón săm soi. Chiều thì cắt, bó để chuẩn bị giao cho mối lái vào buổi sáng. Tôi cũng không hiểu thời gian nào mà chị chăm sóc cho thằng con và cơm nước. Ấy thế mà tối tối còn kiểm tra bài và dạy thêm cho con. Tất cả vẫn đâu vào đấy. Hay thật. Bây giờ thì có dịp ngắm nghía. Quả tình chị không đẹp, nhưng cái thân thể và vóc dáng ấy, mập mập, tròn tròn và từ đó toát ra một sinh lực dễ làm người ta xáo động. Tôi là con nít, con nôi mà thấy cũng hay hay, nó gợi cho tôi một điều gì đó từ trong quá khứ mà tôi cũng không rõ nữa. Mà quá khứ của tôi thì ngắn ngủn chớ dài gì cho cam. Có lần tôi nhìn thấy chi ấy nách một cái bao bên hông đi dọc theo những luống hoa và trên đầu đội một cái khăn, mấy món tóc lòa xòa trước trán, nhưng hai vệt tóc mai bết mồ hôi đọng bên mang tai làm tôi cảm thấy trong lòng nôn nao. Nhưng chỉ vậy thôi. Còn những mấy tiếng đồng hồ nữa tôi mới vào tuổi hai mươi, mà là tuổi ta chớ không phải tuổi tây.
Bữa cơm rồi cũng xong. Chị lúi húi dọn dẹp. Tôi hút xong một điếu thuốc, rồi ngồi đọc sách ở cái bàn giữa nhà. Đọc sách để cố tìm cảm giác Tết, nhưng không thể, dù tôi biết rằng nó đang ở sát một bên, dù rằng tôi đang nhìn chăm chú cành đào trong cái ánh sánh chập chờn. Đây là lần thứ ba tôi đón một cái tết xa nhà. Điều này có quá bất thường ở một người có độ tuổi như tôi không? Thật tình tôi cũng không hiểu nổi mình. Bổng nhiên một nỗi nhớ nhà ập đến. Tôi thẩn thờ buông sách nhìn vào bóng tối mặc cho nỗi nhớ tha hồ hành hạ.
- Cậu nhớ nhà à? Tiếng của chị hỏi nhẹ nhàng.
Tôi trả lời một cách miễn cưỡng :
- Vâng. Tôi nhớ nhà. Đây là cái tết thứ ba tôi không về nhà.
- Trời đất. Nhà cậu ở đâu?
- Rạch Giá
Chị tròn mắt nhìn tôi, lập lại :
- Rạch Giá. Hèn chi thấy cậu chịu lạnh khổ sở đến thế. Mà tại sao mà cậu lại chạy tuốt lên đây? Trông cậu đâu phải là kẻ hoang đàng. Thôi lấy cái áo mặc thêm vào.
Tôi im lặng, chị quay đi rồi trở lại khoác cái áo lên vai tôi rồi nói nhỏ:
- Mặc vào đi. Nếu có thể cậu lấy xe chạy loanh quanh một lát, nhưng nhớ choàng khăn và mang giày vào. Biết đâu cái không khí Tết ở đây làm cậu đỡ buồn hơn.
Tôi thấy chị nói có lý. Thế là thực hiện ngay thôi. Tôi cũng không trả lời câu chị hỏi. Khi tôi dẫn xe xuống đường chị nói vói theo :
- Lúc này chắc chẳng còn ai buôn bán gì? Nhưng nếu có tiệm nào còn bán, cậu mua một ít café và trà. Mấy ngày nay cứ lu bu suốt với mấy bông hoa Tết, tôi quên. À cậu chờ tôi lấy tiền.
Vừa dẫn xe xuống đường tôi vừa nói :
- Thôi được rồi chị. Tôi cố tìm mua cho chị. Về hẵn hay.
Đường xuống dốc, nên chẳng mấy chốc tôi đến chợ, có lẽ nhờ vận động nên cũng bớt lạnh và đúng như chị nói. Tôi phải chạy mấy vòng mới gặp một tiệm còn bán. Vào mua trà, đường, cà phê mỗi thứ một ít. Sẵn thấy có bánh mứt, tôi mua thêm, định mua mấy bánh pháo đón giao thừa. Nhưng không hiểu sao rồi tôi chẳng mua. Sau khi trả tiền. Tôi máng cái giỏ vào ghi đông xe rồi chạy loanh quanh chợ định tìm một ly café, nhưng nghĩ lại, thôi về nhà uống, với lại về khuya, đường vắng, lại xa mà lên dốc nữa. Thế là tôi đạp xe về. Tôi không ngắm Đà Lạt đón Tết ra sao. Đường tối mò mò cộng thêm sương mù, thỉnh thoảng mới có vài chiếc xe qua. Phải gần cả tiếng đồng hồ cho một quảng đường năm cây số. Tới nơi, nhìn cái dốc lên nhà tôi muốn oải. Lạnh thì cứ lạnh, nhưng mồ hôi trán rịn ra. Nhưng rồi, tôi cũng lên đến cửa, tôi gọi:
- Mở cửa chị ơi.
- Cậu về sớm thế. Không đi chơi đâu à? Chờ chút.
Cánh cửa mở ra, ánh đèn hắt theo và tiếng chị vang lên :
- Cậu mua chi mà nhiều thế?
- Thì để uống mấy ngày tết.
- Thôi dẫn xe vào kẻo lạnh. Tôi cứ nghĩ là cậu chui vào một quán café nào rồi?
Tôi dẫn xe vào. Chị đóng cửa lại rồi cả hai soạn từ trong giỏ ra. Vừa soạn chị vừa cằn nhằn :
- Cậu mua làm gì nhiều thế? Bánh trái ở nhà thiếu gì? Với lại có khách khứa gì đâu mà… Thôi, bao nhiêu tiền để tôi trả lại. Tôi không thiếu nợ hai năm đâu.
- Thôi, chị kể như cho tôi hùn ăn Tết vậy? Nợ nần gì mà chị lo. Với lại còn khách đến nhà và chừa một ít cho cháu nó về. Chị nhớ cất mấy thanh chocolate
Chị nhìn tôi rồi vói tay lấy cái khăn gần đó đưa cho tôi:
- Đúng là dân Nam Kỳ có khác. Tôi thấy mấy người rồi, chẳng ai so đo gì về cái chuyện tiền bạc. Tôi mà biết thế. Tôi chẳng nhờ cậu đâu? Tôi thấy cậu có vẻ xem thường đồng tiền của mình quá. Như vậy không tốt. Thôi cậu lau mồ hôi đi. Không thì cảm lạnh bây giờ. Để tôi pha trà và café cho cậu uống.
Tôi cầm lấy cái khăn và chị thì quay ra nhà sau pha café. Cầm cái khăn lau những giọt mồ hôi rịn ra trên trán. Cái khăn rất sạch, nhưng thoang thoảng cái mùi không phải của tôi. Một lát sau chị mang cho ra hai ly café và bình trà rồi nói:
- Cậu uống café. Tôi uống thì không ngủ được. Tôi chỉ uống vào buổi sáng. Nhưng hôm nay uống để thức đón giao thừa.
Rồi chị ngồi xuống cái ghế bên cạnh tôi. Tôi ngồi uống café mà đầu óc trống không. Muốn nghĩ một điều gì đó mà không nghĩ được, trong khi cái cảm giác Tết cứ mơ mơ hồ hồ. Và rồi cuối cùng thì tôi nghĩ ra được. Thì ra là buồn, buồn vô kể. Phải làm gì trong suốt một tuần đây? Tới mùng tám, mùng chín tiệm vẽ mới khai trương. Làm sao cho hết cái thời gian dài ngoằng này nhỉ? Ở Sài Gòn tôi còn chạy đến bạn bè, không gặp thằng này cũng gặp thằng kia. Hết nơi đi rồi sao mà lủi tuốt lên đây? Đã thế, định mua vài số báo Xuân, nhưng bận riết rồi cũng không mua được. Đúng là tôi điên thiệt. Đêm càng sâu, càng lạnh. Tôi vẫn cứ co ro trong cái ý nghĩ phải làm gì? Co ro trong hối tiếc là tại sao lại chui lên nơi này.
Chị đi thắp nhang cắm lên bàn thờ, rầm rì khấn vái, rồi lại ngồi bên cạnh, yên lặng rót trà cho tôi, hết ly này sang ly khác. Thỉnh thoảng chị ném vào lò sưởi những trái thông khô. Có một cái gì đó hơi lạ lùng ở chị, nhưng tôi lại cho là chị đang chờ đón giao thừa. Rồi chị lại đi đâu đó, rồi lại ngồi bên cạnh, yên lặng rót trà cho tôi, hết ly này sang ly khác. Tôi chợt nhớ ra ngôi nhà này, nếu không có tôi thì trong giờ cuối năm chỉ có một mình chị nhỏ nhoi và một nỗi quạnh hiu thì lớn hơn vóc dáng của chị cả triệu lần. Cả hai vẫn ngồi như thế và tôi vẫn co ro với cái lạnh càng lúc càng tăng thêm, co ro với cái nỗi buồn xa nhà, tỷ lệ nghịch với những giây phút cuối năm càng lúc càng vơi. Có lẽ đã qua giao thừa rồi cũng nên. Cho tới khi tôi quên là có chị ngồi bên, để chỉ còn đối phó với cái lạnh và nỗi nhớ nhà. Tôi nhận được một hơi ấm lạ lùng xuyên qua hai ba lớp áo đang thấm vào lưng tôi. Chị đang tựa người vào tôi. Tôi chưa biết phải nói gì thì tiếng chị thì thào bên tai tôi, giọng nói nhỏ, đứt quảng, hơi thở gấp gáp, ngập ngừng:
- Cậu có lạnh lắm không?
- Lạnh quá. Đêm nay chắc hết ngủ. Tôi lập bập trả lời.
Chị choàng tay ôm lấy tôi, một hơi thở rất ấm phả vào mang tai và rất thơm:
- Như thế này cậu có ấm hơn không?
Tôi không thể nào hiểu được một cách rõ ràng những gì đang xảy ra. Định nói một lời gì đó, nhưng không tài nào mở miệng. Vòng tay chị càng lúc càng chặt chẽ hơn. Khi đôi môi chị gần sát môi tôi, tôi nghe tiếng chị nói như tiếng gió:
- Tôi. Tôi… Mình… yêu nhau đi.
Và sau đó là đôi môi ấy, hơi thở ấy mềm mại mà quyết liệt thả lên mặt tôi nỗi khát khao nóng bỏng. Chị đã cuốn chặt lấy tôi không khoan nhượng, không dành một khoảng trống nào cho tôi cả. Đến khi tôi hiểu rằng tôi chỉ còn một khả năng duy nhất có thể làm được, là tự đáp ứng cho cả hai thì mới có thể thoát ra. Nhưng tôi đã lầm. Cái lạnh của đêm cuối năm. Hơi ấm và mùi hương của đàn bà cùng với mùi nhựa thông thoang thoảng đã dìm tôi càng lúc càng chìm sâu vào năm mới. Tôi lạ lùng, tôi thích thú với hơi thở thơm thơm của chị. Hơi thở ấy càng gấp gáp thì càng nồng đậm hơn làm cho giây phút giao hòa của năm cũ và mới, mà chúng tôi đang chờ đợi, đã bị lãng quên để được thay bằng một cái khác, sự giao hòa giữa hai thân thể có cùng chung khát vọng. Chúng tôi đắm đuối chìm vào mùa Xuân. Đêm cao nguyên không còn lạnh nữa dù rằng tất cả những thứ giữ ấm chẳng còn lại gì ngoài những trái thông khô trong lò sưỡi đang lụi tàn dần.
Tôi đã lo hão. Những ngày đầu năm của tôi rất có nhiều việc phải làm; ăn thật no, ngủ thật sâu, và ái ân thì thật cuồng nhiệt... Thời gian gần như không còn đủ nữa. Đất trời tĩnh lặng và chúng tôi cũng thế. Chúng tôi sử dụng triệt để cái ngôn ngữ tĩnh lặng kia để làm cho cả một mùa xuân của nhân gian này như dồn lại hết trong khoảng không gian riêng biệt của mình. Chúng tôi hưởng thụ nó theo cái kiểu cách riêng của từng người. Nhưng đáp ứng cho nhau thì hoàn hảo. Tôi thì với sự háo hức của tuổi trẻ. Còn chị thì buông thả hết sức lực để tuôn trào cho hết những khát vọng bị dồn nén. Từng đợt hưng phấn tuôn ra như sóng trào, rồi lắng xuống để chìm vào trong mơ mộng và để chuẩn bị cho cơn say đắm tiếp theo. Trong cái khoảng không gian yên ắng ấy chúng tôi ngồi bên nhau trong nhà hay một góc thông nào đó trên sườn đồi, hay dẫn nhau đi dọc theo những luống hoa hình bậc thang, hoặc chăm sóc nhau trong bữa ăn hay khi tắm táp, hoặc chúng tôi đèo nhau đi bất cứ nơi nào mà chiếc xe đạp có thể chạy được. Khi mệt thì dừng lại nhìn nhau, khi thấy vắng người thì hôn nhau. Thậm chí, vầy cuộc yêu đương ở một nơi nào đó trên triền đồi vắng lặng. Chỉ cần một cái nhìn, một nụ hôn thôi là chúng tôi xâm nhập vào nhau bất kể nơi đó là ở đâu; trên đồi, dưới luống hoa, bên bụi sim rừng hay ở nơi nào đó trong ngôi nhà… Thân thể chúng tôi phơi bày không phải để thách thức cái lạnh của khí hậu mùa Xuân, bởi vì cái lạnh ấy không thể nào tác động vào, mà là để trao gởi và cảm nhận những kỳ thú mà giác quan đang khao khát. Đã hai người đàn ông đi qua cuộc đời, chị thì có thừa những kinh nghiệm ái ân. Còn tôi, ngoài sức trẻ ra thì chỉ là những chập choạng, mà những chập choạng ấy lại mang đầy sự háo hức, tham lam nhưng lại khơi gợi cho chị những đam mê kỳ thú. Và chị luôn luôn là người kêu gọi, hướng dẫn. Cứ thế. Chúng tôi chào đón, hưởng thụ mùa Xuân của đất trời và của cả chúng tôi. Không một người khách nào đến nhà để chúc Xuân. Mà để làm gì? Mùa xuân đang đầy ăm ắp, quyện chặt lấy chúng tôi, đâu còn một quảng trống nào cho người tìm đến. Và nếu có những lời chúc tụng, liệu hiệu quả của nó có bằng những gì chúng tôi đang có.
Thằng bé được đưa về khi chúng tôi đang ở trên đỉnh đồi phía sau nhà. Chị nghe tiếng con gọi, vội buông tôi ra, luống cuống mặc quần áo vào và chạy băng xuống đón con. Để lại cho tôi khung trời trống không và một cuộc ái ân còn dang dở. Tôi ngồi xuống gốc thông già. Thông vẫn reo. Nắng vẫn mang về hơi ấm mùa xuân. Tôi nhẩn nha cảm nhận cái lạc thú của một nỗi đam mê mà tôi đã trải qua. Ở đó tôi khám phá ra là, tại sao trong một tuần lễ vừa qua chúng tôi gần như không nói gì với nhau, nếu có thì rất ít và không liên quan vì đến hai chữ tình yêu. Bởi vì nó không có. Không phải, có mà không dám nói, bởi vì chúng rất mơ hồ, lãng đãng như sương, có thấy, có cảm nhận, có nắm bắt đổi trao và… không thể nào lưu giữ. Chúng tôi ý thức điều đó nên không biết giềng mối từ đâu để bắt đầu. Thế nên, chúng tôi chỉ làm được một điều duy nhất là trân trọng thân xác của nhau, khát vọng của nhau, tất cả mọi thứ của nhau. Nhưng sự rung động của trái tim thì không phân định được. Có thể ai đó cho rằng chúng tôi là hai con người hoang dã, điều này hơi nạng nề, nhưng không sai. Chỉ có một điều duy nhất mà chúng tôi còn có thể được chấp nhận. Đó là, sau cơn mê đắm, chúng tôi đều ý thức được rằng. Chúng tôi không thể, không có quyền để cho điều này tiếp tục. Biết thế, nhưng lại không được. Mà ngược lại, được tiếp tục mạnh mẽ hơn, đắm say hơn. Chúng tôi chỉ có những lần làm tình được thực hiện bằng những động tác tuyệt diệu của ái ân. Điều này phải rất lâu sau tôi mới hiểu. Tôi nhớ lại bài thơ Đường của Lý Thương Ẩn đọc được trên tạp chí Văn mà tôi chỉ nhớ có hai câu đầu:
Tương kiến thời nan biệt diệc nan.
Xuân phong vô lực bách hoa tàn.
Tôi không ngờ rằng cuộc đời tôi sau này phải đọc rất nhiều lần bài thơ này trong những trường hợp tương tự. Và còn đọc hết bài mà còn cả gan dịch ra thơ Việt đàng hoàng.
Ngày hôm sau tôi đến nhà vẽ. Bà xã anh chủ tiệm trách tôi:
- Ngày mồng hai vợ chồng tôi trông chú mãi.
Tôi ngượng ngùng :
- Tết nhất để anh chị đi thăm hỏi người này người khác. Em sợ phiền anh chị. Với lại em cũng có chuyện riêng.
Anh chủ tiệm lên tiếng :
- Hôm nay. Cúng khai trương xong, chắc cũng chưa có việc gì làm. Chú phải ở đây ăn cơm với vợ chồng tôi, trưa và chiều luôn đấy.
- Rồi, tưởng anh bắt làm công lên chuyện xuống gì? Chứ bắt ăn thì dễ cho em thôi.
- Thôi anh em mình qua quán Tùng uống café. Một lát sau mình về bà ấy chuẩn bị xong là cúng khai trương.
Đây là quán café thuộc loại sang trọng và nổi tiếng ở Đà Lạt mà khách, thường là sinh viên sĩ quan của trường Võ Bị. Trong khi chờ café. Anh hỏi thăm tôi về gia đình và nguyên nhân nào tôi phải phiêu bạt ra tới xứ này. Khi nghe tôi nói về quảng đời lêu bêu của mình và cái duyên do đưa tôi vào nghề này. Anh tỏ vẻ ngạc nhiên :
- Chú quả là liều thật. Chưa nứt mắt ra mà dám phiêu bạt giang hồ. Nhưng thôi dù sao chú cũng còn hơn chán vạn thằng. Mẹ cha giàu nứt đố đổ vách mà chẳng lo học hành, học đòi ăn chơi rồi tiêu mạng. Sao lên đây mấy tháng có cô bồ nào chưa?
Tôi không biết phải trả lời anh ra sao, đành ậm ừ qua chuyện, rồi hỏi thăm anh chuyện này chuyện khác. Thì ra thì anh ấy cũng chẳng hơn gì tôi. Cũng bỏ nhà đi bụi, rồi lính lác, dính mấy thẹo suýt vong mạng mới được giải ngủ, rồi lập gia đình và trụ lại nơi đây. Quê anh ở tận Sóc Trăng, còn vợ anh người Sài Gòn.
Thế là xong một ngày, tôi mang tấm lòng háo hức về nhà với một chút váng vất vì một chai bia. Và khi tôi dắt xe lên tới cửa nhà thì tôi không còn biết gì nữa, mặt mày tái xanh. Chị vội dìu tôi lên giường. Rồi thì cạo gió xoa dầu, nghĩa là làm mọi cách cho tôi tỉnh lại. Trong khi thằng bé đứng nhìn và chờ sai lấy cái này, cái kia. Và khi tôi tỉnh lại chị cho tôi uống một ngụm trà pha gừng đặc quánh và nóng muốn vuột họng. Nằm trong cái mền kín như bưng, người tôi ấm lại và dần dần khỏe ra. Tôi hiểu ra rằng tôi thoát chết trong gang tấc, nếu như tôi gục giữa đường. Một lát sau chị mang cho tôi tô cháo nóng, ép tôi phải ăn cho hết, ăn xong chị đưa cho tôi hai viên optalidone và một cốc nước trà. Tôi nhờ chị hôm sau ra Đà Lạt báo cho anh chị chủ tiệm vẽ xin nghĩ vài ngày.
Đêm xuống thật nhanh và tôi cũng chìm vào giấc ngủ.
Tôi giật mình thức giấc. Trời thật lạnh, nhưng mồ hôi ứa ra. Tôi kéo vội cái mền khỏi đầu thì vừa lúc đó bàn tay chị đạt lên cái trán ướt đẫm mồ hôi của tôi. Chị nói khẻ :
- Cậu nằm yên đó. Tôi lau mồ hôi cho.
Chị lấy cái khăn lau mồ hôi trán cho tôi, rồi luồn tay vào ngực, thấy mồ hôi nhơm nhớp, chị mở nút áo lau tiếp, xong rồi chị cài nút áo lại. Tôi hỏi :
- Mấy giờ rồi chị ?
- Một giờ rồi.
- Sao chị không ngủ đi.
- Tôi chờ mồ hôi của cậu vã ra, để chắc là cậu hết sốt. Với lại không lau sạch mồ hôi thì cậu lại cảm lạnh nữa. Để tôi lấy nước nóng cho cậu uống thuốc. Tôi mới xuống Trại Mát mua thuốc cảm cho cậu đây.
Chị bước trở ra rồi mang vào cho tôi ly nước. Tôi uống xong trả lại cái ly và nói chẳng ra câu cú gì:
- Thôi ngủ đi. Khuya rồi. Có gì đâu mà nửa đêm nửa hôm thế này, lại đi như vậy không sợ à?
Chị để cái ly trên đầu giường, rồi nằm xuống cạnh tôi :
- Cũng tại tôi, cậu mới như thế này. Cậu đừng nghĩ ngợi gì? Cậu phải giữ ấm. Cậu hiểu tôi nói gì không? Tôi phải ngủ đây với cậu. Chỉ giữ ấm cho cậu thôi.
Tôi chẳng trả lời mà đưa tay mân mê cái thân thể rắn chắc và nóng rực ấy. Chị nằm yên không phản ứng gì nhưng tôi có cái cảm giác bàn tay tôi chạm tới đâu thì tôi có cảm giác như nơi đó run lên. Nhưng rồi chị nắm lấy tay tôi, nói nhỏ:
- Thôi nào. Đừng có nghịch ngợm nữa. Cậu đang bệnh đấy.
- Tôi khỏe rồi mà. Tôi giằng tay ra toan tiếp tục.
- Không? Cậu không nghe tôi. Tôi không dằn được? Tôi năn nỉ cậu mà. Ngủ đi. Nghe lời tôi đi. Ngoan nào. Cậu hết bệnh đi, cậu muốn lúc nào cũng chiều cậu.
Không hiểu sao tôi lại ngoan ngoản như một đứa em nghe lời người chị cả và tôi ôm cái thân thể ấm áp ấy đi vào giấc ngủ.
Phải hai ngày tôi mới thật sự khỏe lại. Tôi nhận được sự chăm sóc và những nghiêm khắc rất cố gắng của chị. Được voi đòi tiên, nên thằng con nít trong tôi trỗi dậy, nó khoái tỷ khi được nuông chiều và âm ấm lòng khi bị rầy la. Chị làm tròn vẹn một lúc hai ba vai trò trong cơn cảm sốt của tôi. Nhưng có một điều làm tôi thấy lạ. Chị không còn có vẻ héo hắt như ngày nào. Đôi mắt như sáng hơn. Những cử chỉ của chị linh hoạt hơn. Tôi không hiểu gì cả, vì dù sao tôi cũng chỉ là một thằng nhóc con đang chập choạng đi vào tuổi hai mươi. Đã rất nhiều lần chị ôm ấp vỗ về tôi như là vỗ về một thằng em trai bé bỏng thích được nuông chiều.
Chúng tôi tiếp tục đến với nhau bằng hai sự háo hức khác nhau. Chị cứ để cho tôi tung tăng khám phá thân thể mình. Vì vậy, tôi chỉ còn có ba việc để làm; đi vẽ kiếm tiền, đọc sách báo và tắm. Không hiểu tự bao giờ, tôi cảm nhận được thân thể của mình một cách toàn vẹn trong và rất lâu sau khi tắm. Sạch sẽ từ thân thể đến ý nghĩ. Nhìn ngắm sự việc một cách thoải mái hơn. Hình như có một buổi chiều nào đó, dưới gốc thông già, tôi buồn cười cho chính mình khi đoạn tuyệt với những tháng ngày ở dơ không ai chịu nổi. Vâng, tôi đã có một thời gian khá dài như vậy, thân thể và áo quần chưa đến đỗi luôn luôn dơ bẩn và hôi hám. Nhưng gọi là sạch sẽ tinh tươm thì chưa. Nhưng lạ một điều, sự đổi thay này của tôi đã không biến tôi trở thành một tên đỏm dáng. Hên thật.
Những ngày chủ nhật thường ít việc, tôi về nhà sớm. Chỡ thằng bé đi chơi và mua về những thứ lặt vặt khi cục xà bông tắm, chai dầu gội đầu, lúc thì café, trà, đường, vài thanh chocolat, chewing-gum cho thằng bé. Cũng có khi là những món gì đó mà chị ấy bất chợt nói ra là đã hết hoặc vài cuốn sách văn học và một số sách viết về Phật Giáo, đôi khi là một vài quyển sách trồng trọt. Tất nhiên là sách dạy trồng, chăm sóc hoa. Bao giờ cũng thế, khi thấy tôi mang về món gì đó là chị tỏ vẻ không hài lòng, nhưng bên trong ánh mắt thì lại đọng thêm mấy hạt long lanh. Những quyển sách tôi mua thì chị chỉ cười và giữ gìn cẩn thận, không biết chị có đọc không? Tôi nhận ra và xem đó là một niềm vui. Niềm vui thật sự. Chúng tôi luôn tìm một cách nào đó để đến với nhau, khi thằng bé đi học. Cũng có những khi chị cùng tôi lên đỉnh đồi khi thằng bé ở nhà vào ngày chủ nhật. Nhưng thường thì khi đêm về, lúc thằng bé ngủ say. Dần dà tôi lại là người khơi gợi. Chỉ cần khi có thể là tôi buộc chị phải làm theo ý mình. Chưa một lần nào chị chối từ. Chị cho và nhận lại ở tôi bao giờ cũng bằng thái độ cuồng nhiệt. Có một điều mà tôi luôn luôn cám ơn chị là không bao giờ chị làm đứt đoạn việc đọc sách của tôi. Chuyện tôi cắm đầu, cắm cỗ đọc một mạch bốn năm trăm trang sách là chuyện thường.
Rồi chị lảng tránh tôi. Một ngày, hai ngày…Tôi không hiểu và tìm mọi cách để biết tại sao như thế? Thái độ của chị có vẻ lạ lùng. Không hờn giận, nhưng khi tôi đến gần thì chị lảng ra xa. Chạm vào người thì chị phủi tay và nghiêm mặt lại. Ba, bốn lần như thế, tôi đâm bực bội. Những giờ rỗi rảnh tôi lang thang ngoài phố hay nằm đọc sách ở ven đồi hoặc trong một quán café nào đó mãi đến tối mới về nhà trong cái bộ dạng rét cóng. Và tôi cũng không thèm để ý xem thái độ của chị ra sao?
Sau ba bốn ngày như thế. Cơm nước xong xuôi, tôi hút vội điếu thuốc, rồi tắm. Vào giường, kéo cái chăn lên tận cằm. Tôi nhìn lên nóc nhà, nôn nao đợi chờ, nôn nao giận dỗi. Cái thú vị khi cảm nhận thân thể mình chợt biến, chợt hiện theo những tiếng vi vu của ngàn thông bên ngoài. Chị đang dạy thằng bé học bên kia bàn và hình như chẳng quan tâm gì đến tôi cả. Thôi thì ngủ vậy. Tôi kéo cái mền trùm kín đầu, trùm luôn nỗi bức rức.
Tôi giật mình vì hình như đang có một cái gì đó đè lên người. Trong ánh sáng mập mờ, tôi nhận ra bộ ngực trần của chị đang áp vào mặt tôi. Thấy tôi mở mắt chị hỏi :
- Cậu giận tôi?
Tôi nín thinh, quay mặt vào trong. Chị cười, rồi đưa tay xoay tôi ra và nói:
- Này, cậu đừng có như thế. Tôi biết cậu chờ đợi tôi… Nhưng hãy nghe tôi nói đã.
- Nói gì ? Chị đang giận tôi mà.
Chị đưa tay bụm miệng tôi lại, rồi cười nhỏ:
- Thôi nào. Đừng hờn mát nữa? Hãy nghe này.
Rồi chị nắm lấy tay tôi đặt lên ngực mình và thì thào bảo tôi phải làm gì cho bộ ngực ấy, rồi giải thích cho tôi nghe về chu kỳ kinh nguyệt, về việc thụ thai, về việc gìn giữ vệ sinh thân thể, về vệ sinh trước, trong và sau khi ân ái… cho chị và cả cho tôi. Chị hiểu biết tường tận về thân thể mình và có lẽ cả thân thể tôi. Và còn nói nhiều hơn nữa về quan hệ giới tính trong phạm vi tình cảm và lạc thú yêu đương. Tôi nằm yên nghe nói như là một cậu học trò ngoan và có cảm giác mình là con nít, làm cho tôi nhồn nhột sống lưng, dần dần được thay bằng một sự thích thú. Trong lúc chị nói, hơi thở của chị phả vào mặt tôi. Ấm và nồng nàn.
- Cậu có biết mồ hôi là cái gì không?
- Một loại nước từ thân thể tiết ra để điều hòa thân nhiệt. Tôi chỉ biết có thế.
- Chỉ đúng một phần thôi. Nó còn có nhiệm vụ thông báo về sức khỏe của người mang nó. Ngoài ra, nó còn là tín hiệu của tình dục, nó có nhiệm vụ thông báo và kêu gọi, nhưng với điều kiện thân thể khỏe mạnh và sạch sẽ. Mồ hôi của người có sức khỏe kém thường tanh. Mồ hôi của những người không sạch sẽ thường hôi. Tôi bị mùi mồ hôi của cậu khuất phục. Cậu còn nhớ ngày ba mươi tết không? Khi tôi pha nước và giục cậu đi tắm. Mùi mồ hôi đậm đậm của cậu làm tôi ghê ghê. Có những lúc đi qua chỗ cậu máng cái áo lót vừa mới cởi ra. Tôi bực cậu không thể tả. Cậu giặt quần áo không bao giờ sạch cả, gần như là nhúng nước rồi đem phơi. Nhưng chỉ là thoang thoảng thì lại làm cho tôi không chịu nổi. Mà chỉ có của cậu mới làm cho tôi như vậy. Còn tại sao như thế thì tôi không biết. Nó không chịu buông tha tôi. Có những lúc tôi không chịu được, khi cậu không có nhà, tôi lấy cái áo của cậu và thả những xúc cảm và mơ mộng theo cái mùi chết tiệt kia. Cuối cùng… thì cậu biết đấy. Trong cái đêm cuối năm yên ắng ấy, tôi không thể cưỡng lại…
- Còn mấy ngày nay, thì nó tha.
- Không phải thế. Chẳng những nó không tha mà làm cho tôi muốn khùng. Nhưng tôi như vậy thì làm sao mà đến với cậu được. Mấy ngày dài, dài lắm cậu biết mà. Mà tôi hỏi cậu. Tại sao cậu không từ chối tôi.
- Tôi không biết. Có lẽ là tại vì…
Tôi không biết phải nói sao cho đúng ý nghĩ của mình.
Chị lại hỏi tiếp:
- Cậu yêu tôi hay là chỉ thích thôi?
- Tôi cũng không rõ. Nhưng nếu phải rời khỏi đây thì chắc có lẽ là tôi buồn lắm, nhớ lắm. Tôi lập bập.
- Cám ơn cậu. Chị thở hắt ra, rồi tiếp. Cái kiểu thật thà của cậu nghe đến là lạ. Mà này, tôi là một người đàn bà, đã già lại xấu, không biết phấn son. Thế thì cái gì làm cho cậu nhớ?
Tôi lại lập bập:
- Tại vì những yêu chiều mà chị dành cho và…
- Và cái gì?
- Cái mà chị vừa nói, mùi mồ hôi đấy. Nhưng có khi nào chị đến với tôi như vậy đâu? Lúc nào cũng sạch bon, ấm áp.
Chị cười nho nhỏ:
- Cậu điên thật rồi. Tôi đến với cậu mà không tinh tươm, không ấm áp tức là tôi coi thường cậu. Khi trong người không được khỏe cũng vậy. Thôi… không nói nữa. Bây giờ thì sạch sẽ, tinh tươm rồi, tôi giao tôi cho cậu đấy. Cậu muốn làm gì đó thì …
Nhưng tôi chợt nhớ ra và hỏi:
- Tại sao mỗi lần ân ái với nhau. Càng lúc hơi thở của chị càng đậm, càng thơm một cách kỳ cục?
Chị ghé môi sát vào mặt tôi và cười, âm thanh giọng cười và hơi thở phả ra cũng rất kỳ cục:
- Tôi đâu biết. Mà cậu cũng thế. Bây giờ cậu có muốn như vậy không? Mấy ngày rồi. Dài quá phải không?
Vâng, phải làm gì đó để bù trừ cho mấy ngày dài lắm ấy.
Không biết tự bao giờ. Từng chút một, chị dạy cho tôi biết về thân thể của đàn bà, thông qua tấm thân cụ thể của chị. Những chức năng và cảm xúc của từng bộ phận con người trong sinh hoạt thường nhật, trong sinh hoạt yêu đương. Những gì chị nói nghe như chị là một bác sĩ chuyên khoa về cơ thể học. Tôi nghe không thắc mắc mà háo hức tìm cách xác minh. Chị cũng biết tường tận về thân thể của đàn ông và những sự khác biệt. Chị chứng minh cho tôi thấy bằng chính cái tấm thân còm nhom nhưng đầy ham hố của tôi.
Chúng tôi không nói về ngày mai, không một lời hứa hẹn. Trong mơ hồ, cả hai đều hiểu rằng cuộc chơi tuyệt diệu này rất ngắn. Thế nên, chúng tôi làm tất cả mọi thứ để đáp ứng cho nhau. Có một lần chị đang tưới những luống hoa sau nhà. Tôi bước ra, đứng nhìn và lấy làm ngạc nhiên về nước tưới. Chị cho biết, nước lấy từ trên đỉnh đồi xuống. Tôi không hiểu đầu đuôi ra sao? Nước ở đâu trên đó. Tôi cười cười tỏ vẻ không tin. Chị bảo:
- Còn một luống nữa là xong. Tôi dẫn cậu đi xem sẵn đóng van nước lại luôn.
Khi lên gần tới đỉnh đồi. Chị mang theo cái thùng tưới và dẫn tôi đến một cái hồ nhỏ chứa khoảng hơn nửa khối nước.Tôi không hiểu gì cả. Thế là chị giải thích cho tôi tại sao có cái hồ nước ấy. Tại sao chỉ có ngần ấy nước mà tưới hoài không cạn và tại sao khi không tưới thì nó không tràn ra. Hay đấy, hồi đi học có nghe ai dạy cho mình biết việc này đâu. Thiên nhiên quả là ưu đãi con người thật. Trong khi tôi đang săm soi cái hồ nước và đang suy nghĩ những hiểu biết mới mẽ của mình, thì tôi nghe có tiếng nước dội phía sau lưng. Tôi quay lại. Chị tắm. Toàn bộ cái thân thể rắn chắc, khỏe mạnh đang phô bày trọn vẹn và chuyển động với những động tác tôi chưa từng thấy bao giờ. Chị biết tôi đang nhìn nên có vẻ luống cuống, dù rằng chị cố tình làm thế. Còn tôi luống cuống nhiều hơn, dù sao vẫn còn tính trẻ con, nhưng lòng tôi thì chuyển động. Tôi nhìn lên bầu trời. Trời xanh ngắt và trong suốt không một gợn mây. Tôi nhìn xuống con đường chạy men theo sườn đồi với những uốn lượn dịu dàng. Tôi nhìn về hướng chợ Đà Lạt. Thành phố ẩn hiện trong màu xanh dìu dặt và thầm thì của những đồi thông vây quanh. Chị bước lại, mang theo thân thể đầy những nước lấp lánh ánh nắng, những món tóc đẫm nước, bám vào trán, vào mặt và một vài sợi nghịch ngợm chạy lượn lờ vòng theo hai bầu vú tròn đầy. Tất cả mọi thứ đang từng lúc dẫn dắt cảm xúc của tôi. Chị đứng cách xa tôi và chờ đợi cái với tay. Nhưng sự kềm chế quá mức làm cho tôi nói nhỏ một câu gì đó mà chính tôi cũng không nghe rõ, không hiểu rõ trong khi vẫn đứng bất động, ngắm nhìn. Và chị thì hiểu. Chị bước tới, nói mà đôi mắt như mờ lại:
- Đừng nhìn nữa… yêu đi.
Chúng tôi làm mọi thứ theo yêu cầu cảm xúc của nhau trong giai điệu tuyệt vời đang mơn man, không phải của riêng cho tâm hồn, mà cho cả hai thân thể đang cuống quýt vì nhau… và không gian tĩnh lặng của núi đồi lại một lần nữa vang rền những âm thanh khoái lạc. Chị đã buông ra những lời nói, những âm thanh kỳ diệu ấy theo cảm xúc mà tôi đang cật lực mang đến và chúng biến tôi thành… cái gì tôi cũng không biết nữa.
Khi xong cuộc ái ân, chúng tôi cứ đứng như thế giữa trời cao đất rộng với hai thân thể không còn gì vướng bận. Chị nép người vào tôi, tựa đầu lên vai tôi và lặng yên. Rồi bàn tay chị chuyển động mân mê khắp cùng thân thể tôi và tiếp tục chuyển vào đó lời gọi mời. Gió vẫn nhè nhẹ. Trời vẫn trong xanh, nắng vẫn nồng nàn. Chúng tôi thả những thì thầm theo gió, thả những ánh mắt vào nhau. Chúng tôi đợi chờ, khơi gợi và tạo ra thêm một cơn bão xúc cảm nữa trong cái không gian chỉ còn lại những tiếng gió thì thào. Và chị khơi gợi ở tôi bằng một câu hỏi:
- Cậu thấy tôi có xấu xí lắm không?
Câu hỏi làm tôi chợt tỉnh. Tôi buông chị ra và ngắm nhìn thân thể của chị lấp lóa dưới ánh nắng. Tôi không ngờ chị trắng đến thế. Chị lại tựa người vào gốc thông, một chân đứng thẳng, một chân co lại và hai tay đặt lên đùi. Chị đang để cho tôi ngắm nhìn thỏa thuê một thân thể trắng ngần đến mờ ảo nhưng đầy sức sống, với những bắp thịt khỏe mạnh đang chìm khuất dưới làn da. Nó vừa tương phản vừa đồng hành với khuôn mặt rám hồng và hai bàn tay, bàn chân thô thô vì cực nhọc. Khuôn ngực có vẻ bề bộn nhưng lại no đầy, săn chắc. Chính nơi đó đã biết bao lần khơi gợi những xúc cảm của tôi, cuốn hút tôi vào ngay cả khi vừa mới thoát ra như bây giờ. Chị vẫn đứng như thế, nửa che dấu e dè, nửa phơi bày khiêu khích. Chị để cho tôi tha hồ khám phá, thậm chí mời mọc. Cuối cùng chị hỏi:
- Thế nào? Có xấu lắm không?
Tôi trả lời mà không biết chắc là đúng hay sai:
- Tôi không biết.
- Thế thì cậu thích tôi vì cái gì ?
Bao giờ cũng thế, khi thoát ra khỏi cuộc yêu đương thì tôi lại trở về vị trí con nít của mình. Nhưng tôi cũng bậm gan:
- Chỉ thích thôi. Nhưng cái gì thì tôi không biết. Có lẽ là…
- Là gì nào?
- Là những gì chị bảo tôi…với chị. Nhưng chị đẹp thiệt.
- Cậu nói tôi dụ dỗ cậu à. Nhưng dù sao thì cậu cũng thích thế. Nếu không thì cậu đâu có nói là… đẹp thiệt. Phải không nào?
Tôi bước đến dụi mặt mình vào khuôn ngực ấy và tôi biết ngay tôi thích cái gì. Tôi nói:
- Tôi thích cái mùi trên người chị. Nó thơm thơm nồng nồng. Nhất là hơi thở của chị. Khi đang yêu hơi thở của chị thơm và càng lúc càng đậm lại.
- Cậu đã nói điều này nhiều lần rồi. Nếu như hơi thở của tôi hôi rình như con cú thì sao?
- Từ nhỏ đến giờ. Tôi chưa ngửi được mùi con cú
Chị im lặng và ôm sát tôi vào. Vùng da thịt ấy đưa đến tôi những cảm nhận ngồ ngộ. Vừa ấm vừa mát, vừa êm đềm vừa run run. Một cảm nhận không bị sự ham muốn che mờ. Tôi vừa tận hưởng vừa hỏi:
- Và chị nữa. Chị thích tôi vì cái gì? Một thằng nhóc con.
Chị nhìn tôi cười:
- Tôi nói rồi. Tôi thích cậu là vì cậu là một cậu nhóc con.
Ngừng lại một chút, chị hỏi tôi:
- Có khi nào cậu nghĩ tôi là một người đàn bà dâm đảng không?
Tôi nhìn chị, không biết nói gì nên lắc đầu.
Chị lại tiếp:
- Thực ra những hành động của tôi với cậu rất dễ bị đánh giá như thế. Tôi đã dạy cho cậu cách khơi gợi và thực hiện việc yêu đương. Đúng ra việc này là của người đàn ông, cuộc đời nghĩ thế mà. Nhưng cậu thì chẳng biết gì. Có một lý do để cho tôi làm chuyện này. Nhưng tôi không nói được. Tôi tin là cậu hiểu. Bởi vì nếu không thì cậu không chấp nhận tôi. Tôi không bào chữa cho mình. Nhưng tạo hóa cho con người cảm xúc tuyệt diệu ấy. Tôi và cậu cùng tận hưởng thì có gì sai đâu. Chúng ta cùng nhau dẫn dắt nhau đi, không ai ép buộc ai. Tôi nói thế cậu thấy đúng không?
Một ý tưởng hoàn toàn mới mẽ với tôi. Buổi chiều dần xuống. Và màn sương đã tới… trùm phủ lấy chúng tôi. Cả hai lại bập bềnh trong sương khói, Không có cảm giác lạnh lẽo nào đến với chúng tôi. Chúng tôi nói với nhau những điều đã từng nói và làm những điều đã từng làm. Chỉ thích thú thêm mà không nhàm chán. Cuối cùng chị nói với tôi, giọng buồn buồn:
- Cậu đừng suy nghĩ bất cứ một điều gì về việc của chúng mình. Cậu hãy làm theo ý thích của mình là cậu đã chiều chuộng tôi. Lúc nào, nơi nào tôi cũng sẵn sàng cho cậu. Đừng nghĩ gì nhiều hơn thế. Từ ngày cậu đến đây tôi tìm thấy hạnh phúc cho mình. Tôi nghĩ rằng cậu cũng thế. Vậy chúng mình cứ tuân theo những yêu cầu của thân xác. Tạo hóa đã cho chúng ta như thế. Hãy nhận lấy. Cậu hiểu không ?
Tôi hiểu chị muốn nói gì. Chị sử dụng tối đa những hiểu biết của mình để cuốn tôi vào trò chơi say đắm. Và tôi luôn luôn háo hức tham dự. Thế thôi.
Đang ngồi săm soi từng nét cọ, thì có một bàn tay đặt nhẹ lên vai. Tôi quay lại, một viên Cảnh Sát hỏi tôi :
- Nguyễn Hữu Hiền phải không ?
- Vâng. Tôi là Hiền. Anh là…
- Chú không biết tôi đâu? Nhưng tôi biết chú. Nếu chú không trình diện nhập ngũ, sau ba tháng nữa chú sẽ bị liệt vào thành phần bất phục tùng. Chú còn thời gian có một tháng để chuẩn bị nhập ngủ, nếu như chú muốn đi Thủ Đức.
- Vâng cám ơn anh. Tôi sẽ thu xếp để trình diện ngay.
- Chú nhớ là trường hợp của chú không như những người khác. Ngày mai tôi sẽ chuyển cho chú giấy gọi nhập ngũ.
- Vâng. Thưa anh. Tôi biết.
Anh chào tôi rồi bước ra. Tôi như không cầm nổi lon nước sơn. Chui tuốt lên đây mà cũng chẳng xong. Mình bị thiên la địa võng rồi. Ông bà chủ tiệm có vẻ đã biết, nhưng không tỏ thái độ gì? Khi bình tỉnh lại tôi cố làm cho xong tấm bảng. Chiều, trước khi ra về, tôi nói với anh chủ nhà vẽ :
- Chắc em khó ở đây lâu. Em cố gắng làm cho xong những gì anh giao là em nghỉ. Phải đi thôi anh ạ.
- À. Hay là chú làm ở Giáo Hoàng Học Viện. Ở trong đó rất cần người có nghề như anh em mình. Anh có quen một vị linh mục trong ấy. Để anh nói cho chú vào làm. Ở đấy không có cảnh sát nào dám tới đâu?
- Thôi đi anh. Ở đó không hợp với em đâu? Tính em lôi thôi lắm. Mà ở đó thì tinh tươm, quy củ như là một thiên đàng. Anh lại mang tiếng.
Anh tỏ vẻ thông cảm :
- Thôi đàng nào cũng phải đi, chú tính sao cũng được. Bình tỉnh lại đi. Tương lai của thanh niên bây giờ là lính. Cái tương lai xám xanh màu cứt ngựa.
Từ giả anh, trên đường về tôi chạy xe thật chậm, nhìn hoàng hôn xuống dần và hít thật sâu cái mùi nhựa thông, cái mùi vừa mới thân quen thì đã giả từ. Khi gần đến nhà, tôi dừng xe lại, đứng tựa lưng nhìn xuống thung lủng và đếm từng ánh đèn sáng lên. Tôi bật diêm đốt một điếu thuốc, toan quăng cây diêm cháy dở, bổng tôi thấy một tấm bảng gắn trên cây thông gần đó ghi hàng chữ “Lửa cháy! Rừng điêu tàn“ [xx]. Tôi thả cây diêm xuống chân và đưa mũi giày miết cho tắt hẵn. Tấm lòng tôi ai đốt thế sao cũng sắp điêu tàn. Tôi chợt bật cười với ý nghĩ này. Nhưng thôi. Có lẽ phải về nhà. Về nhà. Ôi hai tiếng ấy đã nhiều lần làm tôi mất ngủ. Bây giờ nó vang lên như là một lời kêu gọi. Mười bảy tuổi và bây giờ hai mươi. Như vậy đã đủ chưa? Nhưng phía trước lại là một tương lai bập bềnh trôi nổi mang màu xanh xám như màu cứt ngựa. Ôi cái câu này mà không cười là không được rồi. “Tương lai màu cứt ngựa” Và tôi cất tiếng cười vang vọng buổi chiều tàn. Nhưng giọng cười này sao hơi đăng đắng.
Hốt nhiên tôi nhớ lủ bạn trời thần của tôi. Thằng nào cũng mơ ước bằng cái đình. Bây giờ thì đứa lêu bêu nơi nào đó thì có trời mà biết như thằng Thuật, thằng Bầy. Về ở xứ đó chắc giờ đây thành du kích rồi cũng nên. Những thằng đã đi lính, những thằng trốn quân dịch, dăm thằng còn đi học. Tôi và bạn bè tôi và những đứa cùng trang lứa, con gái cũng như con trai. Chúng tôi không lựa chọn được con đường nào để mà bước tới. Kể cả những thằng còn đi học, học để chạy lính chứ có lựa chọn gì đâu? Mười năm, hai chục năm sau. Đứa nào còn, thằng nào chết. Đứa nào giàu, thằng nào nghèo. Đứa nào dân dã, thằng nào làm quan… Điều này thì chẳng biết. Nhưng có một điều chắc cú. Thế hệ chúng tôi, không ai chọn được cho mình một con đường. Như tôi đây, chạy tuốt đến nơi này mà cái giấy gọi nhập ngủ cũng tìm cách chạy theo như là tôi có mang một thỏi nam châm. Đám con gái thì chắc cũng chẳng hơn gì. Cùng lắm là chọn chồng. Chồng lính, chồng VC hay chồng trốn quân dịch. Chồng nào cũng như hủ mắm treo đầu giàn. Và đã có biết bao nhiêu hủ mắm đứt dây, bể tan tành, bốc tanh tanh mùi nước mắt.
Chiều đang xuống. Tôi gò lưng trên chiếc xe đạp, chạy về nhà trên con đường sương khói mông lung.
Tôi sẽ rời nơi đây, bỏ lại những ngày tháng tuyệt vời. Chỉ cần quảy gói lên vai là nhẹ bước ra đi? Không đơn giản như thế. Hơn ba tháng tôi được chiều chuộng nâng niu. Hơn ba tháng tôi có một con người để nâng niu chiều chuộng. Chúng tôi biết rằng chúng tôi không thể là của nhau. Cuộc đời long rong của tôi sẽ chấm dứt khi tôi ở lại nơi này. Chị sẽ sẵn sàng đón nhận tôi trong niềm vui vô bờ. Nhưng tôi cũng biết cái lệch lạc của chúng tôi là không thể nào xóa đi, mà càng về lâu về dài thì nó càng lớn lao hơn. Nó chính là rào cản mà chúng tôi không thể vượt qua. Hơn nữa chúng tôi không biết gì về nhau cả ngoài cái việc biết nhau tận tường qua cảm xúc. Nhưng cuộc sống thì không như thế. Dù rằng mùi mồ hôi, hơi thở nồng ấm của người này đã trở thành không khí của người kia và rất nhiều thứ nữa. Tôi biết thế và chị càng biết rõ như thế. Chị ấy nói với tôi mà.
Những điếu thuốc được đốt lên, ly café mà chị pha cho tôi đã cạn, ấm trà chị đã châm cho tôi lần thứ ba. Một cái áo khoác nữa chị đã choàng cho tôi và đêm đã khuya rồi. Thằng bé đã ngủ rồi. Chị đã tắm rồi và đang chờ đợi tôi. Nhớ tới điều này, tôi bổng thấy mình mãi mãi là trẻ con. Chị đã dạy cho tôi những bài học ân tình, tỉ mỉ, ân cần từ thái độ cho tới những việc mà trí tưởng của thằng con trai mới lớn như tôi bao giờ cũng phải tròn mắt ngạc nhiên. Tôi biết thế và tôi lại không biết mình phải làm gì?
- Cậu phải đi rồi phải không? Giọng nói của chị ở phía sau.
Tôi không hiểu sao chị lại biết:
- Tôi phải đi thôi chị ạ. Mà sao chị biết?
- Tôi biết mà. Bao giờ cậu đi?
- Không rõ lắm.
- Thế cậu định thế nào?
- Tôi cũng không biết nữa. Chắc có lẽ phải về nhà. Nhưng…
- Nhưng làm sao?
- Tôi không muốn rời khỏi đây. Rời khỏi nơi này tôi rất buồn, rất nhớ.
Chị im lặng và bên ngoài thì vẫn là tiếng thông reo. Có lẽ mù sương đã phủ chụp xuống núi đồi.
- Thôi. Vào ngủ đi. Cậu không muốn cũng không được. Giọng chị nhỏ lại. Tôi biết, cậu sẽ bỏ tôi. À không, tôi xin lỗi. Cái ngày tôi hằng lo sợ đã tới
Chúng tôi vào phòng. Chị đi đâu đó một lát rồi trở lại ngồi cạnh tôi. Cả hai yên lặng, cảm giác phải xa nhau làm chúng tôi không nói được, vì thật ra là chúng tôi không biết phải bắt đầu từ đâu. Cuối cùng chị nói:
- Cậu nói không muốn rời khỏi đây. Dù cậu nói thật hay nói dối, tôi cũng cảm thấy được an ủi. Nhưng nếu như cậu nói thật thì cậu hơi điên.
- Tại sao vậy?
Chị không trả lời tôi mà hỏi lại:
- Cậu biết gì về tôi?
- Người Góa Phụ Trồng Hoa. Tôi buột miệng.
Chị cười nho nho và tỏ vẻ thích thú :
- Cái tên nghe có vẻ thơ mộng nhỉ. Còn gì nữa?
- Cô giáo dạy môn ân ái.
- Cái này thì cậu đểu thật. Nhưng thôi, chỉ cần cậu biết tôi là một Người Góa Phụ Trồng Hoa là đủ cho tôi cảm động. Bởi vì cậu biết tôi tận tường rồi. Những bông hoa mà người góa phụ trồng chỉ có thể làm cho họ no cơm ấm áo, nhưng chưa bao giờ cho họ ấm lòng. Còn cái biết thứ hai thì nếu cậu muốn thì… tôi dạy. Chị trở giọng bông đùa. Nào sẵn sàng chưa cậu học trò?
Tôi muốn tìm một lời nào đó để… Nhưng cô giáo bắt đầu lên lớp. Cũng những bài học cũ, đã thuộc lòng, nhưng người dạy vẫn quá tận tình và học trò thì vượt xa sự chăm chỉ.
Vẫn như thường lệ, sau cơn ân ái, chị nằm yên để thân thể của mình cho tôi đùa nghịch, và hôm nay thì lại có thêm lời thì thầm:
- Tôi không định nói cho cậu biết gì nhiều về tôi. Bởi vì tôi nghĩ cậu sẽ đột nhiên biến mất. Tôi không hy vọng bất cứ điều gì về cậu, không phải vì không tin cậu, mà vì không được. Mình đến với nhau là một sự oái oăm. Nên khi có được những yêu chiều trong yêu đương thì điều đó đã quá đủ cho tôi. Cậu đừng nói gì hết nhé. Hãy để tôi nói. Tôi là cô giáo thật đấy. Ba thằng bé là hiệu trưởng của ngôi trường đầu tiên và cũng là duy nhất mà tôi đến dạy. Tôi tự biết nhan sắc mình kém cõi. Nên nào có dám mơ mộng gì đâu? Nhưng làm sao tôi thoát khỏi khi anh ta giăng bẫy và tôi chui vào. Anh ta nói rằng anh ta yêu tôi vì tôi thông minh, vì tôi có một nhan sắc bình thường, vì nước da màu ngâm ngâm khỏe mạnh, vì tôi là người có giòng máu Rahdé… nghĩa là vì tất cả mọi thứ tốt cũng như xấu trong tôi. Tôi đã ngã. Rồi khi cái bầu bắt đầu lớn thì anh ta biến mất. Một cô giáo độc thân mà mang bầu. Điều này thì ngộ đây. Và cuộc đời thì dễ gì chấp nhận những điều ngộ nghỉnh loại này. Thế là tôi trở thành một cô giáo mất dạy với hai nghĩa đen và bóng. Gia đình giận dỗi. Cậu nghĩ xem tôi phải làm gì? Chẳng biết làm gì, kể cả cái việc tìm cho mình chén cơm manh áo và sinh nở. Nhưng rồi anh ấy, người đang ngồi trên bàn thờ kia, đã gặp tôi trong bệnh viện khi tôi sinh thằng bé và lúc rời khỏi nơi này, anh ấy mang mẹ con tôi đi theo khắp các nẻo đường chinh chiến của anh ấy bằng cái giấy thông hành là tờ hôn thú và cái khai sinh nhận thằng bé là con đẻ của mình. Không biết bố mẹ anh ấy có biết không mà thương thằng bé vô cùng. Trong cuộc đời anh ấy chỉ có hai thứ quan trọng: mẹ con tôi và rượu. Cái món thứ nhất làm cho anh ấy thương nhớ quay quắt khi không thể mang được theo cùng; cái món thứ hai làm cho anh ấy đỡ phải nhớ thương và làm anh ấy chết. Một lần nữa cái bơ vơ lại lầm lũi trở về với mẹ con tôi. Nhờ tiền tử tuất, món tiền mà đáng ra là ba mẹ anh ấy xứng đáng để nhận hơn tôi, và sự giúp đỡ của bạn bè anh ấy. Tôi được ngôi nhà này và mấy luống hoa kia. Ba năm nay tôi ở cái nơi đèo heo hút gió này. Tưởng đâu thế là xong. Thế mà cậu lại mò đến. Tôi nghĩ nhà có thêm một chú nhóc nữa cũng vui. Nhưng tôi đã lầm. Cái hơi hướm nửa trẻ con, nửa đàn ông của cậu đã làm mọi thứ trở nên như thế này đây? Cậu đừng giận tôi. Cái dục vọng rất người bị dồn nén bấy lâu đã bị cái mùi mồ hôi quái ác của cậu làm cho bùng lên và bốc cháy. Thế mà cậu chấp nhận được, cậu cũng hay thật. Tôi và cậu không duyên nợ. Có chăng thì chỉ một chút tình mỏng manh và bây giờ thì sắp tan rồi. Bây giờ thì cậu hãy hưởng thụ cái thân xác già nua của tôi đi, nếu như đó là một niềm vui. Cậu hãy nghĩ đến mình thôi, đừng vì tôi. Như thế tôi cũng nhận được ở cậu những cảm xúc cần thiết cho thân xác mình rồi. Một sự trao đổi sòng phẳng. Thế cậu nhé. Khi rời đi, xin đừng nhớ.
Chị chấm dứt lời tâm sự của mình bằng một cái hôn mạnh mẽ, dữ dội và đôi bàn tay ấy, cả thân thể ấy một lần nữa khuấy động ầm ào nỗi ham muốn vừa mới lắng xuống trong tôi. Tôi chồm lên người chị. Nhưng chị lại đẩy nhẹ tôi ra và bước xuống giường, mặc lại quần áo, lấy cái mền đắp ngang bụng tôi, rồi ra khỏi phòng, vừa đi vừa nói nhỏ:
- Cậu ngủ một lát đi.
Tôi lặng yên không trả lời. Chắc là đã quá nửa khuya. Tôi không ngủ được nữa, nằm suy nghĩ vẫn vơ. Những lời chị nói lại văng vẳng bên tai. Bổng dưng tôi buồn cuời cho mình. Một cô đào hát, bây giờ là một góa phụ trồng hoa. Họ chộp lấy tôi, dạy và cùng tôi làm chuyện yêu đương. Rồi nói cho tôi nghe về cuộc đời buồn hiu của họ. Tôi là cái gì của họ, người tình hay là món đồ chơi để giải sầu? Nghĩ như vậy có quá lắm không? Cuối cùng thì tôi hết biết được tôi, nếu sự thật nó là như thế. Nhưng cả hai đã làm tôi cảm động. Cảm động vì những gì họ đối với tôi, những gì họ cho tôi. Tôi cố viện dẫn nhiều lý do này khác để nghĩ không tốt về họ. Chẳng những không được mà còn làm cho tôi thêm bẩn thỉu. Thôi thì cứ thế, luôn luôn trân trọng người cùng mình vầy cuộc yêu đương.
Chị trở vào, vặn sáng thêm cây đèn dầu, đặt xuống chiếc ghế trên đầu giường hai ly café sữa, một ấm trà, một bao thuốc Capstan[xxi]. Rồi chị ngồi lại bên cạnh tôi:
- Cậu uống café đi. Nhưng hãy để tôi lau mặt cho đã.
Chị lấy cái khăn chườm nước ấm lau mặt cho tôi, nhẹ nhàng thôi. Vừa lau chị vừa nói :
- Cậu vẫn chưa mặc quần áo vào à? Chắc lại chờ tôi. Ngủ đi. Đừng có mà ham hố nhiều quá. Không tốt cho cậu đâu. Sáng tôi dạy tiếp
- Tôi muốn học hoài.
Đôi mắt chị ánh lên, rồi chìm nhanh theo tiếng thở dài. Nhưng rồi nó cũng biến đi khi chị cầm lấy tay tôi đặt vào những nơi mà thân thể chị cần. Chị bắt đầu nói cho tôi nghe về những cảm xúc yêu đương mà chị nhận được ở tôi. Lạ lùng, nhưng rành mạch và mãi đến sau này tôi mới nhận ra là rất đúng, rất chân thành.
Mãi một tháng sau tôi rời Đà Lạt. Trong những ngày đó, chúng tôi không nói một lời nào về việc tôi ra đi. Lần ái ân cuối cùng vừa chấm dứt. Tôi lặng lẽ quảy bọc men xuống đường, đeo xe lam xuống bến xe Đà Lạt khi trời còn mịt mờ sương. Chị thì chắc vẫn đang lặng lẽ với những cảm xúc mong manh cuối cùng còn sót lại. Không tiễn đưa. Không giả từ. Và tôi mang theo những hơi hướm không phải của mình về Sài Gòn. Không hiểu bây giờ chị đã lên đỉnh đồi chưa. Quảng đường hơn hai trăm cây số với nắng, với gió không làm cho nó bay đi mà làm cho nó thấm vào. Tôi quắt quay thân xác mình và tâm hồn mình trên cái ghế xe chật hẹp và ầm ào tiếng gió bên tai. Nhưng rồi tôi hoàn toàn rúng động khi nhớ lại lần ân ái sau cùng cách đây mấy giờ. Khi tôi đang áp môi trên khuôn ngực chị. Chị bảo:
- Hãy áp mặt vào bụng kia.
Tôi làm theo như một cái máy. Chị lại bảo:
- Xuống nữa… nữa đi…
Những lời kêu gọi gấp gáp và đứt quảng ấy như là một mệnh lệnh. Tôi bị cuốn theo, nơi ấy, đang cần lấy đôi môi, đang mở ra đầy lôi cuốn, rồi tất cả mọi thứ trở nên mới mẽ, cuồng nộ. Tôi nghe thấy như cả thân thể mình trở thành một miếng mồi ngon cho đôi môi ấm áp và tham lam của chị. Như vô thức tôi đáp trả lại một cách thành thục và dữ dội không kém. Cả hai đưa nhau đến đỉnh điểm của yêu đương bằng một kiểu cách hoàn toàn mới mẽ. Hốt nhiên những vết cắn nhẹ nhàng của đôi môi ấy đem cái cảm giác tê rần trở lại như là một cơn mơ. Tôi giật mình khi một ý nghĩ thoáng nhanh trong đầu “Quay trở lại”. Tôi mở bừng mắt nhìn ra. Xe đã qua khỏi Túc Trưng rồi. Tôi thẩn thờ nhìn qua cửa kính. Hơi nóng của đồng bằng nhiệt đới ập vào. Tôi nhìn đồng hồ. Cái lành lạnh nồng nàn của Đà Lạt mù sương xa khuất phía sau lưng. Trong lòng tôi lại nóng bừng vì bài học yêu đương sau cùng mà tôi học được. Đã bốn giờ chiều.
[1] Ngôi chùa này trước kia nằm cặp theo một con hẽm nhỏ, nay đã mở rộng thành đường, đường mang tên Sư Thiện Ân là người sáng lập ra ngôi chùa. Chùa còn có tên là chùa Ông Đồng.
[2] Đến năm 1966 đổi thành Cảnh Sát Dã Chiến
[3] Loại giấy bạc có mệnh giá lớn nhất của SàiGòn và thời điểm này.
[4] Một loại xe gắn máy do Pháp sản xuất, giống như xe đạp, có gắn một động cơ chạy xăng, ngày phía dưới tay lái. Vận hành bằng cách tiếp xúc giữa trục máy và bánh xe trước
[5] Một loại đèn thắp bằng dầu hôi, tim đèn là một cái túi bằng tơ, dầu hôi được đựng trong một bình có áp xuất được bơm qua một ống dẫn được đun nóng biến thành hơi trước khi thổi vào túi, tạo ra được một ánh sáng tương đương một bóng đèn tròn 60W. Hiện nay, ít thấy.
[6] Một đoạn trong ca khúc Đêm Độc Hành, quên tên tác giả.
[7] Còn có tựa khác là Nắm Cơm Chan Máu, tác giả viết dựa trên cuộc đời Nguyễn Anh Vũ, con cụ Nguyễn Trãi sau khi ông bị tru di tam tộc.
[8] Trước năm 1975 ở Miền Nam . Bậc Trung Học khi lên Đệ Nhị Cấp tức cấp 3 hiện nay. Tất cả học sinh phải chọn ban. Có 4 ban; Ban A là ban Vạn Vật, ban B là ban Toán, Ban C là ban Văn Chương, ban D là ban Sử Địa. Cuối năm đệ nhị (lớp 11) thi tú tài 1. Đậu, học tiếp năm đệ nhất, thi tú tài 2
[9] Sau bị đập bỏ, không nhớ rõ năm nào.
[10] Một loại rượu trắng do Mỹ sản xuất, có nồng độ rất cao, có mùi thơm như mùi bưởi
[11] Những nhân vật trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung
[12] Nơi đặt trường Võ bị Thủ Đức chuyên đào tạo sĩ quan trừ bị cho quân đội Sài Gòn
[13] Gần góc đường Nguyễn Tri Phương - Trần Quốc Toản (nay là đường 3-2)
[14] Thời điểm đó có bằng Tú Tài 1 là đương nhiên được hoãn dịch đến năm 21 tuổi.
[15] Nơi đào tạo các linh mục cho giáo hội Công Giáo Việt Nam
[16] Nơi đào tạo sĩ quan chính quy cho quân đội Sài Gòn
[17] Một tạp chí do Trung Tâm Văn Bút SG xuất bản
[18] Do một tổ chức văn nghệ Phật Giáo xuất bản, không nhớ tên,
[19] Một quận của tỉnh Tuyên Đức, ở đây có nhà máy Thủy Điện Đa Nhim, nhà máy thủy điện đầu tiên ở Việt Nam, do Pháp xây dựng
[20] Trước năm 1975. Thành phố Đà Lạt còn được gọi là thành phố Ngàn Thông. Thông trong thành phố, thông trên triền đồi, thông nằm lẫn lộn trong vườn nhà, nương rẫy và và khắp mọi nơi, nơi nào có thông là cứ cách dăm mười gốc thì có gắn một tấm bảng như thế.
[21] Một hiệu thuốc lá nổi tiếng trước năm 1975 ở Miền Nam do hãng thuốc lá MIC sản xuất
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét