Người theo dõi

Thứ Hai, 28 tháng 12, 2015

PHÍA BÊN KIA SÔNG - CHƯƠNG III -

CHƯƠNG III.
LÊNH ĐÊNH NGÀY THÁNG, MỎNG CƠM ÁO

                                                    Nắng mưa là chuyện của trời
Lu bu là chuyện của tôi. Mắc cười.
Đi vào chỗ hiểm rong chơi
Mộng mơ thì lớn. Tài thời con con.

Tôi trở về nhà sau gần bốn năm lêu bêu nơi xứ người. Chuyến trở về, tôi ghé lại Sài Gòn, ở đó thêm gần một tháng nữa, nên hành trang nhiều gấp bội so với lúc ra đi vì có bốn bao sách, nhưng chỉ có một ít sách mua ở các quầy sách cũ, còn lại là sách cho, sách tặng và sách xin, thậm chí sách của người ta dạt ra cân ký lô. Người mừng rỡ nhất là ông nội, ông vuốt ve từng ngón tay tôi, hỏi tôi rất nhiều điều về cái khoảng thời gian lêu bêu ấy. Tôi chỉ trả lời cho ông những điều cần thiết. Còn cái chuyện dấn thân quái quỷ, Lan và Người Góa Phụ Trồng Hoa thì tôi dấu nhẹm. Nhưng nếu tôi nói ra thì chắc ông cười một phát và nói “Thằng này nó giống tao“. Cuối cùng ông lại nói gần như là tự nói với chính mình “ Ông dượng tám của mày coi vậy mà hay, mày có cái số mà cái sướng và cái khổ đi liền kề nhau trong tích tắc“. Người mừng rỡ nhì là các em tôi, mừng anh hai thì ít, mừng mấy bao sách thì nhiều. Ba mẹ tôi già đi nhiều, dù còn hơi lâu mới tới ngưỡng năm mươi. Cực nhọc vẫn vây quanh, các em tôi dần lớn lên đỡ đần khá nhiều những cực nhọc cho ba mẹ. Con em út nhỏ hơn tôi những mười hai tuổi, nhìn ông anh cả như người lạ hoắc, lạ huơ. Nhưng rồi cũng sà vào lòng tôi nói huyên thuyên cơ man nào là chuyện. Cô em kế tôi đang học may. Hai thằng em vẫn hằng ngày vừa đi học vừa kéo xe cây kiếm tiền phụ cho ba mẹ. Sau mấy ngày tỉ mẩn mua ván đóng cái kệ sách, tôi bắt đầu đi kéo xe cây và hai thằng em thì đẩy phía sau.


  Tôi đi lính. Sau khi thay đổi toàn bộ lý lịch và chạy vạy làm cái giấy chứng nhận học xong Tiểu Học. Nghĩ lại điều này mà tức cười. Tôi lấy cái tên cũ của mình là Nguyễn Hữu Hiền có trình độ học vấn Tú Tài I để xác nhận cho cái tên mới Nguyễn văn Hiền đã học xong bậc tiểu học. Ôi công lao học hành bao năm, chỉ để làm được có ngần ấy điều dối trá(?). Và không hiểu sao tôi lại giữ cái tên Hiền. Hai cái tên ná như nhau, thế mà thiên hạ lại tin. Thế là tôi vào lính. Hành trang mang theo nhẹ tênh, từ tiền bạc cho tới kiến thức và hình như cả tính cách nữa. Ngày đưa tôi lên đường. Ba tôi, lần đầu tiên và có lẽ là lần duy nhất, lấy xe đạp đèo tôi ra bến xe Liên Trung[i]. Ngồi sau lưng ba tôi, tôi chợt nhận ra mình vô cùng bé nhỏ, tấm lưng như mênh mông ấy chứa đựng đầy cực nhọc nhưng cũng đầy bao dung, lát nữa đây tôi sẽ rời xa. Từ bao nhiêu lâu rồi tôi không cảm nhận, để giờ đây, từ nơi đó đang lan tỏa ra một hơi ấm thiêng liêng như là một hàng trang, tiếp sức cho tôi đi vào cuộc đời đầy bất trắc. Tôi áp mặt vào lưng ba tôi như là một đứa bé con. Đến nơi, trong lúc chờ xe chạy, hai cha con vào quán phở Anh Viên. Ông kêu cho tôi một tô miến gà và một ly café sữa, còn ông thì hút thuốc liên tục bên ly café đen. Tôi đã ăn xong mà vẫn chưa đến giờ xe chạy, tôi im lặng nhìn ba tôi. Ông ngồi đó lặng lẽ, ly café gần như còn nguyên và nguội lạnh. Tôi cảm thấy có cái gì đó không bình thường đang dâng lên trong lòng tôi. Một thứ cảm giác hoàn toàn mới. Tôi thấy nao nao trong lòng và mãi đến bây giờ tôi cũng không thể nào diễn tả được dù rằng cảm nhận được. Ba tôi nói, nói bằng một âm sắc lần đầu tiên tôi nghe và có lẽ là lần duy nhất. Ông nói:
  - Con. Ba sinh ra con, nhưng con lại lớn lên bằng sự nuôi dạy của ông bà nội, khi ba muốn tỏ rõ một trách nhiệm của một người cha, thì không còn kịp nữa. Con đang bước vào cuộc đời, một cuộc đời đầy khó khăn. Ngoài vài trăm bạc cho con mang theo, ba không có gì hết. Ba chỉ có thể dặn con một điều là; từ đây những người con tiếp xúc, hoàn toàn xa lạ với con. Họ tốt hay xấu khó lòng mà con biết được. Do vậy con phải cố gắng làm sao cho mọi người thương mình. Cố gắng hết sức. Nếu không làm họ thương được thì cũng đừng bao giờ làm cho họ ghét.
  Tôi nghe lời ba tôi nói và ít phút sau khi lên xe. Lời nói như là câu châm ngôn ấy nhạt nhòa theo hình ảnh của ông khuất lại sau lưng. Mãi tới sau này, tôi mới hiểu được tại sao mà ba tôi dặn dò như vậy, khi trầy vi tróc vãy vì những va vấp trong cuộc sống.
 Với một ít kiến thức nhận được ở ghế nhà trường và những kinh nghiệm oái oăm, tôi chính thức bước vào cuộc sống qua ngưỡng cửa của đời lính. Mang theo trong tâm hồn mình một ước muốn cháy bỏng. Làm một cái gì đó. Nhưng trời ạ, tôi đếch biết là cái gì? Thế rồi tập bắn, tập bò, tập làm người chiến sĩ bảo vệ tự do. Tất nhiên, tôi tiếp nhận một cách rất nghiêm chỉnh. Sau này tôi cũng không hiểu tại sao một con người lơ mơ như tôi lại nghiêm chỉnh thế. Sau những giờ phút mệt mỏi bã người ra. Tôi cố viết vài giòng về người lính; không xong. Viết về những ngày ở Đà Lạt; không được. Thế là ngủ. Nhiều lần như thế thì được dăm giòng, nhưng chẳng ra hồn gì? Thế là lại tịt.
Sau ba tháng huấn luyện, tôi chuồn về Sài Gòn với hy vọng mơ hồ là tìm ra tung tích của Lan. Nhưng bặt vô âm tín, rồi lại về nhà chơi cả tuần lễ. Đến khi lên trình diện. Tôi không được chọn đơn vị, mà bị bổ sung vào đại đội biệt lập CSDC trực thuộc văn phòng Tổng Nha CSQG. Trong thời gian chờ bổ sung quân số. Tôi, thằng lính thuộc dạng “đơ-dèm cùi bắp”[ii], được gắn cho cái chức Trung Đội Trưởng, sau khi được tham dự một khóa huấn luyện ngắn về trấn áp bạo động ở Tam Hiệp. Nguyên nhân của việc bổ nhiệm này là tôi viết chữ đẹp (?!). Đơn vị của tôi chỉ chuyên đi dọn đường cho các VIP.KK[iii] đi kinh lý và cũng chuyên lãnh lương trễ, có khi ba, bốn tháng mới nhận được lương. Bởi vì chúng tôi thường hay bị bỏ quên lại nơi công tác, đến khi cần thì chef lớn mới nhớ lại và phải phát lương trước khi điều động. Chúng tôi sống bằng gì nhỉ? Tất nhiên là phải có cách thôi. Bảo kê cho các em me Mỹ cộng với những mối tình hờ đủ đảm bảo cho cuộc sống cơm no bò cưỡi. Nhưng không thường xuyên lắm. Vì nó sẽ chấm dứt ngay khi có cuộc chuyển quân và đến nơi mới thì phải làm lại từ đầu. Mà cũng có khi được, khi không. Vì vậy tôi phải nhập cuộc rất nhanh
Trong thời gian này tôi gặp Hà. Một đồng hương, đang là một me Mỹ non choẹt, nghĩa là cùng tuổi hợi như tôi. Nhưng rất nổi tiếng đanh đá ở giới bán bar tại Đà Nẳng. Tôi suýt chết khi cố tranh giành quyền kiểm soát khu vực, nơi có dãy bar của Hà, với một đơn vị Lôi Hổ đang nắm quyền bảo kê. Súng nổ vang trời, làm náo loạn cả một góc phố. Tôi lãnh nguyên một băng tiểu liên M3A1[iv] nhưng không hiểu sao những viên đạn ấy chê thịt của tôi mà chỉ găm nát cái áo field jacket[v]. Rốt cuộc, chúng tôi cũng thành công, và chính thành tích “né đạn” ngoạn mục ấy, tôi được đại đội trưởng giao cho đứng ra bảo kê cho một dãy quán bar đó, với điều kiện nhẹ hều là mỗi tháng chi cho chef hai ngàn đồng và một cây thuốc Salem. Cuộc tình trời ơi đất hởi của tôi và Hà bắt đầu. Và tôi cũng cất bước khởi hành vào con đường nhậu nhẹt. Nửa chai, rồi một chai, hai chai… rồi rượu mạnh Có tốn đồng nào đâu. Không biết uống rượu thì làm sao mà thành đại ca. Trong một thời gian ngắn, tôi thành bợm. Ngoài ra, với tư cách là đại ca, tôi có thể rong chơi tình ái với bất cứ em nào trong khu vực mà không phải tốn một xu. Nhưng may thay, điều này chưa bao giờ xảy ra, tôi không hiểu được tại sao nó không xảy ra. Có thể do một phần nhát gan còn sót lại. Thực ra thì tôi và Hà đến với nhau như là một câu kết quái quỷ thì đúng hơn. Sự câu kết này được dựa dẫm trên một lý do rất đẹp. Tình đồng hương. Nhưng cái lý do đó bị bôi tro trát trấu đến thảm hại. Sự lọc lõi thành nghề của Hà và sự liều lĩnh của tôi đã kết chặt chúng tôi lại trong một cuộc đấu tranh khắc nghiệt để tồn tại và cả việc thỏa mãn những dục vọng điên khùng của cả hai. Chúng tôi đã bị cuộc đời xô vào cơn lốc này và mục đích cuối cùng mà cả hai cần phải giành giật cho kỳ được; đó là tiền và thỏa mãn nhục dục. Hà đã níu vào cái tình đồng hương và cây súng của tôi để tồn tại. Tôi dính vào Hà vì cái hộc tủ đầy ắp tiền, lẫn lộn trong đó có những đồng đô xanh, đô đỏ[vi]. Hà vắt kiệt sức tôi trong các cuộc truy hoan. Tôi bênh vực cho Hà mà bất kể đúng sai. Nhưng sẵn sàng đánh đập Hà không nương tay khi bực bội và khi làm tình. Thực ra, ban đầu thì tôi không hiểu và cũng không làm được chuyện này. Nhưng sau những lần thỏa mãn hả hê Hà bảo là tôi phải thế để chứng tỏ mình là kẻ mạnh, là đàn ông (!?) Và chỉ có người đàn ông mạnh bạo mới đem đến cho Hà một cảm giác an toàn, một cảm xúc mạnh mẽ. Tôi thực sự kinh ngạc. Và Hà hỗ trợ tôi bằng những hành động mà tôi không hiểu nổi, Hà luôn luôn tìm cách cho tôi nổi cơn điên khùng. Tôi nhanh chóng đáp ứng mọi yêu cầu của Hà một cách thuần thục, rồi khoái trá. Hà luôn luôn đạt được những khoái cảm tối đa khi làm tình, mà trước đó là một trận cãi vả kịch liệt rồi dẫn đến nấm đấm và khi đã ăn no đòn thì Hà lại năn nỉ làm tình, lần hồi tôi trở thành một kẻ vũ phu chuyên nghiệp. Cứ thế, chúng tôi hành hạ nhau đến hả hê mà cũng là hành hạ chính mình. Còn Hà cũng thế, chỉ đưa tiền cho tôi sau khi được tôi dằn vật, đánh đập đến nhừ tử. Không biết Hà như thế nào? Còn tôi sau những lần như thế, nhìn thấy cái thân thể nhể nhại ấy nằm sóng soài là tôi muốn ói. Có đôi lúc tôi phải chui vào toilet. Để rồi sau một cơn say lại hùng hổ chui vào. Không hiểu cái gì làm cho tôi vào cuộc nhanh thế? Những thái độ trân trọng người bạn tình, săm soi chăm sóc sau khi làm tình, hoàn toàn không còn trong tôi. Một đôi khi tôi cố thực hiện nhưng không được và nhận lại sự phản ứng bực bội của Hà. Thế nghĩa là làm sao? Không hiểu. Thế là tôi trượt dài. Thái độ e ngại khi cảm thấy tư cách mình bị xâm phạm, xảy ra một đôi lần khi nhận những cọc tiền của Hà, đã không còn nữa. Càng lúc tôi càng cảm thấy mình thuần thục hơn, khoái trá hơn và bẩn thỉu hơn. Khi nào cần tiền. Tôi gọi Hà đến, kiếm chuyện đập cho một trận và sau đó là vùi dập đến thỏa thuê. Bao giờ cũng thế, mọi việc xảy ra sau một cơn say.

              Một ngày, Hà giao tiệm cho các đàn em giữ và rủ tôi đi long nhong chơi. Được thôi, cả hai diện thật lịch sự và đèo nhau trên chiếc Honda Dame mới cáu của Hà. Tôi sững sờ khi nhìn thấy Hà mặc bộ đồ dài trắng tinh và không son phấn. Cả hai bổng nhiên trở thành hai con người hoàn toàn khác. Trời lại sắp vào Xuân, cái hơi hướm lành lạnh của gió bấc bổng nhiên làm cho chúng tôi ấm lại. Một thoáng rung động khi cái hơi ấm truyền từ khuôn ngực của Hà áp vào lưng tôi. Chúng tôi chọn một quán sang trọng nhất của thành phố Đà Nẳng để ăn uống. Thật đẹp đôi, có lẽ nhờ những bộ quần áo trên người, ai cũng tấm tắc như thế và trong thoáng chốc chúng tôi quên đi cái hiện thực oái oăm của mình. Khi đã no say rồi chúng tôi tìm một công viên vắng vẻ và ngồi bên nhau nhắc nhớ về Rạch Giá. Cả hai kể cho nhau nghe về tuổi thơ của mình. Trong giây phút đó chúng tôi thực sự trở về với chính mình. Những giọt nước mắt tủi hổ mà chân thành của Hà đã làm rúng động lòng tôi. Chúng tôi ôm chặt lấy nhau, cùng hòa quyện những cảm xúc đau xót không lối thoát của mình. Chúng tôi đã cảm nhận được nhau và hối hận là đã cư xử với nhau bằng những hành động không phải của kẻ chân thành. Những nụ hôn thật sự là hôn đã được chúng tôi dành cho nhau, thật sự đắm say, thật sự nồng nàn. Đêm đã dần khuya, khi mà những âm thanh của phố phường chìm dần trong giấc ngủ thì những tiếng ầm ì của đại bác, tiếng gầm rú của máy bay quân sự từ ở một nơi núi rừng nào đó vọng về. Tôi liên tưởng đến những con người đang sống trong lửa đạn ấy, họ làm gì… họ làm gì nhỉ ? Và tôi người tham gia cuộc chiến này, tôi đang làm gì đây? Tương lai mù mịt. Những giây phút bình yên tạm bợ còn lại chỉ là một hạt trong những hạt xâu lại thành một chuổi dài của sự bất an và một ngày nào đó sẽ bứt ra, vỡ vụn và tan biến. Xong một đời người và đã xong rồi biết bao cuộc đời. Đau đớn thay, những cuộc đời đó ngắn ngủi và thanh xuân, mãi mãi là tuổi thanh xuân đau đớn (!). Chúng tôi lóng ngóng hôn nhau như những cặp tình nhân lần đầu tiên hò hẹn. Một cảm giác lạ lẫm, đã từ lâu chìm sâu trong bụi bẩn ngập ngụa của cuộc sống, len lén quay về. Một khung trời rực rỡ lóe rồi vụt tắt khi tiếng còi giới nghiêm vang vọng.
Trên đường về Hà bảo tôi bằng một âm sắc tôi chưa bao giờ nghe được ở Hà:
- Mình tìm một nơi nào đó nghe anh. Không phải nơi anh và cũng không phải của em.
Không hiểu sao tôi bảo :
         - Thôi hôm khác đi em. Hôm nay anh không muốn dằn vặt em đâu. Mình mới có một đêm đi chơi đẹp và êm đềm như thế này, anh không muốn làm hỏng nó.
Hà im lặng chạy xe, tôi choàng tay ôm hông Hà, một giọt nước ấm ấm rơi xuống tay tôi. Hà đang khóc, chúng tôi không nói gì cho đến khi về tới điểm đóng quân. Hà lặng lẽ quày xe ra về với khuôn mặt nhạt nhòa nước mắt. Tôi thay quần áo, rồi chuẩn bị những thứ cần thiết cho người lính khi đi ngủ. Balô, súng đạn, mọi thứ sẵn sàng để khi bị dựng dậy vì một cái gì đó, lệnh hành quân hay một tiếng nổ bất ngờ. Tôi ngả mình lên võng nằm trằn trọc. Hình ảnh của Hà trở lại đanh đá khi nói chuyện. Oằn oại trước những cú đấm của tôi. Tru tréo rên rỉ trong khi làm tình. Lạnh lùng, kẻ cả khi ném cho tôi hay cho ai đó xấp tiền. Và mới đây thôi sự dịu dàng đưa Hà trở về người đàn bà đích thực. Hà ơi. Em  là cái quái gì vậy và tôi thiếp đi trong giấc ngủ nặng nề. Một giấc mơ bình yên thoáng đến và
          Tôi bị dựng dậy, người tôi gặp không phải là đồng đội mà là một cô gái mặt còn loang lổ những vệt phấn bị xóa đi vội vã, trong khi tôi chưa hiểu gì cả thì cô ta gần như khóc:
         - Anh đến lẹ lên, chị Hà sắp chết rồi.
         - Cái gì ? Tôi há hốc mồm
         - Chị Hà sắp chết, hiện đang ở bệnh viện.
         Tôi không kịp rửa mặt, tròng vội bộ quần áo và nhét nhanh khẩu P.38 vào thắt lưng, rồi cùng cô gái tuôn ra đường phóng vội lên xe, cô ta rồ ga chạy bằng hết tốc độ mà chiếc xe có thể.
         Hà nằm đó, đầu băng trắng toát, mắt nhắm nghiền, một tấm drap màu trắng nhờ nhờ đắp từ ngực đến chân. Tôi và cô gái bước đến, cô ta kêu nho nhỏ:
          - Chị Hà. Anh Hiền đến nè. Chị nghe không?
          Hà từ từ mở  mắt nhìn tôi, giọng yếu ớt:
          - Anh đó à. Em chết mất anh ơi. Rồi Hà động đậy bàn tay. Tôi luồn tay vào tấm drap nắm lấy tay Hà. Hà nhè nhẹ đưa tay tôi lên bụng, bàn tay tôi chạm vào vệt băng. Tôi từ từ giở nhẹ tấm drap bằng bàn tay còn lại, một vệt băng trắng toát băng ngang bụng, nổi rỏ lên một quầng máu đỏ hồng. Tôi chưa hiểu gì cả, nhưng cũng trấn an Hà:
            - Không sao đâu em, em sẽ lành bệnh thôi mà.
            Giọng Hà yếu ớt:
            - Không. Em biết em không thể… giọng Hà nghẹn lại, anh Hiền, em yêu anh, anh biết không…
            - Vâng. Anh biết mà. Anh cũng thế. Em đừng nghĩ vơ vẩn nữa, Em sẽ lành bệnh thôi. Có một tiếng “keng“ trong đầu tôi, như nhắc nhở cho tôi biết rằng tôi nói dối. Hà nhắm mắt lại, còn cô gái thì rấm rứt khóc. Cả ba chúng tôi, những kẻ trôi sông lạc chợ cùng nhau gậm nhấm nỗi đau này. Tôi từ từ buông tay Hà, quay lại hỏi cô gái:
            - Chuyện gì đã xảy ra?
            - Hồi đêm, sau khi đi với anh về, khi về gần tới nhà chị Hà bị hai tên chận xe lại. Chúng nói gì đó với chị Hà rồi đánh chị ấy, Chị ấy vừa chống đỡ vừa la cầu cứu, khi ấy có chiếc xe Quân Cảnh chạy tới, thì một tên rút súng bắn chị Hà rồi bỏ chạy. Chiếc xe Quân Cảnh rượt theo nhưng chúng vọt vào hẽm chạy thoát. Bọn em túa ra và nhờ xe Quân Cảnh đưa chị vào đây. Nghe Bác sĩ nói chị Hà khó qua khỏi. 

            Hà lúc tỉnh lúc mê. Ba giờ sáng Hà tỉnh lại rất lâu, Hà nói với tôi về người mẹ đã mất. Về người cha lúc nào cũng bảnh bao, lịch thiệp. Về những đứa em tự dắt díu nhau để sống. Về ngôi trường cũ với bạn bè và người bạn trai đầu đời. Về những đồng tiền tủi nhục mà Hà gởi về nhà kèm theo một bức thư đầy những lời dối trá, với mong ước cháy lòng là làm cho những đồng tiền ấy bớt đi hôi tanh. Về những cảm xúc của nàng khi giao tiếp với tôi. Bằng giọng nói đều đều, chân thật. Hà biểu lộ sự trân trọng và nhớ tiếc vô cùng những kỷ niệm êm đềm và trong sáng đó. Trong khi Hà nói, tôi thực sự bấn loạn. Linh cảm cho tôi biết đây là giây phút cuối cùng của Hà. Tôi muốn khóc nhưng không sao khóc được. Tiếng Hà càng lúc càng nhẹ dần, nhẹ dần cho đến khi gần như tiếng thoảng qua của gió, rồi Hà nhắm nghiền đôi mắt lại có những giọt nước mắt ứa ra hai bên đuôi mắt, toàn thân rướn lên rồi từ từ hạ xuống, tôi biết…. Trong khi cô gái quýnh quíu gọi bác sĩ, tôi lặng lẽ bước ra cửa sổ nhìn lên bầu trời. Trời cao lồng lộng, ánh trăng non không đủ sáng bị chập chờn bởi ánh hỏa châu liên tục trái này lịm dần rồi trái khác bật lên. Trong cái ánh sáng quái đản ấy tôi thấy. Vâng, tôi thấy hình như có bóng dáng của Hà với nụ cười rực rỡ và bộ đồ dài trắng tinh, thanh thoát nhẹ nhàng đang chấp chới trong trăng. Rồi tất cả nhòa đi, nhòa đi… Lần đầu tiên trong đời, tôi chứng kiến một con người đi vào cõi chết.
          Đám tang của Hà cô quạnh đến rợn người, cô quạnh đến độ mà màn khói hương mù mịt kia cũng không làm sao ấm lại. Có lẽ là do gió bấc ư? Cái tình người tạm bợ vây quanh không đủ sức an ủi vong linh người chết, mà còn tăng thêm phần tởm lợm cho cái không khí ấm lạnh không đều kia. Những giọt nước mắt không thân tình hoà quyện với khói hương, son phấn, nước hoa và mồ hôi. Những tiếng khóc ỉ ôi và sau đó là những thì thầm ma quái. Rồi những tiếng chửi thề cùng với những tiếng cười rú lên. Tất cả, tất cả đã tạo nên cái không khí quái đản. Tôi ngồi đó cố cứu vớt cảm xúc của mình bằng cái tình đồng hương, và tôi làm cái công việc này đến kiệt sức mà xem ra không hiệu quả. Phải chi đêm đó tôi cùng Hà đến một khách sạn nào đó
         Nhưng rồi mọi việc đang thất thiểu qua đi. Mọi người đã ra về hết, chỉ còn tôi và cô bạn của Hà ngồi lại bên lò hỏa táng, nhìn từng cuộn khói đen ngòm bốc lên từ ống khói. Sự chuyển hóa của một con người đầy linh hoạt sang những tro bụi vô tri sao mà nhanh chóng và thê thảm quá. Ngọn lửa kia liệu có đốt sạch những đau buồn và nhơ bẩn, từng một thời vây bủa lấy xác thân và tâm hồn người đã chết? Và cuộn khói mịt mờ, đang bốc lên trời cao, sẽ mang theo những gì? Một linh hồn thanh thản khi bỏ lại mọi nhơ nhớp của nhân gian? Tôi cũng không biết. Nhưng cái mà tôi biết chắc, những thứ đó đang vấy vào tôi và cô gái ngồi bên thì khó lòng mà thiêu sạch được. Hà chết đi ở tuổi đôi mươi với cái nét ngây thơ thoáng qua, nhưng lại quá thừa những bi thảm và tinh quái cho cuộc đời ngắn ngủi của mình. Hà ơi. Những thứ quái quỷ ở đâu mà dội vào chúng ta nhiều thế. Nó dội vào hay tự mình quơ hốt lấy? Bao giờ thì tới phiên anh và cô bạn của em đây? Tôi rút từ trong ngực mình bộ quần áo của Hà mà cô bạn Hà giao lại cho tôi. Màu trắng tinh khiết ấy lốm đốm những vệt máu khô quánh và ngã màu tím sẫm. Tôi thẩn thờ bật diêm. Ngọn lửa bốc lên nhảy múa và tỏa ra những vệt khói lượn lờ rồi tan loảng trong gió. Tôi không đủ can đảm giữ lấy bộ đồ này như là một kỷ vật mà trong một phút mẫn cảm tôi đã tự hứa với mình.
          Cuối cùng, nắm tro tàn cùng một giòng lý lịch ngắn ngủi dưới bức chân dung đen trắng, nhưng cũng rạng rỡ phấn son, được gởi vào cái u tịch của một ngôi chùa ngoại ô thành phố. Cái khung cảnh ấy tương phản với bức ảnh kia, được làm dịu đi bởi khuôn mặt lặng lẽ đến hư không của ni sư trụ trì. Điều đó cho tôi một ít bình an trên đường về. Nhưng cũng không lâu được. Khi về đến quán thì cô bạn của Hà ngất xỉu. Tôi không rõ được nguyên nhân. Không tìm được ai. Thế là tôi phải trần lưng ra cạo gió. Nhìn cái thân thể trắng xanh, nhơm nhớp mồ hôi cứ tím tái dần ra theo những nhát cạo của cái thẻ bài. Tôi nghe nhộn nhạo trong lòng. Rồi mọi việc cũng qua khi tôi đưa cho cô ấy một ly nước nóng và mấy viên Optalidion[vii]. Khi tôi bung cái mền ra đắp cho cô thì cùng lúc đó tôi nhận được một cái mùi vô cùng quái dị. Son phấn, nước hoa, mồ hôi ấp ủ lâu ngày cộng với cái mùi dầu hôi dùng cạo gió và dầu nước xanh xoa vào chỗ mới cạo, tạo thành một phức hợp không thể nào diễn tả nỗi. Tôi chạy nhanh vào toilett và ói một trận xanh tái cả mặt mày.
Đêm đó cô bạn của Hà trang điểm tới bến đến tìm tôi tại điểm đóng quân. Tôi không hiểu tại sao mà cô dứt cơn cảm cúm nhanh đến thế. Cô ấy khóc lóc, than thở, kể lể những truân chuyên, trôi nổi về cuộc đời bán phấn buôn hương của mình bằng cái giọng miền Trung trệu trạo. Tôi lặng thinh nghe tiếng được, tiếng không bằng một thái độ vô cảm. Cuối cùng cô ấy đòi ngủ lại cho đỡ cô đơn. Tôi không phản đối và chúng tôi nằm bên nhau. Cái mùi quái dị ấy lại xuất hiện làm cho tôi gần như bị choáng dù chỉ thoang thoảng chứ không còn đậm đặc như ban trưa. Bằng cách chỉ để lại trên thân thể một cái quần lót mỏng manh, cô ra sức lay động, tôi cố sức tránh né. Cái thân thể trắng bệch, nhảo nhoét không còn một đường nét nào của tuổi hai mươi, hậu quả của sự trác táng làm cho tôi thương cảm và ghê sợ. Dù vậy tôi cũng nhận ra loáng thoáng trong đó còn ẩn chứa những nét thanh xuân và một vài đóm sáng. Nhưng bấy nhiêu đó không đủ và đến lúc tôi không chịu nổi, tôi cố gắng nói với cô ấy bằng cái giọng dịu dàng nhất mà mình có thể, khuyên cô cứ ngủ ở đây. Tôi rất mệt sau nhiều đêm thức trắng ở đám tang của Hà. Tôi chui ra lục lọi trong balô lấy cái võng nylong. Nằm trên võng tôi không ngủ được. Bên tai tôi vọng lại tiếng rầm rì của thành phố về đêm hoà lẫn trong đó là những tiếng pháo từ nơi nào đó vọng về. Thỉnh thoảng tôi lại nghe những tiếng nấc nhỏ của cô gái bán bar nằm bên kia. Tôi cảm thấy ái ngại cho cô. Ái ân là đỉnh cao nhất một hạnh phúc; là một hành động mang tính thiêng liêng. Nhưng với họ thì không. Phía sau của việc làm thiêng liêng này là cả một trời đau đớn. Chính họ, đã vì một lý do khiên cưỡng nào đó đã tự tiếp tay với kẻ hành hạ mình. Hai tiếng làm tình trơ trẽn để gọi hành động này nói lên một điều gì đó làm cho con người ta sượng mặt. Cho đến khi họ thực sự muốn xem việc này là hạnh phúc để mà hưởng thụ, thì họ lại không làm được. Bởi vì, hầu hết những lần làm tình của họ với bất kỳ ai đó, họ không bao giờ nhận được những cảm xúc bức thiết của tâm hồn và thân thể, thế thì làm sao mà được gọi là ái ân. Nếu có, thì chỉ là sự cảm nhận những xót xa trong tâm hồn, sự nhầy nhụa của xác thân. Niềm an ủi duy nhất mà họ có được trong việc làm này là một dúm tiền, để đầu tư cho lần đau đớn tiếp theo. Họ chỉ biết có làm tình, chưa bao giờ biết được ái ân. Xã hội chấp nhận họ như là mục tiêu cho sự sa đoạ, nhưng ruồng rẫy họ đến tàn nhẫn, chính bản thân họ cũng thế. Trong số đó có tôi, có tôi. Dù rằng sự chối từ của tôi không phải vì khinh thường mà là vì sự mệt mỏi và không hứng thú. Sự xác định này làm tôi đau nhói. Có thể tại tôi mà Hà chết. Trong đêm đó, tôi đòi hỏi ở Hà một điều khác hơn là sự hành hạ nhau. Và vì thế mà Hà phải chết (?!). Tôi lạnh sống lưng với ý nghĩ này và tôi thiếp đi trong mê muội. Khi thức giấc, trời đã sáng. Đầu tôi nhức như búa bổ, tôi rửa mặt, đánh răng và lục balô tìm mấy viên thuốc cảm. Cô gái bán bar đã đi tự lúc nào. Tôi đến cuốn mùng và thu dọn mền gối. Một chút xót xa vừa nhói lên trong lòng liền bị dập tắt ngay tức khắc vì cái mùi quái đản kia còn váng vất làm cho tôi nhợn nhạo một lúc rồi lại ói. Từ đó tôi dị ứng với mùi son phấn, nước hoa. Mỗi lần đổi sang nơi khác. Kiếp sống như ma cô này cứ được lập đi lập lại. Nhưng không bao giờ tôi lại có thể đến gần một khuôn mặt đầy ắp phấn son và cũng không bao giờ có thể khi say rượu, dù người đó là ai. Những ngày tháng với Hà là một khoảng thời gian ngắn đầy những cay xót va sự ghê tởm. Không phải tôi ghê tởm Hà mà là ghê tởm mình. Ghê tởm cái môi trường quái quỷ mà tôi nhón chân vào.
Tôi phải trở lại quán của Hà và sử dụng cái quyền lực của một tên bảo kê, súng đạn đầy mình để giải quyết số tài sản và nợ nần của Hà còn để lại. Tôi thật sự bất ngờ. Sau khi giải quyết hết mọi khoảng nợ nần và chi phí tang ma. Hà đã đem hết cuộc đời mình để đổi lấy một đống tiền đáng kinh ngạc về số lượng và sự hôi tanh. Tổng giá trị gần nửa triệu bạc. Tôi chia ra làm sáu phần. Hai phần để lại cho cô bạn thân gồm chiếc xe và cơ sở với lời cam kết giữ nguyên lại những người giúp việc và tiếp viên sau một một năm. Một phần gởi lại ni sư trụ trì lo việc hương khói cho Hà. Những gì còn lại, tôi mang ra bưu điện gởi hết về cho gia đình Hà ở Rạch Giá. Tôi thực sự mệt mỏi khi giải quyết xong việc này. Tôi phải thuyết phục và thậm chí dùng sức mạnh của cả trung đội võ trang đến tận răng mới đưa sự việc đến nơi ổn thỏa. Và tiếp tục bảo kê cho cô chủ mới. Khi còn lại tôi, anh đại đội trưởng và cô bạn của Hà. Cả hai nhìn tôi như nhìn một con dã nhân. Cô bạn của Hà lên tiếng trước:
        - Tại sao anh không giữ lại cho mình một ít? Những ngày sắp tới, anh ăn cái gì để sống? Nhờ anh mà quán mới yên lành làm ăn.
         Tôi nhướng mắt nhìn cô ta, trong lòng bực bội nhưng vẫn giễu cợt:
         - Thế thì cô không nuôi tôi à?
         - Nuôi anh. Liệu anh có chịu không? Anh chê tôi mà.
         - Thôi đi. Mệt muốn đứt hơi mà cô nuôi tôi kiểu đó là đi luôn. Tôi muốn ăn cơm mà bà cho ăn phở với “thịt bò bụng “ 
         Anh đại đội trưởng phì cười:
         - Tao thấy mày không điên thì cũng mát dây. Vậy mà cũng là một tay ma cô sừng sỏ. Thế mới lạ?
         - Thôi. Nhắc một thùng Helm[viii] ra đây. Uống cho đã rồi ngủ.
         - Ngủ với ai? Cô bé nhướng mắt hỏi.
         - Cứ xỉn đi đã, rồi ngủ với heo nái cũng chẳng sao?
          Cô bé đi lấy rượu, rồi trở lại đặt chai Jonhny Walker nhản đen lên bàn:
          - Thôi được, tôi cũng cố làm con heo nái một phen nữa xem coi có hiệu quả không. Mà muốn vậy thì không uống bia. Chơi “Ông già chống gậy”
          Và cuối cùng thì tôi ngủ với con heo nái ấy thật. Nhưng chỉ ngủ thôi, vì hơn một phần ba chai Jonhny Walker chui vào bụng, nhất là thêm hai lon bia giải nhiệt, uống theo kiểu “xăng pha nhớt” này thì làm sao mà nhúc nhích gì nổi nữa.
          Hai tuần sau, ba của Hà và cô em gái đến tìm gặp tôi. Bằng mọi cách, tôi thực hiện gần nhự trọn vẹn những yêu cầu của họ. Và cũng phải giải thích cho họ hiểu tận tường về lý do tại sao tôi chỉ gởi cho họ phân nữa số tài sản mà Hà có được. Nhìn thấy họ đau xót vì mất một người thân. Nếu như Hà còn sống, tôi không hiểu họ nghĩ gì? Khi mà họ biết được và nhận được những đồng tiền ấy, những đồng tiền mà Hà đánh đổi bằng sự nhục nhã, ê chề, sự bán rẻ xác thân và phẩm giá. Có lẽ cái chết của Hà là một sự mua bán có giá nhất trong số những giao dịch của cô?! Sáu tháng ở Đà Nẳng của tôi và không phải là tôi, được bắt đầu bằng một băng đạn M3A1 và kết thúc bằng một cái chết của một me Mỹ tuổi mới khỏi hai mươi.
            Chúng tôi nhận được lệnh chuẩn bị chuyển quân. Tất nhiên là chỉ chuẩn bị sẵn sàng, nhưng đi đâu và bao giờ thì trời biết. Nhưng ngày cuối cùng ở đây, cô bạn của Hà, nay đã là bà chủ đến tìm tôi. Sạch sẽ tinh tươm, không son phấn, chẳng nước hoa và khuôn mặt lấm tấm mụn với lời mời gọi làm tình. Trông cô ấy lúc này cũng thích mắt đấy. Nghĩ cũng lạ, mới làm bà chủ chưa đầy một tháng mà trông khá ra vẻ. Không còn tai tái mà hồng hào, người ngợm tròn trịa ra. Nhưng không hiểu sao sự ham muốn trong tôi thì rơi mất nơi nào. Hai đứa đi tìm một cái quán chui vào và ngồi uống café. Chẳng có gì để nói, nên đành phải nói tào lao. Thế mà, cuối cùng cô ấy cũng tìm ra một khe hở để đưa ra lời đề nghị:
- Em bỏ hết. Anh ở đâu em ở đó.
- Cô có một sự lựa chọn khùng điên.
- Tức là anh không bằng lòng. Anh chê em. Cô ấy nói như sắp khóc.
Tôi giải bày:
- Không phải là chê. Nhưng con đường cô đang đi. Nếu như cô biết mình cần cái gì đó tốt đẹp hơn cho cuộc đời mình thì cô có cơ may đạt được, chỉ cần cô đừng quá sa đà. Còn cô dính vào tôi, chưa chắc cô đạt được ước mơ của mình mà hiển hiện ngay trước mắt là sự thiếu thốn và hiểm nguy. Đó là chưa kể khi tôi lên cơn khùng. Nhắm cô chịu nổi mấy cái báng súng.
Cô ấy trở giọng :
- Ông nói dẻo miệng lắm. Nhưng chỉ có bấy nhiêu thôi. Chỉ ngủ với tôi một lần mà ông còn không muốn. Ông không chê tôi thì là cái gì? Tôi có đòi tiền ông đâu?
- Đã ngủ với cô một lần sau khi uống xong chai Jonhny Walker. Cô còn muốn gì nữa. Cô điên thật rồi. Tôi gắt lên.
- Tôi không điên. Muốn làm tình với một người mình thích mà là điên à. Lần đó ông ngủ với tôi hả. Cái thây ma của ông thì có. Cô ấy cũng không kém.
Tôi rút súng, trở báng súng dứ dứ vào mặt cô ta:
- Cô có tin là tôi đánh cô lủng mỏ ác không. Đừng có mà cãi nữa. Tính tiền rồi đi.
- Đi đâu?
- Đi nơi nào cô muốn. Nhưng nhớ ngày mai tôi rời khỏi nơi này. Cô phải thực hiện hai điều: Thứ nhất; không chạy theo tôi. Thứ hai; cố gắng dành dụm và chuyển sang nghề khác làm ăn sạch sẽ hơn và sau đó là kiếm chồng.
- Anh là cha tôi chắc.
- Không phải vậy. Mà là người mà cô muốn ngủ chung hoài. Mà tôi có quyền. Tôi nói cô phải nghe. Nếu không thì thôi. Tôi về. Chạy theo. Tôi bắn
Cô ấy tròn mắt nhìn tôi, trong ánh mắt ấy lóe lên một tia sáng, sau đó là cụp xuống và khuôn mặt hồng lên. Tôi biết cái gì đang xảy ra trong lòng cô. Tôi kêu tính tiền.
Rồi chúng tôi tìm một khách sạn. Khi cánh cửa phòng vừa đóng lại thì cô khuỵu xuống chân tôi, miệng lí nhí:
- Chừng chừng nào anh đi ?
- Tùy. Chừng nào cô muốn đi thì đi. Tôi nói như liều mạng.
Cô ta bò lên mép giường rồi nằm bật ra đó, bất động, miệng lảm nhảm:
- Em em thương anh.
Con người thật của tôi đã trở lại và của cô gái này cũng thế. Không hiểu sao tôi lại từ tốn hôn cô và quên xem xem cái mùi quái đản ngày nào có còn hay không. Và khi sự ngăn cách của hai làn da không còn nữa thì cô ta gầm gừ, ngốn ngấu lấy tôi như là một con cọp cái. Khi đã lắng xuống thì tôi mới nhận ra là cái phức hợp quái quỷ hôm nào đã không còn nữa. Không hiểu cô ta làm cách gì mà nó mất đi. Hay thật. Còn cô ta thì cứ trần truồng tô hô như thế và líu lo đủ chuyện trên đời. Là một tay lý sự, không hiểu sao tôi chẳng mở miệng nên lời, nên cứ nằm yên nghe cô ta nói. Táy máy đôi tay, mà khổ nổi lại do bàn tay của cô ta dẫn dắt. Cuối cùng, thì bốn bàn tay ấy không còn đủ sức để có thể làm điều gì khác hơn là để cho bốn con mắt ngủ.
Khi rời khỏi khách sạn. Tôi đèo cô về nơi đóng quân. Lúc chia tay cô nói với tôi bằng cái giọng ráo hoảnh nhưng âm điệu đầy chua xót:
- Đây là lần đầu tiên khi rời khỏi một người đàn ông đã qua đêm với em mà em không đòi tiền. Nhưng mà em thích vậy. Phải chi Mà anh quả là hết chỗ nói. Xong rồi thì thôi đi. Cứ mà nghịch ngợm hết nơi này sang nơi khác. À. Mà chị Hà nói, mỗi khi anh đến gần, anh đánh chỉ tưng bừng hoa lá. Còn em thì
- Đồ điên. Muốn vậy thì trở lên. Tôi đập cho mấy cái.
- Anh không giống ai cả. Làm cho em bây giờ
Cô bỏ lửng câu nói cho một chút nước mắt ứa ra. Không hiểu sao tôi nói, mà là nói thầm “Vậy thì hãy tìm một thằng đàn ông nào đó cho riêng mình.”

Khi máy bay đảo mấy vòng trên bầu trời, chờ lệnh đáp xuống phi trường. Tôi tôi cứng cả người và sau đó là một nỗi nôn nao ập đến. Đà Lạt dưới chân tôi. Tôi thảng thốt kêu lên:
- Ôi. Đà Lạt. Ôi. Người…
Tôi không ngờ mình lại về đây. Mới đó mà đã hơn một năm. Một quãng thời gian ngắn nhưng quá nhiều thay đổi trong tôi. Và khi Đà Lạt nằm trong tầm mắt thì tại sao nó lại quá dài, dù một chút nữa đây tôi sẽ chạm vào. Một nỗi nhớ nhung mơ hồ không rõ nét, luôn hành hạ tôi trong những giấc chập chờn. Để giờ đây, tôi chỉ còn một điều duy nhất để quan tâm. Tôi cố dán mắt mình vào cửa kính tìm ngôi nhà của Người Góa Phụ Trồng Hoa, nhưng không thể. Rồi máy bay đáp xuống phi trường Cam Ly, rồi di chuyển về BCH CSQG tỉnh Tuyên Đức[ix], rồi nhận lệnh công tác. Và không biết rủi hay may, trung đội tôi nhận nhiệm vụ lục soát và án ngữ khu vực gần Trại Mát phối hợp với một trung đội cơ hữu của Trung Tâm Huấn Luyện CSDC. Tôi, lúc này là quyền trung đội trưởng, cho trung đội nghỉ hai giờ để tắm táp và cơm nước trước khi lên đường. Họp hành quân xong, cầm cái bản đồ trên tay, tôi cố tìm cái tọa độ, không phải tọa độ đóng quân mà là tọa độ tuyệt diệu của tôi, và nó đây rồi. Tôi nôn nao chờ giờ xuất phát. Và để tiêu phí nhanh thời gian chờ đợi, tôi chạy ra nhà vẽ cũ. Anh vẫn vậy, anh nhận ra tôi ngay và chúng tôi tíu tít vui mừng. Anh buông cọ cùng tôi ra café Tùng, vừa ngồi xuống anh trách tôi :
  - Chú láo thật. Không gởi cho tôi một cái thư nào?
  Tôi cười ngượng nghịu :
    - Anh xem, tôi quay như cái đèn cù, nay chỗ này, mai chỗ khác, có cái địa chỉ nào cho rõ ràng đâu. CSDC làm gì có KBC[x].
    - Chú ra vẻ lính rồi đấy. Không quan làng gì sao?
    - Em làm lại toàn bộ lý lịch, định làm ông cò cho chữ thọ lớn ra. Nhưng rồi anh thấy đấy. Cực và hiểm nguy đâu thua gì dân sư đoàn. Thế mà lại được trang bị toàn là súng bắn ruồi. Carbine M1. Tiểu liên M3.A1. Chẳng là quan, nhưng hiện tại là quyền trung đội trưởng.
- Chú về đây được bao lâu?
 Tôi kể cho anh nghe về cái công tác quái chiêu của mình. Anh cười buồn. Tôi hỏi anh về công việc của nhà vẽ. Anh nói:
- Từ ngày chú đi. Tôi chỉ làm một mình. Bà ấy mua bán loanh quanh. Cả hai tiện tặn cũng có dư ra. Nhưng buồn quá cậu ơi. Hai đứa xáp vào nhau đã gần năm năm mà bà ấy vẫn cứ nín thinh, trong khi hai cái đầu gối của tôi đã thay mấy lớp da. Hổng biết tại tôi hay tại bà ấy.
- Thôi ráng đi anh. Hổng lẽ cày hoài mà không có lúa. Hay là hai ông bà đi khám bác sĩ.
 - Thôi. Tiền làm ra không đủ lủm. Cứ chờ đi. À này. Chú có bận gì không về ăn cơm. Chà, bà ấy gặp chú chắc là mừng lắm.
 Tôi nhìn đồng hồ, nói:
 - Thôi cám ơn anh. Tôi cũng qua thăm chị một lát rồi về, đưa đơn vị ra điểm đóng quân.
  Anh dành trả tiền. Rồi cả hai về tiệm vẽ. Chị ấy gặp lại tôi vui mừng rối rít và lại trách là ra đi mà chẳng thư từ, lại phải giải thích. Bổng chị hỏi tôi:
 - Có một chị ghé đây hai ba lần gì đó. Hỏi thăm tôi tin tức của chú. Chị ấy nói là hồi ở đây chú ở trọ nhà chị ấy.
 Tôi nghe nôn nao trong lòng:
 - Lần cuối cùng chị ấy ghé đây bao lâu rồi chị.
 - Cách đây khoảng sáu bảy tháng.
 - Chị thấy chị ấy thế nào? Có khỏe lắm không?
 - Vẫn khỏe. Nhưng mặt mày buồn hiu. Chị ấy nói chú đi mà bỏ lại chiếc xe đạp và mấy bộ quần áo. Chăn màn gì chú cũng bỏ lại. Bộ có gì rồi hả? Nè chị ta coi bộ cứng hơn chú gần cả chục tuổi chớ chẳng ít đâu. Nhưng mà đẹp. Đúng là chú điên.
Tôi chối quanh:
 - Chị nói chuyện gì đâu. Chị coi, đi trốn quân dịch mà mang theo lủ khủ để làm gì? Để cho chị ấy xài coi bộ có lý hơn.
   Chị nhìn tôi và hình như không hài lòng câu trả lời, chị nói:
  - Cái gì cũng có lý. Mấy ai chịu cha ăn cướp. Nhưng mấy bộ quần áo thì không có lý chút nào? Đàn ông đàn ang mấy chú. Đi đâu bỏ đó. May mà
 - Thôi. Em ghé thăm anh chị một lát. Em đi ngay.
 - Không ăn cơm à?
 - Thôi chị. Anh chị để khi khác. Nếu có thể, chị cho em tắm nhờ một cái.
- Muốn làm gì đó thì làm. Bộ ở dơ hết nổi rồi à?
Mặc cho chị ấy nói gì thì nói, tôi lủi vào nhà tắm. Khi đã khỏe khoắn vì sạch sẽ, vì đã rủ hết những thứ mang theo từ Đà Nẳng. Tôi từ giả họ và đi như chạy. Ghé ngang tiệm bánh kẹo, tôi mua mấy thanh chocolat nhét vội vào túi, chui vào nhà sách gần đó tìm mua mấy cuốn và tiện tay lấy một tờ báo rồi về đơn vị. Đến nơi, tay trung đội phó đã sẵn sàng và đang chờ tôi. Tôi gặp đại đội trưởng nhận lệnh xuất phát. Trời lúc này không lạnh mấy và bây giờ tôi mới cảm nhận lại cái đặc trưng của Đà Lạt với không khí ươm đầy mùi nhựa và tiếng vi vu bất tận của ngàn thông. Chúng tôi di chuyển chậm và làm tất cả mọi việc cần thiết một cách cẩn trọng. Nhưng không vì thế mà tôi không ngắm nhìn Đà Lạt sau hơn một năm rời đi. Đà Lạt thì vẫn vậy, nhưng cảm giác của tôi lần này thì chẳng như lần mới đến, nó là sự nôn nao khi trở lại một nơi thân quen gần gũi. Ôi nơi mới đến thì háo hức vì lạ lẫm. Đến lần này thì kỷ niệm cứ lao xao. Không hiểu sau này tôi trở lại Đà Nẵng thì lao xao bởi cái gì? Chúng tôi di chuyển chậm vì hai lý do; một là yêu cầu công việc, hai là tôi muốn cảm nhận cho hết những cảm xúc của mình trên một đoạn đường mà tôi đã từng thường hay qua lại. Thế nên hơn một giờ tôi mới đến được cái tọa độ của ngày nào. Chưa kịp nhận ra cái cảm giác của mình khi nhìn lại nơi này thì máy bộ đàm gọi, yêu cầu tôi báo cáo tình hình trên lộ trình di chuyển và xác định điểm đứng. Sau khi báo cáo xong. Tôi nhận được lệnh dừng quân, bố tri canh gác và chờ lệnh mới. Tôi nhanh chóng thực hiện. Hên hay số mệnh? Bởi vì trên kia triền đồi là ngôi nhà ấy với mấy luống hoa. Khi mọi việc xong xuôi, tôi ra lệnh với tư cách chỉ huy và che dấu một ý đồ cho riêng mình :
 - Tất cả anh em không ai được vào nhà dân. Không căng lều cá nhân, ngoại trừ trời mưa. Tất cả phải mặc thêm áo ấm. Nước suối mang về phải đun sôi và pha thuốc trước khi uống và đổ vào bi đông. Tiểu đội 1 cắt cử một tổ đi tìm nước và tổ chức ăn uống tại chỗ. Nhớ khi nấu nướng xong phải dập tắt lửa. Có thấy mấy tấm bảng “Lửa cháy rừng điêu tàn” gắn dọc đường và chung quanh không? Nhánh, lá và trái thông khô rải rác đó đây. Lửa bắt rất nhanh và cháy rồi là vô phương chữa. Tất cả hãy cẩn thận. Anh em nào mà làm cháy là các anh điêu tàn chứ không phải rừng điêu tàn.
  Giao quyền lại cho tay trung đội phó. Một mình tôi lên đồi. Ngôi nhà của chị đóng cửa. Tôi vòng qua cửa sau thấy khép hờ. Tôi gọi nhưng không có ai trả lời, nhìn lên mấy luống hoa, những huệ, mimosa, hồng, cúc, pensé đong đưa trước gió. Nhưng chị ấy đâu rồi ? Tôi xô cửa bước vào nhìn quanh, không có gì thay đổi. Chiếc xe đạp của tôi còn đó. Tôi tự hỏi “Đi đâu nhỉ? “. Tôi ra khỏi nhà bước lên những luống hoa. Tất cả vẫn xanh tươi. Tôi tiếp tục trèo lên giếng nước, tôi bổng khựng lại. Chị đang nằm gối đầu lên hai tay. Bộ quần áo chị mặc trên người là của tôi. Ôi những lời chị nói với tôi trong những ngày cuối cùng hoàn toàn không thực với lòng. Chị nói dối với tôi và với cả mình. Tôi nhớ khi lần ái ân cuối cùng rồi tôi về Sài Gòn, chị nói “ Cậu cứ đi, đừng băn khoăn gì cả. Tôi sẽ quên cậu ngay và tôi sẽ có chồng, chí ít cũng là một người nào đó gọi là nhân tình” Tôi bước tới gần. Nghe thấy tiếng động chị nghiêng lại nhìn, rồi chị đưa tay dụi mắt, rồi nhìn và chị há miệng ra mà không nói gì. Tôi bước đến ngồi xuống bên chị. Cả hai chúng tôi yên lặng. Thời gian như ngừng lại. Chị vẫn nằm yên như thế Cuối cùng chị nắm lấy tay tôi, nói nhỏ:
- Cậu đã… ?
- Vâng, tôi đã trở lại với chị bằng một cơ may, tôi mới biết mình trở lại đây khi nhìn thấy Đà Lạt, không phải tự ý của mình, dù rằng tôi luôn luôn muốn thế. Chị tha lỗi cho tôi.
Chị yên lặng, không thắc mắc, không quan tâm gì bộ quân phục tôi mặc trên người và khẩu P.38 lủng lẳng bên hông. Tôi cũng yên lặng chống tay qua người chị. Trên đỉnh đồi chỉ còn lại tiếng thông reo.
            - Cậu đã trở lại. Tôi tôi mừng quá. Tôi nhớ cậu lắm. Cậu biết không?
 Tôi ngồi yên nghe và nghe hơi thở chị gấp gáp, nồng nàn. Cả hai cùng nhìn lên bầu trời. Mỗi người một suy nghĩ. Nhưng chắc chẳng ra đầu ra đuôi gì, bởi cái hơi ấm của hai thân thể không ngừng truyền đạt cho nhau. Chị đưa tay mở cúc áo. Tôi nhìn; khuôn ngực ấy, rồi thân thể ấy vẫn như ngày nào. Nó vốn buồn bây giờ thì lại buồn hơn. Nhưng rất đẹp và trùm phủ lên đó những đường nét gọi mời. Tôi đặt bàn tay lên đó cảm nhận lấy cái hơi ấm và sự rung động của trái tim. Trái tim của cả hai. Chị nói nhỏ, giọng run lên:
 - Cậu đã trở lại. Tôi tôi mừng quá. Tôi nhớ cậu lắm. Cậu biết không? Chị lập lại như chưa tin vào sự thật.
- Vâng tôi biết. Tôi xin lỗi mà
Có một cái gì đó nghẹn lại làm tôi không nói hết ý nghĩ của mình. Chị run run nắm lấy bàn tay tôi:
- Hôn tôi đi. Hôn bất cứ nơi nào cậu thích. Tôi muốn thế. Cậu biết mà
Và tôi thì không tài nào biết rõ nơi nào tôi không thích. Thế nên, thôi thì hết vậy. Bởi vì cái hơi hướm thoang thoảng mùi nắng, pha lẫn mùi nhựa thông tỏa ra từ đó. Nó buộc làn môi tôi phải chạm đến khắp cùng. Chúng tôi không thể chống lại mình, dù bên dưới triền đồi đầy người. Nhưng làm sao được, khi mà cả hai đều bị cuốn vào cái hố đen mang tên Say Đắm? Cuối cùng, hai làn môi chúng tôi chạm vào nhau, cả không gian như đứng lại. Tiếng thông reo mơ hồ dần rồi im bặt, ánh nắng chiều không còn đủ rực rỡ vì màn sương đang bắt đầu phủ xuống quanh quanh. Đỉnh đồi như cao lên và càng lúc càng mông muội, nhấn chìm chúng tôi đến một cõi rất riêng tư của cảm xúc. Như vô thức, cả hai cùng tái hiện lại lần ân ái sau cùng khi tôi rời đây với một cường độ không hiểu nổi. Chúng tôi ngấu nghiến lấy nhau vừa lắng nghe, vừa làm bật ra những âm thanh khoái cảm vang vọng núi đồi. Trời chưa tối hẵn, nhưng đã đầy sương. Tôi cúi bên chị, nhìn thân thể của chị đã phủ đầy xúc cảm ái ân đang phơi bày giữa đất trời, nhập nhòa trong làn sương mờ ảo. Khi tôi áp mũi vào đôi môi đang hé mở, tôi thảng thốt khi nghe “ Anh làm em đau”  và từ đấy bật ra một mùi hương mê đắm.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                  
Đơn vị tôi đóng ở tọa độ này chờ lệnh mới. Không một ai được vào thành phố. Cứ ba ngày được tiếp tế thức ăn và nước. Ban ngày thì tuần tiểu chung quanh. Tối thì bố trí ngủ ở bất cứ nơi nào trong phạm vi bốn cây số vuông, nhưng không được lặp lại, dù tình hình an ninh ở đây khá tốt. Tình hình xã hội ở thành phố này cũng không phức tạp, nhốn nháo như ở Đà Nẳng, có lẽ vì sự hiện diện của quân đội đồng minh ít hơn nhiều. Ngày chúng tôi rời đi không bao giờ được báo trước, nhưng thường thì nhanh lắm cũng một tháng. Thế nên bao giờ chúng tôi cũng chuẩn bị hai tư thế: sẵn sàng ở, sẵn sàng đi. Tôi không quan tâm lắm chuyện này.
Hễ có thời giờ rảnh rỗi là tôi đến với chị. Tôi quan tâm đến sự vắng mặt của thằng bé. Tôi hỏi, chị không trả lời. Tôi chợt nhớ đến mấy thanh chocolat. Và tôi không biết phải làm gì với chúng. Và chị cũng không bao giờ thắc mắc về cái màu áo tôi đang mặc trên người. Bất cứ lúc nào có thể thì chúng tôi quấn lấy nhau. Sự hưởng thụ và hiến dâng của chị càng lúc càng quyết liệt hơn, và tôi đáp ứng cũng quyết liệt như thế. Nghĩ tới điều này tôi bổng sợ. Một con người có một tương lai tốt đẹp đã bị đánh gục hai lần. Một lần vì lòng người phản phúc, một lần vì cuộc đời chơi khăm. Tôi là cái phao, mà tự thân nó cũng không biết chìm lúc nào và chị vớ lấy. Và tôi, với cái tính lơ mơ xốc nổi, mơ hồ nhận ra mình là một thằng không đủ khả năng đem đến cho ai trọn vẹn một niềm vui. Thế nhưng, không phải mới đây, mà ngay lần đầu gặp chị, tôi đã từng bước tạo ra cho mình một cái gì đó mơ hồ, và cái mơ hồ đó mang đến cho chị một niềm tin.
Rồi tôi cũng biết tại sao thằng bé vắng mặt. Người cha ruột của nó đến mang nó đi. Không. Anh ta đánh cắp nó vào giờ tan học, khi mà sau nhiều lần giành quyền nuôi dưỡng không thành. Chị mất đi mục đích sống cuối cùng. Một người đến mua hoa tươi nói với tôi như thế, nhưng tôi thì không dám hỏi chị cho tận tường. Thế nên sự trở lại của tôi như là một cái phao mỏng manh, làm cho cái hy vọng mơ hồ của chị đặt ở tôi càng ngày càng thêm lớn. Chị tin rằng nó có thể không làm cho chị chìm sâu trong đau xót. Sống với chị bằng tư cách vợ chồng. Tôi chấp nhận được những xì xào của bạn bè chung đơn vị không phải vì cái tính anh hùng rơm. Mà vì một thứ tôi nhận được khi rời khỏi nơi này để về Sài Gòn. Nhưng tôi sẽ không chịu đựng nổi nếu như ba mẹ tôi không đồng ý. Vì tôi cũng biết ba mẹ tôi không có đủ can đảm chấp nhận một cô con dâu không rõ lai lịch và lớn tuổi hơn tôi quá nhiều, mà lại ở một nơi xa lắc xa lơ. Nhưng cái mà tôi lo sợ nhất là ông nội. Sự thất vọng của ông về thằng cháu “Vưu Hồn Bí Trọng” của mình. Chuyện gì thì tôi dám, nhưng điều này thì Nhưng tôi thì không nỡ chối từ chị. Và còn hơn cả thế, tôi không thể chối từ mình.
Tôi đang loay hoay, thì đơn vị biết. Mọi người xôn xao lên vài hôm, rồi đâu cũng vào đấy. Tôi giải thích qua loa và mọi người có vẻ cảm thông. Tay trung đội phó thì không ý kiến gì, nhưng luôn luôn đỡ đần cho tôi mọi việc, để tôi có thời gian. Bởi vì chúng tôi là những con người có chung một hiện tại màu đất sét[xi], như cái màu áo chúng tôi mặc trên người và cái tương lai màu gì không biết, nhưng chắc chắn không phải màu hồng. Thế nên cái gì mà thỏa mãn được mình thì lao vào không thắc mắc.
            Trong khi cả nước đang nóng dần lên vì cuộc chiến và những bất ổn chính trị. Nhưng Đà Lạt thì vẫn yên bình. Hoa vẫn nở và ngát hương, mùi nhựa thông chưa bị lẫn với mùi thuốc súng. Việc chúng tôi có mặt nơi này mang tính thủ tục. Trung đội của tôi bị trấn vào cái góc này là cũng vì muốn cho thành phố có thêm bình yên. Ít ra cũng là bình yên cho các VIP khi đang tính toan những việc phân chia quyền lực với nhau. Bù lại chúng tôi được tiếp tế đàng hoàng và lại mới lãnh dồn được bốn tháng lương. Cả trung đội như hiền lại và đăm chiêu ra. Riêng tôi thì khi có giờ rỗi rảnh là về ngay với chị. Ngoài những giây phút đắm say, thì sau đó là nỗi dằn vặt. Nhưng chỉ một thoáng thôi. Thân thể đầy ắp khát vọng của chị bằng mọi cách xua tan những dằn vật ấy ra khỏi cả hai, để dắt díu nhau vào cõi đắm say.
Không gian và cảnh quan Đà Lạt tuyệt vời thế kia cộng với những phút giây kỳ ảo này luôn luôn đưa tôi lên những đỉnh đồi mơ mộng. Nhưng đàng sau những mơ mộng ấy và khi rời khỏi nơi này thì nó sẽ đẩy tôi xuống thung lủng đầy sương. Có những khi tôi một mình ở đâu đó; khi thì ngồi bên bờ hồ Xuân Hương, lúc thì đi quanh ven hồ Than Thở, hay đứng tựa lưng vào một gốc thông bất chợt bên đường và nghĩ suy về cuộc đời của tôi hơn một năm qua. Tôi nhớ cô gái bán bar, mà tôi chẳng biết tên gì, đã nằn nì tôi một lần ân ái. Nỗi khát khao đã làm cho cô ấy ngất lịm trong khoái cảm. Cô ấy đã khóc vì sung sướng, vì được hiến dâng. Có lẽ giờ đây cô ấy đang tìm kiếm một người nào đó chân thành giúp cho cô phân biệt được sự khác nhau của làm tình và ân ái, dù rằng tôi đến với cô chưa phải với tư cách của người tình. May mà hôm đó tôi trở lại là tôi, chứ không phải là một tên ma cô mạt hạng. Tôi nhớ tới Hà, nhớ những những trò quái gỡ của mình và quặn lòng khi nhớ đến Hà trong lần rong chơi cuối cùng với chiếc áo dài trắng tinh và khuôn mặt đích thực của tuổi hăm hai, nghĩ đến phút giây cuối cùng của một đời người. Nhớ những cơn say và những lần quậy phá. Ôi sao mà nhiều thế! Tôi trượt nhanh đến thế sao? May mà nó cũng đã ra khỏi đời tôi nhờ một cô gái khác. Tôi phải cám ơn cô đã giúp tôi trở lại là tôi. Vái trời cho nó đi luôn đừng bao giờ trở lại. Hà ơi. Dù rất xót xa khi chứng kiến sự ra đi của Hà. Nhưng xin lỗi. Tôi chỉ nhớ tới Hà. một lần này thôi. Lần cuối cùng. Và hãy để Hà an tĩnh giữa hương khói chốn thiền môn.
Một đôi lần nhớ lại, hoặc phảng phất của ai đó qua đường, cái mùi phấn son pha lẫn với mồ hôi của cô gái đến tìm tôi trong cơn bấn loạn. Một cảm giác nhộn nhạo nổi lên. Tôi nổi cả gai ốc với những hành động nông nổi, trẻ con của mình, khi tập tành làm ma cô ma cạo. Kèm theo là nhộn nhạo vì ghê tởm, vì thương cảm. Tôi lắc lắc đầu xua đi những ý tưởng hắc ám. Và cái mùi nhựa thông đã làm tôi tỉnh táo.
Bao lâu rồi tôi không thể làm được thơ? Bao lâu rồi tôi không còn đọc được sách? Cũng đôi khi tôi tìm mua sách và những tờ tạp chí một thời quen thuộc. Cũng đôi khi tôi cầm bút lên. Sách báo thì trang đọc, trang không. Còn viết thì chẳng ra ôn hoàng gì. Đã thế nét bút rồng bay phụng múa bổng dưng trở thành những vệt gà bươi. Dù vậy, nhưng tôi vẫn cố viết. Vẫn thấy chẳng ra gì và quăng bỏ. Tôi lại tìm về với chị ấy, vùi mặt mình vào cái thân thể đẫm đầy mùi nắng và mùi nhựa thông, khơi gợi và đón nhận ở đó những xúc cảm để thư giản tâm hồn mình. Một thứ cảm xúc chân thành và giản dị như hai con thú vào mùa động cỡn.
            Ngày nào đó tôi sẽ lại rời khỏi nơi đây. Đang có tin đơn vị chúng tôi sẽ bị giải thể. Một nỗi lo ập đến, không phải vì ngày mai của mình, mà là tôi sẽ giải quyết chuyện chúng tôi ra sao? Một ý nghĩ, nếu đơn vị giải thể tôi sẽ xin về đây hay là trường CSDC. Tại sao không? Nhớ lại những giây phút nôn nao khi lượn lờ trên trên bầu trời Đà Lạt và một lần nữa tôi không hiểu nổi mình, khi mà cái cảm giác ấy vẫn còn nguyên vẹn. Trong khi ấy thì có một cái gì đó mơ hồ hiện ra trong tôi. Không rõ nét, nhưng rất mới lạ. Và điều đó làm cho những lần chúng tôi bên nhau trở nên khác hẵn. Từ tốn hơn, đằm thắm hơn. Tôi đón nhận sự chăm chút ở chị bằng sự cảm thụ một hạnh phúc hơn là để thoả mãn những khát vọng ái ân. Càng lúc tôi càng tỏ rõ trách nhiệm của mình trong ngôi nhà gỗ tuềnh toàng, tôi mua đinh về đóng kín lại những khe hở, hay thay những tấm ván đã cũ nát bằng những miếng gỗ thông lấy từ những thùng đạn pháo binh mà tôi xin được hay mua ngoài phố. Thay những chốt gài, tay nắm, sửa lại cái giàn bếp tóm lại là những thứ mà tôi cho là cần thiết. Mà hầu hết những việc làm đó, tôi chỉ thấy người ta làm mà tôi thì chưa, và tôi đã làm, thứ thì tàm tạm được, thứ thì không. Nhưng dù thế nào tôi cũng nhận được trong ánh mắt đó một hơi ấm quá đỗi nồng nàn. Chị nhìn tôi làm việc bằng một ánh mắt hoàn toàn khác. Khuôn mặt hồng lên nhưng không phải là sự gọi mời. Chị là của riêng tôi. Cái cảm giác ấy đã làm cho tôi trở thành một người hạnh phúc. Có lẽ chị cũng thế. Chị chăm sóc tôi nhiều hơn, bằng một thái độ của một người tình, người chị và có lẽ cả của một người mẹ nữa. Những cuồng nộ yêu đương thưa đi, nhưng khi đã đến với nhau thì cho nhau và nhận lại nhiều hơn gấp bội. Đã có nhiều lần chúng tôi không ân ái mà say đắm nhìn ngắm thân thể của nhau, đùa giỡn với chúng như là trẻ con ngắm nghía, săm soi với món đồ chơi mà mình đã từ lâu mơ ước. Những lần như thế, thỉnh thoảng chị nhắc cho tôi biết rằng chuyện yêu đương giữa con người không phải là một điều gì bậy bạ, thô tục. Đó là ân sủng của tạo hóa ban cho muôn loài. Hãy tận hưởng bằng sự đồng thuận và tôn trọng nhau. Hiến dâng và đón nhận. Một vài lần tôi hỏi chị biết điều đó ở đâu. Chị nhìn tôi mãi một lúc sau mới nói là chính từ bản thân mình. Phải rất lâu sau tôi mới hiểu.
Ngôi như ấm lại. Cả những luống hoa cũng thế. Chúng được chăm sóc kỹ gấp đôi. Đến hai người mà. Có lẽ vì thế, mà lá như mượt mà hơn và tất nhiên hoa cũng đẹp hơn, thơm hơn. Không biết có thực sự như thế không, nhưng dưới mắt chúng tôi là như thế. Lúc này tôi đã hiểu khá tận tường về cơ thể của con người. Tôi đem sự hiểu biết ấy mà chăm sóc cho chị và nhận lại những ánh mắt nồng nàn hơn và cũng lạ hơn. Có đôi khi tôi nghĩ đến một đứa con với chị. Ban đầu, có một thoáng lo âu. Nhưng với cái tính liều mạng, lơ mơ hay do bản năng, cũng không rõ nữa. Tôi nghĩ “Có thì nuôi, chẳng sao cả, một cái hôn thú và một khai sinh thêm hơn một ngàn trợ cấp“. Và tôi còn có cả một kế hoạch là phải nuôi con như thế nào. Tất nhiên, tôi không nói ra. Còn chị thì tôi biết, chị ấy sợ. Đã có những biểu hiện cho tôi biết điều này. Và tôi cũng biết tại sao chị làm thế. Nhưng tôi, thì không hiểu sao tôi cũng chẳng phàn nàn. Ôi! Một cuộc tình quá đỗi mong manh.
Thỉnh thoảng, một mình tôi lang thang ở đâu đó thưa người. Đồi Cù, hồ Than Thở, thác Cam Ly hay ngồi trầm ngâm ở café Tùng. Tôi nhớ về những ước vọng của mình. Điểm danh bạn bè đã xa tứ tán. Nhớ những kỷ niệm thời tuổi nhỏ. Nhìn ngắm những thằng cùng thế hệ đang nổi đình, nổi đám trong giới văn học nghệ thuật, và cả trên chính trường. Từ đó tôi nhìn lại mình, rồi nhớ lại những lời ba tôi nhắn nhủ khi đưa tôi ra bến xe. Hốt nhiên mọi thứ không còn là gì hết ngoài tấm lưng mênh mông đầy hơi ấm của ba tôi. Ôi gần hai năm, tôi chưa trở về nhà.
Những lúc như thế, thỉnh thoảng có một vài tứ thơ len lõi trong đầu. Nhưng chỉ là tứ thơ chớ chưa bao giờ là thơ. Không hiểu sao, lúc nào cũng thế, khi nghĩ đến thơ thì tôi nghĩ về thơ tình. Những nhớ nhung xao động của tôi, khi thì chưa đủ, khi thì quá nhiều, quá đa đoan nên chưa thể thành thơ. Và tôi tìm đến những cây đa, cây đề trong khu vườn Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân để đáp ứng những xao động trong lòng. Lạ một điều là chưa bao giờ tôi có một tứ thơ nào về cuộc tình này. Có lẽ chính nó đã là quá thơ rồi.
            Như có một cái gì đó thúc giục. Tôi làm đơn xin nghỉ phép thường niên. Từ ngày mặc áo lính đến giờ, tôi chưa có một tờ giấy phép nào nên cũng được chấp thuận nhanh chóng. Giao súng ống lại cho tiếp liệu. Gởi luôn quân trang quân dụng. Tròng vào người bộ thường phục, Tôi ra chợ chuẩn bị tất cả mọi thứ cho mười lăm ngày phép của tôi. Tôi mang tất cả ra bến xe, đón xe về nhà chị, mang theo trong lòng một nỗi nôn nao mà tôi cũng không rõ vì sao. Chị đang chăm sóc những luống hoa. Thấy tôi mang bộ thường phục trên người và lỉnh kỉnh đồ đạc trên tay. Đôi mắt chị ánh lên một niềm vui hay một tia hy vọng và một nụ cười mở ra. Nhưng tất cả im lặng. Tôi nhìn chị đang ngồi bên luống hoa và luống cuống với công việc của mình. Tôi nói:
    - Không chăm sóc một ngày có sao không?
   Chị nhìn tôi, lắc đầu. Tôi bước đến đưa tay ra. Chị nhìn hai tay mình bám đầy đất cát. Tôi gật đầu nói nhỏ :
    - Đưa đây.
   Khi tôi nắm lấy, bàn tay ấy run lên. Chị đứng dậy, tay kia với lấy cái túi. Chúng tôi vào nhà. Chị bảo :
    - Tôi tắm xong rồi pha café cho cậu nhé. Cậu mua cái gì mà nhiều vậy?
   Tôi kéo chị vào lòng:
   - Không phải làm gì cả. Tôi đã uống café ngoài phố. Hãy ở bên tôi. Tôi chỉ có mười lăm ngày. Hiểu không?
   Không trả lời tôi và gỡ nhẹ tay tôi ra, chị bảo:
   - Thì hãy để đi tắm mà. Từ sáng đến giờ ở ngoài ấy. Mồ hôi, đất cát đầy cả người đây. Người ngợm hôi hám lắm.
   Một nỗi ham muốn kỳ lạ trào dâng lên trong lòng. Tôi ghì chặt chị vào người và hôn tới tấp trên khuôn mặt đượm mồ hôi. Tôi giật tung những gì có trên người chị. Những bịt, gói mà cả hai cầm trên tay rơi lịch bịch xuống nền nhà. Cái vị mằn mặn của mồ hôi, cái vị nhàn nhạt của đất cát và cái mùi mồ hôi nồng nồng trên thân thể chị cuốn hút tôi càng lúc càng dữ dội. Chị càng dãy giụa, tôi càng quyết liệt. Khuôn ngực, rồi tất cả hiển hiện trong đôi mắt mờ tối của tôi và lần này không hiểu vì sao mà sức cuốn hút lại mãnh liệt đến thế. Đôi tay mỏng manh của chị, theo phản ứng tự nhiên, càng cố che chắn thì càng làm bật ra thêm sự lôi cuốn. Tôi tìm xuống cỗ, xuống ngực. Sự ham hố của tôi bốc lên tột cùng như một con thú hoang đói khát lâu ngày, trong khi đôi tay thì gần như muốn bóp vụn cái thân thể ấy. Sự kềm chế xúc cảm làm cho chị run rẫy, oằn oại trong tay tôi. Khi tôi cúi xuống sâu hơn, sâu hơn Chị co rúm người rên rĩ, giọng đứt quảng. Bằng những hơi sức ít oi còn sót lại, chưa bị sự tác động của xúc cảm, chị đẩy mạnh tôi ra, rồi chạy vụt đi, buông lại một câu mà không có một nhà ngôn ngữ học nào có thể phân tích nổi tự loại.:
 điên quá? Thế cố, thế mà, cũng, cố vào
Tôi ngẫn người nhìn theo thân thể trần truồng trắng lóa ấy cuống cuồng khuất dần ở nhà sau và nghe từ trong đó vọng ra cũng một câu không đầu không đuôi cùng với ngữ điệu như vừa rồi, có những âm thanh bị nghẹn lại:
            - Nằm nghỉ đi. Để để rồi pha mà uống.
Tôi nhặt những bịt gói, rơi vung vãi đó đây, sắp lên bàn, cuối cùng là cầm lấy bộ quần áo rách nát, tả tơi của chị. Từ trong đó tỏa vào tôi một thứ mùi gì đó lạ lẫm, cuốn hút, bất giác tôi nhìn ra nhà sau và phải cố gắng hết sức để tự trấn áp mình. Tôi tần ngần để bộ quần áo lên bàn và bước ra cửa nhìn ngó quanh quanh, rồi cúi xuống nhặt những trái thông khô chất lại, bật diêm lên đốt. Mùi nhựa thông theo làn khói lượn lờ bốc lên rồi lan tỏa trong tiếng reo dặt dìu của rừng thông, những ham muốn dữ dội, hoang dã của tôi dịu đi. Tôi đưa tay chà xát mặt mình, mùi mồ hôi trên thân thể của chị còn đẫm đầy trên mặt tôi và đang phảng phất. Những vệt nắng chiều len qua những kẻ lá thông, rọi lên những luống hoa, nhảy nhót trên những cành lá chập chờn vì gió. Những màu sắc ở đó làm cho tôi tỉnh táo dần ra. Tôi ngồi xuống và nhớ lại những hành động của mình và lòng nôn nao chờ đợi.
 - Vào… vào uống café đi. Nguội hết đấy. Tiếng chị vọng lại từ phía sau.
 Tôi quay lại và thấy chị đang tạt nước vào đống lửa. Một bựng khói bốc lên rồi tan loảng trong gió. Tôi bước xuống những bậc thang và đi theo chị vào nhà.
- Sao mà nghiện mùi nhựa thông đến thế? Vào uống café. Chờ cơm chín rồi ăn. Khuôn mặt chị hồng lên và cả thân thể ấy hình như cũng thế.
Tôi nhìn chị và tôi biết chị đang cố tự kềm chế mình:
- Uống café thôi. Không ăn cơm.
- Giờ này không ăn cơm thì làm cái gì? Cứ ăn xong đi... Chị cười, đôi mắt sáng lên rồi như mờ lại. Những câu nói của chị vẫn không có đại từ.
Cơm được dọn ra. Cả hai im lặng ngồi ăn. Lâu lâu hai ánh mắt chạm nhau. Có biết bao điều muốn nói, chúng tôi sợ phải nói thật lòng mình, vì nói ra thì nó sẽ tan đi. Sợ nói thật ý nghĩ của mình, vì nói ra là cay xót. Thời gian của chúng tôi ngắn ngủi vô cùng.
Bóng tối xuống dần. Chị đang làm gì đó phía sau nhà. Không hiểu sao tôi không tóm lấy chị và mà tôi ngồi nhìn bóng tối phủ chụp xuống, nôn nao đợi chờ. Trời càng lúc càng lạnh, những luồng gió hắt lên từ thung lũng. Tiếng thông reo vi vút như đến thiên thu. Cái tiếng thông reo này lạ thật. Chỉ là gió đùa trên lá, lá chạm vào nhau. Nó không xào xạc hay ầm ào như cây, lá ở đồng bằng. Nói là reo nhưng chẳng phải là reo. Mà là những tiếng vi vu, mà là những thì thầm. Không phải. Nó như là hơi thở, hơi thở của đất trời hay là cái hơi thở của chúng tôi trong cơn ân ái. Nếu đúng như vậy thì… Ôi thôi. Thiên nhiên ân tình không ngưng nghỉ. Còn chúng tôi. Tại sao không? Cái áo khoác choàng lên người tôi kèm theo ánh mắt long lanh trong đêm tối. Một hơi thở ấm và dồn dập phả vào mặt tôi như cơn lốc cuốn. Cái khuôn ngực nhể nhại mồ hôi trên cái thân thể trần truồng cuống quýt chấp chới khi thoát khỏi tay tôi lại hiển hiện, cùng cái mùi vị ấy đang còn phảng phất quanh đây. Sự tưởng tượng đang cuốn hút và gây nôn nao trong tôi làm cho tôi quên là cái thân thể ấy đang ở sát phía sau lưng. Tiếng chị thì thầm:
- Hung dữ quá đi. Quần áo rách hết cả. Tại sao lại thế?
- Không biết? Có làm cho đau không?
Chị lắc đầu và im lặng mở cúc áo, dưới ánh đèn chập choạng, tôi nhìn thấy một dấu hằn tạo nên một vệt tím hồng trên vai. Tôi nhìn chị dò hỏi:
- Lúc giật cái áo lót.
 Tôi lại bị cuốn theo cái lối nói trỏng trơ. Tôi choàng tay qua hông chị và thân thể ấy đổ sụp vào tôi như không sức lực. Một ánh chớp lóe lên trong đầu trong cơn si dại. Mười lăm ngày. Tôi chỉ còn có ngần ấy thời gian. Lại một lần nữa, tự tay tôi cuốn phăng hết tất cả những vướng bận của cả hai bằng một động thái gấp gáp, cuồng nộ không kém ban chiều. Chị gần như hoàn toàn tê liệt trong tay tôi, những cử động của chị chỉ là sự tuân phục và nương theo những hành động dữ dội và thô bạo của tôi, và để rồi tấm nệm trải giường oằn oại như bốc cháy. Cứ thế đôi môi tham lam của tôi tìm đến khắp nơi, gieo rắc xuống tấm thân ấy những run rẫy ầm ào. Và chị nữa, vừa nhận vừa đáp trả lại tôi những xúc cảm gần như điên cuồng cho đến khi tất cả im ắng trở lại và chỉ còn có tiếng thông reo từ bên ngoài len vào và mang đi những nhịp thở kỳ thú của chúng tôi về với núi đồi.
            Tôi chồm qua người chị, lấy tấm chăn choàng qua cả hai. Chị vẫn nằm yên, tôi luồn tay xuống dưới cỗ và nâng cho chị gối đầu lên ngực tôi. Thân thể ấy gần như không còn một tí sức lực nào, chị cứ để cho tôi muốn làm gì thì làm, tôi chỉ cảm nhận được một hơi thở nhẹ và ấm phả xuống ngực. Mãi một lúc sau chị nói bằng giọng rất nhẹ:
            - Có muốn nghe nói không?
            - Có, nói đi.
            - Sao lại thế?
- Nghĩa là sao?
- Ban chiều, rồi mới đây Mọi khi đâu có thế kia. Như là con cọp ấy.
- Có thấy cọp bao giờ chưa?
- Chưa. Nhưng nghe nói hung ác lắm. Nó làm tình làm tội con mồi cho thỏa thuê rồi mới ăn thịt.
Bổng dưng tôi rùng mình, những lần làm tình cùng Hà, tôi như thế đó. Dữ dội trong động thái, tàn ác trong cư xử. Nhìn Hà oằn oại, phát ra những tiếng rên rĩ như đau đớn. Ban đầu thì thấy kỳ kỳ nhưng sau đó là thích thú, thích thú dã man. Nhưng từ ngày Hà chết đến giờ. Tôi không có dịp để giở cái trò này. Không lẽ dù với chị thì tôi không đến như thế. Vẫn một thái độ trân trọng như mọi khi nhưng trong ý muốn thì tôi muốn nghiền nát chị ấy trong tay tôi. Không biết, trong cơn cuồng loạn vì cảm xúc ấy tôi có thực hiện những ý định đó không. Tôi cố gạt cái ý nghĩ này bằng những cử chỉ vuốt ve âu yếm và nói tránh đi:
- Có lẽ khi biết được có một thời gian trọn vẹn cho mình thành ra bị phấn kích. Mà đâu có ăn thịt đâu? Chỉ yêu thương thôi mà. Không thích thế sao?
Chị dụi dụi khuôn mặt lên ngực tôi im lặng, một lúc sau chị nói, giọng nhẹ và thầm thì như gió:
- Đừng cười nhé, thích đấy. Nhưng… sợ. Rất sợ. Sau thế nào cũng được, chiều hết mà Nhưng xin đừng hung tợn như thế, không quen đâu? Không chịu nổi, suýt ngất mấy lần.
- Sao không nói?
- Ai biết muốn ngất rồi làm sao nóiTạitại vì thương... Mà cũng kỳ. Khi làm mệt, mồ hôi nhiều. Người hôi lắm. Bộ không biết sao?
- Trời thì lạnh thế này. Mà ngày nào cũng tắm hai lượt sáng chiều. Còn hôi hám nỗi gì?
- Điên.
- Không điên.
Chị trở giọng nhẹ nhàng hơn:
- Thân thể cả hai sạch sẽ tinh tươm. Thế có hay hơn không.
Tôi không nói gì. Chị cũng yên lặng. Trời vẫn lạnh và ngoài kia sương mù đang chụp xuống trắng xóa cả không gian. Nhưng hơi thở của chị, vòng tay và cả thân thể nữa thì bao giờ cũng làm cho tôi ấm lại. Một lúc sau chị nói:
- Có một ông thầy tướng số. Ông ta nói là số rất gian truân trên đường tình cảm. Phải tới đời chồng thứ tư mới mong yên ổn.
Tôi hết hồn:
 - Sao mà điên thế? Còn không thì ông ấy điên. Chồng ở đâu mà lắm thế? Vậy mà cũng tin. Gặp ông ấy chắc phải bẻ răng.
Bổng dưng chị lại lặng yên, trong khi tôi bắt đầu đùa nghịch trên thân thể chị. Hình như lâu lắm, rất lâu sau chị mới nói bằng cái giọng như khóc:
 - Thằng bé lúc này ở dưới chắc lạnh lắm.
 Tôi ngồi bật dậy như điện giật:
  - Nói cái gì?
  - Con chết rồi.
  - Cái gì?
  - Con chết rồi.
  Chị ngồi dậy rồi gục đầu vào vai tôi, giọng nói trở nên bình tỉnh hơn. Còn tôi thì như hóa đá, tay chân như tê cóng lại. Không còn những câu không có đại từ, chị nói giọng ráo hoảnh:
  - Ba nó. Khi cậu rời đây được một tuần. Thằng mất dạy ấy đến bắt con đi. Tôi như điên dại kiếm tìm, nhưng vô phương. Chẳng bao lâu thì tôi nghe con chết vì sốt xuất huyết. Tôi khổ lắm cậu ơi. Tôi tìm đến với hy vọng có thể làm được một điều gì đó cho con. nhưng mọi người nhìn tôi ghẻ lạnh. Tôi không hiểu tại sao người ta lại cư xử với tôi như thế. Tôi điên tiết lên, gào khóc, chửi rủa như con mẹ điên. Cái gì tôi cũng chịu nổi. Nhưng nhìn thấy ba mẹ anh ấy, cái ông ngồi trên bàn thờ kia, kêu trời, kêu đất. Dù biết rằng nó không phải là cháu nội của mình. Tôi cảm thấy mình xiết bao tội lỗi. Và mới đây, tôi thấy mấy thanh chocolat nhảo nhoét trong túi áo của cậu. Cậu thương con, điều đó làm cho tôi thêm đau đớn. Cậu không hỏi, tôi biết tại sao lại thế. Mấy lần tôi định nói nhưng không hiểu sao lại thôi.
  Những giọt nước mắt bắt đầu rơi xuống vai tôi. Hình ảnh thằng bé hiện về. Thằng bé ít nói, có vẻ lầm lì nhưng rất dễ thương. Những lần cậu cháu đèo nhau đi chơi, đi sắm đồ tết. Hỏi chi nó cũng cười. Chỉ món nào cũng ngượng nghịu. Học hành sáng dạ. Khi biết rằng được tôi chiều chuộng, nó chỉ đòi hỏi tôi có một điều duy nhất thỉnh thoảng mua cho nó vài thanh chocolat. Vậy mà. Bây giờ những thanh chocolat ấy vẫn im lìm nhảo nhoét nằm trong ba lô không tìm được ánh mắt vui mừng. Chúng tôi cứ ngồi như thế. Chị cứ khóc và hình bóng thằng bé cứ quay cuồng trong đầu tôi.
   Tôi đỡ chị nằm xuống. Muốn nói một đôi lời gì đó nhưng không thể. Chị lại là người lên tiếng, giọng lạnh tanh :
    - Số phận của mẹ con tôi là như thế. Người ta tước đoạt của tôi cái quyền làm mẹ. Người ta tước đoạt của tôi tất cả.
   Bổng giọng nói của chị chuyển sang âm điệu ngậm ngùi:
   - Lần đầu tôi xin cậu ái ân là vì khát vọng không kềm chế nổi, tôi cần một người đàn ông. Khi cậu trở lại, tôi bấu víu vào cậu, tôi cần những khơi gợi và thỏa mãn xúc cảm của thân thể để có thể lấp đầy cái hố đớn đau, tôi cần một người tình. Nhưng bây giờ thì thế đó. Tôi yêu cậu, nên cái tôi cần thì lại hơn thế nữa. Trái tim tôi nói như thế từ lâu và hôm nay mới khẳng định. Điều này nghe thật tức cười. Nhưng đó là một sự thật. Tình yêu đó đến cùng lúc với bước chân đầu tiên của cậu đặt vào ngôi nhà này. Có những lúc tôi ngồi trên đồi, nhìn thấy cậu đang đùa với con. Trong lòng tôi xao động, tôi mơ màng thả những ước mơ của mình giữa tiếng thông reo, tôi nhìn lên khung trời đầy nắng và trái tim tôi ấm lại. Nhiều lần, nhiều lần như thế. Nhưng tôi cố sức phủ nhận nó, càng cố sức tôi càng chìm sâu. Càng đè nén nó thì nó càng lớn ra, lớn ra đến độ cái thân thể tôi không thể nào chứa nổi. Tôi cố cho rằng, đó là một thứ dục vọng của một người đàn bà đã quen mùi vị của đàn ông và trong cơn thiếu thốn. Tôi tự sỉ vã mình và cũng tự buông thả mình. Tại sao lại thế? Nhưng cuối cùng tôi đã hiểu, nhưng tôi không chấp nhận, không dám chấp nhận. Cậu làm cho thân thể tôi không còn là của tôi nữa, nó thuộc quyền sở hữu của cậu, nó tuân theo mệnh lệnh của cậu cho đến kiệt sức. Tôi ngỡ như thế. Nhưng không phải vậy? Càng hiến dâng cho cậu nó càng thăng hoa. Lần đầu tiên rủ rê cậu ái ân, bây giờ nhớ lại tôi vẫn còn gai gai người vì vì một lẽ gì mà đến bây giờ tôi cũng không hiểu. Nhưng tuyệt cùng xúc cảm. Thế mà tôi vẫn cứ hoài nghi, cứ không tin. Lúc cậu rời đi. Tôi vẫn nằm yên trên đồi, hưởng thụ bằng hết những cảm xúc còn sót lại của lần ân ái sau cùng. “ Em yêu anh. Hiền ơi”. Tôi hét lên như thế, tôi chấp nhận cái sự thật tuyệt vời này khi cậu không còn ở bên tôi. Lời tỏ tình quái dị, muộn màng của tôi bị cơn gió mang vào hư không. Tôi nhớ cậu quay quắt. Nhưng chưa bao giờ tôi dám nghĩ cậu là của tôi. Rồi khi con tôi không còn nữa. Tôi đớn đau đến tận cùng và trong đau đớn ấy tôi mới thấy tôi cần cậu xiết bao. “ Tôi chỉ cần cậu như một người đàn bà cần người đàn ông”. Đó là một cách mà tôi nói thầm biết bao lần, để phủ nhận cái thực chất là tôi cần một người yêu. Bởi thế, tôi không thể nào chấp nhận những người đàn ông tìm đến  với những lời nói ỡm ờ, đưa đẩy. Để giờ đây tôi cần có cậu như một người vợ cần một người chồng. Cậu có biết tại sao bây giờ tôi mới nói ra điều này không? Bởi vì tôi biết cậu yêu tôi. Nếu không thì tại sao cậu lại xử sự với tôi như thế; nếu không thì tại sao cậu lại nghĩ là thời gian còn lại cho chúng mình quá ngắn; nếu không tại sao cậu lại muốn bóp vụn tôi trong tay cậu; nếu không tại sao cậu muốn biến tôi trở thành thân thể của cậu. Cậu nâng niu tôi trong đôi tay và trân trọng truyền đạt cho tôi, chờ đợi và làm cho tôi đạt đến đỉnh cao nhất của xúc cảm yêu đương. Chỉ có tình yêu mới làm cho cậu trở thành như thế. Nhưng tôi biết và cậu cũng biết, chúng mình không phải của nhau trong dài lâu. Cậu chỉ có mười lăm ngày. Nhưng cậu đã sửa sang chăm chút lại ngôi nhà. Những việc làm đó kết quả hiện thực chẳng là bao, nhưng nó làm run rẫy trái tim tôi. Tôi muốn chồng. Ôi cái câu nói nghe mà mắc cười, nhưng đó là một sự thật khi mà cậu lại thể hiện thái độ làm chồng trước mặt tôi một cách vẹn toàn. Nhưng chúng mình chỉ có ngần ấy thời gian, còn lại là chân trời góc bể. Thế nên
 Chị bỏ lửng câu nói và vẫn phả hơi ấm vào ngực tôi. Tôi phải nói gì đây, làm gì đây? Bây giờ thì chị đã nói ra hết những gì chị muốn và gần như nói hộ cho cả tôi. Trong đêm tối tôi mân mê khuôn mặt còn đẫm đầy nước mắt. Nước mắt khóc cho con và khóc cả cho mình. Và biết đâu còn khóc cho cả một tình yêu vừa được nói ra, rồi nhanh chóng mất đi. Thông vẫn reo vi vút bên ngoài…
… và reo vi vút trong thân thể cả hai. Chị chồm dậy đắm đuối hôn tôi, nhưng lần này không là sự gọi mời mà là để che lấp nỗi xót đau, sau đó chị tiếp, giọng nói gần như không còn bình tỉnh nữa:
 -  thân thể tôi đã là của cậu rồi. Cậu hãy sử dụng nó, tàn phá nó, yêu thương nó, trân trọng nó hay làm gì đó thì tùy thích. Tất cả tuân phục ý muốn của cậu không điều kiện. Tôi chỉ xin cậu một điều. Mình hãy là vợ chồng với nhau đi? Mười lăm ngày, cuộc sống vợ chồng chỉ có bấy nhiêu? Cậu có biết tại sao tôi muốn thế không? Bởi vì khi cùng cậu ái ân, tôi thèm biết bao nhiêu tiếng xưng em với cậu khi mà thân thể đã run đến tận cùng khoái cảm. Ngay giờ này, tôi là vợ cậu và cậu cũng là chồng tôi. Nhưng nếu mình là vợ chồng với nhau đến mười, hai mươi năm nữa thì không thể. Suốt đời lại càng không được. Sẽ tội nghiệp cho cậu xiết bao và buồn tủi cho tôi xiết bao. Mà tôi thì tôi biết chắc rằng, tôi yêu cậu mãi không thôi, cậu cũng thế. Mà yêu nhau rồi gây khó cho nhau thì đau xót biết nhường nào. Cậu xác định đi.
 Không hiểu sao tôi nói :
- Vì vậy mà chỉ là mười lăm ngày thôi.
- Không giải thích nữa. Trả lời đi.
- Nhưng tại sao chỉ có bấy nhiêu? Tôi kỳ kèo. Chị biết là tôi yêu chị mà. Tôi có cách làm cho nó dài hơn.
Chị ngồi dậy nhìn thẳng vào mắt tôi. Trong ánh sáng mờ mờ của ngọn dèn dầu, ánh mắt ấy sáng rực lên và giọng chị trở nên quyết liệt:
- Mười lăm ngày. Xác định lại. Có hay Không.
Hai bàn tay tìm nhau, chúng xiết chặt vào nhau. Nhẹ nhàng, run rẩy.
Chị áp mặt vào ngực tôi, lại phả vào đó một hơi thở lạ lùng, ấm, lôi cuốn hơn mọi khi và bàn tay ấy dẫn dắt bàn tay tôi đi khắp cùng những nơi cần đến nó. Cuối cùng là âm thanh của tiếng nói nhẹ, run và thiết tha như tiếng gió đang thì thào đâu đó ở trên đồi:
-  Anh anh yêu em đi.
-  Vâng. Yêu em.
Tôi nhẹ nhàng đặt một cái hôn sẽ sàng và từ tốn vào đôi môi mềm mại chất chứa đầy những hơi hướm nồng nàn và cả những xót đau của số phận. Cứ như thế, chúng tôi cho nhau và nhận lại của nhau. Sau cơn ân ái, như thường lệ, tôi vẫn không quên đùa nghịch trên tấm thân vẫn còn chìm đắm trong dư vị ái ân. Khi sự ham muốn của tôi đã được đáp ứng, những hứng thú đã lắng xuống, nhưng tôi vẫn thực hiện những hành động ấy như là một sự đáp tạ một ân tình. Và dần dà hành động ấy dẫn dắt chúng tôi vào cơn say đắm mới. Và cũng đôi khi nó lại đưa tôi vào giấc ngủ sâu. Nhưng chẳng sao. Chúng tôi chỉ có mười lăm ngày nên không thể phí hoài. Và trong tiếng vi vu của đêm, của nắng cao nguyên bao giờ cũng có những thì thầm kêu gọi ái ân.

Một buổi chiều trên đỉnh đồi, chúng tôi ngồi tựa vào nhau, im lặng nghe tiếng thông reo và khi màn sương bắt đầu tỏa mờ thung lủng phía dưới. Chị nói nói với tôi:
- Hơn một năm mà anh thay đổi quá nhiều.
Tôi ngạc nhiên :
- Thay đổi, thay đổi ra sao nào?  Nói cho nghe.
- Anh thật sự là một người đàn ông. Anh không còn là một cậu bé con. Điều đó làm em sung sướng, nhưng cũng làm em lo lo.
- Nghĩa là sao?
- Những ngày trước anh không ái ân với em như thế? Khi trở lại, anh đến với em như là một người khác. Dù rằng anh vẫn là anh.
- Không hiểu?
- Nhưng em hiểu. Anh hung dữ và mạnh mẽ hơn trong ân ái. Đã nhiều lần anh làm em đau, may mà cảm xúc của em làm cho nó mờ đi. Thậm chí có đôi lúc em nghĩ “ Thôi kệ. Anh ấy muốn làm gì thì làm. Miễn anh ấy thích “. Nhưng rồi những gì anh thích thú thì lại cho em một cảm xúc tuyệt vời. Anh hung hãn bằng bộ dạng thôi. Còn lại thì Nhưng suy cho cùng thì cũng tại em. Em bày đặt cho anh lắm trò. Nhưng em cũng không ngờ là anh lại yêu em đến thế.
Tôi chợt hiểu và im lặng không nói gì. Một lát sau chị tiếp:
- Em nói, anh đừng giận em. Sau này khi rời khỏi em. Nếu cùng ân ái với ai, anh hãy thương yêu họ. Chí ít là trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó. Đừng nên lạm dụng thân xác họ để tự thỏa mãn mình. Như thế, không bao giờ anh sẽ có được những xúc cảm cần thiết mà tạo hóa ban tặng cho con người khi vầy cuộc ái ân.
Tôi thực sự lạ lùng, tôi không hiểu gì cả. Tôi hỏi:
- Nhưng muốn thương yêu thì cũng phải có thời gian.
- Nếu thế thì đừng nghe anh. Hãy kềm chế lại, tìm một việc gì đó để làm, chỉ một thoáng thôi, sự ham muốn sẽ qua đi. Cũng như cái hôm anh giật tung cả người em. Nhưng khi em thoát đi rồi thì xong thôi. Thời gian rất cần thiết cho yêu đương, cho ân ái. Anh biết em muốn nói gì mà.
Tôi lại yên lặng và nghe tiếp:
- Anh biết không? Trước khi vầy cuộc yêu đương thì cả hai phải cùng muốn thế và phải có sự chuẩn bị chu đáo từ thân thể đến tinh thần. Thân thể phải sạch sẽ xúc cảm mới cao. Tinh thần phải yên ắng mới dành hết được cho nhau. Em sẵn sàng chiều anh mọi lúc mọi nơi. Ngoại trừ lúc thân thể em không sạch sẽ. Còn tinh thần, lúc nào cũng thế em luôn luôn mong chờ được cùng anh. Nhớ nghe anh, không thương người ta được trọn đời thì cũng phải biết thương người ta trong khi ân ái. Nhớ cái hôm mà anh giật tung cả áo quần của em mà em phát sợ. Em biết lúc đó anh cần em, nhưng em chưa sẵn sàng. Dù lúc ấy, em run bắn cả người, muốn để anh làm gì thì làm. Nhưng nếu em chấp nhận. Điều đó, có nghĩa là em không tôn trọng anh. Hôm đó, khi em chạy đi và anh dừng lại không đuổi theo. Điều đó làm em nôn nao cả người, em thật sự rối rắm với mình khi mong anh chạy theo và cũng muốn anh vẫn đứng yên ở đó. Cuối cùng làn nước ấm làm cho em thật sự hạnh phúc, khi chuẩn bị thân thể mình thật tinh tươm để được dâng hiến cho anh, để được anh yêu chiều.
- Đúng là cô giáo dạy môn ân ái.
- Cứ cho là như thế đi. Tại vì em yêu anh mà. Em không dạy anh, em chỉ nói là em cần gì ở anh và em muốn biết anh cần gì ở em. Không phải chỉ là trong việc ái ân mà là nhiều thứ khác. Chúng ta có rất ít thời gian để ở bên nhau. Em không muốn phí hoài. Vâng. Em muốn thế, bởi vì đoạn đường đã qua của em đầy những chua xót, tủi buồn. Nên khi có được những phút giây thần thánh này thì tại sao em không chộp lấy và hưởng thụ bằng tất cả sức lực mình.  Điều đó có thể làm cho anh tự ái và xem thường em, cho là em là một mụ đàn bà dâm đảng. Nhưng anh không nghĩ thế, và làm em cảm động. Từ ngày đến với em, chưa bao giờ em thấy anh quay lưng lại hay lăn ra ngủ sau khi xong cuộc yêu đương. Khi chăm chút cho em, khi nghịch ngợm, táy máy tay chân. Bộ anh không mệt sao? Đã vậy còn bắt em thở mạnh để ngửi nữa. May mà em không bị viêm xoang. Vậy là em hết lo. Anh đã nhận lấy tâm hồn em, thân thể em từ những cái tốt đến cái xấu. Tất cả anh đều trân trọng. Anh không mệt sao?
- Có khi thì mệt, có lúc thì không. Nhưng nếu như lăn ra ngủ thì thấy kỳ kỳ. Thôi thì vuốt ve, âu yếm năm mười phút nữa cho trọn đạo ân tình. Lúc đó ngủ có sao đâu. Nhưng có một điều rất thích là khi xong. Hơi thở thơm hơn, đậm hơn. Đôi môi cũng ấm hơn. Không ngửi, không hôn cũng uổng.
- Ôi học trò của em ngoan thật. Nhưng em hỏi thật. Khi yêu em xong. Anh thấy em có xấu không?
- Không, vẫn đẹp. Nhưng có một vẻ đẹp khác.
- Khác làm sao?
- Chỉ thấy có vẻ đầy đặn hơn và có vẻ bất cần.
- Bất cần? Nghĩa là sao?
- Không rụt rè, không e ấp. Phơi bày tất cả trước mắt, trong bóng đêm, dưới ánh nắng. Mặc cho anh tha hồ ngắm nghía, tha hồ mân mê.
- Ừ. Em cũng tự làm lạ đấy. Nhưng thôi. Nói sao bây giờ, tại vì chúng mình thích thế.
Nói xong chị đứng dậy trút hết áo quần rồi ngồi xuống cái poncho laine bằng một tư thế đầy khiêu khích. Tôi nắm nhìn thân thể ấy qua bóng tối chập chờn, qua màn sương kỳ ảo. Trời bổng trở lạnh, chúng tôi nép sát vào nhau mà không nghĩ đến việc vào nhà, chúng tôi biết chúng tôi muốn gì. Cô giáo không nói gì thêm mà nép người sát vào tôi, ngẩng mặt lên chờ đợi. Chiều xuống thật nhanh, đỉnh đồi hoang vắng ấy càng thêm yên ắng. Yên ắng khi mà màn sương càng lúc càng dày hơn. Nhưng thân thể chị thì không yên ắng, từng vùng thịt da run rẩy khi làn môi tôi chạm đến. Khắp cùng như thường lệ. Thời gian và không gian như đứng lại.
Chúng tôi dịu dàng hơn trong lúc yêu đương, chúng tôi luôn luôn lắng nghe, nương theo, tìm cách nâng cao cảm xúc của nhau. Chúng tôi có cảm giác mình được sở hữu cái thân thể mà từ bao lâu nay luôn luôn tạo thành một nỗi háo hức muốn biến nó thành của riêng nhau. Chúng tôi nói cho nhau nghe về làng quê, về những cái chung quanh mình. Tôi có cảm giác mình như lớn lên. Người Góa Phụ Trồng Hoa biết rất nhiều về đời sống, về vận nước điều linh, về thân phận con người. Người Góa Phụ Trồng Hoa biết nhiều hơn tôi tưởng. Người Góa Phụ Trồng Hoa không chỉ đơn thuần là một người đàn bà góa bụa chịu nhiều thảm cảnh đang sống nhờ vào mấy luống hoa. Nhưng những hiểu biết ấy bị vây bọc bởi buồn đau và nỗi khao khát một ân tình. Vai trò của một cô giáo bị phủ dần dần bởi những màn sương trên một ngọn đồi hoang vắng. Nhưng sẽ không lụi tàn và nó đang tìm một hướng khác để tuôn ra, chí ít là trong cách hướng dẫn một cách cặn kẽ cho tôi những thái độ cần có trong khi vầy cuộc yêu đương. Từ khi đến nơi này, tôi co ro cảm nhận Đà Lạt bằng cái lạnh không quen và sau đó là háo hức trong hơi ấm nồng nàn. Bây giờ qua Người Góa Phụ Trồng Hoa, tôi cảm nhận thêm nhiều điều khác nữa. Đà Lạt mãi mãi trong tôi. Và cuối cùng, người ấy đã trở thành người vợ dễ thương. Cái cảm giác làm chồng có một điều gì đó lạ lẫm, kỳ thú. Chúng tôi không nói gì về những ước mơ, về tương lai của cả hai. Mười lăm ngày. Vâng chỉ mười lăm ngày. Tương lai chúng tôi đã được khẳng định, ngắn ngủi thế đấy, nhưng đầy ắp đắm say. Chúng tôi còn phải làm tất cả mọi việc cho nhau. Mà chủ yếu là lừa dối nhau và lừa dối chính mình bằng một thứ hạnh phúc mà không phải ai cũng có được. Những gì chúng tôi từng làm cho nhau được tái hiện lại một cách đằm thắm hơn và hoàn hảo hơn. Tạo hóa đã cho con người thân thể, nhưng tuyệt nhất vẫn là đôi môi. Bằng cái phương tiện tuyệt vời này, chúng tôi truyền đạt cho nhau những cảm xúc tuyệt diệu của tâm hồn, những thỏa mãn không cùng của thân thể. Từ đó chúng tôi phả vào nhau từng hơi thở nồng nàn, từng lời nói ngọt ngào, nhưng tuyệt nhất là những âm thanh say đắm bật lên trong đỉnh điểm của yêu đương. Và rồi, trên đỉnh đồi vắng lặng ấy chúng tôi nằm bên nhau nghe tiếng thông reo hoặc nhìn những áng mây bay qua bầu trời xanh ngắt, hoặc nhìn ngắm thân thể nhau phơi bày dưới ánh nắng, trong cả sương mù buốt lạnh hay mớm cho nhau những trái sim rừng bất chợt gặp đó đây. Hay là vuốt ve, âu yếm trong đêm khuya, hoặc khi tỉnh giấc lúc ánh bình minh xuyên qua kẻ lá. Vườn địa đàng của ông Adam và bà Eva cũng đến thế là cùng. Nếu có vị thiên thần nào đến bảo đừng ăn trái sim rừng vì nó là trái cấm, thì khi ông ấy bay đi, chúng tôi sẽ ăn cho bằng hết. Những ngôn ngữ chúng tôi nói với nhau là ngôn ngữ của ân tình. Ngôn ngữ ấy được nói bằng cả thân thể tràn đầy cảm xúc yêu đương.
Chúng tôi thường hay nắm tay nhau đi lang thang trên đỉnh đồi hoang vắng, chúng tôi cứ để thân thể tự do, không vướng bận và cũng để chứng minh: Cho núi đồi, cho khe suối; Cho trời xanh, cho những cội thông già; Cho những bụi sim rừng, cho lá hoa hoang dại; Cho mimosa, cho huệ, cho hồng; Cho cả lạnh lùng của mù sương, trong đêm vắng; Cho trăng sao, cho những đóa lan rừng; Cho nắng gío, cho mây ngàn, cho cả trăng sao. Cho những gì hiện diện chung quanh biết rằng: Chúng Tôi Là Vợ Chồng.
Trong căn phòng này, đầy hơi hướm ái ân; Trên đỉnh đồi kia, đầy nắng gió, sương ngàn; Bên những luống hoa trên triền đồi, đầy những sắc hương, hay bất cứ nơi nào cũng đầy những ân tình, cũng đầy những đắm say. Chúng tôi chăm chút nhau, say đắm nhau. Ngắm nhìn sự đổi thay của cây cỏ, lá hoa. Chăm sóc chúng, nghe chúng reo vui, nghe những thì thầm Một đời chồng vợ dồn lại có ngần ấy thời gian. Chúng tôi không quan tâm, không nhắc nhớ bất cứ cái gì? Hưởng thụ, dâng hiến và chu toàn trách nhiệm truyền đi và nhận lại cảm xúc của nhau. Và lúc này là lúc tôi thấu hiểu rõ ràng sự khác biệt giữa việc làm tình và ân ái.
           
Phải tới ngã ba Long Khánh. Tôi mới dám mở bức thư ra xem. Bởi vì, đến đây thì tôi không thể trở lại.
                    Thế là anh đã đi rồi,
            Để em lại giữa đỉnh đồi. Thông reo.
                    Thông reo thì cứ mãi reo.
             Và tình yêu đã về theo phương nào.
                    Hương hoa vẫn cứ ngọt ngào
              Giữa không gian đã đi vào quạnh hiu
                    Nhớ ơi, ngần ấy tình yêu,
               Một thời đã có quá nhiều ái ân.
                    Anh về lại với giòng sông,
               Mà mang hết cả đồi thông theo về.
                   Em chưa thấy sông bao giờ,
              Sao  con  sóng  lại  vỗ  bờ  bến  em.

           Anh yêu.
Thế là chúng mình phải chia lìa. Nhưng ngần ấy thì đã quá đủ cho em. Anh hứa với em đi. Hãy trở lại với em sau ba mươi năm nữa. Còn trở lại để làm gì? Thì sau đó anh sẽ hiểu. Có thể, khi anh trở lại thì không thấy được em và cũng có thể là em mỏi mắt trông chờ… và anh thì không đến. Nhưng thôi, đó là việc của mai sau. Bây giờ anh không có quyền nhớ tới em. Anh hãy sống cho mình. Anh hạnh phúc là em hạnh phúc. Em cũng như thế. Anh biết tại sao không? Dù không có gì cả, chỉ có một tấm lòng, nhưng anh là chồng em. Bởi vì em thực lòng nghĩ thế, luôn luôn nghĩ thế và thực hiện vai trò của người vợ bằng tất cả thân thể và tâm hồn mình. Hai người trước; Người thứ nhất chỉ là người tình họ Sở mà em ngỡ là chồng. Người thứ hai là người ơn mà em đem cái cái tình vợ chồng ra đáp trả, em bằng lòng như thế. Nhưng anh ấy lại cũng phải xa em. Người thứ ba là anh, một người chồng đích thực. Yêu thương chân thành, ái ân cuồng nhiệt, hạnh phúc khôn cùng. Nhưng anh ơi. Trong đời sống vợ chồng thì bao nhiêu đó là đủ sao anh? Còn phải sống với nhau cho đến cuối đời để trải qua những Khó Nhọc, Đắng Cay, Dỗi Hờn Và Hạnh Phúc. Nhưng ai bảo anh lại là người đứng hàng số ba? Nên chúng ta chỉ có cái cuối cùng. Hạnh phúc. Hạnh phúc thật tuyệt vời nhưng ngắn ngủi. Tại sao anh không là số bốn như ông thầy bói mắc dịch đã nói với em? Tại sao em lại nhảy bổ vào cuộc đời này sớm thế để làm gì mà không sinh ra muộn mười năm nữa? Ôi nhiều cái tại sao đã làm nên số phận. Số phận, có mà như không có: Có, thì tại sao mình yêu nhau đến thế mà không là vợ chồng mãi mãi; Không, thì tại sao em lại gặp anh. Nhưng thôi nghe anh. Cứ chăm chăm vào cái số phận mơ hồ ấy để làm gì? Những gì là lẽ sống của đời em đều lần lượt vuột khỏi tay em. Con em và anh nữa. Nhưng không lẽ vì thế mà em không sống. Em biết những ngày sắp tới của em sẽ làm anh nặng lòng, chứ không phải là những đắm say làm điên đảo đất trời, dù rằng đó là mục đích sống đích thực của những người biết yêu nhau. Trong Đó Có Vợ Chồng Mình. Bởi thế, với tư cách là người vợ đã ly thân mà vẫn còn được yêu anh, vẫn còn được anh yêu. Em hứa với anh. Em sẽ có một cuộc sống dưới một mái gia đình có hạnh phúc đàng hoàng. Anh đừng lo, khi gặp ông chồng thứ tư thì em sẽ thôi, không yêu anh nữa. Để cho ông ấy khỏi buồn. Biết đâu ông thầy bói nói trúng. Em cũng nhắc lại là chồng chứ không phải nhân tình. Có thể em phải cố gắng lắm mới có thể yêu. Nhưng chắc chắn người ấy phải là người yêu em. Anh cũng hứa với em như vậy đi. Điều này rất khó phải không anh. Nhưng nếu mình cố gắng thì sẽ được. Thời gian và hoàn cảnh sống sẽ giúp mình.
          Em làm thơ có được không anh? Dù gì em cũng là cô giáo mà. Anh biết không? Hồi còn học ở trường Sư Phạm, em được bạn bè gọi là thi sĩ đấy. Nhưng thời đó thì đã xa rồi. Bây giờ em là cô giáo mất dạy phải không anh với cả hai nghĩa đen trắng của cuộc đời? Và em đã trở thành Người Goá Phụ Trồng Hoa với tấm thân và tâm hồn lấm lem đất cát. Người Goá Phụ Trồng Hoa của anh. Tại sao anh lại gọi em như thế. Cái tên nghe rất đẹp, nhưng cũng rất buồn. Chưa có ai và cũng chẳng còn ai, chỉ anh là người duy nhất gọi em như thế. Và vì vậy Em Yêu Anh. Có người goá phụ nào mà có được một niềm vui? Nhưng bây giờ thì đã khác rồi, vì yêu anh, vì được anh yêu. Em phải làm một điều gì đó cho chính mình, bài thơ em viết cho anh là một sự khởi đầu lại. Trồng những bông hoa tươi thắm để làm đẹp cho đời, thì không lý do gì mà chẳng làm đẹp cho mình. Suy cho cùng, người trồng hoa mà đẹp thì bông hoa cũng sẽ đẹp theo. Phải thế không anh? Bắt đầu từ hôm nay, mỗi ngày em sẽ chọn một bông hoa đẹp nhất từ những luống hoa kia, để đặt lên đầu giường. Bông hoa đó sẽ nhìn em trăn trở khi nhớ thương anh, làm đậm đà thêm hơi hướm của anh còn sót lại. Em sẽ để tâm hồn bay bổng trong ngôn ngữ thi ca. Có thể nó sẽ không ra hồn gì? Nhưng ít ra thì nó cũng làm cho em có một niềm tin để sống? Bởi vì, một bài thơ dù có thế nào thì nó vẫn cứ đẹp, dù chỉ viết về một sự chia lìa.
Anh yêu. Trong mười lăm ngày ấy. Anh có để ý điều gì không? Những luống hoa của em, hoa nở đẹp hơn đấy. Nhưng trong những ngày sắp tới, thì những bông hoa ấy vẫn cứ đẹp nhưng sẽ buồn hơn vì thương nhớ. Còn nữa, những quyển sách, những tạp chí anh mua cũng từng bước làm vơi đi những buồn tủi trong em. Thậm chí còn làm cho những ước mơ ban đầu sống lại. Và anh nữa. Dù bây giờ thì anh xa em thật rồi. Những ngày chúng mình bên nhau vui như thế nào thì những ngày sắp tới em cũng phải… và anh cũng phải…, dù rằng trong niềm vui ấy sẽ có ai đó thay vào. Với anh, thì không phải là em. Với em, thì không phải là anh. Nhưng vì mình yêu nhau, nên anh hãy cố gắng, nên em sẽ cố gắng. Quên nhau đi nghe anh. Đừng để những người vui với vợ chồng mình sau này là người thay thế. Nghe anh. Bởi vì như thế thì mới có thể làm đẹp đời nhau. Dù sao trong ba lần trở thành góa phụ thì lần này lại có rất nhiều điều đáng nhớ. Quá nhiều nỗi đau, nhưng quá ít niềm vui cho một đời người, phải không anh? Tại cái số em là như vậy mà. Lại lơ mơ vào cái số mệnh nữa rồi! Thôi. Em cám ơn anh. Bởi vì có một lần, trong lúc mình đang vầy cuộc yêu đương bên những luống hoa, chúng mình làm gãy một cành hồng. Anh xót xa tiếc nuối. Em cười và nói “một cành hoa có mấy đồng mà anh sao thế?” Đây là lần duy nhất anh tròn mắt, rồi sẳng giọng với em, anh nói “anh không tiếc mấy đồng bạc, mà anh tiếc cho cuộc sống, bị mình làm mất đi một bông hoa đẹp”. Đó cũng là những lần ít ỏi mà anh xưng anh với em một cách trơn tru, không lập bập. Vâng. Chỉ một đôi lần. Nhưng em biết anh đã làm hết sức mình để mà yêu em. Từ đó, em suy ra và hiểu, anh là người duy nhất từ trước tới giờ trân trọng em, thương yêu em và muốn làm chồng em lâu lâu một chút. Chắc trong lòng anh. Em đẹp lắm. Thế nên anh mới chiều chuộng hết lòng đến thế kia. Anh đừng cười em nghe. Nếu anh mà nghĩ thế thì em mắc cỡ đến chết thôi! Hay là anh chỉ tội nghiệp em. Chắc không phải vậy đâu? Phải không anh? Anh yêu em mà. Mà người đàn bà nào được yêu, thì cũng đều là người đàn bà đẹp. Em tin như thế. Bởi vì anh là người luôn luôn chăn gối với em mà chưa một lần từ chối, chưa một lần quay lưng lại, chưa một lần nào anh bỏ em lại một mình khi xong cuộc ái ân. Thậm chí còn nhiều hơn gấp trăm lần em mong muốn. Trong khi em còn đang đắm đuối với những cảm xúc, thì anh chăm chút cho em; kê cho em cái gối, sửa cho em mái tóc, đắp cho em cái chăn, tiếp tục phả vào em bằng hơi ấm đôi tay, bằng hơi thở… Anh làm mọi thứ để đưa em vào giấc ngủ yên bình, và cũng lắm khi anh gợi mở cho em cơn say đắm mới. Anh luôn luôn mang cho em những cảm xúc tuyệt diệu của tình yêu. Chỉ cần một bàn tay em lay động, chỉ cần em lơ đễnh để khuôn ngực thấp thoáng dưới hai vạt áo, hay thậm chí chỉ cần đôi mắt em mờ lại khi nhìn anh. Hoặc bất cứ hành động vô tình nào của em mang dáng dấp gọi mời, là anh đem hết tấm lòng mình, sức lực mình ra cùng em ân ái. Anh còm nhom thế, mà sao anh yêu em mạnh bạo quá, cuồng nhiệt quá. Rất nhiều lần em có cảm giác là đang tan rã trong vòng tay anh, và em cũng muốn anh và em tan loảng vào nhau, nhất là khi cuộc ái ân đi vào đỉnh điểm. Em thì đang muốn ngất đi còn anh thì hung tàn như một tên bạo chúa. Một bạo chúa có một quyền lực êm đềm. Có phải tại vì anh quá yêu em hay là em quá yêu anh. Cả hai phải không anh. Nhưng đúng hơn là anh quá đỗi dịu dàng, anh luôn tìm mọi cách để đưa em đến đỉnh cao của hạnh phúc Mà em thì bao giờ cũng thế, càng lúc càng muốn cao thêm. Anh thiệt là… lúc nào cũng ngốn ngấu lấy em. Anh làm cho em muốn hụt hơi, lắm khi không thở được, nhưng em lại thích thế. Em có hư quá không anh. Ai bảo anh chiều chuộng em chi? Ai bảo cái gì thuộc về em thì anh đều trân trọng; từ ngôi nhà gỗ tuềnh toàng cho đến cái thân thể lấm lem đất cát, và cả một trái tim tan nát của em.
 Anh yêu.
 Em nói điều này, anh đừng cười nhé. Những ngày đầu anh mới đến, em cứ xem anh như là một cậu nhóc con, nhưng trong lòng em thì xao động. Đã hàng trăm lần em nói không với lòng mình, nhưng lần sau bao giờ cũng yếu hơn lần trước. Rồi anh nhớ cái ngày đầu tiên đó không? Lần đó em không thể nào nói không được nữa. Cái hơi hướm của mùa Xuân sắp đến cùng với cái mùi mồ hôi quái ác của anh. Tất cả cuốn lấy em, dập vùi em và nhấn em chìm sâu trong ước muốn một cách không tiếc thương. Lúc đó nó buộc em phải nói ngược lại ý nghĩ, nghĩa là cho đúng với trái tim mình. Nếu anh từ chối em, chắc là em chẳng biết phải làm sao? Thế mà khi anh chấp nhận, em vẫn còn chưa tin. Nhưng khi em tan ra trong vòng tay anh, em thấy mình như trẻ lại. Rồi anh bỏ đi, rồi bao nhiêu chuyện khác xảy đến. Tất cả mọi thứ như sụp đổ hết đối với em. Không hiểu sao em tin rằng anh sẽ trở lại. Bởi vì nếu anh không trở lại thì em làm sao đây? Chắc là em chết mất. Và anh trở lại thật. Anh trở lại khi mà cái hơi hướm mơ hồ, còn sót lại trên bộ quần áo của anh, đang dẫn dắt em vào giấc mơ trên đỉnh đồi hiu hắt gió. Em mừng quá, đòi hỏi ở anh đủ điều. Anh chiều chuộng hết. Kể cả việc làm vợ chồng với em. Dù chỉ mười lăm ngày. Sao cái phép thường niên lại không phải là một tháng hay là… một trăm năm, mà chỉ có mười lăm ngày anh nhỉ?
Có một điều mà cả hai chúng ta cùng né tránh, Nhưng đó là một thực tế không thể phủ nhận. Em lớn tuổi hơn anh quá nhiều. Đó là một điều đầy cay đắng nhưng cũng hạnh phúc vô song. Bởi vì, nhờ nó mà em không thụ động trong yêu đương. Em đã từng trải qua bao nhiêu lần chịu đựng cho người hưởng thụ mình mà những gì nhận lại thì mong manh rồi tắt hẵn, nhường chỗ cho những xót đau. Em biết mình cần gì cho cảm xúc. Nên em khiêu khích anh và làm cho cả hai chúng ta đi đến điểm hưng phấn tột cùng và chúng mình truyền đạt và nhận lại ở nhau những cảm xúc chân thành. Anh và em nữa cùng khơi gợi và đón nhận tối đa khoái cảm. Và chúng ta hạnh phúc. Dù ngắn ngủi nhưng tràn đầy. Cũng vì thế nên em không dám chiếm đoạt anh và cũng không để cho anh chiếm đoạt. Cuối cùng là bức thư này. Bởi vì em biết, trong lòng anh còn có một giòng sông. Ở giòng sông đó, có giòng nước mang những giọt mồ hôi tạo ra anh, nuôi sống anh và cả những giọt mồ hôi của anh, tuổi thơ của anh. Và anh phải tiếp tục đổ xuống giòng sông ấy những giọt mồ hôi để gởi lại cho đời. Anh nói thế với em mà. Giòng sông ấy đang lặng lẽ chảy trong những mạch máu của anh, luôn luôn thúc hối anh về. Thế nên những gì anh cho em như thế là đã quá nhiều. Những giọt mồ hôi ấy đã thấm đẫm vào em. Em sẽ mang nó theo suốt cuộc đời mình, không để thời gian làm phai nhạt. Kể cả sau này khi em không còn yêu anh nữa. Anh ơi. Hình như em nghe có tiếng sóng vỗ lách tách trong lòng. Em chỉ nghe anh kể thôi, chứ chưa thấy giòng sông của quê anh. Thậm chí chưa bao giờ biết sông là gì? Nó có như giòng suối không anh? Nhưng những ngọn sóng ấy đang vỗ về em, những giòng nước hiền hoà ấy bắt đầu chảy trong em. Giòng sông mang tên Cái Lớn, chắc nó rộng lắm phải không anh. Nó có rộng bằng tấm lòng anh khi yêu em không? Em còn muốn viết cho anh nhiều nữa, viết đến suốt đời.
Nhưng thôi nhé anh. Em còn phải giữ lời hứa với anh. Tìm một hạnh phúc cho mình hay chí ít là một mái gia đình yên ấm. Để làm đẹp lòng anh.
            À mà tại sao anh chỉ kể cho em về giòng sông thôi. Cái tỉnh lỵ Rạch Giá thì không nghe anh nói một lời nào. Làng quê của anh, gia đình của anh, ngôi trường của anh, bạn bè của anh. Tất cả mọi thứ anh đều không nói gì. Chỉ có một giòng sông và những cánh đồng bạt ngàn những lúa. Ở đó có rất nhiều thứ mà em chưa biết bao giờ. Với những cái tên lạ lùng; Rặng đáy[xii], xuồng câu, ghe chài, xuồng ba lá… Hoa lục bình, lá dừa nước, cây bần, đọt choại[xiii]… Cá phèn, cá lẹp, cá sửu, cá chẽm, cá úc, cá đối, cá ngát, cá chốt, cá lóc, cá rô, cá sặc rằn… Cò rán, cò ma, trích cồ, trích ré, cồng cộc, bìm bịp, le le [xiv]… tên các giống lúa nghe rất lạ lùng; Thơm Cao, Thơm Lùn, Trắng Tép, Nàng Cum, Nàng Kè, Đất Phụng, Móng Chim, Nếp Đuôi, Nếp Bông Dừa… và nhiều thứ nữa. Ôi. Giòng sông chảy vắt ngang qua những cánh đồng và tràn đầy những cái tên lạ lùng như thế. Đối với anh, thân thuộc và đẹp đẽ xiết bao. Nhất là hoa lục bình màu tím còn có cái tên Phiêu Bồng Thảo. Ôi cái tên nghe rất là thơ, mà cũng rất là buồn. Có phải chăng anh là loài hoa ấy trôi dạt đến bến bờ em và bây giờ thì lại tiếp tục cuộc phiêu bồng.
 Ôi. Giòng sông quê anh, một xứ sở thần tiên chứa đựng biết bao điều kỳ thú. Và anh ở đó. Vậy anh có phải là thiên thần? Như vậy. Em yêu anh, em đâu có liều phải không anh? Được yêu một thiên thần thì còn gì hạnh phúc hơn. Nên có liều cũng không sao cả. Chẳng ai hay biết chuyện chúng mình. Mà dù có biết cũng kệ họ. Hơn nữa chúng mình yêu nhau, dù nó có oái oăm đấy (?) nhưng vô cùng kỳ thú. Nó là tình yêu mà. Một thứ mà em tìm kiếm biết bao năm. Chúng mình hạnh phúc hơn Roméo và Juliette. Họ đắm say trong nỗi sợ hãi. Họ chọn cái chết để mãi mãi bên nhau. Nhưng phía sau cái chết thì là cái gì ai mà biết được. Chúng mình đắm say trong sự say đắm của chúng mình. Chúng mình chọn sự chia lìa để mãi mãi bên nhau trong tâm tưởng. Chúng ta hạnh phúc hơn họ phải không anh. Vì chúng ta cảm nhận về rất nhiều điều về tình yêu mà mình có được.
Anh yêu.
Ngoài ra cũng còn một giòng sông khác. Đó là giòng sông chiến tranh đầy cuồng nộ vì những cơn giông bão điên khùng. Nó cuốn phăng đi tất cả những trong trắng của tuổi thơ, ước mơ của tuổi trẻ, hạnh phúc và êm đềm của tuổi già nua. Và nó đang làm cho chúng mình phân ly. Hơn ai hết anh biết giòng sông đó, vì anh đang bị cuốn vào. Ở lại thì anh sẽ ra sao? Nhưng thoát ra liệu anh có bình yên. Em biết thế nên đành để anh ra đi và chỉ cầu mong anh sẽ về với và sống với giòng sông Cái Lớn của anh. Em mong thế. Chân thành mong như thế. Dù rằng lúc đó chẳng có em.
Anh đã đọc gần hết lá thư, những điều em viết thì hầu hết là em đã nói với anh rồi, biểu lộ với anh rồi. Nhưng chắc chắn là không thể nói hết tấm lòng em, dù cho phải nói đến hàng vạn lần. Thế nên mỗi khi anh đọc lại lá thư này, nếu anh còn giữ, và mỗi lần anh đọc lại thì xem như là em dàn trải tấm lòng em thêm một lần nữa, rồi một lần nữa, một lần nữa… anh nhé. Em mong rằng anh luôn luôn dành cho em nhiều, rất nhiều cơ hội để em còn mãi nói tiếng yêu anh.
Anh yêu. Cuộc sống chẳng êm đềm. Nhưng không sao. Anh hứa với em nhé. Hãy tìm cho mình một cuộc sống bình yên. Chỉ còn có một cách duy nhất là tình yêu. Hãy vun vén khi tìm gặp. Hãy chăm bón cho nó đơm hoa. Dù rằng cuộc đời lính tráng của anh làm điều đó không dễ dàng gì. Nhưng em lại có một niềm tin là anh vẫn sống, chí ít là ba mươi năm nữa. Em đã dạy cho anh cách yêu đương và cũng đã dạy cho anh cách chăm sóc những bông hoa. Mong rằng có ai đó giúp anh. Mong rằng có ai đó giúp em. Như ngày nào đó mình giúp nhau làm thăng hoa cảm xúc.
Bây giờ. Anh muốn em hôn anh chỗ nào thì nói. Để em hôn lần cuối cùng. Hôn thật quyết liệt nghe anh. Anh đừng cười em nghe. Tại vì em yêu anh quá mà… Cuối cùng thì có một điều em muốn nói với anh… Nhưng thôi. Đâu có cái gì quan trọng hơn là chúng mình yêu nhau. Phải không anh? Hãy để cho em hôn anh lần nữa… lần nữa… lần nữa… lần…
Người Góa Phụ Trồng Hoa.
TB. Khi anh đọc xong những giòng này thì em vẫn còn nằm yên để lắng nghe thân thể mình từ từ cảm thụ những nồng nàn, những đắm say mà anh còn để lại. Em sẽ không để cho gió mang đi hay làm rót rơi đâu đó. Bởi vì đây là lần ân ái cuối cùng.

 Đơn vị đã chuyển về Sài Gòn trước khi tôi hết phép ba ngày. Tôi về trình diện được một tuần thì đơn vị chính thức được giải thể, tôi được chuyển về Sa Đéc, tỉnh mới thành lập.
Trước khi về trình diện đơn vị mới. Không hiểu sao tôi nán lại Sài Gòn khi nhìn thấy cái lệnh thuyên chuyển còn những mười lăm ngày hoàn toàn tự do. Ở lại, nhưng tôi chẳng biết để làm gì. Trở lại Đà Lạt thì… không thể. Sau khi tắm táp xong xuôi trong một khách sạn tầm tầm, thì tôi chẳng biết tại sao mình ở lại đây mà không về Rạch Giá. Cuối cùng, chẳng biết cái gì xui khiến, tôi thay bộ đồ thường phục, đón xích lô máy chui tuốt vào ngôi chùa, nơi tôi được dấn thân bằng cách kẽ bande roll. Cảnh vật không có gì thay đổi. Ông từ giữ chùa vẫn còn đó. Ông tiếp tôi một cách chân tình.
Khi cầm cuốn sách trên tay. Tôi thấy một nhóm bốn năm thanh niên trạc tuổi tôi đang ngồi bên hành lang. Thấy tôi, họ có vẻ ngần ngại. Nhưng không biết ông từ giữ chùa nói gì đó, nên họ vẫn tiếp tục bàn bạc kế hoạch của họ. Tôi vừa ngồi đọc sách, vừa nghe họ bàn bạc. Và rồi những giòng chữ, đang cuốn hút tôi, bắt đầu nhòe nhoẹt. Họ bàn về kế hoạch một cuộc biểu dương lực lượng. Qua câu chuyện, tôi biết họ là những kẻ làm thuê, chuyên huy động lực lượng để biểu tình. Ôi, Thời nào thì nghề nấy. Đây là kế hoạch của họ. Thuê các tay đầu gấu, ăn mặc lịch sự cho ra vẻ sinh viên, chận tại các ngã tư, họ chỉ cho người đi vào và ngăn chận những ai tìm cách thoát ra. Một nhóm khác có trách nhiệm gây ra một sự kiện nào đó để tập trung những kẻ hiếu kỳ. Một nhóm khác chuẩn bị sẵn bande roll và loa phóng thanh và cả những thứ cần thiết để chống lại lực lượng CSDC trấn áp bạo động. Khi đã thấy số lượng người đủ đông là nhóm chủ lực trương bande roll, biểu ngữ lên. Hò hét trên loa phóng thanh những nội dung được yêu cầu và hướng đoàn người đến nơi cần đến. Một cuộc biểu tình được hình thành chỉ với ba bốn chục người. Những người tham gia là số đông, thậm chí thật đông những kẻ đi đường đầy tính hiếu kỳ và sau đó là bị lôi cuốn, bị ép buộc vào. Tất nhiên, trong nhóm người này không thiếu những cảnh sát chìm. Tôi chợt nhớ đến cú dấn thân của mình. Và tôi nổi gai ốc. May mà hôm nay tôi mặc đồ thường phục. Và khi họ rời đi. Tôi lặng lẽ trả cuốn sách về chỗ cũ. Nói dăm câu qua quýt với ông từ, uống với ông vài ngụm trà nói vài câu bâng quơ, rồi đi. Khi ra khỏi ngôi chùa. Tôi chợt nhớ đến ông từ. Ông tuổi ngoài sáu mươi, lặng lẽ với công việc của mình. Không một thứ gì làm cho khuôn mặt già nua ấy gợn lên. Hốt nhiên tôi lại đem so sánh khuôn mặt tĩnh lặng ấy với khuôn mặt của những pho tượng Phật trong chùa. Một sự so sánh rất khiên cưỡng. Bởi vì nét tĩnh lặng trên khuôn mặt ông còn có một điều gì rất sống động hàm chứa bên trong. Hình như có một thứ gì đó ông đã dành cho tôi.
 Tất nhiên, trong những ngày nán lại Sài Gòn, tôi chứng kiến các cuộc biểu tình với đủ loại banderoll, với đủ loại nội dung kêu gào, thóa mạ, bôi tro trát trấu vào mặt nhau. Nhưng cái làm tôi buồn cười nhất, buồn cười chớ không giận dữ, với cái nội dung như sau “Nhỏ không học, lớn làm Cảnh Sát Dã Chiến”. Thế thì nhỏ mà có học thì lớn lên làm cái gì đây ta? Tôi thấy có nhiều, rất nhiều tay học hành đàng hoàng, bằng cấp cối bà bung mà lu bu hết chỗ nói. Thiệt tình, tay nào nghĩ ra cái câu này láo thật. Theo tôi thì nên sửa lại “Nhỏ không học, lớn làm chính trị“. Ôi những ngày lêu bêu ở đây, tôi kẽ không biết bao nhiêu là banderoll, nhưng chưa bao giờ gặp cái nội dung này. Cái này mới đây. Ngộ ghê? Chuyện như vậy mà thiên hạ cũng đơm đặt vào và lôi ra mà chửi được. Cũng may thời gian tôi ở lại Sài Gòn không nhiều, nên ít gặp lại bạn bè thời còn đi học mà lúc này hầu hết là lính và sinh viên. Chắc trong những đám biểu tình và CSDC ấy không ít thằng đã từng là bạn bè chí cốt với nhau. Thế là một thằng chửi và một thằng xách dùi cui nện. Một thằng võ biền (?) vì hay nện, một thằng hỗn láo (?) vì hay chửi. Chó thật. Thế mà thằng nào cũng cho là mình có lý (!?). Cái trò chính trị, coi bộ càng lúc càng bẩn thỉu ra đây. Ôi chính trị. Đúng là trò đá cá lăn dưa. Không biết trong các cuộc biểu tình ấy có bao nhiêu cuộc biểu tình làm theo kế hoạch mà tôi được nghe không nhỉ? Hốt nhiên tôi nhớ mấy ngày trước đây, khi mà tôi cùng Người Goá Phụ Trồng Hoa sử dụng cái miệng để truyền đạt cho nhau những cảm xúc thần thánh, tuyệt vời. Tôi đã nghĩ phương tiện tuyệt vời nhất mà tạo hóa ban cho con người là cái miệng . Thế mà trời ơi. Giờ đây cái phương tiện tuyệt vời trong tình yêu này đang trở thành một phương tiện hung hiễm, dơ bẩn cực kỳ trong cuộc sống. Tôi muốn bỏ hết tất cả để trở về nơi ấy. Tôi muốn tôi muốn trong nỗi nhớ ầm ào.
Rồi không hiểu sao cái hồn thơ, đã nhạt nhoà sau bao nhiêu ngày… kỳ cục, bổng nhiên sống dậy và nó được  dịp tung tẩy những câu cũng không kém phần… kỳ dị:
MỘT CÁI MIỆNG
ngẫm nga ngẫm nghĩ miệng con người
cái lưỡi không xương thiệt lắm lời
khi ngọt khi chua khi chảnh chọe
lúc tung lúc hứng lúc hơi hơi
mê danh vọng cong vòng lưỡi
ham chức quyền trớt quớt môi
lắt léo trăm đường không đỡ nổi
ngóng nghe rồi bó tay thôi
HAI CÁI MIỆNG
nghĩ tới, nghĩ lui cái miệng người
giá như mà chỉ để ăn thôi
chắc không đến nỗi gây phiền toái
cũng chẳng làm cho phải khổ đời
nếu muốn nói nên nói thật
hay là cười thì cười vui
có  khi  nên  rủ  rê  ai  đó
trót phải lòng nhau cãi chút chơi
Hai thái cực của cái miệng được tôi diễn tả có vẻ không thực lắm, một cái không đủ cay độc như nó vốn cay độc; một cái không đủ chất thơ như chất thơ vốn có. Thế là tôi lại nhét nó vào đâu đó, để rồi mấy mươi năm sau một thằng bạn chìa ra trước mắt và tôi đọc nó một cách vô cảm. Vì lúc đó cái miệng tôi móm xọm bà phều phào.
Nhưng bên cạnh cái hỗ lốn, nhố nhăng kia. Sài Gòn vẫn hào nhoáng, vẫn chân tình và thấp thoáng chiến tranh. Những cái tên tôi từng nghe, từng biết, thậm chí từng chia sẻ ở thế hệ chúng tôi. Tôi không muốn nhắc đến, dù rằng có một thời chúng tôi chia sẽ với nhau một ly xây chừng[xv], một điếu Ruby Queen, hay ngay cả một ổ bánh mì khô quắt khô queo như đá. Tuổi trẻ, với cái quá khứ học trò, chẳng những không làm cho gần lại mà càng lúc càng xa hơn. Sóng gió thì không rõ từ đâu thổi đến làm cho những thân quen tan tác và sự phân chia số phận. Thỉnh thoảng gặp nhau, chúng tôi nhìn nhau e dè, không e dè vì lạ mặt mà e dè vì cái thứ, không phải của chúng tôi, đang dính vào chúng tôi. Bộ quần áo trên người. Thế là chúng tôi tìm đến nhau, những thằng có bộ quần áo cùng màu.

Về Sa Đéc. Tôi thực sự trở thành người lính. Vừa về tới nơi. Tôi tham gia hầu hết mọi cuộc hành quân với tư cách lính trơn. Phải thôi, “đơ dèm cùi bắp mà”. Tưởng thế là yên, mới được hai tháng lại lên tiểu đội trưởng mà lại là tiểu đội trưởng thám báo, chuyên đi đầu, và lãnh đạn, và ăn mìn, và vướng chông. Cứ thế, những cái chết vô lý càng lúc càng trở nên bình thường kèm theo sự gian trá, phản bội, lừa lọc trong cuộc chiến giành lấy lẽ tử sinh, và một dúm người lợi dụng nó để đầu tư, để làm giàu cò con. Thú thật tôi không hiểu gì về những người đang cầm súng bắn vào tôi và nhận chịu sự giáng trả của tôi. Bổng dưng, không hiểu cái gì làm tôi nhớ lại mấy cái tranh tuyên truyền từ thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm vẽ hình ba bốn tay Cộng Sản đeo tòn teng trên cái tàu đu đủ, mà nhánh đu đủ coi bộ chẳng hề gì, làm tôi thấy bực bội. Nếu quả tình theo Cộng Sản mà ốm đói đến như vậy, thì tại sao có khối người theo. Ôi khi người ta tìm cách mà giết hại nhau thì có lắm chuyện buồn cười. Ăn đàng sóng, nói đàng gió thế kia mà lại làm được. Có lẽ đã nhận ra được cái kiểu tuyên truyền ba trợn này, nên lâu nay không thấy nữa. Không biết mấy tay Cộng Sản hàng ngày ra rả chửi bới bọn tôi ăn bơ thừa sữa cặn, có vẽ những cái hình mặt mày như heo hầm không nhỉ? Làm gì mà không được. Nếu thế thì tôi vô can. Vì cái béo, cái ngọt thì chẳng phải gu của tôi. Tới sữa của mẹ tôi mà tôi còn chê chỉ uống nước cơm pha đường chảy thôi mà (!?). Nghĩ cũng lạ. Mà có phải cái chuyện này không đâu? Biết bao nhiêu trò bôi tro, trát trấu vào mặt nhau. Từ là ông biến thành thằng không phải vì sự sa đọa của đạo đức bản thân của người được gọi, mà là do quan điểm chính trị của họ. Ngộ thiệt. Và phía sau những cuộc đổi ngôi này thì có biết bao kẻ vô can bị nhà tan cửa nát, sinh mạng tiêu tùng. Biết đâu, một ngày nào đó tôi phải góp mặt trong danh sách những kẻ vô can xấu số kia? Nếu tôi cho cuộc chiến tranh này là vô lý, thì tôi sẽ bị bất cứ ai chụp cho tôi bất cứ cái mũ nào, miễn sao cái mũ đó tạo tôi thành kẻ thù của họ và tôi bị gọi bằng thằng ngay, dù chưa bao giờ tôi được gọi là ông, là ngài. Tất nhiên tôi lo hão, bởi vì một con tép riu thì gọi ông hay thằng thì cũng chẳng hề chi. Chỉ có điều là tôi không thể chuyển tông một cách nhanh chóng như thế được. Nhất là cái kiểu chuyển tông mang đầy tính hỗn láo, xu nịnh và mất văn hóa như thế. Hốt nhiên tôi lại nhớ những người có bài viết trong Nhân Văn Giai Phẩm, mà tôi đọc được trong những ngày lang thang ở Sài Gòn. Chắc có lẽ giờ này họ thành thằng hết ráo. Dù đó là đồng chí Phan Khôi, Trần Dần, Phùng Quán, Thụy An, Lê Đạt lão làng hay Nguyễn Bùi Vợi chỉ mới chập chủm nhón chân vào.
Lính lác chúng tôi cứ vài thằng thì có một thằng có một cái radio, tất nhiên là chỉ để ở hậu cứ thôi. Tôi cũng có một cái hiệu Standard[xvi]. Số phận của cái radio này coi bộ khổ. Tôi đã nắm cỗ nó quăng vào tường không biết bao nhiêu lần khi mà nghe nó phát ra những cái luận điệu oái oăm của các đài phát. Cuối cùng nó ngủm luôn khi tôi nổi cơn khùng quăng tuốt xuống cái ao rau muống. Phải rất lâu sau tôi mới mua một cái khác xịn hơn, radio cassette hiệu Nivico và chỉ đút vào đó băng cassette sau khi gỡ cái turning liệng bỏ, để tránh cho một đồng đội nào đó táy máy tay chân. Tức là không thèm nghe radio nữa. Không giống ai. Nhưng đây lại là một thứ tôi có quyền lựa chọn.
            Người Mỹ càng lúc xuất hiện càng nhiều, tôi cũng chẳng biết họ làm gì và hiệu quả công việc của họ tới đâu? Cái việc duy nhất mà tôi có thể biết chắc cú một trăm phần trăm là khi họ kêu máy bay để làm một việc gì đó như tải quân, tải thương hay yễm trợ cho các cuộc hành quân, thì chắc như cua gạch. Thỉnh thoảng họ cũng xuất hiện ngoài phố và kéo theo một số trẻ con. Trông cũng hay hay, nhưng phía sau sự hay hay đó là cái gì thì có trời mà biết. Họ từ tốn, vui vẻ trông như vô hại. Và tôi chỉ thấy có thế. Thỉnh thoảng cũng có những tay ba trợn, mua chewing gum[xvii] hay đổi tiền lẻ rồi rải tung cho bọn trẻ tranh nhau. Tôi suýt chết trong một lần phản ứng lại việc làm này. Tên Mỹ có súng và tôi thì không. Nhưng tôi cũng giơ cái nón sắt, đập anh ta một cú như trời giáng, máu phun đỏ cả mặt mày. Và có lẽ anh ta bắn tồi hay là bị choáng, nên trật lất. Sau vố đó, tôi trở nên nổi tiếng. Các anh em bên sư đoàn 9 có lẽ khoái vụ này nên cũng thôi không ăn hiếp CSDC nữa. Từ đó mỗi khi đi đâu tôi đều mang theo khẩu P.38, kể cả khi mặc thường phục. Cũng may là suốt một khoảng thời gian dài tôi không còn thấy cái cảnh đó và tôi cũng không có dịp để sử dụng khẩu P.38. Hổng lẽ mấy tay lính Mỹ này lại sợ tôi?!
             Có một lúc nào đó, ngồi một mình nhớ gia đình, nhớ bạn bè, nhớ thầy xưa trường cũ, nhớ giòng sông Cái Lớn, nhớ những gì đã trải qua cuộc đời hơi nhiều so với tuổi của tôi. Nhớ lại cuộc sống đầy giông bão, rợn người khi nhớ đến cái chết tức tưởi của Hà. Nhớ những gì mình nhìn thấy. Mà ác hại thay, hầu hết những cái đã thấy, không có cái gì vui nổi. Tôi buồn nôn nao cả ruột. May mà nó chỉ là những giây phút ngắn ngủi. Để rồi sau đó là những công việc tới tấp phải làm và những rong chơi hoang đàng cần phải tham dự để lấp đi cái khoản thời gian dư thừa, cùng với những hy vọng hư ảo cho một tương lai đầy bất trắc của mình. Và trái tim tôi hầu như trơ cứng lại trước mọi tang thương. Việc bắn giết trên chiến trường trở thành việc bình thường. Bởi vì nói theo kiểu cao bồi miền Viễn Tây “Bắn chậm thì chết”. Thế nên, việc tranh thủ cho bản thân mình một ít quyền lợi nhỏ nhoi trở thành một điều rất ư cấp thiết để tồn tại. Nhưng giữa cái xô bồ khủng khiếp ấy thỉnh thoảng có những dấu lặng. Chính các dấu lặng ấy làm tôi đau đớn. Những nỗi nhớ không nguôi ấy đưa tôi vào ngỏ cụt. Tôi nghĩ suy, rồi lại dằn vật, rồi tìm quên, rồi lao đầu vào cuộc chơi, mà cuộc chơi nào thì cũng chết người. Rồi cũng lại tìm đến những xóm yên hoa trong khi tỉnh táo, nhưng cũng không thể. Nốc vài lon bia cho sần sần thì lại chẳng ra gì. Bộ dạng, cung cách và son phấn, nước hoa rẽ tiền của họ đã đẩy những ý muốn dâm dật của tôi mất hút nơi nào. Để khi trở về, tôi quắt quay trong nỗi nhớ nhung; Lan, Hà. Cuối cùng, trên đồi thông trong một chiều đầy sương với lời nhắn nhủ của Người Góa Phụ Trồng Hoa. Đây là một nỗi nhớ dịu dàng làm cho tôi có thể yên bình, nhưng sau đó là quay quắt vào trong những thứ cảm xúc dị kỳ. Tôi đòi hỏi những cô gái bán hoa phải chuẩn bị tinh tươm cho một cuộc làm tình. Một sự đòi hỏi bao giờ cũng dị kỳ với họ. Họ muốn thật nhanh, muốn thật lẹ, còn tôi thì lại muốn có một tí tình cảm, tình kiết lằng nhằng, dù ở nơi này những thứ đó trở thành kệch cỡm. Rốt cuộc thì ông Tản Đà, ông Phan Khôi thì ai đúng đây. Thế là tôi trở thành một con người đạo cao đức trọng trước mắt mọi người. Và tôi đọc lại thơ của Lan của Người Góa Phụ Trồng Hoa
            Đơn vị vừa mới ổn định quân số sau hơn nửa năm thành lập. Chưa có doanh trại, nên đơn vị phải đóng tạm ở đình Bình Tiên, cách thị xã Sa Đéc khoảng 7 cây số, sát bên là đồn nghĩa quân. Một xã ngoại ô với cái dáng vẻ thanh bình muôn thuở. Con rạch cong cong khúc khuỷu, với những vườn cây ăn quả chạy dọc theo. Mùa nào thứ ấy, xoài, mận, quýt, cam, vú sữa thứ nào cũng làm ngọt miệng nhân gian. Chung quanh những ngôi nhà là những luống rau nho nhỏ với mùi hương thơm ngát của hún cây, hún lủi, ngò gai, lá quế, dăm bụi bạc hà. Một vài cây ớt, bụi hành, ven bờ ao là rau đắng, rau ngỗ, mấy giề ngò om, rau răm… Hàng rào thưa bằng rau ngót hay mồng tơi, dâm bụt Phía sau hàng rào mỏng manh là một bàn ông Thiên và mấy bụi bông trang, một loài hoa kỳ dị đối với tôi, bông không đẹp nhưng cái màu đỏ rực nhô lên giữa chùn lá xanh biếc ấy, dù trong nắng hay trong mưa, dù sáng hay chiều… bất khi nào tôi gạp hay tìm gặp, nó luôn luôn làm cho lòng tôi nhẹ hẩng, một sự trống không kỳ dị, nhưng lại cho tôi một năng lượng, một niềm tin mơ hồ nào đó trong cuộc sống. Và tôi đi giữa hiểm nguy bằng năng lượng đó và niềm tin đó. Vì thế, suốt đời mình tôi để tâm hồn lăn vào nơi xanh mướt ngọt ngào và một chấm đỏ của cái bông trang.
 Làng quê nào trên đất nước tôi cũng đều như thế, na ná như thế. Một lối sinh hoạt gần như , mang tính tự cung tự cấp nhưng lại đậm đặc tính cộng đồng, khi có quan hôn tang tế. Nhưng tôi biết phía sau cái dáng vẻ thanh bình ấy ẩn chứa những nguy hiểm chết người. Chúng tôi trân trọng cái bình yên đó, rất trân trọng. Nhưng không được nữa rồi. Trong một đêm thượng huyền khi ánh trăng vừa sụp xuống mang theo cơn mưa cuối mùa và mang theo cả những bão tố đầy máu và lửa úp chụp xuống cái làng xóm bình yên này. Chúng tôi bị tấn công khi mà hệ thống phòng thủ với những công sự chiến đấu tạm bợ đào chung quanh ngôi đình.
Khi tiếng súng đã im ắng, thì ánh mặt trời cũng bắt đầu ló dạng dần dần soi rõ những cái tang thương và thảm khốc. Không hiểu cái may mắn nào làm cho tôi thoát chết. Mười tám con người nằm rãi rác bất động trong cái khuôn viên nhỏ hẹp. Mới chiều qua, những con người này còn đang ngồi suy tính mình phải sử dụng đồng lương vừa mới lãnh như thế nào, hoặc đang ngồi uống café hay đang viết một lá thư sẽ gởi về cho ai đó, cha mẹ hay người yêu Nhưng tất cả đã xong, họ trở về nhà với xác thân giá lạnh. Những người bị thương băng bó tạm thời nằm ngồi la liệt. Bên kia sông là chợ Bình Tiên. Tất cả xác xơ và ồn ào bởi xe cứu thương và quân cứu viện và loáng thoáng đâu đó là những tiếng kêu gào của những người có thân nhân bị chết vì bom bay, đạn lạc hay nhà cửa tan hoang. Hơn một giờ thu dọn chiến trường. Tất cả người chết và bị thương đã chuyển đi. Còn lại năm cái xác chỉ có cái quần cụt trên người, họ được gom để trên con đường lát đất đỏ trước cổng đình. Tất cả đều lạ hoắc, lạ huơ. Nhưng có một điều mà tôi không lạ. Họ còn rất trẻ như chúng tôi và khuôn mặt hao hao giống chúng tôi. Những giòng máu ứa ra từ những vết thương chết người thấm vào những mảng đất đỏ. Đất và máu cùng một màu tím thẩm. Một màu tím gai người. Họ chui vào đây làm gì cho bỏ mạng và tại sao họ lại tìm giết chúng tôi. Bây giờ làm sao họ trở về nhà đây? Gia đình, cha mẹ, anh em họ ở đâu? Có hay biết gì chưa hay vẫn còn tin rằng giờ này còn đang khỏe mạnh và rong ruổi đâu đó. Thế mà Tại sao vậy nhỉ? Thù oán chăng? Không có. Lầm lẫn chăng? Chắc là không. Chỉ có ông trời mới hiểu. Miệng mồm tôi đắng nghét. Đốt một điếu thuốc, chẳng ngon lành gì mà còn làm bụng thêm cồn cào. Đi loanh quanh tìm được một miếng nước sôi. Tôi pha một ly café trong gói lương khô. Nắng đã lên cao, mùi thuốc súng còn vương vất lại bắt đầu hoà quyện với mùi tanh của máu, đất, bùn sình. Hớp một ngụm café là hớp thêm một ngụm mùi quái đản ấy, làm cho tôi ói gần tới mật xanh. Có lệnh rút cả đơn vị về thị xã, thế là thoát. Về tới nơi, buông súng đạn, phóng xuống sông tắm táp. Khi lên, đi ngang một quán café, vừa thấy nồi cháo lòng lềnh bềnh những cục huyết heo tím đen, tôi lại ói thêm một chập nữa.
Sau cú đó, đơn vị xuống tinh thần, có dăm ba tên đào nhiệm. Còn tôi thì suốt một tuần ăn cơm với rau luộc chấm muối ớt, muối tiêu hay xì dầu. Thấy thịt cá thì ói lên ói xuống. Bạn bè trong đơn vị kẻ nói tôi thế này, người nói tôi thế kia. Ban chỉ huy đại đội thì cử người theo tôi sát nút vì sợ tôi đào nhiệm. Nhưng tôi thì không có bất cứ một ý nghĩ gì ngoài cái việc, tự hỏi hoài tại sao mà người ta lại giết nhau. Nhưng rồi mọi việc cũng qua đi và tôi dần dần trở lại bình thuờng. Tôi ngạc nhiên ở mình, đâu phải đây là lần đầu tiên tôi thấy người chết, mà chết không toàn vẹn. Có một cái gì đó gây cho tôi sự bất an. Nhưng chắc chắn không phải là sự sợ hãi. Thế thì cái gì làm cho tôi rơi vào trạng thái ấy. Tôi không hiểu và có lẽ còn có rất nhiều điều tôi không hiểu. Cũng có rất nhiều người không hiểu như tôi. Tôi bị buộc phải tham dự, nhưng tôi không bao giờ chấp nhận cuộc chiến tranh này, một cuộc chiến mà người ta giết nhau bằng hai loại vũ khí; cây súng và cái miệng. Cây súng xem ra nhân đạo hơn, cứ một cái rầm nằm một đống, mọi thứ đi vào yên tĩnh nếu còn chăng thì chỉ là những giọt nước mắt rồi cũng nhanh chóng phôi pha. Nhưng cái miệng thì xem ra tàn ác thiệt, nó làm cho nạn nhân sống cũng không yên, chết cũng không nhắm mắt được. Tôi bị cuốn theo giòng và xin cố gắng lựa chọn cho mình vũ khí. Cây súng. Cây súng “made in đâu đâu”. Nó khơi nguồn không biết bao nhiêu là giòng máu “made in Việt Nam“ Cả Sài Gòn lẫn Hà Nội, đối với tôi, đó là đại diện cho hai miền đất nước của tôi. Tôi mến yêu và ao ước sống cùng. Những con người sinh ra và lớn lên ở cả hai nơi là đồng bào với tôi, anh em với tôi. Mọi cái khác với điều này đều không đúng đắn và phải bị loại trừ. Không ai có quyền nhân danh chúng tôi để làm một cuộc chiến tranh. Ấy thế mà người ta đã làm, đang làm và không hẹn ngày chấm dứt.

 Vừa hết cơn choáng váng vì trận đánh ở Bình Tiên. Những Việt Minh, rồi “ông tối trời” và không biết từ bao giờ được gọi là Việt Cộng, càng lúc càng mạnh lên. Cường độ chiến tranh càng lúc càng khốc liệt. Mà đỉnh điểm là Tết Mậu Thân. Báo chí, đài phát thanh, đài tuyền hình ngỗn ngang xác chết. Cường độ chiến tranh được đẩy lên đến mức ác liệt nhất. Tôi bôn ba tham dự trò chơi chết người. Đi ngày, đi đêm. Đi không ngưng nghĩ. Rình rập, nghi ngờ, bắn giết và ăn đạn. Đã không biết bao nhiêu lần chúng tôi dương dương với những chiến lợi phẩm chết người, tất nhiên cũng chẳng thiếu những lần chúng tôi dắt díu nhau chạy trối chết dưới những cơn bão lửa. Nhưng cú ăn đạn tuyệt vời nhất của tôi là trận đánh ty Chiêu Hồi[xviii] ở Mương Chùa, sát bên thị xã Sa Đéc, được khai hỏa từ 5 giờ sáng. Tiểu đội chúng tôi được lệnh tăng viện vào lúc mười giờ trưa, và là đơn vị nhỏ nhất cũng là đơn vị cuối cùng vào trận. Khói lửa mịt mù. Chẳng biết ai thắng ai thua, riêng tôi, sau gần bốn giờ chiến đấu, thì lãnh nguyên một băng AK vào đầu, tay xả nguyên băng AK ấy nhận lại ở tôi một trái lựu đạn, không biết anh ta ra sao? Còn tôi thì chỉ bể cạnh lỗ tai và cháy xém đi mấy lọn tóc, may mà tôi đội nón vải, nếu nón sắt thì đi đứt. Rồi, phen này nó lại khơi nguồn ngay chóc một giòng máu có một có đóng dấu “made in ba mẹ tôi”. Ba giờ chiều tôi được đưa vào bệnh viện. Bác sĩ vừa khâu lại vết thương vừa bảo:
  - Cái đầu của chú đúng là pháo tháp của xe tăng, đạn nhọn mà tuôn vào là trượt ra ráo trọi.
   Cô y tá thì cười cười bảo tôi :
   - Lành bệnh rồi ông cưới tôi đi. Tôi mà lấy được ông thì khỏi lo ở giá. Ý chết, mà quên. Tôi có chồng rồi.
   Tôi thì cười, nói thầm trong bụng “Chừng nào chồng chết thì lấy tôi”. Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng nếu chồng cô ấy mà chết thật chưa chắc là tôi có thể, bởi vì tháng sau tôi cưới vợ, hoặc cũng có thể là dính vố sau thì ngủm. Nhưng hiện tại thì kể cũng sướng, dù sao cũng nghỉ được ít nhất một tuần. Nhưng tuần lễ đó ngày nào cũng có người chết. Lắm người chết, cả phía bên này lẫn bên kia. Tất nhiên trong đó có bạn bè tôi, đồng đội tôi, những người cùng lứa tuổi như tôi và đau đớn hơn có cả những người không phải là lính. Đường sá bị đào tung, cửa nhà tan nát. Những xác chết vô thừa nhận, trần truồng, co quắp hay không toàn vẹn. Nhưng hầu hết thì còn đang độ thanh xuân. Thậm chí dưới cả thanh xuân và kèm theo đó là những giòng nước mắt khô đặc vì thời gian, vì nỗi đớn đau. Hàng trăm thứ đi vào tro bụi trong đó có cả những trái tim người còn nhịp đập. Để rồi đêm về trong giấc ngủ, những cơn mơ chợt đến, lành ít, dữ nhiều y chang như cuộc sống hằng ngày của tôi. Tôi tạm đứng né qua một bên được ít nhất là một tuần.
Đấy. Chiến tranh như thế đấy. Khi buộc phải nhập vào, chứ không phải tiếp cận, vào cuộc chơi chết người này, tôi đã có thể thấy hết những khủng khiếp và cả những cái khốn nạn của nó. Một cây cầu đang sử dụng, một con đường phẳng phiu, một làng xóm bình yên, một khu phố tráng lệTất cả mọi thứ trong quá trình hình thành phải tốn biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và cả máu của bao người, bao nhiêu thế hệ. Thế mà cũng chính con người. Ầm một tiếng, mọi thứ trở thành dưới con số không. Còn con người ư? Sinh ra và lớn lên được sự nâng niu của bao nhiêu tấm lòng và tạo ra biết bao nhiêu hy vọng đẹp đẽ. Ầm một tiếng, nằm một đống, khơi nguồn cho bao nhiêu giòng sông nước mắt. Cứ thế, rồi những cơn mơ lại đến và xen lẫn trong đó có một giấc mơ khác cứ thường xuyên hiện đến, lặp đi, lặp lại. Tôi mơ thấy mình còn đi học. Giấc mơ này đeo đẳng theo tôi suốt đời. Nhưng để làm gì? Một viên đạn bất chợt cũng đủ làm cho tôi và cả giấc mơ tan biến. Dù biết vậy. Nhưng khi có dịp là tôi biến nó trở thành hiện thực. Dù rằng cái hiện thực ấy ngắn ngủi và chẳng ra cơm cháo gì?
Bổng nhiên tôi nhớ nhà, nhớ mẹ tôi. Nỗi nhớ cồn cào không chịu được. Tôi móc bóp tìm một bài thơ mà tôi cắt trên báo. Nhưng rồi tôi chợt nhớ ra là nó đã mất từ lâu. Tôi thẫn thờ lẩm nhẩm hai câu còn nhớ được “Tình thương nước bọt cơm thành máu. Máu chuyển khắp người con lớn đây” Bài thơ viết về hình tượng người mẹ ngồi nhai cơm mớm cho con của Than Ôi. Tôi không hiểu tại sao anh ấy lại lấy cái bút hiệu nghe buồn đến nát lòng. Trong khi cái tên thật của anh nghe cũng không đến đỗi nào. Đinh Trung Thành. Vâng bài thơ ấy hay là chỉ hai câu thơ ấy luôn luôn nhắc nhở cho tôi biết rằng tôi được sinh ra nuôi lớn lên bởi một người cha, người mẹ. Hình ảnh người mẹ nhai cơm để mớn cho con đã không còn trong cuộc sống hiện đại, nhưng nó đã từng tồn tại hàng ngàn năm và nó đã nuôi lớn biết bao nhiêu con người bằng một tình cảm tuyệt vời. Hình ảnh đó là biểu trưng của gia đình làm cho tôi thấy rằng mình cần phải sống. Nhưng chẳng biết làm sao để mà sống trong lửa đạn mịt mù ngoài cái hy vọng mong manh là may mắn. Mỗi khi nhớ nhà tôi lại ngâm nga để nhẹ lòng và sau đó là chuồn về nhà bất kể có phép hay không. Hậu quả của nó cộng với cái bản tính ngang ngược và liều mạng đã biến tôi trở thành cái gai trong mắt của các cấp chỉ huy. Nhưng họ cũng chẳng làm gì được tôi. Chính vì thế mà tôi luôn luôn bị đẩy vào chốn hiểm nguy. Bù lại tôi rất được lòng của rất đông bạn bè cùng đơn vị.
Tết Mậu Thân cuốn chân chúng tôi đi ngày đi đêm. Ăn đứng, ngủ ngồi, tắm đại khái. Tiểu đội thám báo của tôi đỡ hơn, nhưng hễ đi là chui vào chỗ hiểm. Đêm rằm tháng giêng, trăng sáng như lọc, những cơn gió mùa xuân vẫn còn chấp chới như bóng dáng tử thần luôn chấp chới quanh chúng tôi, sẵn sàng chộp chúng tôi bất cứ lúc nào và cũng sẵn sàng xúi giục chúng tôi yễm trợ. Nhưng lần này thì hắn ta quay ngược lưỡi hái. Tiểu đội chúng tôi phục kích trên con đường mòn vắt ngang khu vườn hoang dẫn vào một xóm nhỏ thuộc xã Phong Hòa. Theo tin tình báo thì có một nhóm nhỏ cán binh Việt Cộng di chuyển qua đây. Tin ấy đúng có phân nửa, không phải một nhóm nhỏ mà là một tiểu đoàn. Dưới ánh trăng sáng như ban ngày, chúng tôi tha hồ đếm, trên dưới hơn hai trăm quân. Nhưng có vẻ như họ rất mệt mỏi. Có lẽ vừa mới đánh đấm ở đâu đó và họ đang trên đường rút quân. Chúng tôi căng mắt quan sát họ và hơn ai hết chúng tôi biết mình phải làm gì. Cái máy PRC25 được vặn nhỏ volume và tôi thầm thì báo cáo tọa độ lộ trình chuyển quân của họ. Chúng tôi chuẩn bị sẵn sàng chuồn êm hoặc phải chấp nhận dùng chiến thuật của họ là “chém vè”. Không đầy một phút, pháo binh bắt đầu làm việc, những trái pháo rơi cấp tập vào đội hình chuyển quân của họ và tôi nhanh chóng báo cáo xác định mục tiêu rồi tắt máy chuẩn bị chuồn. Nhưng không xong, một toán quân của khoảng ba mươi người chạy dạt về phía chúng tôi bằng một tốc độ như tên lửa. Thế là bắn nhau thôi. Vừa bắn vừa rút. Tôi lại phải mở máy xin pháo binh bắn chụp đầu và một thằng trong chúng tôi gãy giò mà chẳng biết đạn của ai. Là tiểu đội trưởng nên trang bị dành cho tôi tương đối nhẹ. Thế là tôi phải khi thì cõng, lúc thì dìu đồng đội mình chạy trối chết dưới trăng, dưới đạn, dưới pháo đuổi theo. Cũng may họ không truy kích. Chúng tôi phải dò dẫm từng từng bước một, vừa lựa chọn, vừa xác định lộ trình rút quân cho BCH, vừa phải né tránh những khu vực mà tự mình cho là nguy hiểm. Ba giờ rưỡi sáng, chúng tôi lò dò về gần tới Tân Phú Trung. Nhưng chui vào xóm lúc này thì vô cùng nguy hiểm. Chúng tôi buộc phải ém quân giữa đồng và lại phải một lần nữa báo cáo tọa độ. Sau khi bố trí canh gác, tôi mới xem lại vết thương của đồng đội, một viên đi ngang cẳng chân trái, có vẻ như đã gãy xương và may thay ở giữa đồng không trống huơ, trống hoác thế này mà lại có một cây tràm con dài gần một mét. Thế là bẻ đôi băng bó tạm, rồi một liều VAT cùng một mũi giảm đau để cho anh chàng bớt phải kêu rên. Lúc này chúng tôi mới bắt đầu sợ và không hiểu là cái gì làm cho chúng tôi có thể chạy được một quảng đường gần hai mươi cây số với một khoảng thời gian như vậy. Thế là tử thần quơ hụt lưỡi hái nhưng vẫn còn lảng vãng đâu đây.
            Cuộc đời lính tráng của tôi thì như thế đó, nhưng ít ra tôi cũng có thừa mứa thời gian. Tôi có thể mua được một ít sách vở mà mình thích. Sách trong bọc quân trang, trong balô, sách mang về nhà. Còn gì nữa? Còn một thứ nữa. Màu xanh. Tôi luôn luôn tìm cách để nhìn một vạt cỏ mượt mà, một vườn cây xanh lá, một vạt ruộng lúa rập rờn màu xanh lục. Tôi biết bên dưới cái màu xanh mượt mà ấy là một hầm chông, một bãi mìn hay một hầm bí mật hoặc một cạm bẫy chết người nào đó. Nhưng cho đến giờ này, tôi vẫn đang nguyên vẹn, khi mà tôi đang mê mẫn thả hồn mình vào cái màu xanh huyền hoặc ấy. May thay, những vết thương tôi dính phải đều không ở trong trường hợp như thế. Đã vậy, thỉnh thoảng lòng tôi lại nhẹ tênh với túm bông trang màu đỏ, niềm tin và năng lượng lại trở về.
Tôi là một con người. Tôi có những nghĩ suy của tôi. Nên tôi tìm hiểu cuộc chiến tranh từ đâu mà đến, vì ai mà có, nó tác động vào tôi ra sao? Tôi bị nhét vào đủ mọi thông tin, dù là một loại thông tin tôi không muốn nghe, và tôi buộc phải vận dụng tối đa tư duy của mình, dù tôi cố né tránh cũng không được. Nhưng với cái đầu óc non nớt và kiến thức tạp nham của mình. Tôi thua? Chán quá, tôi lại làm thơ. Những câu thơ đượm mùi thuốc súng, thỉnh thoảng còn tanh tanh mùi máu. Ôi thơ. Một thứ ngôn ngữ ấy chỉ để viết lên những ước vọng, ca ngợi hạnh phúc, tình yêu và bao nhiêu điều đẹp đẽ, đắm say, cũng có thể là một nỗi buồn ngòn ngọt. Thế mà thơ của tôi lúc này lên gân đến phát tởm. Tôi không quen, tôi không quen, tôi không quen và tôi quăng bút. Chẳng có chút tình yêu nào trong thơ thì làm sao thơ sống nổi. Một ai đó đã nói với tôi “ Yêu đời lính cũng là một tình yêu, yêu đồng bào và một quê hương rách nát, cầm cây súng để bảo vệ cũng là một tình yêu. Mày viết thử về tình yêu đó đi”. Ừ tại sao không nhỉ? Nhưng rồi tôi nhận ra là xạo bỏ mẹ. Nhân danh một tình yêu mơ hồ đầy tính cà chớn để ca ngợi đạn bom, ngợi ca giết chóc và cả nâng bi nữa. Trong tất cả các cuộc chiến tranh vệ quốc thì có cuộc chiến tranh nào vĩ đại bằng cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Nhưng những nhà thơ thời Trần có viết một giòng nào đầy sắt máu đâu, kể cả Bạch Đằng Giang phú của Trương Hán Siêu hay Bạch Đằng Giang của Trần Minh Tôn. Biểu dương những việc đào đường, phá lộ, pháo kích, gài mìn, giật cầu, dội bom, ám sát và bao trò dã man khác, mang tang thương đến khắp mọi nơi. Thế mà là tình yêu ư? Tôi ỉa vào loại thơ này. Đôi khi gặp phải những bài thơ lên gân như thế tôi muốn trở thành thằng điên. Và đã không biết bao nhiêu lần, và có lẽ sẽ hết cuộc đời, tôi lớn giọng chửi rủa những thằng làm thơ kiểu đó. Nhưng chỉ chửi thầm, la lớn là vong mạng. Ôi. Một thứ kinh nghiệm của… thằng hèn. Nhưng được vài hôm thì tôi lại tiếp, những bài thơ càng lúc càng thêm dở ẹc. Nhưng vẫn cứ viết không lẽ cứ mãi ở trong trạng thái không biết làm gì? Thế là viết và đụng đâu bỏ đó. Chẳng ra cái giống gì, nhưng lắm kẻ đăm chiêu. Với tôi đó là một niềm vui. Thỉnh thoảng thì nhậu, uống không bằng người ta uống ráng. Nhưng say thì giấc ngủ êm hơn.

  Tôi cưới vợ. Bao nhiêu người đi qua cuộc đời mới lớn của tôi, mang theo đến cho tôi biết bao say đắm, nhưng cũng biết bao nhiêu nỗi buồn. Chính điều này đã làm tôi trở thành một con người kỳ cục. Từ ngày vào lính, mỗi khi nói đến đàn bà tôi thường giở ra cái giọng tưng tửng, nhưng trong lòng thì luôn luôn xao động trước những nụ cười. Nhưng đừng đòi hỏi một thiên tình sử ở tôi. Bởi vì tôi đã phung phí mất hết rồi. Việc tôi cưới vợ rất đơn giản. Vợ tôi, một cô gái quê chính cống và là chị của một bầy em sáu đứa. Chúng tôi quen nhau tình cờ, rồi người lớn nhúng tay vào thế là cưới nhau. Tôi không phản đối. Nhưng trong sự ưng thuận này có một cái gì đó mơ mơ, hồ hồ. Đám cưới của tôi được tổ chức khi mà thị xã Rạch Giá giới nghiêm từ 6 giờ chiều đến 6 giờ sáng, Mọi người đến dự ăn uống như ăn cơm cấy. Ăn uống thật nhanh để về thật sớm. Cây cầu Nguyễn Trung Trực đẹp nhất thị xã Rạch Giá, có gần trăm năm tuổi bị Việt Cộng giựt sập trước đó mấy ngày, mang theo năm sinh mạng, hai phường Vĩnh Lạc, Vĩnh Thanh Vân phải qua lại bằng đò ngang.
  Cưới vợ được nửa tháng. Tôi lại dính một bàn chông ở Mỹ An Hưng, Đất Sét. Mấy tay Việt Cộng này ghê thật. Moi được bàn chông lên, nhìn bàn chông tôi đổ mồ hôi hột, Một phần vì sợ, vì đau mà còn vì cái hình thù của bàn chông. Phải công nhận con người thông minh thật (?!), làm cái gì giỏi hay dở thì chưa biết, nhưng làm ba cái thứ hại người thì hết chê. May là không gặp tay du kích nào cả, nếu không thì chắc cú là tôi sẽ bị bỏ lại và ôm bàn chông cho tới chết. Vợ tôi vào bệnh viện nuôi tôi, mặt mày xám ngoét, nhất là lúc thay băng. Y tá cứ lấy vải băng tẩm cồn, rồi luồn qua cái lỗ bằng ngón tay nằm giữa bàn chân, từ bên này thấu tới bên kia. Cứa qua, cứa lại năm hồi, mười hiệp cho tới khi vết thương sạch thì thôi. Mỗi lần thay băng, mỗi lần lên ruột. Thậm chí té đái trong quần. Cũng may mà chỉ có đôi lần. Còn vợ tôi và gia đình bên vợ thì chăm chút cho tôi như chăm chút cho nít mới đẻ.
Cưới vợ được gần năm. Tôi thuyên chuyển về Rạch Giá. Trước một hôm về đơn vị mới, tôi dẫn tiểu đội đi nằm tiền đồn, lần công tác cuối cùng ở đơn vị cũ, sau khi phân công canh gác đâu đó xong xuôi. Tôi trở về vị trí là cái võng căng giữa hai gốc dừa, vừa yên vị trên võng, vắt cái poncho laine ngang bụng, tôi đang nhìn những áng mây bay ngang bầu trời trong suốt, lòng nôn nao với ngày trở về thị xã quê hương. Bổng một một loạt súng chát chúa và một vệt lửa khổng lồ tuôn ngang qua bụng. Tôi nằm yên chịu trận. Khi vừa dứt loạt súng, tôi lăn nhanh xuống đất và vớ ngay khẩu M.16, lăn đến gốc dừa và xả nguyên băng về hướng súng nổ. Thay nhanh băng đạn mới, tôi vừa quan sát vừa kiểm tra lại đơn vị. Không có gì. Chắc là một phút bốc đồng của một anh chàng du kích nào đó. Tôi báo cáo về ban chỉ huy đại đội và đề nghị rút về tọa độ dự phòng. Bổng tôi có một cái gì đó ran rát và âm ấm bò xuống bàn tay phải. Tôi đưa tay vuốt nhẹ. Rồi dính nữa. Tôi tự kiểm tra. Êm thôi, chỉ sượt nhẹ ngoài da gần cùi chõ. Đến tọa độ dự phòng, lại phải làm những điều cần thiết trước khi ngủ. Không biết, có ai ngủ không? Còn tôi sau khi tự băng bó vết thương thì nằm gối đầu lên balô, nhìn trăng và thức. Để rồi sáng hôm sau về hậu cứ, ngồi tỉ mẩn đếm những hai mươi chín lỗ thủng trên cái võng và poncho laine. Chẳng có lỗ nào trên người tôi, ngoại trừ miếng da tay bị trầy và gai ốc nổi khắp cả mình khi thắc mắc tại sao chẳng có viên nào chui vào cái thân thể còm nhom.

Về đơn vị mới trong lúc dư âm của tết Mậu Thân còn đang âm ỉ. Tôi được phân công về một trung đội đóng ở Lò Heo, trung đội trưởng là một gã lớn hơn tôi dăm tuổi có khuôn mặt gấp khúc, có đôi mắt quái chiêu. Khi anh ta gầm mặt xuống và mở to mắt thì lông nheo đụng với chân mày. Có vầng trán thấp nhất nước, từ mí chân mày đến mí tóc khoảng hai lóng tay và đặc biệt hơn là nói chuyện luôn luôn sửa tiếng. Mở miệng ra một điều Vênh, hai điều Vênh, hắn tên Trần văn Vênh. Một con người ấn tượng, một cái tên càng ấn tượng hơn. Vênh váo hay vên vên[xix]? Tôi bị hắn chỉnh ngay lần đầu tiên trình diện, vì không túm ống quần và mang giày không đánh xira và buộc giây không đúng cách. Mùi hôi của lò heo thốc lên nồng nặc cộng với mùi nước hoa Immortel của anh ta làm tôi muốn ói. Tôi tức căm gan. Tôi bị dị ứng với mấy thứ này mà. Nhưng thôi rừng nào cọp nấy. Sau khi đứng nghiêm chào hắn. Tôi túm lại ống quần, buộc lại giây giày, rồi nhận súng đạn và về tiểu đội 1. Ở dây tôi gặp tiểu đội trưởng Võ văn Lương và tiểu đội phó Cao Ngọc An. Hai tay này có vẻ khá hơn. Khi thấy trên miệng túi tôi có hai cái Chiến Thương Bội Tinh và một cái Cảnh Sát Chiến Công Bội Tinh cả hai nhìn tôi cười cười. Tiếp đến là nhậu ra mắt chiến hữu. Dễ thôi, một đêm say quên trời đất. Nhưng trước nhất là quên cái mùi hôi của lò heo và cũng có nghĩa là quên lẽ tử sinh. Miễn gác đêm đầu. Tôi dính sâu vào chuyện say sưa từ đó.
 Ba ngày sau, trung đội qua sông, phường Vĩnh Hiệp, làm tiền đồn, khi tập hợp trung đội xuất quân. Sau khi ban lệnh hành quân. Vênh nhà ta hỏi có ai có ý kiến gì không?  Tôi trả lời có. Và đây là ý kiến của tôi :
- Thưa trung đội trưởng, xin ông vui lòng đi tắm và thay quần áo khác, vì mùi nước hoa nồng nặc kia sẽ báo cho Vixi biết chúng ta đang ở đâu, điều đó sẽ làm ai đó phải “vị quốc vong thân”
Cả đơn vị cười ồ lên và tôi tất nhiên lãnh đủ mọi hậu quả sau này và Vênh thì chẳng hề quan tâm làm gì đến ý kiến của tôi. Đêm đó, tiểu đội tôi bị trấn ở một vị trí nguy hiểm nhất với quân lệnh nặng như núi. Gác ba người và không được hút thuốc, nói chuyện, điều này có nghĩa là cả tiểu đội thức sáng đêm. Trong khi đó ban chỉ huy trung đội men vào xóm ăn cháo gà. Hèn chi, tẩm nước hoa là đúng. Được thôi. Trong khi cả tiểu đội nhìn tôi cười cười thì tôi sắp đặt một kế hoạch phá đám. Sau khi yên vị, trời thì mưa rỉ rả, đêm tối đen như mực, chín đứa chúng tôi bố trí theo lệnh của tiểu đội trưởng Lượng. Nhìn cách bố trí, tôi biết rằng mình có đồng minh. Nghĩa là vừa chống phe tàu lẫn chống phe ta. Khi mọi người vào vị trí, tiểu đội phó An bò đến tôi, thì thào:
- Khi nghe súng nổ, mày nhìn thẳng phía trước mặt thấy bóng người thì bắn. Nhưng bắn chỉ thiên thôi, kẻo chết nó thì nguy to. Dù sao khu vực này cũng được gọi là an ninh.
Tôi hỏi nhỏ :
- Nếu như có thằng nào bắn nó thiệt thì chết tao ?
- Yên chí, nó đi như bò vậy, nhát như thỏ. Mà nếu như nó chết, cũng chẳng ai làm gì ai nào? Phải báo cáo hy sinh để còn lãnh tiền tử tuất.
Bởi cái quân lệnh của hắn, hắn không cho mật khẩu là có ý đồ. Nghĩa là chúng tôi lạng quạng mò vào xóm là ăn đạn liền tức khắc. Nhưng có lẽ vì quá độc nên hắn bị hở. Hắn đi kiểm tra. Và như thế thì kế hoạch của chúng tôi thành công. Vênh nhà ta được một phen đái ra quần, hắn không thể nghi ngờ gì được ai. Tất nhiên, tiếng súng nổ đầu tiên phải chỉa về phía hắn, nó được nổ ngay khi bóng hắn vừa xuất hiện. Thế thôi. Hắn biết, nhưng chẳng làm gì được bọn tôi. Bởi không cho mật khẩu tức là không kiểm soát. Từ đấy tôi và hắn luôn luôn đối đầu nhau trên mọi sinh hoạt của đơn vị. Tôi phải giữ mình. Trong hoàn cảnh ấy, tôi luôn luôn bị ức chế và sự bộc phát phải tìm ở hướng khác an toàn hơn và mang đầy tính kiêu ngạo. Cũng chính vì thế mà cuộc sống của tôi luôn luôn được một số người yêu mến. Một số ít khác không ưa, thậm chí thù ghét và những người thân thì ái ngại. Nếu có ai bảo tôi tự đánh giá mình, chắc có lẽ tôi cũng không thể trả lời. Hoặc chỉ có thể nói một câu là “thấy lòng không yên ổn trước mọi hành vi của mình”
Từ lâu cuộc đời lính tráng của tôi bắt đầu bằng những chuổi dài những tình huống, mà sống chết chỉ cách nhau một sợi tóc. Đơn vị chúng tôi là một đơn vị bán quân sự, nhưng sau tết Mậy Thân được võ trang đến tận răng. Nay đổi đi quận này, mai đổi đi quận khác. Thỉnh thoảng về phép hoặc dù về thăm nhà. Mua một vài món ăn mà ông nội, ông bà ngoại thích. Cho các em mỗi đứa ít tiền lẻ và dẫn vợ đi chơi. Chủ yếu là đi ăn và nói chuyện tào lao. Không một tiếng tâm tình, chẳng một lời an ủi, lại càng không tính tới chuyện con cái mai sau. Cứ như thế cuộc sống của tôi gãy khúc trôi đi. Vợ tôi lặng lẽ nương theo nhẫn nhục, chịu đựng đến độ đôi khi tôi phát cáu. Thậm chí, tôi bảo sao làm vậy không phản đối, cũng không đồng tình. Nhiều khi trong cái cô đơn đến rợn người giữa cái tối tăm đầy đe dọa của rừng bụi nào đó trong những đêm phục kích. Bổng dưng tôi thèm được nhìn thấy và thương nhớ vô cùng cái dáng vẻ chịu đựng ấy của vợ tôi kèm cái hương thơm của thân thể vừa mới tắm xong. Không son phấn, không nước hoa. Cái mùi ấy đã ngấm dần vào trong tôi lúc nào tôi cũng không hay. Có một lần, vợ tôi đến thăm. Tôi vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ. Tôi loay hoay chuẩn bị lại cái chỗ ngủ cực kỳ giản dị của tôi trước hàng trăm lời trêu chọc của các bạn cùng đơn vị, trong khi các bà vợ lính khác đang tíu tít hỏi chuyện vợ tôi. Khi mọi việc đã xong tôi nhìn lại vợ mình, cái dư âm của những lần bổng dưng nhớ ấy đã làm cho tôi cảm thấy vợ tôi đẹp hơn bình thường. Tôi chợt hiểu ra. Vợ tôi chỉ ở lại có ba ngày. Không thể hơn, bởi vì cả nhà đều không ai muốn.

  Một ngày ở Kiên An[xx], trong cuộc hành quân lục soát khu vực tương đối an toàn từ rặng vườn này chúng tôi băng đồng tiến qua rặng vườn khác. Cứ như thế, không một biểu hiện nào có du kích Việt Cộng hoạt động. Đến gần rặng cây cuối cùng là chấm dứt cuộc hành quân. Quả tình chúng tôi có chủ quan và phải trả giá. Khi gần tới rặng cây thì súng nổ, ngay trong loạt đạn đầu tiên, đơn vị chúng đã có ba người lãnh đạn; một chết, hai bị thương. Tôi dính một viên ngay túi áo giáp, nó đẩy tôi loạng choạng về phía sau. Tôi nhoài người nằm xuống và tự kiểm tra xem mình có bị thương không, giữa những loạt súng nổ váng trời. Cái nắng tháng ba chát chúa cộng thêm súng đạn mịt mù. Khi biết mình không hề gì, tôi cùng đồng đội tiến từng bước một, tiến sát rặng cây để tìm nơi ấn nấp và bố trí đội hình chiến đấu. Khi tiếng súng im ắng chúng tôi bắt đầu cuộc lục soát. Kết cục, chúng tôi chỉ thu giữ được một khẩu CKC dính máu, còn lại tuyệt nhiên không có một bóng dáng du kích nào. Cuộc lục soát kết thúc, kết quả cũng y như thế. Chỉ có những ông già, đàn bà, trẻ con bị gom lại túm tụm vào nhau với ánh mắt thất thần sợ hãi. Nhưng cái làm tôi không thể nào chịu nổi, một đứa bé khoảng 10 tuổi nằm chết ngay miệng hầm trú ẩn với cái đầu nát bét. Tiếng khóc gần như gào rú của bà mẹ xé nát lòng tôi. Đột nhiên tôi nhớ Đạm, thằng bạn của ngày xưa bé bỏng hiện về trong tôi, tôi chết lặng. Chắc lúc chết thì nó cũng như thế. Tôi nghe quặn thắt trong lòng. Một cơn gió thoáng qua mang theo một mùi tanh của máu, ánh nắng chiều gần như đỏ rực và trái tim tôi đỏ rực những cảm giác nhộn nhạo, xốn xang. Bổng cơn khát ập đến làm cho tôi lợm giọng. Tôi ôm súng lần đến nơi người đồng đội bị chết, anh nằm đó một vệt máu nhỏ loang nơi ngực trái. Viên đạn đi thật ngọt, và ai đó đã vuốt mắt anh, nên trông như đang ngủ, rất bình yên dưới cái nắng dịu dần của buổi chiều. Trung đội trưởng Vênh bắt đầu cuộc tra hỏi bằng một giọng điệu hung ác đầy đe dọa. Tôi nghe những tiếng thét hãi hùng, tôi nhìn lại thấy một người khoảng hơn năm mươi tuổi, đầu đầy máu me đang vừa kêu khóc, vừa lạy Vênh, tôi bước lại nhìn thấy mắt anh ta long lên và đang trở báng súng, tôi chụp lấy tay anh ta và hét lên:
 - Liệu có cần phải làm như vậy không?
Anh ta trừng mắt nhìn tôi:
 - Không phải việc của chú mày.
 - Nhưng đánh một người mà không có một lý do xác đáng là không đúng.
Anh ta trợn mắt nhìn tôi, con mắt chỉ cách chân mày chừng một milimét:
 - Tao là chỉ huy ở đây và chú mày phải nhớ đây là chiến trường. Tôi không kềm được giận dữ:
 - Không, chiến trường đã chấm dứt rồi. Hiện tại, trước mắt mọi người, kể cả anh, ông ta là một người dân, không có vũ khí, anh có thể bắt giữ ông ta, nhưng không được đánh.
Đôi mắt sâu hoắm của anh ta long lên nhìn tôi, rồi bỏ đi. Tất nhiên anh ta chẳng sợ gì tôi cả, thậm chí còn có thể bắn bỏ tôi, hoặc trong lúc súng nổ váng trời, anh ta từ sau lưng bụp tới và báo cáo tôi vị quốc vong thân. Nhưng anh ta không dám, vì chỉ huy trưởng BCH.CSQG tỉnh là anh Lập, một sĩ quan trẻ đã tốt nghiệp đại học Luật, mà ông này thì thương tôi như em ruột khi mà tôi còn lang thang ở Sài Gòn. Chuyện này cả BCH đều biết. Và bản chất thượng đội hạ đạp, nên anh ta sợ cứt cọp hơn sợ cọp. Thế thôi, có thân thế đôi khi cũng sướng, và sau sự kiện này tôi trở thành một chỉ huy không có sự vụ lệnh của trung đội.
Về doanh trại, chuyển thương binh, lo phương tiện chuyển người chết về gia đình, cả đơn vị chúng tôi, ngoài những người được phân công gác, còn lại thì ngồi uống trà, hút thuốc. Có một vài người túm tụm nhau uống rượu. Còn Vênh nhà ta sau khi cắt đặt cho trung đội phó Tư lo liệu thì chuồn đi đâu mất biệt, và tôi thì chập chờn trước hai cái chết và cái đầu vở nát. Suốt đêm tôi không ngủ được, không phải tôi chưa từng thấy cái chết, thậm chí còn thấy nhiều nữa là khác, nhưng tại sao hôm nay… Tôi thật sự không thể lý giải.
 Sáng hôm sau, tôi sật sừ như người say rượu. Tôi rủ thằng An ra chợ Thứ Ba uống café. Một hớp café sữa nóng, một hơi thuốc làm cho tôi tỉnh táo. Thằng An gật gù nhìn tôi cười cười:
  - Mày làm như kiểu ngày hôm qua là có ngày ăn đạn
  - Tao biết, nhưng mày phải nhớ tao có bằng thiện xạ hạng ưu. Tôi nói liều
  - Nó bắn lén mày, mày hiểu chưa. Thằng ngốc.
  Tôi định cãi, nhưng bảy Vênh bước vào, An kéo ghế mời anh ta uống café. Anh ta ngồi xuống lừ lừ nhìn tôi. Tôi nhìn thẳng vào mắt anh ta, nói:
   - Anh Bảy. Ngày hôm qua. Tại vì thấy máu nhiều quá nên tôi xét thấy không cần phải làm cho đổ thêm.
   - Chú có biết như vậy là không đúng quân pháp không, chú là lính, tôi là chỉ huy. Chú biết chưa ?
    Tôi nín thinh và cố kềm cơn giận dữ. An nói giả lả:
    - Anh bảy uống gì ? Con bé em thằng cha chủ quán dầy cơm hết nói. Bữa nào anh đeo lon thiếu úy vào là lấy  ăn.
   Cơn giận chợt trào lên và chuyển hướng về An. Trong đơn vị tôi rất khoái An, nhưng tại sao nó lại phải như thế? Tôi mong mõi ở nó một tình bạn, một sự cảm thông, nhưng hết rồi. Tôi ngồi lặng im nghe họ tào lao, trong lòng ngao ngán, thật sự ngao ngán. Ly café bổng đắng nghét, điếu thuốc bổng cay sè. Cũng may bảy Vênh đứng dậy kêu tính tiền, nhưng thằng An trả. Anh ta bước ra. Tôi bổng thấy cái quán thoáng hơn, nhưng vẫn im lặng.
    Tôi về doanh trại, ngã người lên ghế bố, đầu óc trống không. Để rồi một lát sau hình ảnh của ngày hôm qua bổng nhiên ào tới tràn ngập và cày nát tâm hồn tôi. Đầu tôi nhức như búa bổ. Tôi tự trấn an bằng cách xua đuổi những ý nghĩ khủng khiếp kia. Nhưng vô ích, nó quật tôi xuống, nó dựng tôi dậy và nhấn chìm tôi vào cơn mê thiếp giữa cái nóng của mái tôn bắt đầu phả xuống theo ánh nắng đang lên. Cho tới khi thằng An dựng tôi dậy thì người tôi nóng như than hầm. Nó vội kêu y tá lấy thuốc cho tôi uống. Miệng tôi khô khốc, đắng nghét. Tôi nốc hai viên thuốc cảm với một lượng nước nhiều đến nỗi không thể biết được hai viên thuốc trôi đi cái ngã nào. Rồi nằm vật ra thở như chưa bao giờ được thở. Một lát sau cơn sốt dịu xuống. Tôi ngồi dậy đi rửa mặt, nước mát làm cho tôi tỉnh táo. Tôi thay quần áo, rồi bổng nhiên không hiểu sao tôi thò tay vào túi áo giáp mắc gần đó. Một cái gì đó cứng cứng, tôi nhìn lại cái túi áo giáp thấy một lổ thủng, nhìn kỷ lại cái bọc. Một đầu đạn CKC. Mặt tôi tái lại và tê cứng “Suýt chút nữa mình tiêu rồi”. Tôi xem lại cái áo giáp. Thêm một đêm tôi có một giấc ngủ không bình yên. Những tiếng ì ầm của đạn pháo. Những tiếng súng lẻ loi bắn vu vơ ở đâu đó, rồi ánh hỏa châu lóe lên rồi chìm xuống. Tất cả những thứ đó đang gieo tang thương khắp cả đất nước tôi và thấm sâu vào mọi ngỏ ngách của mọi tâm hồn. Một sự giận dữ, rồi sợ hãi trào lên trong tôi, trong giấc ngủ của tôi. Cơn sốt lại đến
Hình ảnh cái đầu bị bể nát của đứa bé ám ảnh tôi suốt cả tháng trời và cũng chính hình ảnh đó làm cho tôi trở thành vô cảm trước mọi cái chết do chiến tranh gây ra, ngoại trừ những cái chết vì bom đạn của trẻ con. Bình thường, cái bình thường lạnh người ấy đi theo suốt cuộc chiến tranh mà tôi tham dự.
Tôi lang thang quanh thị trấn, hốt nhiên tôi nhìn thấy bụi bông trang, ánh nắng lấp loá phản chiếu trên những mảnh lá xanh tí xíu, tất nhiên cũng là những túm bông, nhưng không màu đỏ mà là màu vàng nhạt. Tất cả những nặng nề u ám bổng nhiên bay sạch, tôi có cảm giác như mình bồng bềnh trong trong cái nắng vàng rợm ban trưa. Tôi định đưa tay ngắt lấy một bông, nhưng bàn tay thì lại sờ vào bình ton nước bên hông. Tôi mở nắp để một vốc nước ra tay rồi vẩy lên bụi bông, những hạt nước li ti đọng trên lá trên hoa, phản chiếu ánh nắng lóng lành, lóng lánh, một cảm giác thần thánh vây quanh và…
- Mày khùng hả, trời nắng chang chang thế kia, đứngphơi đó làm gì.. Đi uống café.
Tôi quay lại và đi theo An, bước chân nhẹ hổng như không biết có đôi baude saut bên dưới.

            Tôi lại balô lên vai, một mình về đơn vị mới đóng ở Kiên Bình[xxi] kèm theo cái quyết định thăng chức tiểu đội trưởng. Trung đội trưởng mới lớn hơn tôi vài tuổi, thuộc dạng bị đì lãnh nguyên một trung đội mệnh danh là sọt rác. Tôi trở thành rách, một miếng rách mong manh, nhẹ tênh đang làm xốn mắt những con người sạch sẽ. Thế cũng hay, đồng cảnh tương lân, chúng tôi nhanh chóng trở thành một đơn vị nổi tiếng. Nhưng nổi tiếng theo kiểu nào thì chỉ có bọn chúng tôi mới cảm nhận hết. Nghĩa là không ăn hối lộ, làm đúng nhiệm vụ được giao. Nhưng quan trọng nhất là chơi hết mình, mà không chơi bẩn. Chúng tôi rất được lòng dân chúng cũng như các đơn vị bạn nơi trú đóng. Nhưng đối với ban chỉ huy đại đội thì
Ngay trong đêm đầu tiên về Kiên Bình là một trận pháo kích ra trò. Pháo rơi vào chi khu, pháo rớt trong phố chợ, pháo nổ ở nhà dân. Và sáng hôm sau là cả một thị trấn điêu tàn. Lính chết thì phải rồi, mà dân chết thì chắc cũng phải luôn. Ai bảo không vô vùng giải phóng. Cũng như lính quốc gia bắn vào vùng oanh kích tự do. Việt cộng chết thì phải rồi, mà dân chết thì chắc cũng phải luôn. Ai bảo ở trong vùng oanh kích tự do. Ra thì được gom vào các trại tị nạn Cộng Sản được canh chừng bởi hàng trăm đôi mắt cú vọ. Vô thì làm mục tiêu cho những ngần ấy đôi mắt rình mò. Chỉ cần một hành động bất thường là… điệp là nằm vùng. Chiến tranh mà, ở đâu thì cũng chết vì bom rơi đạn lạc. Ôi khó lòng lòng mà hiểu cho tận tường cái thành ngữ “đạn lạc bom rơi”.
  Những ngày ở Giồng Riềng tôi có thêm một số bạn mới. Cũng phải thôi. Bởi vì Giồng Riềng, nói hơi quá đáng, được gọi là đất văn học của tỉnh Kiên Giang, chỉ sau Hà Tiên. Những Hà Triều, Hoa Phượng là soạn giả Cải Lương; nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà; nhà thơ, nhà báo Cẩm Thi Lý Dũng Tâm; nhà báo Việt Cộng Trần Bạch Đằng; ông tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương; ông tổng giám đốc hàng không Việt Nam Nguyễn Tấn Trung và hình như có một thời nhà thơ Nguyễn Bính; nhà báo Lưu Quý Kỳ cũng đã từng lui tới nơi đây Không phải tất cả những người này sinh quán ở đây. Nhưng thời cuộc đã đưa họ lần lượt đến, lần lượt đi và họ đã tạo thành một không khí mà thời gian không thể làm cho phai nhạt. Lúc bọn loi choi chúng tôi lớn lên thì tất cả những người ấy không còn ai ở đây cả. Hoàn cảnh của cuộc sống đã xô họ mỗi người về một hướng, nhưng chính những cái gì họ để lại đủ để bàn chuyện văn thơ, chữ nghĩa. Và ở đây tôi gặp một người. Ông Tư Qưới, ông trạc tuổi ba tôi, nguyên là huyện ủy viên, sau hiệp định Genève ra hợp tác với chính quyền Ngô Đình Diệm và làm xã trưởng xã Thạnh Hòa. Khi tôi đến Giồng Riềng thì ông đã nghỉ việc, về mở quán café, vừa bán vừa nhậu, mà lại là nhậu với con nít. Tôi nhanh chóng nhập vào bọn con nít ấy và tham gia tích cực vào việc nhậu nhẹt, dù rằng tửu lượng chẳng là bao. Trong bọn nhóc con có thằng Hoa, con ông Tư Qưới. Tên này rất mực tài hoa, đàn hay, hát ngọt, làm thơ trữ tình và nét vẽ khá mượt mà, nhưng quậy quạng thì không ai chịu nổi. Nhưng với tôi thì không hiểu sao chúng tôi lại hợp gu. Mọi người nhìn tôi ái ngại, kể cả cô em gái xấu hoắc của hắn (?). Có lẽ phải nói qua cô bé này một chút, khá thông minh và sắc sảo và không biết từ lúc nào tôi khẳm cô bé này. Việc tôi dính với cô bé đúng ra chỉ là trò chơi của lính, hay đúng hơn là của tuổi trẻ. Mà tuổi trẻ bây giờ mà dám chường mặt ra đường thì không là lính thì là gì? Có một việc nhớ lại thấy buồn cười. Số là nếu không nhậu nhẹt thì tôi gần như đổ hết thời gian của mình ở quán café để tán gẩu với Quyên hoặc đọc bất cứ cuốn sách nào đó rút được trong bọc quân trang của tôi, Thế rồi có một ngày không biết sao tôi lại bỏ về sớm hơn thường lệ. Lúc đó quán vắng teo chỉ có một mình tôi, khi trả tiền café, lúc Quyên mang tiền thối lại. Tôi đưa tay cầm lấy tiền và cầm luôn tay Quyên. Quyên tròn mắt nhìn tôi, không phản ứng gì (?). Đang lúc sướng rơn trong bụng vì nghĩ là chắc ăn thì tôi nghe một giọng khàn khàn cất lên phía sau lưng:
            - Không biết một chút vậy mà no béo gì không vậy ta? 
Tôi hết hồn quay lại thấy ông Tư Qưới đứng lù lù sau lưng. Tôi kêu thầm trong bụng “chết cha rồi“. Tôi buông tay Quyên bỏ đi một nước. Tôi rời khỏi quán mang theo cảm giác cái mặt dầy dụp như mo cau. Có ánh mắt ai nhìn theo làm tôi nhột nhột sống lưng. Thì ra Quyên không phản ứng nổi vì bị ông già bắt gặp chứ không phải vì cảm động khi được tôi nắm lấy bàn tay. Nhưng rồi cũng chính vì cái việc đó mà cả hai đứa chúng tôi dính chấu.
            Những ngày ở đây thật vui vì có nhiều bè bạn mới và những người chung quanh. Nhưng cũng thật buồn vì những cái xác chết của lính Quốc Gia, lính Mỹ, của Việt Cộng, của thường dân được mang về, cả những chú lính kích bác nhau rồi bắn nhau đến chết Tất cả bấy nhậy và toát lên một vẻ bi thảm cùng cực của chiến tranh. Thái độ của mọi người đã trở nên khô cứng tự bao giờ. Ngoại trừ những bà mẹ của những xác chết ấy. Những bà mẹ Mỹ thì tôi không biết vì không thấy, nhưng chắc cũng thế thôi, nếu có khác thì họ khóc lóc, kể lể bằng tiếng Anh. Tôi chắc thế. Tôi rùng mình khi nghĩ tới mẹ tôi. Tôi không sợ chết, bởi vì chết là hết. Nhưng xin cho mẹ tôi đừng bao giờ tuôn ra những giòng nước mắt ấy, bà đã khổ sở quá nhiều rồi. Tôi luôn luôn thận trọng trong mọi việc từ phong cách cư xử. Lời ăn tiếng nói, cho tới việc đi lại, ngoại trừ trong lúc xỉn say. Cũng như không.
Và không hiểu cái gì xui dục. Tôi lại nộp đơn dự thi Tú Tài với tư cách thí sinh tự do. Và đậu, hạng thứ [xxii] thôi. Và cũng lại không hiểu sao tôi lại dấu biệt, không chịu vào Học Viện CSQG [xxiii] để sau đó làm quan.
            Cứ thế, cuộc sống tức tưởi trôi qua. Tôi vẫn làm thơ như là một sự giải tỏa, làm xong bài nào thích thì đưa cho bạn bè xem, không thích thì đụng đâu bỏ đó. Và cũng không biết tự bao giờ, tôi lại dính vào cái trò cờ bạc, lương bổng chẳng nhiều nhặng gì, nhưng nếu sống một cách bình thường thì cũng dư dã chút ít. Nhưng những sòng nhậu cứ bày ra liên tục thế nên “tiền lính tính liền“. Thừa thời gian thì chui vào sòng bài. Nhưng lại là một tay không có máu đổ bác nên tôi luôn luôn cháy túi. Tất cả vòng vàng mà ba mẹ tôi cho vợ tôi trong ngày cưới, chẳng mấy chốc sạch sành sanh. Ấy vậy mà khi mẹ tôi hỏi thì vợ tôi lại dấu quanh, nhưng dối ai thì được, chớ dối mẹ tôi ư? Đừng hòng. Thế là những lần chuồn về nhà thì tôi bị mẹ tôi cạo tới xương. Dùi đánh đục, đục đánh săng. Tôi phùng mang, trợn mắt với vợ tôi và cô tha hồ khóc. Cứ thế, cứ thế

            Cho đến một ngày đơn vị tôi được lệnh hành quân, mà là hành quân trực thăng vận. Năm chiếc trực thăng tải quân được yễm trợ bởi bốn chiếc Cobra[xxiv]. Từ trên cao nhìn xuống. Ôi đất nước mình. Những ô ruộng vuông vắn xinh xinh. Ô xanh, ô vàng, ô xám xẩm những con kinh thẳng tắp, những con rạch ngoằn ngèo, những rặng cây xanh thẫm, những con trâu nhỏ xíu, những ngôi nhà xám màu lá dừa nước, những sợi khói mong manh. Tất cả chạy dài dưới chân tôi. Ôi thanh bình làm sao và lòng tôi nhói đau vì tôi biết rằng phía sau sự yên lành kia chất chứa biết bao nhiêu là bất trắc, và bên dưới có những đôi mắt đang nhìn lên những chiếc trực thăng này đang chuyển tải biết bao là nỗi hiểm nguy bất chợt. Và tôi ngồi trên trực thăng sẽ đón nhận bất cứ lúc nào một viên đạn mồ côi hay một tràng 12 ly 7. Nghĩa là bên dưới yên lành kia, bên trên hùng hổ này, chẳng có nơi nào nào bình yên. Nguy hiểm, bất trắc luôn luôn ập tới. Một thứ mà dân tộc tôi không muốn. Rồi giòng sông Cái Lớn. Khi máy bay bay qua sông, tôi nhận ra chuyến hành quân hôm nay không đơn giản. Nhưng giòng sông đẹp quá, giòng sông của tôi, tôi thả hết tâm hồn cho nó. Đây là lần đầu tiên tôi được nhìn giòng sông ấy gần như toàn cảnh. Ôi giòng sông của những đêm trăng, giòng sông của thời trẻ thơ theo ba, theo cậu tôi đi về theo sự nhớ thương của nội, ngoại. Bổng tôi nhìn thấy một chiếc xuồng bé xíu và một vệt xanh giữa xuồng, dù không nhìn rõ vì quá xa nhưng tôi biết chắc là tàu dừa nước và tôi cũng biết chắc bên tàu dừa ấy là một thằng bé con nghèo khó như tôi ngày nào đang nằm ngủ. Giòng sông xa, xa dần nhưng như gần lại Những tiếng nổ chát chúa của những trái Rocket[xxv] được phóng ra từ những chiếc Cobra Helicopter và những ánh lửa lóe lên từ bên dưới giữa cái nắng trưa đổ lửa. Hỏa lực này thì ít nhất cũng là chủ lực miền chớ du kích hay huyện đội thì làm sao được thế. Chúng tôi đang gặp thứ dữ. Những chiếc trực thăng đang hạ dần độ cao và chúng tôi lao xuống. Những tiếng nổ lớn vây quanh khi những chiếc trực thăng gầm rú nâng dần độ cao, và chúng tôi biết mình đang đi vào đâu. Khi tất cả đã vào vị trí tương đối an toàn. Tôi kiểm soát lại tiểu đội mình, đủ cả và đã vào vị trí chiến đấu. Súng vẫn nổ lẻ tẻ và tôi hiểu hôm nay không phải là một ngày dễ dàng. Và tôi cũng biết rằng việc đổ quân như thế này thì chúng tôi là quân tăng viện. Bổng dưng, tôi thấy từ rặng cây bên phải có một bóng người vụt ra, cả bọn nâng súng, tôi hét lên “Đừng bắn“. Giữa cánh đồng, một mái tóc dài, thật dài tung ngược về hướng chúng tôi. Cả bọn chong súng về hướng ấy nhìn theo yên lặng và Trời ơi. Một cuộn khói tung lên và mái tóc dài bổng nhiên không còn nữa. Tôi lặng người trong giây lát rồi hét lên “ Thằng nào bắn “. Tất cả nhìn tôi lắc đầu. Cái nắng giữa trưa của tháng tư như đổ lửa, tôi gục xuống bờ cỏ úa vàng, miệng khô đắng, hơi thở nặng trịch, nóng rát cho đến khi cả đất trời như chuyển động. Chúng tôi bị tấn công, hay đúng hơn là bị phản công từ nhiều hướng, khi lực lượng không quân, pháo binh yễm trợ không còn. Cái khô rát, cháy bỏng cùng với sự sợ hãi bổng nhiên biến mất. Không còn gì cả, chỉ có chiến đấu để giành lấy sự sống. Diễn biến của chiến trận thật nhanh. Và cái bình tỉnh trở lại một cách nhanh chóng cũng như tôi nhanh chóng nhận ra tiểu đội chúng tôi bị cắt ra hỏi đội hình đơn vị của mình. Tôi không hiểu tại sao lại như vậy. Chỉ nghe súng nổ dữ dội, khói lửa mịt mù mà không thấy một tay Việt Cộng nào và chúng tôi cũng chưa bắn được một phát đạn nào. Là cấp tiểu đội chúng tôi không được trang bị máy truyền tin. Nguyên, tay y tá trung đội chạy lạc theo chúng tôi. Anh ta sợ thất thần. Ngoài một khẩu P.38 và sáu viên đạn, Nguyên chẳng có gì hơn là một bọc quân y. Tôi biết chúng tôi sẽ phải làm gì. Tôi ra lệnh cho cả tiểu đội không được nổ súng và di chuyển thật chậm, thật cẩn thận về hướng phải, xa ngôi chùa Miên của rạch Hốt Hỏa càng xa càng tốt. Tôi biết bộ chỉ huy hành quân của mấy ông Việt Cộng ở đó. Qua những gì chứng kiến, chúng tôi biết sự chênh lệch rất lớn về quân số và hỏa lực. Và tôi đã tính đúng, tiếng súng càng lúc càng thưa. Nhưng pháo cối vẫn nổ phía sau lưng chúng tôi, và chúng tôi càng lúc càng xa dần cái hướng mà chúng tôi muốn đến, chi khu Kiên An. Trời tối rất chậm, mà tôi thì tôi muốn cho nhanh. Bây giờ bảy đứa chúng tôi đói lả. Nhưng chúng tôi không thể vào xóm để tìm một thứ gì đó để ăn. Nước dưới sông thì mặn chát, nước trong bình ton thì khô queo, chúng tôi đành nhá lương khô vậy. Sau khi bố trí canh gác. Tôi giao cho tiểu đội phó Tuân ở lại nơi đóng quân và trao đổi mật khẩu và tín hiệu nhận dạng rồi cùng một người nữa đi xem lại tình hình. Trời tối dần, hai đứa bò thật chậm trong ánh sáng chập chờn của hỏa châu từ chi khu Kiên An bắn về hướng chùa Hốt Hỏa, thỉnh thoảng là những loạt 105, 155 ly. Lúc đó chúng tôi cách rất xa chùa Hốt Hỏa hơn, chúng tôi đang đi về hướng sông Cái Lớn. Tôi thấy một căn chòi nhỏ nằm chơ vơ ngoài ruộng cách rặng cây nơi chúng đang di chuyển khoảng ba bốn công đất. Tôi ra hiệu cho người cùng đi yểm trợ cho tôi vào chòi, nếu không có gì đó để ăn, ít ra cũng có nước ngọt. Khi đến bò đến gần tôi bổng nổi gai ốc khi nghe tiếng rên phát ra. Tôi dừng lại tìm chổ nấp và căng mắt quan sát, tôi tự trấn tỉnh và phán đoán tình hình. Sau cùng tôi quyết định vào, căn chòi trống hoác, một đống to đùng nằm giữa chòi và tiếng rên khi nhỏ khi to phát ra từ đó. Sau khi đảo mắt nhìn quanh. Tôi cố thu nhận từng hình ảnh trong cái ánh sáng chập choạng của hỏa châu, rồi cẩn thận tìm xem người nằm đó liệu có gì nguy hiểm cho tôi không. Nhưng những sự phán đoán của tôi dù có thế nào cũng không thể có được một phần trăm chắc chắn. Cuối cùng, tôi bò đến gọi nhỏ. Tiếng rên im bặt, sau một lát một tiếng “Nước“ vang lên như gió và tôi biết được một phần nào về người nằm đó. Một người bị thương. Tôi đến gần hơn cố nhướn người, nhướn mắt trong cái ánh sáng quái quỷ. Tôi bổng kêu khẻ “Một cô gái. Sao lại thế này?“ Vừa lúc đó, người đồng đội cùng đi bò tới thì thào:
- Có gì không anh hai?
- Một cô gái bị thương. Tôi đáp.
Chúng tôi thực sự tiến thoái lưỡng nan, bỏ đi thì không đành, nhưng ở lại cũng không xong.
- Làm sao đây anh?
- Tao cũng không biết .
- Nưước.
Tôi quýnh quíu rút cái bình ton mở nắp kê vào miệng cô gái mà tôi biết nếu có còn cũng chỉ là vài giọt và chỉ có thế cô ta có vẻ đỡ hơn.
- Mấy anh là ai ? Cô gái thều thào
- Lính. Tôi trả lời.
 Không một phản ứng nào. Im lặng, cái im lặng rợn người. Cuối cùng tôi nói:
- Cô ráng chờ chúng tôi một lúc, chúng tôi sẽ trở lại và băng bó cho cô.
Chúng tôi bò ngược trở lại nơi đóng quân. Tôi kiểm tra lại mọi thứ và chuẩn bị một số băng và thuốc men cần thiết. Sau đó cả bảy đứa thận trọng trở lại căn chòi. Cô ta không còn ở đó, chúng tôi thật sự cảm thấy sợ, nhưng tôi cũng đủ sáng suốt để ra lệnh:
- Trong mọi trường hợp các anh em không được bắn và chờ lệnh tôi, mọi di chuyển hay nằm lại đều giữ khoảng cách vừa đủ để cả bọn có thể nhìn thấy nhau và bảo vệ nhau.
Có một cái đìa cạn queo cạnh căn chòi và một người lính của tôi mò xuống tìm nước một cách vô vọng. Thế mà anh ta tìm được, một cái bao phân urê đầy nước mưa được cột chặt miệng bằng dây thun chôn dưới sình. Thế là cả bọn tha hồ uống, rửa mặt và vô đầy ắp các bình ton. Mấy tay Việt Công này hay thật, dân thường làm sao mà nghĩ ra được cái trò này, mà nghĩ để làm gì? Thôi. Cám ơn nghen. Ai đó đòi đổ bỏ gần nửa bao nước còn lại. Tôi phản đối, cho buột chặc lại và trả về vị trí cũ, bởi vì nếu như đổ bỏ, mấy tay Việt Cộng đi ngang qua mà thấy thì biết chắc là chúng tôi đã qua đây. Nhưng nếu trả lại vị trí cũ thì họ sẽ nghĩ là các đồng chí của họ. Sau đó chúng tôi bắt đầu di chuyển về hướng sông Cái Lớn, buộc phải thế. Tôi biết di chuyển về hướng này rất nguy hiểm, du kích vùng này đánh rất rát và quân số của họ khá đông, được tổ chức chặt chẽ và đầy kinh nghiệm chiến đấu. Trong khi chúng tôi không quen thuộc địa hình, không la bàn, không bản đồ, chúng tôi di thuyển theo hướng sao trời. Chúng tôi chỉ có một thuận lợi duy nhất, yếu tố bất ngờ, muốn khai thác yếu tố này chỉ có duy nhất một điều kiện, đừng để lại bất cứ một dấu vết gì. Điều này chỉ cần chúng tôi di chuyển thật chậm, thật cẩn thận, Chúng tôi bắt đầu quen dần với đêm tối, và rồi chúng tôi lại gặp cô gái khi di chuyển cách chòi khoảng hơn ba trăm mét. Cô ấy có vẻ như kiệt sức, chúng tôi dừng lại bố trí canh gác và tìm một nơi tương đối an toàn khiêng cô ấy vào. Cô ta, gần như khắp người đều bị thương, và khi mái tóc dài bung ra trong cái ánh chập chờn của hỏa châu. Một vệt máu từ mí tóc mai chạy đến ngang cánh mũi, khi tôi đưa miếng gòn tẩm cồn lau sạch máu. Tôi yên tâm, vết thương không nguy hiểm, nhưng chắc là để lại đấy một vết thẹo không nhỏ. Không lẽ cô gái ban chiều, có thể lắm, vì những vết thương theo tôi nhận định thì không do đạn nhọn. Bổng có ai đó đề nghị bắn cô ta luôn. Nhưng như thế là tự sát. Tôi nạt một tiếng rõ to. Cuối cùng Nguyên chỉ có thể rửa tạm vết thương chứ không đủ điều kiện để băng bó một cách đàng hoàng, ngoài vết thương trên mặt. Nguyên chích cho cô một mũi VAT và để lại mấy viên Tétramycine, một lọ cồn chỉ còn phân nữa và cái bình ton nước của tôi. Vâng chỉ có thế. Và cô ấy gặp may đấy. Thường thì bọn chúng tôi ít khi mang theo những thứ này. Nhưng hôm nay lại có Nguyên lạc vào đây. Nhưng có một đứa trong bọn tôi đưa cho tôi cái hộp, nói nhỏ:
- Anh để lại cho cô ta.
- Cái gì đây?
- Hai ống péniciline hỏa tiển[xxvi].
- Ở đâu mày có? Mua sẵn để phòng ngừa hả? Ừ. Cũng hay. Còn hết. Hay để hết lại cho cô ta đi.
- Cũng phải chừa lại chứ.
Yên lặng. Tất cả mọi thứ, tôi để vào túi áo cho cô ấy. Tôi bảo Nguyên:
- Hay mày chích cho cô ta một ống.
Nguyên bảo :
- Không được. Thứ này dễ bị sốc. Nếu lỡ thì mình trở tay không kịp. Anh cứ để đó. Người nào gặp được cô ta thì mang về.
Chúng tôi mang cô ấy ra đặt bên đường mòn. Không biết thằng nào đắp cho cô ấy một cái poncho laine[xxvii]. Tôi xốc lại cái balô, rồi cả bọn cùng lần mò về hướng sông Cái Lớn. Vừa căng mắt quan sát khi di chuyển vừa suy nghĩ. Tôi lấy làm lạ. Thương tích như thế, nhưng tại sao cô ta di chuyển được xa như vậy? Hay ai đã đưa cô ấy tới đây? Tôi rùng mình khi nghĩ tới điều này, nhưng không biết phải làm sao? Việc trước mắt là phải di chuyển thận trọng và cảnh giác tối đa.
Chúng tôi di chuyển chậm và rất cảnh giác, luôn luôn tránh những ngôi nhà. Đang di chuyển, tôi bổng giật nảy người, lại nghe có tiếng rên nhỏ. Ôi. Ở đâu mà lắm người bị thương đến thế. Dưới ánh sáng mập mờ, tôi đưa mắt nhìn về phía phát ra tiếng rên ấy. Thì ra là một cái chòi nằm khuất sau một lùm cây bình bát. Tôi ra hiệu cho cả tiểu đội dừng lại và chuẩn bị sẵn sàng. Nhưng trước tiên, là phải thám sát xem tiếng rên ấy là ai. Tôi cảm thấy lành lạnh sống lưng với ý nghĩ “ Chắc mấy cha nội này còn lẫn quẫn đâu đây. Phải xem thật kỹ, lạng quạng là đi đứt”. Tôi bò ngược trở lại tìm Tuân và dặn dò thật kỹ, rồi dẫn Nguyên bò đến. Càng đến gần, tiếng rên rĩ càng lớn, biểu lộ một sự đau đớn tột cùng. Tôi dặn Nguyên:
- Nguyên, mày yễm trợ, tao bò vào. Tuyệt đối không được bắn. Nhưng mà phải nhớ nếu như nghe tiếng lựu đạn nổ tức là tao tiêu. Cả bọn phải tìm cách dọt lẹ, đừng tìm cách lấy xác tao mà chết cả bọn. Du kích vùng này không phải dễ giỡn mặt.
Nguyên nói như sắp khóc:
- Nguy hiểm quá? Kệ mẹ nó, mình cứ tìm cách dọt lẹ.
- Mày điên à. Phải xem tình hình thế nào đã? Nhớ là khi tao ra hiệu an toàn thì vào.
Khi đến sát cái chòi. Tiếng rên rỉ nghe rõ mồn một. Trong chòi tối om om. Tôi nép vào một thân cây, mở to mắt nhìn vào và chỉ thấy một bóng người đen thù lù nửa nằm, nửa ngồi, tựa lưng vào tấm vách độc nhất. Lúc này thì tôi tới cũng không xong và lui cũng chẳng được. Tôi mở to mắt nhìn khắp chung quanh, không có bất cứ một dấu hiệu nào cho biết còn có thêm ai nữa. Cuối cùng, tôi một tay cầm súng, một tay gỡ cây đèn pin ở thắt lưng. Ánh đèn, dù được gắn kính mờ, lóe lên như một ánh chớp. Tiếng rên im bặt và tôi như đứng tim. Một tay giải phóng quân với một cái chân trắng toát và một cánh tay đầy máu. Nhìn quân phục thì đúng là thứ dữ chớ không phải du kích. Không hiểu sao bàn tay cầm súng của tôi như tê liệt hẵn. Thời gian rất nhanh, nhưng với tôi thì gần như đứng lại. Tôi nhận ra mình khi nghe tiếng thều thào giọng miền Nam:
- Có phải mấy đồng chí trở lại không?
Thế là đành liều một phen. Anh ta chưa biết gì:
- Tôi ở cánh khác. Đồng chí chờ một lát. Tôi gọi y tá.
Vẫn cảnh giác, tôi ra hiệu cho Nguyên. Khi Nguyên đến, tôi dặn thay ngay vào vị trí của tôi. Và tôi bắt đầu cuộc phiêu lưu sinh tử của mình với một ý nghĩ được khẳng định “Không thể bắn anh ta, nếu có chết thì chỉ chết một mình mình thôi”. Cuộc phiêu lưu là một cuộc hành trình dài khoảng mười mét. Nghe nói mấy cha nội này thường hay thủ lựu đạn trong trường hợp này để cưa hai. Khi đến cách anh ta khoảng hai mét, một trái hỏa châu bùng lên sáng trưng, nhưng chỉ vài vệt xuyên qua lùm cây và mái chòi nhưng cũng đủ cho biết rằng anh ta không có súng. Tôi nói nhanh theo kiểu hú họa:
- Tôi đến để giúp anh. Đưa trái lựu đạn đây.
Vẫn im lặng, rồi tôi nghe cái gì đó chạm vào mũi giày Thế là hết, công cốc. Vẫn im ắng. Tôi bật đèn pin. Anh ta thất thần nhìn tôi và tôi cũng thất thần khi nhìn khi quét đèn pin xuống và thấy trái lựu đạn M.33 đang nằm dưới chân mình. Tôi thở phào, trái lựu đạn vẫn chưa mở khoen an toàn phụ[xxviii]. Tôi nhặt trái lựu đạn nhét vào túi quần. Bổng dưng tôi bật cười với ý nghĩ “Lính lác chi mà dở ẹc. Cưa lựu đạn mà chẳng mở khoen an toàn”. Bổng dưng cơn giận dữ trào lên và cả sự sợ hãi đang ập tới. Ánh hoả châu trôi dần vào hướng khác và hạ thấp dần. Tôi không cần cảnh giác những nguy hiểm khác, các đồng đội tôi biết phải làm gì. Còn với anh ta, chỉ cần tôi siết cò là mọi cái sẽ xong. Nhưng mọi việc đã qua. Tôi phải thật bình tỉnh. Tự nhắc nhở mình như thế, dù vậy ngực vẫn đập liên hồi, bụng thì nhộn nhạo. Nếu một tiếng nổ là chúng tôi sẽ báo cho họ biết mình ở đâu. Tôi cũng không ngờ là mình tỉnh táo đến thế. Tại sao tôi không tiên liệu là trái lựu đạn nổ là chúng tôi cũng bị lộ? Tại sao tôi không nghe lời Nguyên mà lẳng lặng rút đi? Tôi không hiểu được. Khá lâu sau, tôi gọi nhỏ:
- Nguyên. Vào đây.
Khi Nguyên đến. Tôi thì thầm:
- Kỳ này là Việt Cộng thiệt rồi.
Nguyên lắp bắp:
- Anh anh tính sao?
Tôi nói theo cái kiểu nửa kín, nửa hở nhằm khoa trương lực lượng.
- Băng bó cho anh ta chớ sao. Ra bảo một đứa nữa vào canh gác, mày chuẩn bị các thứ cần thiết. Dặn Tuân để nguyên vị trí chiến đấu của đơn vị chờ tao. Nếu có lệnh gì, bảo Tuân xin chờ thêm 10 phút. Nhớ giữ liên lạc với các đơn vị bạn đóng chung quanh. Coi xem thằng mắc dịch nào hồi nãy còn mấy ống hỏa tiển, lấy luôn. Về tao mua trả lại.
Khi Nguyên quay đi. Tôi lia đèn quan sát, dù tôi biết chẳng còn gì nữa. Vật nguy hiểm nhất cho thì đang nằm trong túi quần tôi. Cuối cùng tôi nhìn thấy anh ta mở to mắt nhìn tôi và không còn rên rỉ nữa. Ánh mắt lấp lánh nhưng đầy sợ hãi, hai quai hàm bạnh ra chắc là trấn áp cơn đau. Anh ta chắc cũng không lớn gì hơn tôi là bao. Anh ta không chỉ gẫy giò mà gẫy cả tay nữa. Tôi cúi xuống xem xét. Tất cả chỉ có thế. Chân có lẽ nhẹ hơn tay. Cánh tay mặt chắc có lẽ là gãy hết cả hai xương cẳng tay. Thì ra thế, cái khoen an toàn phụ được thiết kế và đăt vào vị trí chỉ dành cho người thuận tay phải, mà tay phải anh ta không còn cử động được. Cũng có thể anh ta không quen sử dụng loại lựu đạn này hay vì hoảng loạn, vì đau đớn. Nếu thủ pháo hay là loại lựu đạn nào khác thì tôi tiêu. Tôi lấy làm lạ, khi sự chăm sóc có vẻ bất thường. Chân thì băng bó khá tinh tươm. Còn tay thì hoàn toàn không. Chân thì không còn chảy máu nhưng ở tay thì… Trong khi tôi đang thắc mắc. Tôi nghe tiếng nghiến răng và anh ta thốt lên bằng hết hơi sức của mình:
- Bọn mày giết tao đi.
Bổng dưng nỗi hoảng sợ biết mất, tôi lại bật cười, lần này cười lớn hơn:
- Thôi đi. Anh bạn. Lên gân làm quái gì? Bộ không đau hả? Để chúng tôi băng bó lại cho. Giết anh bạn ư. Cần gì súng đạn, chỉ cần đưa cho anh bạn một bình ton đầy ắp nước là đủ.
Khi nói xong, một ý nghĩ tàn ác lại lóe lên. Ừ tại sao không để lại cho anh ta bình ton nước và biến đi. Không được, anh ta còn rộng họng lắm. Chỉ có hai cách bịt miệng anh ta lại, một là cắt cỗ anh ta, hai là băng bó cho anh ta. Thôi chọn cái sau vậy. Cái nón sắt trở nên vương vướng. Tôi tiện tay, lột ra quăng đâu đó. Nguyên vào ra hiệu đã sẵn sàng. Anh ta im lặng và có vẻ hợp tác. Tôi đứng soi đèn. Vết thương rất nặng, dù chẳng biết gì nhưng tôi nghĩ là khó giữ được cánh tay. Nguyên nhanh chóng, nhưng khá cẩn thận thực hiện công việc của mình. Mọi việc chúng tôi thực hiện trong vòng không đầy mười phút. Luôn cả việc chích cho anh ta một mũi giãm đau và một mũi VAT. Khi phụ Nguyên treo cánh tay vào cỗ, tôi nghe tiếng nghiến răng, nhưng có lẽ là anh đang trấn áp cơn đau. Lúc này mà còn căm thù cái nước non gì? Không chừng anh ta sợ vãi đái cũng nên. Xong xuôi, Nguyên đưa cho anh ta mấy ống thuốc, chai cồn còn lưng nửa
- Thế là cái túi quân y đã vơi một phần ba, Nguyên lầm bầm, kệ cho ai cũng được miễn đừng phe ta.
Tôi đưa cho anh ta một cuồn băng cá nhân thấm nước và nói như đùa:
- Sống hay chết là do số mệnh của anh. Anh giữ lấy mấy ống trụ sinh và thêm một liều VAT nhờ ai đó chích cho mình. Khi đau nhức ở vết thương, anh chế cồn vào giúp cho vết thương đỡ nhiễm trùng và bớt đau. Tập trung nhớ vợ hay cô bồ giao liên, văn công nào đó. Hít thở thật sâu và chậm, cũng có thể giảm đau. Tuyệt đối không uống nước. Khi nào quá khát, anh lấy miếng băng này vắt vài giọt vào miệng. Nhớ những gì tôi dặn. Chúng tôi chỉ có thể giúp anh như thế. Còn trái lựu đạn chúng tôi giữ làm kỷ niệm. Chúc anh may mắn.
Anh ta im lặng gật gật đầu. Chúng tôi cũng lặng lẽ rời đi. Khi đã khá xa Đực hỏi tôi:
- Ông làm sao vậy? Mình là đơn vị Hồng Thập Tự à?
- Mày giết nó bằng cách gì? Bắn, lụi luỡi lê vào bụng hay bóp cỗ. Đồ điên.
Đực vẫn lằng nhằng:
- Lấy cây P.38 của thằng Nguyên, kê sát màng tang là xong. Còn không thì kệ mẹ nó.
Tôi gắt lên:
- Mày học cái thói dã man đó từ bao giờ vậy. Tao cũng có P.38 vậy. Muốn thoát cho an toàn thì mày im đi. Tao biết tao phải làm gì để đưa cả bọn thoát khỏi nơi này.
Hơn một giờ sau chúng tôi tới nơi mà chúng tôi cần, nhưng trước mắt là phải xem tình hình ra sao đã. Bóng tối nhờ nhờ và chúng tôi không thể xác định được điểm đứng của mình. Nhưng tôi biết, nếu muốn thoát thì chúng tôi chỉ có hai cách; thứ nhất tìm cách qua sông, thứ hai, định tỉnh lại và tìm đường về chợ Thứ Ba. Nhưng cách thứ hai coi bộ không ổn. Đêm tối mịt mùng, Quốc Gia, Việt Cộng tứ lung tung, bọn tôi không máy truyền tin, không bản đồ, hỏa lực mỏng. Đi lạng quạng mà đụng phải phe nào cũng ngủm. Tôi nhìn đồng hồ, đã hơn mười giờ. Cuối cùng tôi chọn cách thứ nhất, tuy có phiêu lưu nhưng xác xuất an toàn cao hơn. Nếu có lỡ gặp nhau giữa sông thì em nào cũng như em nấy thôi, chỉ cần một trái M79[xxix] là em nào cũng lủm bủm lội chơi. Cái đáng sợ nhất là gặp hải quân hay không quân phe ta. Tôi cho canh gác và cùng Tuân bàn bạc cách qua sông. Trong cả bọn, chỉ có Tuân là dân Bắc Kỳ 54, quê Tân Hiệp. Chuyện sông nước của hắn chỉ là lủm bủm. Còn lại thì hầu hết là rái cá, riêng tôi thì uống thuốc liều. Giòng sông khá rộng khoảng sáu bảy trăm mét. Nhưng tôi biết là nếu tới bên kia sông thì tôi phải tấp vào đâu. Tôi chuẩn bị tinh thần cho anh em sau đó bắt tay vào việc chuẩn bị. Không một chiếc xuồng, mà nếu có, chúng tôi cũng không dám. Giòng sông mênh mông. Tôi không hiểu tại sao khi tôi quyết định vượt sông, không một ai phản đối. Có lẽ họ quá sợ hãi, nên chỉ còn có một cách duy nhất là nghe theo lệnh của tôi. Bởi vì, ngoài cái quyền tiểu đội trưởng, họ còn biết tôi là người thông thuộc vùng này.
Chúng tôi đói và mệt. Nhưng cũng đủ tỉnh táo để tự biết bảo vệ. Sau khi kiểm tra lại lần nữa tình hình, chúng tôi phân công nhau canh gác và chặt bụp bè[xxx] kết lại từng hai mươi cái một cho mỗi đứa bằng cách đốn gần sạch bụi trúc ven đường. Nhưng cái may mắn nhất mà chúng tôi gặp trong lúc này là hai quày dừa nước. Chia đều mỗi đứa được dăm trái thôi, nhưng làm cho chúng tôi cảm thấy phấn chấn hẵn lên. Chúng tôi lại bắt đầu công việc chuẩn bị vượt sông. Cái khó nhất cho chúng tôi là dây, nhưng cuối cùng chúng tôi cũng có cách, tìm những cây cà bắp[xxxi] và róc vỏ lấy dây, chúng tôi không có thời gian để bện dây bằng lá dừa nước non. Tôi cảnh báo là tất cả phải cẩn thận, chỉ cần một tên nào đó bị sút bè, tức là tên đó kể như tiêu. Chưa bao giờ cái ý nghĩ cùng chết, cùng sống lại mạnh mẽ như lúc này. Nước đang ròng, chúng tôi hy vọng trên đường qua sông sẽ không gặp bất cứ một ai dù là phe ta, phe địch hay dân thường. Chúng tôi mất gần hai giờ chuẩn bị. Tất cả ở trần, mặc quần cụt. Tôi quyết định qua sông ngay sau khi đi thám sát tình hình một lần nữa. Chúng tôi bàn bạc những hành động khi xảy ra từng sự cố, đề ra cách ứng đối và dù trong bất cứ trường hợp nào chúng tôi cũng không được chặt đứt dây. Lúc ấy khoảng mười một giờ hơn, tôi ước lượng thời gian qua sông là ba giờ nếu như giữa sông nước không chảy mạnh và không gặp ai. Có hai việc làm cho chúng tôi không thể lựa chọn, nếu sóng lớn chúng tôi khó bị phát hiện, nhưng nếu ít sóng thì dễ bị phát hiện. Mà bị phát hiện là xong. Chúng tôi lựa chọn điểm vào là khoảng giữa Lô Hào Dầu và vàm Tắc Cậu, như vậy chúng tôi phải lênh đênh trên sông khoảng trên mười kí lô mét. Điều này rất nguy hiểm, nhưng không còn có sự lựa chọn nào khác, đành phải chấp nhận và phó mặc cho số phận. Cái chết và cái sống lúc này đang bện chặt vào nhau. Điểm xuất phát của chúng tôi, theo tôi đoán là khoảng giữa rạch Hốt Hỏa và Xẻo Kè. Từng đứa bấu vào một bè buộc dây cách nhau khoảng mười mét. Quần áo, quân dụng được nhét vào balô buộc chặt trên bè. Súng đạn phải ở trong tư thế sẵn sàng. Lúc này tôi mới nhớ là cái nón sắt của mình, tôi đã bỏ quên ở chỗ anh chàng giải phóng quân. Nhưng không sao, họ chỉ khám phá ra vào lúc ban ngày, lúc đó chúng tôi đã qua sông hay là theo hà bá rồi cũng nên. Coi như tặng anh ta làm kỷ niệm vậy. Nhất là trên đó tôi có viết hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương bằng bút nỉ lên vải bọc “Em ơi lửa tắt bình khô rượu./ Đời vắng em rồi say với ai.” Không hiểu tại sao tôi lại ghi hai câu thơ này. Chắc có lẽ là để hù mấy tay bợm nhậu.
Chúng tôi xuất phát. Đực bơi đầu bơi đầu, tôi bơi cuối. Chúng tôi như con rắn khổng lồ què quặt vượt sông, vừa bơi chúng tôi vừa vớ những bụi lục bình phủ lên bè. Nước ròng chảy mạnh hơn tôi nghĩ, nhất là lúc xa bờ, vậy mà gần một tiếng đồng hồ chúng tôi mới ra giữa sông và trôi khá xa điểm xuất phát về hướng Xẻo Rô. Tôi không chọn tấp vào vàm Cái Mới Lớn dù ở đó tôi thông thuộc địa hình, và thời gian chúng tôi phải lênh đênh trên sông là ngắn nhưng tôi sợ. Tôi sợ phải bắn nhau với anh em tôi, bạn bè tôi. Một vài người bị kiệt sức và bị vọp bẻ và có những dấu hiệu hoảng loạn. Tôi cố trấn áp cơn sợ hãi đang dâng lên tột độ, không phải vì tôi sợ tôi chết, mà tôi sợ họ chết. Tôi cho thu ngắn khoảng cách các bè lại và trấn an họ bằng cái giọng lập bập vì lạnh, vì sợ. Tôi cho họ lên bè, lau khô mình và mặc áo vào, cả bọn còn lại chậm nhịp bơi để dưỡng sức. Tôi biết, là khi họ lên bè tức là họ không còn khả năng trở lại giòng nước lạnh ngắt kia, những người còn lại sẽ lãnh đủ. Nhưng thấy họ đỡ hoảng loạn hơn làm cho sự sợ hãi của tôi vơi đi. Và có lẽ ý chí sống còn đã khiến họ tỉnh táo lại để rút những cây dầm bằng bụp bè, bơi tiếp. Tôi cố tìm cách nói chuyện với ai đó để kiểm tra sức lực họ. Người tôi lo nhất là Tuân, nhưng thấy hướng bơi của Tuân vẫn đi đúng đội hình. Tôi yên tâm về người đồng đội của mình. Được một lát sau tôi chợt nhận ra mình tới gần rặng đáy Lô Hào Dầu. Tôi báo cả bọn ngưng tay bơi và cảnh giác rặng đáy, súng đã lên đạn được hướng về hai bên đội hình. Những tay ngồi trên bè đã tỉnh táo hẵn. Họ đang chuẩn bị chiến đấu khá linh hoạt. Chúng tôi thả trôi xuôi và cố gắng bằng những động tác nhẹ nhàng nhất để hướng đội hình về phía bên kia sông. Tránh xa những ánh đèn của rặng đáy. Bởi vì ở đó rất có thể sẽ mặt những anh du kích. Trong làn sóng bập bềnh, tôi vừa bơi vừa nhớ lại những gì Người Góa Phụ Trồng Hoa viết về giòng sông này, tôi cố mà nhớ lại lá thư dài gần tám trang giấy mà gần như đã thuộc làu. Bổng dưng nỗi lo sợ biến mất. Tôi không tài nào hiểu nỗi tại sao tôi nảy ra một ý nghĩ sẽ tìm đến và đưa Người Góa Phụ Trồng Hoa về thăm giòng sông này. Cứ thế mà tôi bơi trong nước, trong sông, trong viễn mơ và trong nguy hiểm phủ quanh. Hình ảnh của Người Góa Phụ Trồng Hoa và những tháng ngày ở Đà Lạt tràn ngập trong tôi và cả những giây phút yêu đương tuyệt diệu. Người tôi như ấm lại trong cái lạnh buốt của giòng nước sông khuya. Trong cõi váng vất chết người này tôi lại mơ hồ nhận ra mùi nhựa thông. Cứ thế, cứ thế cho đến khi còn khoảng 30 mét nữa tới bờ. Trời tối vẫn tối nhờ nhờ, tôi lắc lắc mạnh cái đầu như để thoát ra cỏi cơn mê muội tuyệt vời rồi nhìn đồng hồ, hai chấm dạ quang nhỏ xíu báo cho tôi biết đã gần ba giờ. Như vậy chúng tôi lênh đênh trên sông hơn ba tiếng đồng hồ. Khi chúng tôi đến một nơi an toàn nhất và cũng nguy hiểm nhất, khoảng giữa Lô Hào Dầu và vàm Tắc Cậu. Phía trước mặt chúng tôi là trạm tiền đồn của căn cứ hải quân Xẻo Rô và sau lưng là một trạm tiền tiêu của Việt Cộng ở gần Lô Hào Dầu. Chúng tôi không có máy truyền tin, ăn mặc không giống ai, tấp lạng quạng vào là toi. Tôi kiểm soát lại tình hình quân số; ba tên kiệt sức vì đói lạnh và sợ thì nay đã đỡ hơn. Đây là giây phút quyết định, tôi chỉ định Tuân ở lại với họ và dặn Tuân, nếu có súng nổ thì cả bốn yên lặng hoàn toàn và cứ để cho nước trôi xuôi và tự quyết định lấy, tuyệt nhiên không được tiếp ứng. Tôi và Nguyên vừa bơi vừa nối dây để khi vào chúng tôi có thể kéo phụ, bởi vì Tuân chỉ còn một mình. Tới sát rặng dừa nước chúng tôi thận trọng đò từng buớc và tìm chổ an toàn. Tôi dừng lại đứng canh gác và yễm trợ, Nguyên giật giây ra hiệu, khi nhận được tín hiệu trả lời. Nguyên và Đực cật lực kéo bốn cái bè vào bờ. Bây giờ cái lạnh bắt đầu hành hạ tôi, thèm một điếu thuốc nhưng hoàn toàn không dám. Nửa giờ sau cả bọn lò dò tập họp. Chúng tôi mặc quần áo, mang lại giày. Tôi chợt nhớ ra một điều, giờ này, dù Quốc Gia hay Việt Cộng đều ngủ say như chết. Tự trấn an mình bằng ý nghĩ đó, chúng tôi lôi thôi lếch thếch như những bóng ma đi tìm một ngôi nhà nào đó có thể ít ra là để sưởi ấm, và chúng tôi đã tìm gặp và tìm đúng. Một ngôi nhà trong một miếng vườn um tùm rộng mênh mông, một ông lão khoảng sáu mươi tuổi vừa dụi đôi mắt kèm nhèm vừa mở cửa bổng sững người nhìn tôi rồi nói nhỏ;
- Chú cần gì ?
- Tôi cần nghỉ ngơi một lát, vừa nói tôi vừa lách nhanh vào nhà nhìn quanh. Dưới ánh sáng tù mù của ngọn đèn hột vịt[xxxii] đặt trên cái ghế nhổ mạ sát vách buồng. Một tay cầm súng, tôi bước tới vớ cây đèn và nhanh chóng kiểm tra căn nhà. Tất cả trống trơn. Tôi yên tâm trở ra, ông lão vẫn đứng yên tại chỗ.
- Xin phép bác cho chúng tôi nghỉ tạm, sáng chúng tôi đi ngay.
Ông lão ậm ừ, tôi ngoắc tất cả cùng vào, sắp xếp chỗ nghỉ, thật ra chỉ là ngồi tựa lưng vào vách. Ông lão lại lặng lẽ vào giường. Tôi ra sau bếp bê cái cà ràng, quơ một mớ củi bưng ra giữa nhà, nhóm lửa lên thay phiên sưởi ấm, làm việc này là vô cùng nguy hiểm dù rằng những người còn tương đối tỉnh táo phải canh gác, nhưng phải liều vậy. Được sưởi ấm cả bốn đứa trầm mình suốt đoạn đường qua sông có vẻ như khá hơn, tôi cũng yên tâm hơn với điếu thuốc rê. Nhớ lại tất cả mọi diễn biến của cuộc hành quân, thì ra trong khói lửa ngập trời ấy cả tiểu đội tôi không ai bắn một viên đạn nào. Tôi chợt lạ lùng không hiểu tại sao? Chúng tôi thường có thói quen bắn như vãi trấu mỗi đụng độ. Rồi nhớ lại cuộc trốn chạy kinh hoàng, tôi không hiểu điều gì đã khiến tôi có những quyết định như thế. Không hiểu đơn vị của chúng tôi bây giờ ra sao, họ có tìm chúng tôi không hay đã về hậu cứ và báo cáo chúng tôi mất tích. Chẳng biết có thằng ngủm không. Rồi nhớ lại cuộc hành trình kỳ cục. Nhất là lúc mò vào cái chòi. Những quyết định gần như phi thực tế. Bây giờ thì cái chết rời xa chúng tôi thêm một chút và tôi nhớ cô gái và anh chàng giải phóng quân. Không hiểu bây giờ họ ra sao? Những vết thương ấy tôi không nhìn thấy tận tường, liệu có ai gặp họ chưa? Tôi cầu mong họ được gặp ai đó và sẽ giúp đỡ họ. Tôi chợt rùng mình nhớ lại, ai đã đưa cô ấy đi một khoảng khá xa như thế. Tôi không dám nghĩ tiếp. Còn anh chàng giải phóng quân kia bị thương và ai đã chăm sóc cho anh ta cái kiểu gì mà kỳ cục vậy? Nhưng tôi biết là anh ta không thể đi được và anh ta ở lại với tư thế sẵn sàng cưa hai. Tôi nhớ lại trái lựu đạn và cái móc an toàn phụ. Chắc có lẽ cả anh ta và tôi đều không hiểu tại sao sự việc lại như thế. Rốt cuộc cả hai còn sống và đang nổi gai ốc. Nhưng việc của tôi làm thì với cô gái là lòng nhân đạo, còn với anh chàng kia là tôi sợ bị lộVà rồi, tôi thiếp đi vì mệt, vì sợ rồi lại giật mình. Mồ hôi vã ra, rồi lại thiếp đi.
            Tôi mở choàng mắt, trời sáng bạch. Đúng là tháng năm chưa nằm đã sáng, tôi vớ nhanh khẩu súng nhìn quanh, cả bọn ngồi ngáy khò khò, những lo sợ hiểm nguy chìm theo giấc ngủ. Ông lão thức dậy tự bao giờ ngồi uống trà. Cửa vẫn đóng, tôi nhìn đồng hồ; sáu giờ rưỡi, tôi đứng dậy, ông lão nhìn tôi “ Chú uống miếng nước cho ấm, chú ú ớ cho tới sáng, chú bị cảm đấy ! “ Tôi cám ơn và nhận lấy ly nước từ tay ông rồi uống như không biết nóng, ngụm nước làm tôi tỉnh lại, cả bọn vẫn ngủ. Tôi lục ba lô tìm mấy viên thuốc cảm, rồi chợt nhớ là bụng đang đói, nên thôi. Tôi hỏi ông lão mà trống ngực vẫn nhảy thình thịch vì đã mất cảnh giác:
- Chú ở một mình à, thiếm đâu rồi.
- Bà ấy đi thăm cháu ở Cái Mới Lớn
- Tôi ở Cái Mới Lớn đây, thiếm đi thăm ai ở đấy
            Ông không nói gì, tôi không hỏi gì thêm, cứ thế cho đến một thằng cựa mình, rồi hai, rồi ba Tôi biết đã qua cơn nguy hiểm. Cái đói sau khi tạm nhường chỗ cho sự lo sợ và mệt, nay bắt đầu hoành hành cả bọn. Tôi lấy một trăm đồng nhờ ông nấu cơm, ông ậm ừ đi ra nhà sau, tôi thì căng mắt nhìn theo, tờ giấy một trăm vẫn nằm trên bàn. Không biết ông nấu tự bao giờ mà mang ra ngay nồi cơm nóng hổi, bảy cái chén, bảy đôi đủa và một cái ơ nước mắm đồng kho quẹt với hai cái trứng gà. Bữa cơm có giá trị gấp ngàn lần tờ giấy bạc về mặt nhu cầu. Chúng tôi ăn như chưa bao giờ được ăn và có lẽ đây là bữa cơm ngon nhất trong đời mình. Ông lão không nói một lời, không bải bui, không thăm hỏi, làm theo lời chúng tôi như một chiếc bóng. Tôi lờ mờ hiểu ra trong cái vùng xôi đậu này, hai làn đạn đã làm cho con người ta đi đến tột cùng của sợ hãi và chính những nỗi sợ hãi nối tiếp nhau làm cho người ta trơ lại. Ông ấy không thể ra vùng giải phóng càng không thể đến vùng quốc gia. Bởi vì khi rời xa mảnh đất này có nghĩa là cái cây già cỗi vì thời gian, già cỗi vì hiểm nguy sẽ bị bứng gốc. Ôi chiến tranh! Ôi ông lão cô đơn! Ôi cái cây già nua đứng trơ vơ giữa bốn bề nguy hiểm đang hàng ngày nhìn bom đạn bứt đi những cành lá của mình. Ông đang sợ, nhưng có trời biết ông sợ ai, sợ cái gì? Bởi vì tôi biết. Nỗi sợ hãi đã trở thành một phần trong cuộc sống của ông. Nên thấy bất cứ ai cũng phải sợ.
            Chúng tôi cám ơn ông và hỏi thăm về tình hình rồi từ giả, một trăm bạc vẫn nằm yên trên bàn và chúng tôi vẫn thận trọng di chuyển về chợ Tắc Cậu khi trời đã sáng bạch.

            Ngồi trên xe đò về Giồng Riềng. Tôi lại nhớ đến cuộc hành trình kinh hoàng ấy và lại lạnh sống lưng. Tại sao cả bờ sông Cái Lớn lại vắng hoe như thế? Cái may mắn nào mà chúng tôi thoát. Tại sao mấy tay Việt Cộng lại không cảnh giới phía sau lưng, nếu lực lượng không đủ thì hiệp đồng với du kích địa phương. Tại sao chi khu Kiên An lại không nhờ căn cứ hải quân Xẻo Rô sử dụng lực lượng xung kích yểm trợ từ hướng sông hoặc ít ra chận đường rút, bên kia sông là rừng Bà Nạt. Có thể là chúng tôi may mắn không chạm các toán cảnh giới của Việt Cộng, nhưng suốt mấy tiếng đồng hồ lênh đênh trên sông tôi không gặp một chiếc tàu tuần tiểu của nào của hải quân phe mình. Dù gặp bạn hay địch chúng tôi cũng chết, thế mà bây giờ chúng tôi sống nhăn và tìm về đơn vị với chiến lợi phẩm là trái lựu đạn không mở móc an toàn phụ. Bổng nhiên tôi cười khan. Mười hai giờ trưa chúng tôi về tới Giồng Riềng. Đơn vị đã báo cáo chúng tôi mất tích và bốn đồng đội chết, mười một bị thương. Không ai hiểu tại sao chúng tôi lại an toàn về được? Và lại càng không hiểu sao tôi lại có một quyết định liều lĩnh đến thế? Nghe tôi kể lại chuyến vượt sông. Anh Tòng, trung đội trưởng, chửi thề um trời, nói rằng số mạng bọn tôi lớn. Nhưng rồi hai trong số ba tên kiệt sức đã có biểu hiện hoảng loạn. Họ bắt đầu nói năng làm xàm, người nóng rực. Chúng tôi đưa vào bệnh xá của quận, nhưng tình hình cũng không đỡ hơn và ở đó đang chuẩn bị đưa họ về bệnh viện tỉnh.
Khi mà mọi nguy hiểm đã qua thì cái sợ lại ập đến như thác lũ. Ngồi khuấy ly café mà nước đá đã tan ra hết nhưng tôi không uống một ngụm nào. Quyên mở to mắt nhìn tôi, không hỏi han gì? Nửa bao Capstan bị đốt sạch và ly café đá chỉ lưng có một ngụm.
Sáng hôm sau cả đơn vị được về Rạch Giá. Một trung đội bị thương vong gần phân nữa thì còn đánh đấm nổi gì. Tôi không hiểu rằng mình hên hay xui. Tôi là tiểu đội trưởng phải làm tờ tường trình lên ban chỉ huy đại đội về việc thất lạc đội hình chiến đấu. Quả tình tôi có hơi lo, nhưng dù sao tôi cũng đã bảo toàn được quân số và vũ khí. Thậm chí còn thu được một quả lựu đạn. Và tôi cũng biết trung đội đóng ở Kiên An cũng bị tổn thất không nhỏ. Thế là tôi đã mất đi nhiều đồng đội, như đã từng mất mát.
            Ly café đen nguội lạnh những điếu thuốc được đốt liên tục. Từ trong quán tôi nhìn sang hậu cứ đại đội ở đường Lâm Quang Ky. Lòng quặn lên từng lúc khi thấy những bà mẹ, những người vợ của đồng đội tôi. Kẻ ra, người vào làm thủ tục nhận xác người thân, một thứ âm thanh kỳ quái pha trộn giữa tiếng nấc, tiếng khóc, tiếng rù rì, tiếng la hét, tiếng cười nấc nghẹn Bổng dưng những khuôn mặt của những thằng đã chết trong trận đánh ấy hiển hiện trong tôi, từng đứa, từng đứa một. Rồi cô gái ấy, bây giờ ra sao? À. Còn anh chàng Việt Cộng nữa. Không biết anh ta có làm theo những điều tôi dặn và có gặp được đồng đội không? Rồi những người bên kia chiến tuyến, giữa cảnh bom đạn ngập trời kia, họ sống, họ chết ra sao? Họ nghĩ gì khi thấy đồng đội chết, họ nghĩ gì khi họ chết (?) và họ có reo cười khi thấy xác đồng đội của tôi. Tôi miên man trong những suy nghĩ không đầu không đuôi, tất cả đều là những liên tưởng, làm cho đầu óc quay cuồng. Trong giới lính tráng của chúng tôi, sự gắn kết về màu áo lính có một giá trị đặc biệt. Quan hệ của chúng tôi là quan hệ của những người cùng chung số phận ngặt nghèo. Chính vì thế chúng tôi rất dễ nổi điên lên khi một thằng nào đó trong đơn vị bị thương hay chết và cũng dễ nổi điên với nhau khi có một câu nói nào đó không vừa ý mình. Và chính vì thế chúng tôi mang tiếng là những người tàn ác và vô kỷ luật. Và hậu quả là đã xảy ra không biết cơ man nào những vụ bắn nhau, số lượng thương vong không phải ít, mà lý do của nó thì rất ư kỳ cục. Đã từng xảy ra một trận đánh nhau giữa Cảnh Sát Dã Chiến và Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, đã làm cho gần cả chục mạng hui nhị tì một cách lảng nhách và những đụng độ lẻ tẻ của các đơn vị với nhau mà lý do thì thuộc loại “trời thần”, nhưng rất hợp lý. Trong số cán bộ XDNT chết đó có một thằng là bạn học chung lớp với tôi năm lớp nhất. Châu văn Hòa, thằng đánh bóng bàn hay hết biết, cũng phải thôi, nó là đệ tử ruột của danh thủ Mai văn Hòa. May mà vụ đó không có tôi tham gia. Nhưng trong sâu thẳm của tấm lòng, chúng tôi thì không phải vậy. Tại sao? Vì chúng tôi là con người, những con người vốn dĩ hiền hòa, Nhưng chiến tranh đã đun nóng lên cái cường độ hỉ nộ ái ố. Một vài giây phút bình yên hiếm hoi không đủ làm cho chúng tôi nguội lại và cứ thế trượt đi, trượt mãi cho đến khi nào dừng lại cũng không biết nữa. Nhưng dù sao chúng tôi cũng chưa đến đổi biến thành thú vật. Dù trong thực tế có không ít thằng đã thành thú vật.
Còn các tay Việt Cộng thì sao ? Chúng tôi biết, các tay này kỷ luật và kiên định hơn chúng tôi nhiều. Nhưng một bộ phận không nhỏ của các anh tìm cách tự thu vén cho mình và đến khi thấy không thể được thì phía bên đây có một cái gọi là Ty Chiêu Hồi. Quả tình nhìn thấy mấy tay chui vào đó, tôi không chịu nổi. Nhưng làm gì họ bây giờ, chiến tranh mà, phải không nào? Bên cái chết cận kề làm phân định ra hai loại;  kẻ gan liều, người nhát hít. Còn vì cái sống thì có thằng ngay thẳng, thằng hèn hạ và gì gì nữa
Chúng tôi bị chi phối bởi một thế lực rất thực tế nhưng không thể nhận diện rõ ràng. Và cũng chính vì vậy mà không thoát ra được. Có thể những tay Việt Cộng cho rằng lập luận của chúng tôi là khiên cưỡng để tự bào chữa cho hành vi của mình. Tất nhiên thôi, chúng ta đang kênh xì po với nhau mà. Khi đứng ở phía bên kia của chúng tôi, thì họ có quyền suy nghĩ và nhìn chúng tôi bằng ánh mắt nào cũng được? Nhưng chính chúng tôi chưa bao giờ xem họ là kẻ thù, dù rằng hàng ngày chúng tôi vẫn tìm họ để bắn giết. Tất nhiên họ cũng đối với chúng tôi như thế. Đây là một thực tế rất cụ thể và không có một lý lẽ nào để biện minh. Những cái chết luôn luôn rình rập và sẵn sàng đến với chúng ta. Điểm chung duy nhất của chúng ta là ở đây. Chính chúng ta mang cái chết đến cho người khác và nhận lại nó cho mình. Trời ơi ! Một thực tế rợn người. Còn việc tôi không giết anh chàng gãy một chân, một tay kia. Chẳng qua là tôi không thấy anh ta cầm trái lựu đạn. Hơn nữa, nổ một tiếng súng là chúng tôi “lạy ông tôi ở bụi này“. Còn băng bó và để thuốc men lại cho anh ta ư? Chẳng qua là tôi gởi lời hù dọa cho anh ta thấy rằng chúng tôi mạnh vì chúng tôi đông nên đếch cần giết một tên què. Thế thôi.
Thế đấy. Các tay Việt Cộng nghĩ sao? Còn chúng tôi thì biết gì về các người anh em ư? Không biết gì cả, ngoài cái điều này; chúng ta là đồng bào, cái khác của chúng ta là; Các người anh em là những người lính theo một tiêu chí nào đó. Còn chúng tôi thì không. Mà cũng có thể cái có, cái không ấy cũng là từ trên trời rơi xuống. Và chúng ta làm nhiệm vụ người lính. Một nhiệm vụ không mong muốn. Bởi thế, cái dịp chúng ta sống chung với nhau chắc là sẽ xảy ra, nhưng lâu lắm. Xin hẹn lại khi mà chúng ta không còn có những khái niệm đồng minh, đồng chí mà chỉ còn lại duy nhất khái niệm đồng bào.
Buổi chiều, những ai trong trung đội có nhà tại thị xã được gởi lại súng đạn và về nhà 24 giờ. Tôi về nhà mang theo tâm trạng của người vừa thoát chết. Việc đi về bất thường của tôi, đối với gia đình đã trở thành thói quen. Người duy nhất trong nhà có thể reo mừng khi tôi về nhà là vợ tôi và cô em út. Còn lại thì dù tôi về hay đi cũng chỉ là sự thay đổi nỗi âu lo, mà tôi thì không bao giờ nói thật cho cả nhà biết những khó khăn, nguy hiểm của mình dù người muốn biết nhất là ba tôi, ông không bao giờ hỏi mà chỉ trông chờ. Đôi khi tôi cảm thấy mình có lỗi, nhưng nếu cứ kể lể mãi thì liệu có ích gì?
Chào hỏi cả nhà xong tôi đi tắm và vợ tôi mang cho tôi bộ đồ thường phục ủi phẳng phiu. Tôi mặc đồ vào và cùng cô út qua nhà chào hỏi ông bà ngoại, mấy dì và cậu mợ, lần nào cũng thế mỗi khi tôi về nhà phải làm ngần ấy việc, dù không ai ép, nhưng nếu không thì cảm thấy không yên tâm. Cô em út thì như thế, các anh luôn luôn là đối tượng để cho cô ấy phục vụ, nghĩa là đi mua cho anh mình các thứ lặt vặt, sai gì làm nấy. Làm rất vui vẻ vô tư, rất tiếc cô ấy còn quá nhỏ để tôi có thể nói một điều gì đó. Về nhà tôi đưa tiền cho cô út đi chợ mua cá rô kho muối. Út nhìn tôi rồi nhìn mẹ tôi vừa cười, vừa nói:
- Má, anh hai khùng rồi má, tháng này mà anh hai đòi mua cá rô.
Mẹ tôi đang làm gì đó, ngưng tay lại rồi nói:
- Cái con này, ăn nói lu bu. Ừ. Mà anh hai mày khùng thiệt, tao cũng không biết tại sao lại thèm cái món ăn tàn mạt ấy.
 Cái món ăn rất ấn tượng đối với tôi, thế nên cuộc đời lang bạt của tôi cái mà tôi thèm nhất chính là món cá rô kho muối của mẹ tôi. Khi có dịp về nhà là tôi đòi ăn món ấy. Cá rô con cỡ ba bốn ngón tay, mần xong rồi rửa sạch, để ráo nước, muốt hột rang chín trong cái ơ bằng đất, xong đổ nước vào đun sôi, lên bao nhiêu bọt, lấy dá hớt sạch, đổ cá vào, để lửa riu riu cho nước sắc lại, khi nuớc gần cạn, cho vào muỗng ớt băm nhỏ và để lửa đến khô nước. Cứ thế mà ăn với cơm gạo trắng tép. Thực ra trên thế gian này không ai kho cá cái kiểu oái oăm như vậy. Nhưng mẹ tôi làm như thế bởi vì có một thời gian khá dài nhà quá nghèo chẳng có gia vị gì ngoài mấy hạt muối và một cây ớt mọc hoang bên hè. Nó gây cho tôi một ấn tượng hay mẹ tôi gây cho tôi một ấn tượng thông qua ơ cá kho. Tôi không hiểu, nhưng nếu ai khác kho như vậy chắc tôi không thể nào ăn nổi. Vợ tôi thì không có ý kiến gì, bởi có một lần cô ấy làm tài khôn kho cho tôi một ơ đầy nhóc. Tôi gắp một miếng rồi không đụng tới, ơ cá kho đem bỏ vì cả nhà không ai ăn và cô ấy khóc sáng một đêm còn tôi thì bị mẹ chửi cho một trận, Nhưng nếu tôi đòi thì mẹ tôi kho và chỉ một mình tôi ăn. Chứng kiến việc này ông Nội tôi bảo tôi quái. Ông ngoại tôi thì nói riêng với mẹ tôi “Thằng này, nó thương con lắm, nhưng kiểu nó thương mẹ như thế thì không giống ai“ Mẹ tôi nín thinh. Nhưng bà hiểu rằng cuộc đời đứa con này không suông sẽ.
 Buổi tối, tôi lấy xe đạp chở vợ tôi chạy lòng vòng, rồi tìm một cái quán nào đó, ngồi nói chuyện vẩn vơ. Tôi biết cô ấy nhớ tôi và muốn nói một vài câu gì đó nhưng không biết phải làm sao. Cô ấy phó thác cả đời mình cho tôi, mà tôi thì Còn tôi, tôi cũng muốn tỏ lộ một điều gì đó để gọi là như an ủi. Nhưng cuộc đời đầy bất trắc của mình, tôi cũng không biết phải làm sao? Thôi thì được gần nhau phút nào hay phút nấy, tội tình chi mà phải gây buồn, cùng lắm là để lại cô ấy mười hai tháng lương và một sổ trợ cấp. Tôi rùng mình với ý nghĩ này. Thôi đèo nhau về ngủ cho xong. Trước khi về chúng tôi ghé ngang quầy bánh ngọt mua cho ông nội và ông bà ngoại.
Khi chúng tôi về tới nhà chưa kịp nói gì thì ba tôi bảo:
- Hiền đi uống café với ba.
 Tôi chưng hửng, chưa bao giờ tôi uống café chung với ba tôi, ngoại trừ trong những khi hai cha con cùng đi đâu đó xa nhà. Chắc là có chuyện gì đây:
 - Có gì không ba?
 - Đi đi, ba muốn nói chuyện một chút
  Hai cha con đến quán café gần đó. Trong khi chờ café ba bảo tôi:
 - Chuyện hai hôm trước như thế nào con nói ba nghe.
 - Thì chuyện lính tráng đi hành quân, bình thường thôi mà ba. Tôi ậm ừ.
 - Chuyện không dễ như vậy. Con có điên không khi nữa đêm cả lũ lội qua sông Cái Lớn.
 - Sao ba biết.
 - Chú Tuân nói hết với ba rồi. Ông Nội đang khó chịu đấy?
Tôi nói thầm “Cái thằng bậy thiệt, chuyện như vậy có gì đâu mà la um sùm“ và tôi cũng không hiểu hết cái từ khó chịu mà ba tôi nói về ông Nội
 - Con này, con là con trai đầu lòng của ba, là đứa cháu mà ông Nội kỳ vọng nhất. Tại sao con lại xem thường mạng sống của mình đến thế?
- Vậy chớ ba nghĩ xem, nếu con ở lại bên ấy thì chết chắc
- Tại sao con không chạy về hướng Thứ Ba?
- Con không hiểu tại sao? Như có lẽ áp lực lúc đó xô chúng con càng lúc càng dạt dần về sông Cái Lớn, đến khi muốn quay trở lại thì trời đã tối.
- Thôi được cái việc đó không nói tới. Nhưng việc ba lo cho con về làm ở BCH đại đội thì con nghĩ sao?
- Chắc không được đâu ba, nhà không có tiền, em con thì đông, tụi nó còn phải ăn học.
- Tao với mẹ mày sẽ ráng, mọi việc rồi sẽ xong. Giọng ba tôi chùng xuống. Với lại, nếu con ở yên nơi yên chỗ, ráng mà chiều lụy người ta, rồi mở ra một phòng vẽ kiếm thêm tiền. Mày định bắt tao với mẹ mày nuôi vợ mày mãi à.
- Nhưng con không chịu nổi cái cái kiểu cư xử của thằng cha năm Tôn đại đội trưởng
            Ba tôi sẵng giọng
            - Không nổi cũng phải nổi. Nói xong ông đứng dậy ra về. Tôi ngồi lại một lúc trả tiền rồi ra theo.
            Vừa vào nhà, tôi nghe ba tôi cằn nhằn với mẹ:
            - Con tôi mà nó không giống tôi, cứng đầu cứng cỗ.
            Mẹ tôi nói:
            - Chuyện gì cũng phải từ từ, nó lớn rồi, nó biết suy nghĩ. Ông ép nó phải đầu lụy những chuyện không đúng làm sao nó chịu được. Con người sống có số mạng. Rồi giọng mẹ tôi nhỏ xuống và đục lại. Ông nghĩ coi có ai mà nữa đêm nữa hôm, trời tối như mực, nước lạnh như cắt lội qua sông Cái Lớn mà không chết không? Ba nói cái số của thằng này long đong mà. Thôi hãy để cho nó làm theo ý nó. Có gì nó chẳng trách ai.
 - Trách, trách, thẳng cẳng ra đó rồi trách cái gì? Chỉ tội cho ông già ăn ngủ không yên vì nó. Ba tôi lớn tiếng. Còn con vợ nó nữa, nhớ chồng thì khóc. Không biết một câu khuyên chồng.
 - Ông có khuyên nó được không mà ông nói vợ nó.
            Ông nội lên tiếng:
  - Vợ chồng bây thôi đi, đừng có cãi nữa. Tao nuôi nó từ nhỏ tới lớn, thương nó là thương ở cái tính ngang ngạnh, nhưng biết điều. Đi lính thì phải gặp hiểm nguy, nhưng con vợ mày nói phải đó, con người có số mạng.
 - Ba nói vậy riết rồi con vô phương khiển nó.
 Ông Nội gằn giọng:
 - Tao biểu thôi. Rồi nó đâu ?
Tôi bước vào nói nhỏ :
- Con đây. Thưa nội .
          Ông ôn tồn :
          - Thôi đi ngủ đi. Mày thiệt là gan trời.
Ba mẹ tôi nhìn nhau nín thinh, tôi lỏn lẻn chui tuốt vào buồng. Vợ tôi bắt đầu sụt xịt :
- Bộ anh tính đi hoài vậy đó hả ?
- Thôi đi. Hết ba, rồi tới em nữa. Hay muốn tôi đào nhiệm. Tôi gằn giọng.
Vợ tôi nín thinh, rồi trở mình quay lưng lại phía tôi và sụt xịt tiếp, tiếng càng lúc càng rõ. Tiếng ba tôi cáu gắt vọng vào :
- Mày giở cái trò gì nữa đó thằng Ngưu Ma Vương.
Tiếng vợ tôi im bặt. Đêm càng lúc chìm sâu trong im ắng, có những ì ầm quen thuộc của pháo binh và máy bay tuần tra. Nhưng điều đó đã quá quen thuộc như là một phần của cuộc sống trong chiến tranh nên tôi vẫn cho cái màn đêm yên ắng có nghĩa là không còn có tiếng người. Tôi gối hai tay dưới ót nhìn lên nóc mùng, suy nghĩ đầu cua tai nheo, rồi giây phút vượt sông Cái Lớn lại hiện về trong tâm trí, bổng cái lạnh của nước sông ập đến, người tôi nổi ốc. Tại sao nhỉ? Ý chí nào hay một phép lạ nào đã cứu chúng tôi. Không hiểu. Hay như mẹ tôi nói là số mạng. Cái kiểu vượt qua sự hiểm nguy thì tôi gặp không biết bao nhiêu lần, nhưng quả là lần này thì ghê nhất, dài nhất. Tôi chợt nhớ đến giòng sông Cái Lớn. Ôi giòng sông của tôi êm đềm thế kia, hiền hòa và khoáng đạt thế kia. Bổng dưng tôi nhớ lại cái cảm giác nhớ lại bức thư của Người Góa Phụ Trồng Hoa cộng thêm một ý nghĩ tìm và đưa Người Góa Phụ Trồng Hoa thăm giòng sông. Có phải chăng vì cảm giác đó, vì sự hiền hòa và khoáng đạt ấy mà chúng tôi đã sống. Ý nghĩ này làm tôi dịu lại, rồi tôi nhớ những đêm trăng, những ánh đèn của các xuồng câu, của những rặng đáy lung linh. Những giề lục bình đủng đỉnh trôi theo nhịp sóng. Nước ròng trôi ra, rồi con nước lớn lại trôi vào. Nhàn nhã. Thỉnh thoảng còn dừng lại một bến bờ nào đó, từ tốn nhìn lên ven bờ, khoe những bông hoa màu tím ngát. Vâng, giòng sông ấy chỉ có chở che, chỉ có hiền hòa. Giòng nước mặn mòi kia nó ngọt lịm và mặn mà như những khứa cá phèn kho tiêu, những khứa cá úc kho xả nghệ hay cá chẽm nấu canh chua và rất nhiều, rất nhiều thứ nữa. Những rặng dừa nước xanh um làm dịu lại cái nắng chói chang. Bên dưới những rặng lá dừa nước kia là đọt dớn, đọt choại, dâng tặng cho đời những bát canh cá trê trắng nêm mắm, làm mát lòng người. Đi nơi đâu, rồi ở nơi nào. Những con người bên hai bờ sông ấy làm sao có thể quên. Tôi cũng thế. Và những tiếng sóng nữa, những tiếng sóng lách tách bên mạng ghe tam bản của những ngày trẻ thơ theo ba, theo cậu qua lại Cái Mới Lớn - Thầy Qươn. Tất cả những âm thanh ấy làm cho những tiếng gào rú của súng đạn, của máy bay tàu chiến, của thủy lôi trở nên lạc loài và xấu hổ. Rồi tôi chìm vào trong giấc ngủ với những ánh trăng, những tiếng sóng theo tôi lách tách vỗ nhẹ trong đầu và cái hình ảnh bao giờ cũng cuốn hút tôi là những bầy cá đối chạy nháo nhào trên những bãi sông khi nghe tiếng động. Sự sống, cuộc sống trùm phủ khắp mọi nơi. Vậy mà con người thì tìm giết nhau rồi lớn giọng rêu rao vì cuộc sống.
Một cái mùi gì đó, thoang thoảng như mùi mồ hôi phả vào mặt làm tôi tỉnh giấc. Khuôn ngực trần của vợ tôi đang rất gần mặt tôi trong cái ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn ngủ hắt vào. Thực tế báo cho tôi biết “tôi có một cô vợ“. Chỉ cần tôi cựa mình là cái khuôn ngực đầy đặn ấy ép sát vào tôi. Cái mùi kỳ diệu ấy bổng nhiên như đậm hơn và cuốn tôi vào… Ôi trời ơi, cuộc sống bồng bềnh trôi nổi đã làm cho tôi quên, sự nhớ lại bất chợt làm tôi thảng thốt. Một sự thảng thốt hạnh phúc.
- Nếu anh không làm theo ý ba, thì anh đi đâu em đi đó. Vợ tôi nói nhỏ
            - Bộ em điên hả? Ông nội và ba mẹ chưa đủ mệt vì anh hay sao mà em lại đổ thêm vào. Khùng. Tôi xoay lưng lại và ngủ. Hình như những tiếng sụt xịt lại xuất hiện. Tôi lại gắt lên:
            - Khuya rồi, để mọi người ngủ với. Tiếng sụt xịt lại nín. Tôi cảm thấy mình có lỗi, nhưng phải làm sao đây? Có trời mới hiểu được tôi phải làm sao cho đúng. Giấc ngủ lại đến chậm và nặng vì một cái chân vợ tôi gác ngang qua bụng. Tôi vẫn để yên vì tôi biết rằng đỡ cái chân ấy ra khỏi nơi nó mong chờ là một cái tội.
      
Tôi thức giấc thì trời sáng bảnh mắt. Xem đồng hồ đã 8 giờ sáng, các em tôi đi học cả, mẹ tôi đang ngồi chầm lá.
- Ba đâu rồi mẹ ?
- Ba mày đi uống café. Ba mày giận mày rồi giận luôn tao.
- Trời. Mẹ thì dính gì vào chuyện này?
- Thì ổng nói tao bắt cầu cho mày đi.
Tôi nín thinh rồi ra quán kiếm café uống. Quán đã hơi trưa chỉ còn một vài người, tôi thấy ba tôi ngồi một mình hút thuốc. Tôi kéo ghế ngồi gần ông. Trong khi chờ café, tôi nhìn kỹ ba tôi, ông già hơn nhiều cái tuổi năm mươi của mình, một đời gian truân, cực nhọc vì thời cuộc, vì con cái. Không hiểu sao tôi lại lên tiếng trước:
- Ba. Việc ba lo cho con về làm văn phòng là điều không thể được, ngoài cái lý do không có tiền còn có một lý do khác. Con là con của ba, con giống ba mà.
 Ông trợn mắt nhìn tôi, tôi làm như không thấy, nói tiếp:
- Ba có thể hòa hoản, thậm chí ăn nói nhỏ nhẹ. Nhưng chuyện phải quy lụy chấp nhận những câu nói trái tai. Chuyện này ba không làm được và chính con cũng không thể nào để ba phải chịu cực khổ vì con theo cái kiểu này. Mẹ nói đúng, con đã lớn rồi con tự quyết định việc của con. Miễn sao đừng để người ta mắng vốn với ba. Trong chiến tranh, sống chết không phải là do mình. Con không tin số mạng. Nhưng nếu có, con chấp nhận nó. “Cuộc đời con người dù ngắn dù dài cũng phải sống sao cho đừng hổ thẹn“. Điều này ông ngoại dạy con. Con hứa với ba con cố gắng làm theo. Qua cái chết của anh Tư, con bác hai, con thấu hiểu nỗi lo lắng của ba. Nhưng ba yên tâm, con không liều mạng đến thế đâu?
Tôi nói như ma đuổi. Ba tôi tròn mắt nhìn tôi rồi ông thở hắt ra đứng dậy ra về không nói một tiếng. Tôi uống xong café, rồi xuống BCH đại đội nghe ngóng xem coi cái tờ trình của tôi ra sao. Tôi gặp Tuân, tôi cự hắn một mách, hắn cười cười nhìn tôi rồi nói
- Thì đây. Ông bà già tao ở Tân Hiệp mới ra tẩn cho tao một trận ra trò. Ổng hỏi tao bề ngang con sông bao lớn, tao nói gần tám trăm mét, hai ông bà muốn xỉu. Hai ông bà định thần lại dủa cho tao một chập, móc cho năm trăm rồi kêu tao vài bữa nữa xin phép về đi coi vợ.
Tôi cười cười
- Cưới cô láng giềng hả ? Đã quá ha. Mặt Tuân tối sầm, nhưng tôi không để ý.
Bổng đâu thằng An từ Kiên Lương về, ba thằng la toáng lên và sau đó là một chầu nhậu. Thế đấy. Sống chết thế nào đếch biết, hở ra là chúng tôi nhậu nhẹt, bài bạc. Cuối cùng là một quảng trống không đến vô tư, một sự vô tư chết người. Trong lúc chén chú chén anh tôi sực nhớ lại vụ thằng Tuân coi vợ, tôi nói :
- An chuẩn bị ăn đám cưới thằng Tuân. Cô láng giềng đấy.
Thằng An la lên hào hứng:
- Thế à. Chừng nào ?
Tôi chưa kịp nói. Bổng giọng thằng Tuân chùng xuống:
- Cô láng giềng đi rồi.
- Đi đâu? Đi lấy chồng à. Thằng An hỏi để chuẩn bị cho sự chọc phá tiếp theo.
- Cô ta ngủm rồi, ngay trong đêm mình vượt sông ấy, mấy cha Việt Cộng đẩy vào nhà cô ấy một trái 81. Cả nhà đi vắng, chỉ có cô ấy ở nhà và chết. Ông bà già tao cũng một đêm lên ruột. Tao mới nghe ông già nói. Phải chi đêm đó tao biết, tao buông tay cho nước xô vào cái miệng đáy cho xong. Tuân nói mà đôi mắt thất thần, ráo hoảnh.
Tôi rợn người trước câu nói của Tuân, tôi hỏi dồn
- Vậy ba mày kêu mày đi coi vợ, mà coi ai ?
- Ai có biết ổng đâu, còn chuyện tụi tao, tụi tao đâu có nói với ổng.
Thì ra là vậy. An hỏi tiếp;
-  Mày không về dự đám tang à?
- Chôn cất rồi, ngay ngày hôm sau. Nghe ba tao nói là cô ấy chỉ còn lại một dúm.
- Rồi mày tính sao?
- Tao cũng không biết, cái thứ lính lác như tụi mình kiếm được con bồ trần ai khoai củ. Tao mà biết như vầy, tao nhét cho cô ấy cái bầu, rồi anh ở đâu thì em ở đó, nếu bị Việt Cộng pháo kích thì hai đứa chết chung. Khỏi buồn
Chúng tôi lạnh người khi Tuân chấm dứt câu nói. Rồi. Thế là cuộc vui tiêu tùng, phần rượu còn lại chúng tôi uống như trâu uống nước phèn.
Thế đấy. Lại thế đấy, cuộc sống chúng tôi luôn luôn chứng kiến những nỗi chia lìa của người khác đến chai đi. Khi tới phiên mình thì những cảm xúc bổng nhiên tắt ngấm và nước mắt dội ngược vào lòng. Tuân sẽ ôm niềm đau riêng của mình, rồi nhớ hay quên lúc nào không biết.
Sau khi ngủ một giấc lứ lừ tại hậu cứ đại đội, chúng tôi kéo vào bệnh viện thăm những đồng đội bị thương. Thằng nhẹ bảo mình hên vì nghỉ được dăm ngày hay nữa tháng. Thằng nặng cũng bảo mình hên vì sẽ được giải ngũ hoặc được chuyển về nơi công tác nhẹ hơn. Chỉ có những thằng thoát như chúng tôi là lãnh đủ (?). Không phải chỉ chúng tôi, mà người lính nào cũng thế. Chiến tranh khắc nghiệt đến độ làm cho con người phân vân tự hỏi “sống hay là chết đi cho rồi“ [xxxiii]. Ôi ông Shakespeare “to be or not to be”. May mà mọi người vẫn sống, dù sống trong sự khắc nghiệt tột cùng mà không sự lựa chọn nào có thể. Mọi hình thái của cuộc sống trôi đi và xô tấp vào mỗi số phận một cách lạnh lùng vô cảm. Bởi vì chỉ có nỗi buồn là thật sự, còn niềm vui thì gượng gạo.
Tới, lui, đùa giỡn với nhau một lúc giữa sự ngạc nhiên của mọi người rồi chúng tôi về. Thằng An rủ đi nhậu tiếp, thằng Tuân đòi về, còn tôi không biết nghe ai. Cuối cùng, ai về chốn nấy.
Cả nhà đang chờ cơm. Thấy tôi, ông Nội lừ mắt:
- Bộ đi chưa đủ sao con. Được về thì ở nhà với vợ.
Tôi nín thinh ngồi vào bàn ăn qua quýt, rồi ra nhà trước nằm đọc sách. Ngọc thằng em thứ tư chuẩn bị thi Tú Tài ra ngồi kế bên tôi:
- Anh hai, nếu thi rớt thì làm sao ?
- Đi Đồng Đế [xxxiv].
Thằng em buồn hiu bỏ đi. Tôi nói vói theo:
- Nếu không muốn đi thì ráng học.
Nó không trả lời bỏ đi tuốt. Tôi lại đọc tiếp.
           
Sau một tuần chúng tôi lại khăn gói lên đường, không trở lại Kiên Bình mà lại xuống Kiên An, Khi đò chạy ngang sông Cái Lớn tôi bất chợt nhìn về hướng Lô Hào Dầu, một giải trắng bạc lấp lóa dưới ánh nắng chạy xa mút tầm mắt, tôi chợt nhớ đến đêm vượt sông, thay vì cái cảm giác sợ hãi là một thứ gì đó như là thân quen, như là một sự gắn bó của một giòng sông với số phận mình. Cái lạnh tê người của đêm vượt sông và cái đẹp rực rỡ của ngày hôm nay chính là thuộc tính của giòng sông. Cứ thế, giòng sông vẫn luôn luôn bình thản với những cái của mình; sự dữ dội và hiền hòa. Và con người cũng thế, chúng tôi cũng thế, các người anh em bên kia chiến tuyến cũng thế. Cả hai đang ở đâu đó sau những rặng dừa nước, lẫn khuất trong rẫy khóm, trong vườn cây, chập chờn trên những cánh đồng. Nhưng không bình thản như giòng sông, dù rằng cùng chung một thái độ; khi giận dữ ầm ào, lúc êm đềm sâu lắng. Ôi biết bao giờ hai phía bờ sông nối lại cùng nhau, bởi một nhịp cầu? Bao giờ? Bao giờ ?
Đón tiếp chúng tôi tại cầu chợ là ba cái xác Việt Cộng thứ thiệt nát bấy và mấy tay Việt Cộng chiêu hồi, trong đó có Chín Đỏ, một tên phản bội loại gộc đang vênh vang kể lại thành tích với những kẻ tò mò háo sự. Một cái cuốn huy chương Anh Dũng Bội Tinh cài trơ trẻn trên ngực áo bà ba đen làm cho tôi xốn mắt. Bất chợt ngón tay trỏ của tôi chạm vào cò súng khẩu M.14 đang cầm trên tay. Tôi ghét nhất những tên này, những tên phản thùng. Chỗ đứng nào cho bọn họ trong chính quyền Sài Gòn, Hà Nội. Họ đã tự biến mình thành đồ tể bắn giết, bán rẽ đồng chí của mình, chiến hữu của mình chỉ vì một chút giận hờn hay chỉ vì một tí quyền lợi con con. Tôi biết quá rõ bọn này, chúng nhảy qua nhảy lại qua hai bên bờ lợi danh và quyền lực. Mà danh lợi thì có nhiều gì cho cam, chỉ một chút thôi, một chút xíu thôi, bọn họ đem cả phẩm giá và trái tim mình ra đổi lấy. Còn quyền lực là cái gì? Chỉ là một sự vênh váo đến thô bỉ. Và họ viện dẫn hàng ngàn lý do khiên cưỡng đến buồn cười để bảo vệ cho hành động chó má của mình. Tại sao khi không ưa Việt Cộng? Nghỉ, về đi cày. Khi chán Quốc Gia? Nghỉ, về đi cày. Cái đồng bằng mới toanh này thiếu cha gì đất để mà làm ra lúa gạo, vườn cây. Được quá đi chứ, dù không đơn giản. Nhưng có thể làm được mà. Tôi thù ghét họ vì cái chuyện nhập nhằng danh lợi. Tô son cho kẻ mình cần nịnh. Trát trấu kẻ mình không ưa mà không biết phải trái, đúng sai. Tôi mang tâm trạng nặng nề bước vào doanh trại, sắp xếp nơi ở cho tiểu đội mình. Rồi cùng anh Tòng trung đội trưởng đi kiếm café uống. Buổi trưa chợ Thứ Ba lèo tèo quán xá, lưa thưa người qua lại. Anh Tòng buột miệng chửi thề:
- ĐM. Mấy thằng sớm đầu tối đánh, tao mà có quyền tao bắn chết mẹ hết. ”Ôi giết kẻ thù, chớ giết bạn đành sao? “. Đang phẩn nộ, bổng dưng anh xuống một câu vọng cổ làm cho tôi tức cười, dù rằng tâm trạng đang nặng nề.
Vừa lúc đó Chín Đỏ và một tên nữa mặc bộ bà ba đen Xây Dựng Nông Thôn bước vào, tôi khều anh Tòng:
- Anh Tòng. Thêm một thằng nữa, Tám Điểu, cái thằng nội tuyến phản thùng nướng nguyên một tiểu đoàn Vi Xi tại Tà Niên[xxxv].
- ĐM. Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. ĐM nó, mày có tin tao bắn nó không? Để nó vài bữa mấy cha Vi Xi mạnh lên, tụi nó bán tụi mình cho mày coi. Anh đưa tay sờ vào khẩu P.38. Tôi can:
- Thôi anh, kệ mẹ nó, sớm muộn gì các đồng chí của nó cũng thịt nó thôi. Tôi gạt tay anh ra khỏi khẩu súng.
Anh Tòng vẫn hậm hực lầu bầu:
- Trong suốt cuộc đời lính lác của tao, tao chưa đánh, chưa bắn một thằng nào tay không, cũng chưa nghĩ tới cái trò phản phé. Nhưng với những thằng này thì phải như vậy. Thứ nào cho ra thứ nấy, mấy cái thứ chiêu hồi, nội tuyến, nằm vùng này tao bắn bỏ mẹ có ngày.
Tôi đồng ý với anh, nhưng vẫn can :
- Chiêu hồi thì anh thấy, nhưng nội tuyến thì khi mà anh hay thì nó vọt mất cha rồi. Mà sợ hổng chừng mình đã nằm thẳng cẳng không chừng.
Thấy tình hình có vẻ căng thẳng, với lại bắn giết nhau vì những việc không đâu chẳng giải quyết được gì, đôi khi còn gây họa cho người khác nên tôi kêu tính tiền. Hai anh em bước ra khỏi quán, cái nắng xế chiều vẫn hầm hập, anh Tòng vẫn lầu bầu, khi đi ngang qua cầu chợ, những cái xác người vẫn còn đó, chung quanh không một bóng người. Có vài con lằn xanh bay tới bay lui thưởng thức mùi tanh của máu. Không khí như nghẹn lại và mọi người hình như quên rằng mình đang thở. Ngày đầu tiên buồn thảm. Sau một cú thoát chết, tôi trở lại nơi này như thế đó.
Ở đây không như ở Kiên Bình, tất cả mọi thứ ở đây là rượu chè, súng đạn, chết chóc, bài bạc, muỗi, nước mặn và hàng trăm thứ hằm bà rằn khác do chiến tranh tạo nên… Tất cả trộn lẫn vào nhau trong cái không khí đặc quánh. Cứ thế chúng tôi, mọi người chung quanh và cả những người anh em bên kia chiến tuyến phải đối phó và chịu đựng chịu đựng. Vâng chỉ có thế.

Khi chúng tôi còn ngồi trên trực thăng, từ trên cao nhìn xuống, chúng tôi thấy có những bóng người thấp thoáng ở những bờ sậy phía trước. Những cơn mưa đầu mùa làm cho những mảnh ruộng vuông vuông loang lổ như bộ đồ chúng tôi đang mặc, nơi ướt, nơi khô và những màu sắc kỳ quặc đan xen vào nhau tạo thành một khoảng ảm đạm mênh mông. Trực thăng hạ dần độ cao, những trái rocket được phóng, những tràng đại liên như vãi trấu, và chúng tôi phóng xuống dàn hàng ngang tiến vào các bờ sậy mà trong đó có những ngôi nhà như là những cái chòi. Sự lục soát bắt đầu, đàn bà thất thần sụt sịt, trẻ con khóc thét váng trời, mấy ông già, bà già mặt mày khô cứng như da lòng bàn tay của họ. Tôi dẫn tiểu  đội mình men theo bờ sậy lục soát từ bụi chuối lùm cây. Có mấy quầy chuối chín bói, tôi bảo Tuân bẻ ăn, một mình tôi ôm súng dấn tới thêm Và tôi điếng người khi bước vào một ngôi nhà mà ngưòi tôi gặp lại là Thuật, thằng bạn học chung từ thời tiểu học đến năm đệ ngũ. Hắn sẽ sàng kêu tôi :
- Hiền.
Tôi nhìn hắn. Hắn nói:
 - Tao. Thuật đây.
 Thuật già đi rất nhiều so với cái tuổi hai mươi tư. Ôi hai thằng tuổi Hợi. Hai con heo rừng. Nhìn cái vẻ mặt ngáy ngủ của hắn tôi hơi lo ngại. Tôi đảo mắt nhìn quanh, căn nhà trống quơ trống hoác, có một cái cà ràng và mấy cái nồi nhôm đen nhẻm nằm chỏng chơ và chỉ có thế. Tình hình không đơn giản. Tôi giữ thái độ của bạn bè lâu ngày không gặp, trong sự cảnh giác cao độ. Tôi nói:
- Mày ăn ở như thế này à ?
- Trốn quân dịch mà. Thuật lí nhí
- Đồ mắt ma. Tôi vừa nói, vừa cười cười bá vai Thuật ra phía sau nhà. Nghi ngờ của tôi trở thành sự thật. Dưới mương bờ bao là nước xấp xấp của cơn mưa đầu mùa, lớp cỏ mồm vàng quánh những phèn không che dấu nổi cái bá súng CKC lú lên. Tôi đảo mắt nhìn quanh, thấy Tuân và tiểu đội tôi đang đứng bẻ mấy quầy chuối hoang chín bói cách đó khoảng hơn chục mét. Lau sậy cao hơn nửa thân người. Tôi vọng lại:
- Tuân này, dẫn anh em lục soát kỷ lưỡng nhé. Rồi nhìn thấy cây dầm dựng sát vách, tôi với lấy và đẩy bá súng chìm sâu xuống nước rồi gạt cỏ lấp lại. Thuật đưa mắt nhìn tôi, mặt xám ngoét, lắp bắp:
- Tao tao
Tôi ngắt lời:
- Mày khỏi giải bày. Tao cứu mày là vì tình bè bạn. Tao không mong mày chiêu hồi. Nhưng mày đừng vì chuyện này mà cho là tao có cảm tình với Việt Cộng. Khẩu súng cứ để nằm yên đó, Tao không lấy, bởi vì lấy nó mà thả mày thì cũng bằng không, nhưng không chắc là không mất. Và bây giờ mày có thể biến đi. Nếu lính của tao thấy là mày không ổn. Nhanh lên.
Thuật vội vã lẩn nhanh vào đám sậy. Tôi thẩn thờ nhìn theo và cầu mong nó thoát. Khi những tàn lá vàng úa của lau sậy che kín bóng Thuật. Tôi quay vào nhà thì Tuân và anh Tòng quay trở lại, mọi diễn biến không quá một phút. Tuân đảo mắt nhìn quanh nói bâng quơ:
- Nhà này nếu không trốn quân dịch thì là Việt Cộng.
Anh Tòng lên tiếng:
- Chắc cú, nhưng nghe tiếng trực thăng thì lỉnh mẹ nó rồi. ĐM nó, đổ trực thăng vận như thế này tốn xăng bỏ mẹ.
Tay quảy máy truyền tin lên tiếng:
- Anh Hai, có lệnh. Vừa nói hắn vừa đưa ống liên hợp cho anh Tòng. Anh cầm máy nghe cái gì đó một lát rồi trả ống liên hợp cho Nhứt, quay lại nói với chúng tôi:
- Chuẩn bị chiếm mục tiêu thứ hai.
Cả bọn chuẩn bị lại đội hình, rồi băng qua mương bờ bao tiến về bờ sậy phía bên kia. Tôi đứng ngay chỗ khẩu súng để không ai phải lội ngang qua đó. Thường thì các cuộc hành quân kiểu này, đơn vị chúng tôi thường phối hợp với trung đội Thám Báo Chi Khu hoặc một trung đội Nghĩa Quân nào đó. Quân số vừa đủ một liếp trực thăng năm chiếc, mỗi chiếc tối đa mười người. Tình hình ngày hôm nay chỉ là những cuộc lục soát thông thường nhằm xóa bỏ các mục tiêu mà tình báo đã chấm định. Nhưng thỉnh thoảng mới có kết quả, mà kết quả thì cũng chẳng khả quan gì lắm. Một vài cây súng gỉ sét, dăm ba anh du kích mùa, tức là khi không có công việc đồng áng thì làm du kích. Khi vào mùa thì làm nông dân, còn thứ thiệt thì thiên biến vạn hóa. Nhưng có đôi lúc họ cũng bị hốt sạch vì bị mấy tay chiêu hồi chỉ định mục tiêu gần như đúng phóc. Nhớ tới vụ này, tôi chợt lạnh mình, nếu hôm nay có Chín Đỏ đi theo chỉ điểm thì thằng Thuật đi đứt. Tôi có ba đầu sáu tay cũng không cứu được nó. Tình đồng chí gì mà như cục cứt. Ủa quên, đã chơi nhau tới bến rồi còn đồng chí, đồng chóe gì nữa. Tôi cũng chợt nhớ lại mấy trận, mà các chiến hữu của tôi bán đồng đội của mình, máu tôi như muốn sôi lên. Thú thiệt tôi không thù oán gì mấy tay Việt Cộng. Nhưng mấy thằng phản bội thì tôi giận thấu xương. Mới anh anh, em em đó mà trở mặt giết nhau nhanh như chớp. Một vài loạt súng nổi lên, nhưng chẳng có gì cả. Chiếm được bờ bao, rồi lục soát, rồi lại băng qua những miếng ruộng vàng khè vì nhiểm phèn, rồi vài tiếng súng nổ, rồi lại lục soát... Bốn giờ chiều cuộc hành quân chấm dứt. Lên trực thăng trở về hậu cứ, những cánh đồng chỗ ướt chỗ khô, những bờ bao vàng úa điểm những đốm xanh của lá non mới ngóc lên nhờ những cơn mưa đầu mùa. Tất cả lấp lóa trong ánh nắng chiều, trải dài và lướt nhanh dưới chân tôi, tôi như cố tìm và hình dung ra Thuật đang đứng đâu đó và cố nhận ra tôi trong cái khoảng không gian mênh mông mà chiếc trực thăng chỉ lớn hơn một con chim một chút.
Nếu không có chiến tranh, thì Thuật có thể là một kỷ sư nông nghiệp, như ước mơ của nó. Một nhà báo, như là ước vọng của tôi. Thế mà bây giờ mơ ước tan tành theo khói súng. Còn thằng Bầy thì bây giờ ra sao? Cái xứ Thầy Qươn ấy Việt Cộng lềnh khênh. Chắc cũng là “ở bầu thì tròn ở ống thì dài” thôi. Và bao nhiêu thằng nữa. Bạn bè chúng tôi tìm cách bắn nhau mà không một chút hận thù. Nếu lúc chúng tôi đổ quân có tiếng súng từ dưới bắn lên thì tôi và Thuật sẽ ra sao? Có trời mà biết. Nhưng thôi. Mọi việc đã qua tôi và Thuật, hai thằng đều nguyên vẹn.
Trực thăng không hiểu sao lại đáp xuống đầu lộ Tắc Cậu mà không ở bãi đáp Chi Khu Kiên An. Và ở đây, tôi gặp thằng Hẹ, nó bảo thằng Bích chết rồi. Tôi vội nói với anh Tòng mấy tiếng rồi lên xe về ngay Rạch Giá. Đường xấu, chiếc xe bò như rùa, trong khi lòng nóng như lửa đốt. Bích ơi. Tao không ngờ mày lại là thằng đầu tiên trong bọn ra đi. Trong lòng tôi nhộn nhạo một thứ cảm giác kỳ quặc, vừa mong mau về để nhìn thấy nó lần cuối cùng, vừa mong là cái tin mình nghe được là không đúng sự thật. Mới hôm nào trong chờ vợ sinh đứa con đầu lòng, nó lại rủ tôi qua quán Dư Âm, kêu hai ly café, rồi gở cái lon thiếu úy mới toanh bỏ vào ly café của nó, của tôi, khuấy hai ba vòng gọi là rửa lon, rồi hai thằng tào lao một chút trở qua bệnh viện thì vợ nó đã sinh, mà sinh con gái. Nó nói với tôi là như vậy chỉ lo cho nó học thôi, khỏi lo đi línhThế mà bây giờ
Tôi không ghé nhà, mà ra thẳng nhà Bích. Khi thấy mọi người nhốn nháo thì tôi đi không muốn nổi. Đôi baudesaut, nặng như đeo đá. Thấy tôi bước vào bác cả trai nhìn tôi bằng đôi mắt thất thần, Bác cả gái thì òa lên khóc, và vợ nó đang ôm đứa con năm tháng tuổi, mặt mày trắng bệch như thạch cao. Hai tai tôi ù lên. Đôi mắt như dại đi. Thế là không còn gì nữa. Nhìn ảnh nó mặc quân phục với nụ cười như trẻ thơ. Thế mà nó chết, chết khi đi mở đường để giữ an ninh cho chi khu đưa người khác vào thay cho nó. Tôi gở nhẹ tay bác cả, rồi ngồi xuống chiếc ghế và lúc đó tôi mới biết chỉ có một mình tôi, một mình tôi là bạn bè của nó. Thằng Kiến ở Đồng Đế, thằng Vân ở Thủ Đức, thằng Hải không biết ở phương nào, thằng Điện mất tăm, thằng Thuật vừa thoát cơn nguy hiểm, thằng Trung, thằng Bầy thì chẳng biết ra sao, thằng Long thì giờ này chắc đang ngồi trên trực thăng xí xô xí xào với mấy thằng Mỹ trắng, Mỹ đen trong khi mấy khẩu đại liên đang đổ đạn xuống một ngôi nhà, một rặng cây nào đó, trong khi đầu óc thì cứ vô tư. Bởi vì làm sao mà nó biết, những viên đạn đó soi vào đâu, trên cơ thể của ai. Còn những thằng khác nữa, đang ở đâu đó trên khắp các nẻo đường, trên khắp các chiến trường. Mà hình như chẳng có nơi nào bình yên dù chỉ cho một thằng. Thằng lính Quốc Gia, thắng lính Việt Công, thằng trốn quân dịch và cả thằng còn đi học.
           Khi mọi thứ đã dịu đi thì đã chín giờ đêm, Những người đến chia buồn đã thưa bớt. Tôi bắt cái ghế ngồi kế bên di ảnh nó và ôn lại từng kỷ niệm từ ngày còn đi học lớp nhất ở trường Nam cho đến những năm trung học. Rồi những ngày lang thang ở Sài Gòn, lê lết ở Tuyết Lan, Hà Nội cùng nghe Sylvie Vartan, Johnny Harlyday, nghe Thái Thanh, Hà Thanh, Khánh Ly, Cao Thái Thỉnh thoảng có tiền tìm một chầu ăn sáng ở La Pagode và ly rượu đầu đời tại nhà hàng Tropical ở chợ Bến Thành ngày hai thằng dính được cái Tú Tài 1, cho tới lúc tôi và nó bịn rịn chia tay ngày tôi tiển nó vào Thủ Đức. Rồi những lần bất ngờ gặp nhau ở đâu đó. Thế mà

Xong, khi nắm đất cuối cùng được quăng xuống. Trong nắm đất tôi gởi cho bạn mình cả tấm lòng tôi, cũng nghĩa là chôn vùi đi biết bao nhiêu ước vọng mà hai thằng vẽ ra từ thời đi học. “Bích ơi. Thế là cái ước mơ làm chủ nhiệm một tờ báo của mày chấm hết. Cũng có nghĩa là chấm hết cái giấc mơ tao làm chủ bút cho tờ báo của mày “
Sau cái chết của Bích không lâu. Tôi mang nỗi buồn mất bạn theo đơn vị chuyển về Hà Tiên. Ở đây, điểm dừng chân chuyến hành phương nam vĩ đại của dân tộc, tôi có dịp đắm mình trong khung cảnh tuyệt vời và vô vàn những di tích còn sót lại của một thời mở nước. Tôi cũng cố công tìm lại cội nguồn của mình, ông tổ giòng họ của tôi là một võ tướng thời vua Minh Mạng. Nhưng với khả năng hạn chế và tình hình an ninh không cho phép, nên kết quả thì không là gì cả. Ngoài cái việc ngắm nhìn và xót xa khi thấy dấu tích của đạn bom hằn sâu lên đất nước và tâm hồn người. Rồi lại chuyển xuống Kiên Lương[xxxvi] rồi về lại Kiên Bình. Những trôi nổi dập dềnh của đời lính. Anh Lập mấy lần gặp tôi khi đi kinh lý đó đây với tư cách Chỉ Huy Trưởng, anh có hỏi tôi cần gì, tôi chỉ cười cười. Tức khí anh nói “ Mày điên hả? Mày không biết mày muốn cái gì ư ?”. Có chứ anh? Nhưng anh làm sao giúp được tôi? Một nơi làm việc tốt, quần áo phẳng phiu nếp ủi hồ, ngày hai buổi vào công sở, tối về dẫn vợ đi chơi. Việc này hay đấy chứ, nhưng có cái không hay là cứ phải dạ suốt, lâu ngày giọng điệu ẻo lả, người ngợm nó hèn ra. Tôi từng nói thầm như vậy khi anh hỏi tôi và vì không thể nói nên tôi cười. Và anh đâm chán. Cám ơn anh. Anh Lập. Mình không giòng họ bà con. Anh thương tôi như thương một con người có chút gì đó đáng cho anh thương, cũng như tôi thương một thằng nào đó. Thế thôi. Bận bịu với nhau bằng một tấm lòng là quá đủ. Xắn tay áo lao vào chuyện người khác giữa cuộc đời thú, người lẫn lộn này liệu có nên chăng? Biết bao nhiêu thằng lợi dụng cái lon, cái chức của anh, cái uy quyền của anh để làm bậy rồi, chưa đủ sao hả ông anh yêu quý của tôi?
Tôi trở lại Kiên Bình, hơn một năm về lại nơi này. Tất cả vẫn như xưa, niềm vui, nỗi buồn vẫn y nguyên không có gì thay đổi. Sự đổi thay duy nhất là ở trong tôi, những bài thơ viết quăng tứ tung đã buồn hơn, dằn vặt nhiều hơn và vì thế mà cũng ít hơn. Tôi vội vã tìm đến quán ông Tư Qưới mà quên tuốt cái vụ nắm tay con gái ông và bị ông bắt tại trận. Cô bé vẫn như xưa, thấy tôi mặt cô đỏ bừng chẳng nói một câu quay mặt bỏ đi. Mấy cô em thì la toáng lên. Ông Tư đang ngồi đọc sách nhướng mắt nhìn tôi qua cái kính làn :
- Mới vô hả mậy ?
            Tôi chợt nhớ cái tai nạn ấy nói gần như ngọng:
-  Dạ. Cháu mới vô ạ. Hai bác khỏe.
- Thì vẫn ngồi đây. Đứa nào pha café cho anh Hiền bây uống.
Mấy cô em bỏ đi vào. Láo thật. Một lát sau Quyên bước ra pha cho tôi một ly café đá mà không thèm hỏi xem coi tôi uống gì. Quyên mang café đến đặt xuống bàn cho tôi, rồi nói nhỏ:
- Mười lăm đồng, uống xong, kiếm đủ mười lăm đồng để đó. Tôi hết hồn nhìn sang bên kia, ông Tư đi đâu mất. Tôi nổi máu cà khịa :
- Chỉ có giấy một trăm. Không có bạc nhỏ.
- Cho luôn. Nói xong Quyên bỏ đi một nước.
Quán trống trơn, tôi không biết phải làm gì, ngồi uống café, hút thuốc lá vặt, cố tìm lại cái cảm giác hôm nắm tay Quyên, nhưng nó nhồn nhột làm sao ấy. Buồn buồn một lát, tôi móc túi lấy tờ giấy năm mươi đồng dằn lên cái ly, rồi bước ra. Tôi cảm thấy có cái gì đó sau lưng, quay đầu lại thấy Quyên thấp thoáng sau cánh cửa buồng. Đến khi tôi ra tới đường tôi nghe những tràng cười khúc khích đưổi theo. Tôi mang tràng cười ấy về hậu cứ và nhồn nhột suốt một buổi chiều. Mà cũng khoai khoái suốt buổi chiều. Tôi quên béng là tôi còn có một cô vợ ở nhà và mấy bà nhân tình nhân ngãi trong quá khứ.
Tôi và Tuân cùng vài thằng nữa đang ôm đàn ngồi trên lô cốt nghêu ngao hát. Trời tháng giêng trong suốt, sao giăng đầy và đẹp một cách lạ kỳ, bổng Tuân khều tôi “ Ê, có thằng nhóc nào kêu mày kìa “. Tôi nhìn theo hướng tay nó chỉ, đúng là có thằng nhóc đang ngoắc tôi. Tôi buông đàn bước ra. À. Thì ra thằng Thái, em của Quyên. Tôi hỏi “Có gì không cưng?“. “Chị tư hỏi sao anh không đến uống café“. À thì ra thế. Tôi nói “ Ừ. Một lát anh đến“. Thằng nhóc chạy đi. Tôi trở vào mặc quần áo và đến quán café của Quyên. Quán đã đóng cửa, nhưng còn một cánh khép hờ. Tôi xô cửa bước vào. Quán vắng tanh. Một ly café sữa, một gói Capstan để sẵn trên bàn. Cái này của tôi, chắc cú một trăm phần trăm. Tôi tự nhiên ngồi xuống. Tôi khuấy đều ly café, có một giọng nói sau lưng:
- Café chờ người lâu nên nguội, anh uống café sữa đá nghe.
 Tôi quay lại Quyên trên tay cầm ly đá nhìn tôi, Quyên đặt ly đá xuống và kéo ghế ngồi, rồi cầm lấy ly café sữa đổ vào ly đá, xong Quyên đẩy về phía tôi. Quyên làm trong im lặng và rất cẩn thận hơn cả cái vẻ thành thạo của một cô hàng café. Tôi nâng ly café hớp một hớp, rồi đốt thuốc hút. Cả hai nhìn nhau không nói một tiếng nào, cái cảm giác của ngày hôm đó đến giờ này mới trở về trọn vẹn và cái khúc sau chết tiệt bổng nhiên đi chỗ khác chơi cũng như ông Tư giờ này không có mặt. Tôi gặm nhấm từ từ cái khoảnh khắc êm đềm này một cách tận tụy, cư thế, cứ thế…
            - Anh không nói gì à? Mọi lần anh nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất mà.
Tôi nhìn Quyên mà không biết mình phải nói cái gì? Điều muốn nói thì không nói được, có vợ rồi còn tán tỉnh được ai đây? Điều nói được thì tôi sợ nói ra nó làm cho cái cảm giác tuyệt vời này tan đi. Tôi vẫn nín thinh. Bổng Quyên lên tiếng, tiếng nói nhỏ và nhẹ:
- Em hiểu những gì anh muốn nói. Em cảm nhận được những ý nghĩ của anh về em. Nhưng anh yên tâm. Em chấp nhận nó, cái ý nghĩ của anh.
 - Cám ơn em. Quyên.
Và như thế chúng tôi yêu nhau, chóng vánh, im lặng. Trong cái ánh đèn dầu lờ mờ ấy, đôi mắt Quyên như sáng hơn, long lanh hơn, có lẽ tôi cũng thế. Chúng tôi không biết mình phải làm gì với tình yêu mà mình vừa nhận được. Không một hành động cụ thể trần tục nào xảy ra dù chỉ là len vào ý nghĩ. Chúng tôi chỉ ngồi đó yên lặng nhìn nhau, rồi nhìn vào đâu đó và mỗi đứa cứ để cho tâm hồn mình bay đi, bay đi

 Chúng tôi được lệnh tăng cường cho các xã an ninh kém, mỗi xã một tiểu đội, không hiểu thần xui quỷ dục như thế nào, tôi dính lá thăm về Thới An. Thế là balô súng đạn lên đường về quê. Trước khi đi, tôi thức với Quyên tới khuya, hai đứa nói với nhau toàn chuyện cò đá trên trời, cá đua dưới nước, đang thao thao bất tuyệt bổng đâu có tiếng nói của ai đó “Không biết hai ông bà này thương nhau cái kiểu gì? “. Chúng tôi lặng thinh, mỗi người miên man một ý nghĩ. Ờ há, nếu yêu nhau thì phải làm sao. Tôi tự lạ lùng với mình, những Lan, những Hà, và rồi vợ tôi, bây giờ là Quyên, thế nào là yêu, thế nào là Cuối cùng, tôi đứng dậy:
- Anh về .
- Vâng. Anh về.
Khu phố quận vắng tanh, tôi bước ra, Quyên đứng tựa cửa nhìn theo. Tôi quay trở lại đứng trước mặt Quyên gọi nhỏ:
- Quyên.
Quyên yên lặng nhìn tôi, đôi mắt mở to long lanh trong cái mờ mờ của ánh trăng hắt vào. Tôi bước tới hôn lên trán Quyên, một ánh lửa dữ dội bùng lên trong lòng và hơi thở thơm và ấm của Quyên làm cho nó bốc cao hơn. Nhưng tôi quay đi. Trên dường về tôi nghe tiếng đóng cửa, tiếng va chạm của gỗ vang lên như tiếng dỗi hờn và tôi không hiểu tôi.
 Sáng hôm sau, lúc đang chờ xe thì Tuân dẫn một người đàn ông tuổi trạc tuổi ba tôi đến:
 - Hiền. Có bác này muốn tìm mày, ổng nói ổng tìm mày gần cả năm nay.
 Một người trạc tuổi ba tôi, dáng dấp khắc khổ và tôi chưa từng gặp ông bao giờ:
  - Bác tìm cháu có việc gì ?
  Ông ngó quanh rồi nói:
  - Chú tìm một quán café nào ít người, mình uống café rồi nói chuyện.
  Không biết xe tới lúc nào, nên tôi trở vào dặn Tuân là nếu có xe đến thì đưa anh em đến Đường Xuồng chờ tôi, rồi trở ra cùng ông chọn một quán café tương đối vắng. Sau khi kêu thức uống, ông run run móc trong túi ra một cái thư đưa cho tôi và nói:
   - Chú đọc đi, rồi tôi nói cho chú nghe.
   Tôi nhận lấy , mở ra:
   Hiền.
   Tao chân thành cảm ơn mày đã giúp tao, nhưng nếu như mày không giúp thì hay hơn. Nhiều lúc tao không biết là đối với mày, một thằng bạn học chung ngần ấy năm, như thế nào cho phải, dù chỉ là trong ý nghĩ. Tao gặp rắc rối lớn và bây giờ, mày muốn biết điều gì xảy ra cho tao sau cái lần gặp gỡ ấy thì mày hỏi ba tao. Mày yên tâm. Trước khi viết thư này cho mày, tao suy nghĩ kỹ rồi, dù thế nào mày cũng luôn luôn là bạn tao. Lá thư này và những gì ba tao sẽ nói không có bất cứ một yêu cầu giúp đỡ nào của mày, chỉ vì tao muốn nói với mày lời cám ơn và xác định lại một lần nữa, dù thế nào chúng ta vẫn là bạn bè của nhau. Nếu như sau này khi mày gặp lại những gì liên quan đến tao mày hãy quan tâm dùm. Chúc mày nhiều may mắn.                
Thuật
 Nhìn nét chữ rõ ràng, ngay ngắn được viết trên manh giấy nhàu nát vì mở ra, xếp lại nhiều lần, tôi thấy số phận của nó chắc cũng long đong. Nội dung bức thư ngoài việc xác định lại tình bè bạn còn như là lời vĩnh biệt. Tại sao lại thế? Linh cảm hay là gì? Tôi gấp lại bức thư:
 - Bác là ba của Thuật
 - Đúng. Tôi là ba nó, tôi không định đưa thư này cho chú, nhưng em nó không còn nên tiếng ông nghẹn lại.
 Tôi choáng váng, nhưng cố lấy lại bình tỉnh hỏi ông:
 - Bác nói sao? Thằng Thuật… Giọng tôi nghẹn lại
 -Việc như thế này. Khi gặp cháu, thì có một người trốn gần đó, mà người này không thuận với nó, y chứng kiến hết mọi việc và về báo cáo lại với mấy ổng, Mấy ổng kết tội nó thông đồng với giặc, rồi tước súng nó, khai trừ nó khỏi tổ chức. Tưởng mọi việc chỉ thế rồi thôi. Ai dè đâu mấy tháng sau nó bị mấy ổng bắt. Khi nó bị bắt được hơn tháng, thì thằng cháu tôi, cũng theo mấy ổng, về báo nó chết, vì nơi nhốt nó bị pháo dập. Từ đó tôi quyết định mang thư này cho chú, và tôi đã tìm chú gần năm nay. Cuối cùng, tôi mới gặp được ba chú. Ông ấy chỉ cho tôi tới đây. Thư này nó viết cho cháu trước khi nó bị bắt hai ngày, nó đưa cho tôi và kể hết ngọn ngành về quan hệ giữa nó và chú.
Lại một thằng nữa ra đi. Tôi hỏi mà không hiểu tại sao mình hỏi thế.
- Nó có nhắn gì thêm cho cháu không hả bác?
- Không cháu ạ. Nó chỉ nói với bác có một lần rằng cháu là một người bạn tốt.
Tốt. Tốt mà tao hại mày Thuật ơi. Tại sao, tại sao vậy? Bộ chiến tranh cấm không cho người ta cư xử với nhau như một người bạn. Tại sao lại buộc chúng tôi phải cư xử với nhau như một chiến hữu, một đồng chí, khi mà cái tình của chúng tôi không phải là thứ đó, chúng tôi là bạn bè. Chiến tranh cần lắm sao cái lối cư xử dã man. ĐM. chiến tranh.
- Thôi. Tôi đã làm xong ý nguyện của em nó. Thôi. Tôi về.
 Tôi sực tỉnh :
- Thưa bác, bác cần cháu giúp gì không ạ?
- Không. Nhưng nếu có thể được cháu cho phép tôi đến thăm cháu, như là để đỡ nhớ em nó.
- Vâng. Bác cứ đến, miễn sao việc đó không gây khó khăn cho bác.
Ông từ giả tôi ra về. Nhìn cái dáng đi chất chứa không biết cơ man nào là nhọc nhằn, cộng thêm nổi đau mang nặng trong lòng của ông, với những bước chân chập choạng. Ánh nắng buổi sáng lấp lóa theo từng bước chân ông. Ôi. Lại thêm một sự nặng nề chất thêm vào chuyến đi, vốn không bao giờ thiếu sự nặng nhọc. Lại thêm một thằng nữa ra đi. cái điệp khúc này được nhắc đến bao nhiêu lần nữa đây. “Bích ơi, Thuật ơi. Tấm lòng tao tan nát. Bao giờ tới lượt tao? thằng Bầy, thằng Hải, thằng Vân, thằng Điện. thằng Kiến và bao nhiêu thằng nữa Bao giờ, bao giờ” Bổng dưng một cơn giận trào lên, tôi nói thầm với Thuật như một lời thề tàn ác ”ĐM. Thằng nào đâm sau lưng mày hả Thuật. Mày báo mộng cho tao. Mấy thằng chó đẻ đó sớm muộn cũng Chiêu Hồi. Tao lôi đầu nó ra, cho lính tao tử hình nó bằng nạn giàn thun ”.
Trên quảng đường gần chín cây số từ Đường Xuồng về Cái Mới Lớn đầy những hiểm nguy. Nhưng mặc, tôi cầm súng vừa đi vừa nhớ tới thằng Thuật, rồi nhớ tới thằng Bích và lác đác những thằng bạn chung trường đã “anh dũng hy sinh” Bọn chúng tôi bảy thằng. Bây giờ còn năm. Trong đó thằng Bầy thì biệt tăm biệt tích. Bổng dưng tôi nhớ lại ngày đám ma thằng Bích. Tôi lạy vĩnh biệt bạn bè bằng một thái độ rất nghiêm túc, rất xót đau. Còn thằng Thuật th… làm sao mà đốt cho nó một nén nhang. Tôi nghĩ và vừa đi vừa viết:
     “ Bạn bè vừa ít vừa hao “[xxxvii]
Chiến tranh chơi ác bắt tao lạy mày
     Từ đây trong cuộc đời này
Đố ai thấy được cảnh mày lạy tao.
     Tụi mình chưa sướng vội đau
Thằng chết thằng sống tại sao vậy trời?
Hỏi trời đến như thế mà ông ấy cũng không chịu trả lời và tôi chưa biết tại sao thì một tiếng nổ đanh và gọn, tiếp theo là một tiếng rít xé gió ngang đầu. Phản ứng của một người lính làm cho cả bọn chúng tôi ập sát xuống mặt đường giữa cái nắng chói chang. Tôi đưa mắt nhìn và nhận ra  là chúng tôi đang ở vườn bà Giàu, nghĩa là chỉ cách chợ Cái Mới Lớn hơn một cây số. Bắn sẻ. Tôi may mắn hay là tay du kích nào đó bắn dở. Có thể là bắn dở. Bởi vì CKC mà gác lên chảng ba cây thì mười phát trúng tới mười một.
Thế là tôi về lại nơi tôi đã sinh ra sau mười năm lông rông khắp nơi, và cũng chính cái cuộc đời lông rông đã đẩy tôi về. Đón tiếp tôi là một viên đạn, chắc của thằng bạn nào thời bắn cu ly đây. Thằng Ánh, thằng Tám hay anh em thằng Nghĩa, thằng Là, cũng có thể là thằng Bình cũng nên. Đúng là điên. Tụi mày và tao thường hay nhắn nhe thăm hỏi nhau mà. Dù xa mặt, chớ chưa đến đỗi phải cách lòng. Nếu như tao bị bể nắp nhạo, tụi mày khóc hay cười? Đếch biết. Lúc đó hai con mắt nhắm hít rồi, sợ hổng chừng banh chành nữa cũng nên. Thôi. Dù thằng nào thì viên đạn đã chui ra khỏi nòng và nhắm vào đầu tao. À cũng chẳng sao? Cái đầu tao là pháo tháp xe tăng mà, như lời tay bác sĩ quân y đã nói.
Chốn xưa đây, nhưng cảnh xưa không còn nữa. Tất cả đã đổi thay đến không ngờ. Những mảnh vườn xưa giờ xơ xác, những ngọn dừa đáng ra giờ đã cao trật ót, giờ chỉ còn lại những thân cây xám xịt trơ trụi, chĩa thẳng lên trời mang theo nỗi oán than như đâm thấu đến mây xanh. Một số khác thì nằm nghiêng ngả chỏng chơ chịu đựng cùng mưa nắng. Một căn nhà bé tẹo mà ba tôi vừa cất lại chỉ kê đủ một cái giường và sàn bếp. Tình hình đã khá hơn, nên ông thỉnh thoảng đi về. Ông dựng nó lên làm nơi lui tới và cũng để xác định đây là nơi mà những người, được nó chứng kiến lúc sinh ra, không thể tách rời.” Ôi quê hương, quê hương nhỏ xíu, ta đã về”. Đứng tần ngần một lát ở nơi mà căn nhà cũ đã chìm trong ký ức. Tôi đưa tiểu đội xuống cuộc CSQG gặp trưởng cuộc mà cũng là anh Hai. Anh họ của tôi, con trưởng của bác hai, thay vì tay bắt mặt mừng. Anh sa sầm mặt nhìn tôi nói:
- Sao lại là chú.
- Thì tôi được lệnh về yễm trợ cho anh.
Anh nín thinh dẫn tôi qua gặp xã trưởng, cũng là một ông anh họ khác. Sau khi bàn bạc việc đóng quân và tôi trình bày một số công việc mà tôi phải làm khi về đây và hỏi sơ qua về tình hình. Tôi trở ra bố trí nơi đóng quân. Đang sắp xếp nơi ăn ở thì anh Hai vào bảo:
- Chú đi uống café,
Tôi bỏ công việc, dặn Tuân dăm tiếng, xốc lại khẩu súng bước theo anh. Hai anh em bước qua quán café. Dượng Bảy Hiệp, anh em bạn rể với ba tôi, bán café và hớt tóc chuyên nghiệp. Khi lộn xộn quá ông đi, yên ắng một chút ông về, mỗi bận đi về là mỗi lần nhà mới, đồ lề mới, thấy tôi ông reo lên:
- A thằng Hiền, mày mới về
- Vâng mới về. Dì dượng vẫn khỏe
- Tao thì khỏe rồi, tụi mày uống café.
 - Vâng, dượng cho hai ly café đá.
 Trong khi chờ café, anh Hai bảo:
 Một mình tôi ở đây là quá đủ, chú lại dẫn xác về. Ông nội mà hay thì ông nội hết ngủ.
- Thôi đi anh, chuyện lính tráng mà, ông nội cũng hiểu thôi. Chỉ cần anh em chúng mình cẩn thận là được.
- Vấn đề không phải là ở chỗ đó. Giòng họ nhà mình chia ba, xẻ bảy hết rồi. Sự hiểm nguy đến với mình từ ở những người gọi mình là anh em, chớ không phải ai khác. Mà sự chia cắt này thì buồn thay không nằm trong sự thông thường của cuộc sống mà là do một cái thứ mắc dịch nào đó. Anh cũng chẳng biết.
- Tôi hiểu chớ anh hai. Anh tư chết, chị tư bị bắn banh bụng, suýt chết. Ai làm chuyện đó, tôi biết. Và tôi về đây, tôi chỉ làm nhiệm vụ người lính chớ không phải để trả thù, và anh về đây thì cũng thế. Trong chiến tranh, tôi không tin vào số phận, chắc chắn là không tin. Nhưng nếu có, tôi chấp nhận nó. Và để sống còn, tôi biết mình phải làm gì? Dù xác xuất của sự sống còn không lớn lắm.
Anh Hai nín thinh. Những lời tôi nói với anh xem ra khá ngụy biện. Không khí có vẻ nặng nề. Dượng bảy mang café tới, quán vắng người. Ông kéo ghế ngồi, hỏi thăm hết chuyện này đến chuyện khác. Rồi lan man ông nhắc lại những trò nghịch ngợm của tôi hồi còn nhỏ. Dần dần anh Hai cũng góp chuyện, không khí có vẻ nhẹ nhàng hơn. Rồi dượng Bảy mời cơm. Ăn xong, trời đã quá trưa. Tôi rủ anh Hai ra khu chợ cũ rồi ra đình làng. Ngang qua ngôi trường cũ cạnh đình, giờ là bãi đất trống hoang cỏ mọc um tùm. Chỉ còn lại một cây bả đậu cành lá xác xơ và một bụi dâm bụt lẻ loi nằm sát con đường mòn. Giữa cảnh tiêu điều ấy. Một bông dâm bụt lạc loài, chỉ một bông thôi và vì thế nên nó tươi tắn với màu đỏ rực rỡ đến kinh ngạc, đến say lòng. Như một tia chớp, toàn bộ cái hình ảnh sinh động của những ngày trẻ thơ. Những khuôn mặt nhóc con xuất hiện đầy đủ và nhảy múa trong tôi. Hình ảnh của thày trò chúng tôi ngày băng đồng lên Thủy Liễu dự thi lên lớp nhì và vô vàn thứ nữa. Tôi đứng tần ngần tận hưởng, lâu lắm rồi cái kỷ niệm kỳ thú này mới vuốt ve tôi. Tâm hồn là một cái gì đó trừu tượng không thể chạm vào. Nhưng cái cảm giác mơn man ấy bây giờ lại cụ thể đến thế kia. Bất chợt, tôi ngó qua bên kia sân đình. Cây đa còn đó với những thương tật chiến tranh, nhưng mái ngói đỏ của đình thì đã biến đi. Còn lại một mảng tường mỏnh manh, đứng chơ vơ giữa quảng trời xanh. Hàng chữ Việt Nam và chỉ có thế, chữ Độc Lập đã mất đi theo khoảng tường đã đổ. Ôi. Tội cho thầy tôi. Ông đã viết hàng chữ Việt Nam Độc Lập này hàng trăm, hàng nghìn lần, ở hàng trăm, hàng nghìn nơi bằng mực tím mồng tơi, bằng than củi, bằng gạch non, bằng tất cả mọi thứ, đáp ứng mọi yêu cầu với một ước mơ cháy bỏng. Và trong ngôi trường đã biến mất kia, thầy đã cố nhét nó vào trong những cái đầu non nớt, trẻ thơ của chúng tôi vào những giờ Sử Địa. Dù rằng cái chương trình Sử Địa của lớp ba thì có nhiều nhặng, đầy đủ gì đâu. Nhưng bây giờ Việt Nam thì hãy còn đây. Nhưng cái thuộc tính Độc Lập, cái thuộc tính ắt có và đủ để làm nên một đất nước, thì đã đổ sập theo mảng tường kia. Ai đã làm cho cái mảng tường mang thuộc tính ấy đổ đi và cái phần còn lại thì tiêu điều xơ xác. Tôi nghe nhói lên trong lòng. Trong cái ngôi làng nhỏ nhoi này. Những con người cùng chung huyết thống ấy, hàng ngày tìm cách giết nhau bằng khẩu súng của kẻ khác. Rồi lớn tiếng nhân danh cái thuộc tính mà họ góp phần làm tan nát, để bảo vệ cho những việc mình làm. Tàu, Tây, Nhật, Mỹ, Liên Xô nhúng mũi vào đất nước tôi để tìm một cái gì đó cho họ và trả lại cho chúng tôi ngần ấy khẩu súng, đạn bom cùng với những thứ giết người và biết bao tan nát trong lòng. Lòng tự trọng của dân tộc bị tổn thương vì bọn xâm lược. Nhưng cái tổn thương lớn lao nhất là tự chính mình gây ra cho mình. Đánh Tàu nhờ Tây. Đánh Tây nhờ Nhật. Đánh Mỹ nhờ Tàu, Liên Xô. Đánh Tàu, Liên Xô thì nhờ Mỹ. Một cái vòng luẩn quẩn. Nhưng cái hiện thực khốn nạn “Mượn súng gươm người về bắn giết nhau“ thì rành rành trước mắt, nếu không muốn nói “rước voi về dày mả tổ” Và những thằng như chúng tôi lại bị cuốn vào. Điều này ai cũng biết, nhưng đố thằng nào dám nói ra. Mà nếu dám nói thì chỉ nói có phân nữa. Chó thật. Bổng nhiên tôi nhớ tới Thuật. Chính vì tao và mày không nỡ giết nhau nên mày mới chết và bao giờ thì tới phiên tao. Phi lý, bắn nhau thì chết đã đành, không bắn vào nhau cũng phải chết. Ôi Thuật ơi. Bao nhiêu người đã chết vì bắn nhau, bao nhiêu người đã chết như mày và còn bao nhiêu người phải sống như tao. Cái chết thằng Bích quả làm cho tao đau đớn, nhưng dù sao nó cũng rạch ròi, chính cái chết kỳ cục của mày thì làm tao xót xa. Không hiểu ngày hôm đó có một thằng chiến hữu nào của tao thấy tao thả mày, thì tao ra làm sao nhỉ? Chắc cũng phải nằm ở một nhà tù nào đó thôi. Và một đêm đẹp trời nào đó.Việt Cộng pháo kích vào. Tiêu “
   - Đi chú.
   Tiếng anh Hai gọi đã cắt ngang giòng suy nghĩ, khúc ngọt ngào, khúc cay đắng của tôi. Tôi rảo bước theo anh. Hai bên bờ con rạch nhỏ, những ngôi nhà mới lấp lóa ánh tol tráng kẽm na ná như nhau, lạc loài giữa không gian trống hoác, hoang tàn. Vắng bóng những hàng dừa xanh mát rượi, không còn cái màu nâu quen thuộc của mái lá dừa nước. Cái hiện thực của cảnh quan với từng chi tiết chỏi nhau tạo nên cái vẻ tạm bợ ghê người. Nhưng nó lại chứng minh một cách hùng hồn là không có gì có thể đánh bật những con người ở đây đi ra khỏi mảnh đất này. Cho dù thân xác ở đâu, nhưng tấm lòng thì ở lại, và rải rác đó đây có những ngọn dừa xanh nhú lên ngang ngực. Nhưng những con người ở cái Ủy Ban Hành Chánh xã, những anh lính Nghĩa Quân hay những anh cán binh Việt Cộng đang ẩn nấp quanh đây, những người không phải lính, không phải làng, không phải là Việt Cộng và bây giờ cả tôi nữa, tất cả như quấn chặt vào nơi này, cùng tìm cái sống và ghê gớm thay, tìm giết nhau cũng ở nơi này. Tôi chợt nhớ cái câu khẩu hiệu của mấy ông Việt Cộng  “ Giành dân. Bám đất “. Có gì mà phải giành nhỉ? Người và đất là hai thực thể không thể tách rời. Đất sẽ trở thành hoang dã khi không có người. Người sẽ không còn là người, nếu không có đất. Người sống đất cưu mang. Người chết đất ấp ủ vào lòng. Không giành, thì người cũng không thể lìa xa. Không bám, thì người sẽ trở thành một kẻ nổi trôi, vô định. Bổng nhiên tôi nhớ lại như in một bài thơ mà tôi đã làm và quăng ở đâu đó.
Luống cày phơi lấp lánh màu nâu nâu.
Lưng bàn tay cũng nâu nâu nắng gió,
Chỉ có trái tim bừng bừng màu đỏ,
Từng vạt cày nâu chấp chới gọi xanh.
Một thoáng mây, rồi những thoáng mây lành.
Nâu nâu áo mồ hôi pha với nước,
Bàn chân nâu dẫm trên nâu nâu đất,
Khói chiều bay lảng đảng gọi nâu về. 
      Đêm nâu nâu mưa từng hạt tỉ tê.
       Kêu gọi những mầm xanh về mặt đất,
Để muôn trùng quê xanh xanh bích ngọc,
Mát lòng anh và đỏ thắm lòng em,
Nâu nâu đi qua ngày tháng thân quen,
Dát từng vệt xanh dài lên khắp chốn,
Nối đất xanh với trời xanh lồng lộng,
Nâu nâu da, nâu nâu đất. Dịu dàng.
Ôi! nâu nâu ánh lên nét diệu huyền.
Mưa nắng thơm thơm, đêm ngày thấp thoáng,
Có ai đó, trong lay phay gió chướng,
Hai bàn tay nâu nắm lấy. Trái tim hồng.
Ôi ước mơ bao giờ thành hiện thực. Khi quê hương còn đỏ máu. Máu không luân chuyển về tim mà máu đổ xuống. Và màu nâu là nâu nâu khói điêu tàn. Bài thơ này tôi làm ở đâu nhỉ? Hình như là khi dừng quân, ngồi ở một bìa vườn sau cuộc hành quân lội qua một vạt ruộng mới cày. Vâng đúng rồi, lúc đó trời đang chuyển mưa. Nhưng vẫn còn những vệt nắng long lanh.
Chúng tôi đến nhà một ông anh họ khác. Không biết tự bao giờ một mâm thịt chó đã sẵn sàng và năm sáu người toàn là anh em giòng họ nhau cả. Mọi người chào đón anh em chúng tôi vừa mừng rỡ thân tình, vừa e dè chừng mực. Nhưng khi có một vài ly thì tất cả mọi thứ trở về đúng vị trí của nó. Nghĩa là chúng tôi những con người được sinh ra bởi một giọt máu xa xưa được chia năm xẻ bảy và chính tại nơi này. Cả bọn rôm rả nhắc lại chuyện xưa, chuyện nay, nhắc lại kẻ mất người còn và những ai vong gia thất thổ. Giá như cuộc sống luôn luôn đầy ắp chén rượu này. Rượu thịt càng vơi, người tham dự càng đông. Cái đặc trưng của làng quê tái hiện một cách sinh động say sưa.
 Tàn cuộc, chúng tôi chia tay ai về chốn nấy. Vâng, không thể gọi là ai về nấy. Trong cái làng quê bé tẹo này hiện tại chẳng có nơi nào đáng gọi là nhà. Hai anh em tôi đi về nơi đóng quân trong cái chập choạng của buổi chiều. Cũng có nghĩa là chúng tôi sẽ nhường cái không gian này cho những người anh em khác.
 Và biết đâu khi màn đêm sụp xuống cũng sẽ có một tên nào đó, từ nơi nào đó trở lại quê xưa như tôi vậy. Gác súng lên đùi. Nhâm nhi ly rượu đế, miếng thịt chó bên những người anh em và ngậm ngùi ngắm nghía quê hương. Nhớ lại bạn bè đàn đúm rong chơi của thời tuổi nhỏ, và rình rập nhau khi đã trưởng thành. Bổng dưng tôi nhớ thằng Ánh, con cô sáu Phòng, thằng Bình cháu ngoại ông bác Tư Nhân, thằng Tám con bác Chín Phước, thằng Dòl con cô tám Thiện, thằng Nghĩa, thằng Là con ông Ba Tồn, thằng Tư con bác Chín Phiến, năm Lai, sáu Tol, Quách Lắng, sáu Khanh, bảy Bế, tám Đen những thằng bạn bé con mà ngày nào chúng tôi còn cùng đi đánh mé, đánh hưng, đi bắt lên, cá cạn. Thế mà, bây giờ mỗi thằng mỗi hướng, rình rập nhau, tìm giết nhau mà có thù hận gì đâu. Giả dụ như bây giờ gặp lại. Không có khẩu súng trên tay, không có khẩu hiệu trong đầu, thì cái gì có thể cản ngăn được chúng tôi ôm choàng lấy nhau, bá cổ, bá vai cùng nhau nói cười rôm rả. Và lết bánh say sưa.
 Chúng tôi không ngủ tại nơi đóng quân, mà lặng lẽ di chuyển đến một nơi khác khi mọi nhà đã ngủ. Chúng tôi thay nhau canh gác. Tôi để nguyên quần áo. Nằm gối đầu lên balô nhìn những tảng mây mỏng như bông trôi lãng đãng trên nên trời trong vắt. Ánh trăng hạ huyền lấp ló đàng đông, trời như trong hơn, bình yên hơn. Tôi không ngủ được, mười năm về lại nơi xưa; chiếu đất, màn trời. Mười năm về lại quê xưa lòng dạ rối bời, tôi lấy giấy viết thầm trong ánh trăng lờ mờ mấy câu. Viết xong tôi nhét vào túi rồi lẩm nhẩm đọc lại, cuời buồn cho câu kết và cố tìm Nhưng bổng tôi nhớ lại mấy câu trong Luận Ngữ khi nhìn lên bầu trời. “ Thiên hà ngôn tai! Tứ tiết hành yên, Vạn vật sinh yên. Thiên hà ngôn tai! “. Ôi ông trời lồng lộng kia có nói tiếng nào đâu? Bốn mùa vẫn bình thản trôi qua. Nhưng hởi ơi. Vạn vật thì sống chẳng yên lành. Những cây dừa trơ trụi lá đang chỉa mũi giáo uất hờn lên trời xanh như gởi theo những lời kêu gào thảm thiết, mà lời kêu gào ấy không thoát ra khỏi cái cổ họng khô quắt queo vì không còn sinh lực. Và tôi nằm đây rình rập ai đây? Và ai rình rập tôi đây? Ông trời vẫn lặng thinh không nói. Tôi chợt nhớ tới cái quê hương nhỏ xíu của tôi có cái tên là Thới An. Nhưng hởi ơi. Người xưa đem cả cái ước mơ của biết bao thế hệ để đặt tên làng xóm. Nhưng bao lâu rồi đã không An thì làm sao mà có Thới cho được. Hởi trời ?
Tôi giật mình thức giấc, một nửa vầng đỏ nhú lên đàng đông. Bình minh thật diệu kỳ. Lâu lắm rồi tôi mới thấy. Từ nhiều phía âm thanh quen thuộc của làng quê; heo kêu, chó sủa, gà gáy, bầy vịt quàng quạc ra chuồng Buổi sáng thật bình yên. Có phải đây là quà tặng của quê hương nhỏ xíu dành cho tôi, Vâng! Vâng! Xin cám ơn. Xin cám ơn. Tôi đứng dậy, vươn vai hít một hơi thật đầy cái không khí trong lành. Buồng phổi nở ra khoan khoái và cái cảm giác được thở thật tuyệt diệu vô cùng. Ôi cái đầu óc miên man bởi trăm ngàn thứ hằm bà rằn, làm cho tôi quên đi là mình đang thở,  có nghĩa là tôi đã quên tôi đang sống. Bây giờ, bây giờ đầu óc trống không. Tôi thở thật sâu, thật đều và cảm nhận mình đang sống, nó mới tuyệt vời làm sao. Một lần và muôn lần nữa xin cảm ơn quê hương nhỏ xíu của tôi. Dù chẳng được Thới An, nhưng tấm lòng bao dung thì không suy suyển, sợ không chừng còn lớn thêm ra nữa là khác. Mà hình như đúng vậy.
Tôi đi ngang qua nhà bác Tư Ù. Không còn gì ở nơi đó. Mảnh vườn ngày nào luôn luôn tinh tươm sạch bóng, cỏ dại đã mọc đầy, cái sân cũng thế. Nơi đặt cái lò rèn chỉ còn lại cái bếp lò loang lổ và xám xịt xỉ than. Không hiểu gia đình bác đã dời đi đâu? Và cái cô mà người lớn đã toan tính cho tôi bây giờ cũng chẳng biết ở phương nào. Cũng lạ. Không ước hẹn gì nhau. Tôi và cô ấy chỉ nói với nhau dăm ba tiếng bâng quơ như chuyện cò đá trên trời, cá đua dưới nước. Chuyện còn lại là do người lớn. Thế mà hôm nay nhớ lại cũng thấy nao lòng. Ôi cái dáng người khỏe mạnh, mập mập, tròn tròn nách hai bao lúa trông nhẹ re. Nếu chẳng có chiến tranh thì bây giờ ra sao nhỉ? Chắc là qua dọn dẹp mảnh vườn nhà tôi, sắp xếp cuộc đời tôi. Nhưng thôi. Tiếc mà chi, mảnh vườn ấy vắng tênh và cuộc đời tôi thì còn lại gì?
Chúng tôi trở về nơi đóng quân, cất balô rồi cả bọn kéo ra quán dượng bảy Hiệp uống café. Ngần nửa xóm tụ tập lại cái quán duy nhất. Thôi thì đủ mặt méo tròn, rồi thì cũng như ngày hôm qua trong sòng thịt cầy, kẻ đon đả, người e dè, Nhưng tôi chợt nhận ra có cái gì đó không ổn, nên khều Tuân ra ngoài dặn nó
- Mày dẫn ba đứa ra ngoài tìm chỗ canh gác, tao uống xong ra thay.
Tuân gật đầu nói mấy tiếng gì đó tôi không nghe rõ rồi dẫn mấy anh em ngồi bàn ngoài cùng đi ra. Đúng là sự lo lắng của tôi không thừa. Đang lúc râm ran thì một loạt AK từ bên kia sông bay ngang nóc quán. Tiếp theo là những loạt M.16 của bọn Tuân và ở đồn Nghĩa Quân nổ như vải trấu về hướng đó. Theo quán tính chúng tôi chụp lấy súng ngồi thụp xuống. Cả quán hơn hai chục con người nháo nhào nằm sát đất. Tôi cho là đòn nắn gân dành cho những tên mới đến. Tiếng anh Hai vang lên trên máy HT1. Vừa trả lời bộ đàm tôi đưa mắt quan sát trong quán, tôi biết và tôi buồn. Những điều lượng định của tôi từ hôm qua đến nay không sai. Khi thấy mọi việc đã im ắng tôi bồng súng đứng thẳng người, nhìn quanh và nói như muốn khóc:
- Tất cả anh em. Tôi lâu lắm mới về xứ, đón tiếp kiểu này cũng vui. Nhưng liệu có nên không? Tôi đưa mắt, nhìn thẳng vào một thằng em họ xa, nói tiếp; một ai đó mà chết tại cái quán café này là một điều buồn lắm, tất nhiên người chết thì không. Vậy mọi người ai có thân nấy giữ, mà cách giữ thân tốt nhất là đừng gây sự. Bây giờ chúng ta tiếp tục uống café, người anh em bắn loạt AK lúc nãy đã đi xa rồi.
Mọi người từ từ đứng dậy, một số bước ra khỏi quán, chúng tôi vẫn không rời mắt cảnh giác. Riêng tôi nhanh chân đến sát ông em họ, nói nhỏ:
 - Thằng mắc dịch, lâu quá mới gặp mày.
Anh ta lí nhí :
- Anh về hồi nào ?
- Mới về. Tôi trả lời cộc lốc.
- Anh uống café. Hắn mời cho lấy có.
- Uống cái khỉ mốc. Thôi. Mày dọt được rồi, mày cho tao gởi lời thăm cô ba.
 Anh ta hự một tiếng rồi lỉnh ra khỏi quán. Tôi biết chắc cú trong lưng quần anh ta nếu không có khẩu súng ngắn thì cũng một trái thủ pháo. Tôi nghe vài tiếng thở hắt ra khi anh ta đi khuất. Phải công nhận hắn gan thiệt. Nhưng khi đảo mắt nhìn quanh. Tôi giật mình, chính tôi mới là thằng gan cóc tía. Không có bóng dáng của anh lính, anh làng nào ở đây ngoài mấy tên CSDC chúng tôi. Tôi nhoài người và ngoắc các anh em cùng đi ra ngoài, rồi ra hiệu cho toán của Tuân cùng vào đồn, nơi đóng quân. Đến nơi anh Hai làm tôi một trận ra trò :
- Mới tưng tửng sáng, chú dẫn cả bọn tụ tập vô quán café. Suýt chút nữa chú tiêu .
 Tôi cuời cười. Anh tiếp ;
- Chú và các anh em, uống café sau 8 giờ. Mới tờ mờ sáng mà
- Sao anh? Anh ngắt lời :
- Chú nói sao để quán café dượng bảy ở gần đồn chớ gì ? Gần như thế mới tiện, tiện rất nhiều thứ. Chú hiểu ?
- Vâng, em hiểu rồi. Hú hồn. Tôi rùng mình khi nghĩ. Tại sao nó không bụp mình, rồi tên bên kia sông yễm trợ cho anh ta thoát ra, và trong mấy mươi người kia, ai là đồng bọn. Hay là nó thấy mình nên nó không nỡ. Không hiểu được? Ám sát kiểu này là bỏ mạng, nếu mình thì vấn đề lại khác, suy nghĩ một hồi mệt óc, mà từ hồi đi lính tới giờ mình có tham dự các cuộc ám sát ai đâu. Gặp nhau là bụp, như cao bồi Viễn Tây. Tàn cơn súng nổ rồi phe nào chết, phe ấy chôn, bị thương thì gà ai nấy bắt, nếu có thể được thì băng bó giúp nhau chơi. Chớ đâu có cái trò “đâm sau lưng chiến sĩ “. Nhưng thôi, kệ mẹ nó, mệt óc quá. Không chết là được, mọi việc rồi sẽ qua đi.
Khi mọi việc đã ổn, chúng tôi lại không biết phải làm gì, bên kia là đồn Nghĩa quân cũng xuất hiện những người lính, Ủy Ban Hành Chánh xã bắt đầu ngày làm việc. Sau khi phân công gác, tôi dẫn thêm vài anh em đi dọc theo xóm, ghé thăm người này, người kia. Tôi cố gắng nắm bắt tình hình an ninh trong xã. Hỏi thăm về những thằng bạn thời nhóc con và nhận được những câu trả lời mà chỉ có trời mới biết thật hay giả. Một vài người thắc mắc về việc tại sao tôi lại xuất hiện ở nơi này và tôi trả lời cũng ba trợn không kém gì họ. Rồi những ngày tiếp theo là một khoảng thời gian hoàn toàn không hiểu để làm gì. Những chỉ thị từ trên xuống cái thì không có điều kiện thi hành, cái thì bọn chúng tôi được huấn luyện không phải để làm chuyện đó. Còn việc yễm trợ cho cuộc CSQG địa phương thì hẳn nhiên. Nhưng trong một cái xã khoảng bảy tám trăm dân thì bản thân của cuộc cũng không đủ việc để làm. Thế thì khi đã quen nước, quen cái rồi thì chúng tôi chia ca nhậu. Dần dà, mọi việc trở lại trạng thái bình thường. Không một thanh niên quân dịch nào bị bắt hay bị làm khó dễ. Không một gia đình nào có liên hệ với Việt Cộng bị hạch sách. Tôi là tiểu đội trưởng, dưới tay có bảy người lính, hoạt động gần như độc lập. Điều đó có nghĩa là tôi muốn làm gì thì làm, các anh chàng du kích ở xã cũng nghĩ dưỡng sức. Tội gì mà phải đi gây sự với người không gây sự với mình? Một hiệp ước ngưng bắn chăng?
Một ngày không nhậu nhẹt, tôi thay đồ thường phục, giắt khẩu P.38 vào lưng quần rồi đi loanh quanh. khi đầu óc hoàn toàn tỉnh táo tôi nhận ra làng quê tôi vẫn vậy, dù dấu vết đạn bom vẫn còn đầy ra nhưng vẫn không xóa đi những nét đẹp rất êm đềm và tĩnh lặng. Những hình ảnh của ngày tuổi nhỏ vẫn loáng thoáng hiện về bàng bạc, lửng lơ như áng mây trên bầu trời trong vắt ban trưa. Tôi đi ngang qua nhà thằng Bình, chỉ còn là mảnh vườn hoang, cỏ dại nữa xanh nửa úa đã phủ trùm. Trên khoảng sân, một bụi bông trang còn sót lại, những chiếc lá xanh mướt vây quanh những chùm hoa bằng cái chén chung màu đỏ thắm. Nhìn những chùm hoa lung linh dưới nắng, lòng tôi lại dâng lên những cảm xúc lạ kỳ như thời tuổi nhỏ, nó tăng dần lên sau những lần bất ngờ gặp lại, nhưng bụi bông trang thì lại là cảm xúc ban đầu. Một thứ cảm xúc bị lãng quên từ lâu lắm của bộn bề tang thương, bộn bề lộn xộn. Ngày xưa, tôi và thằng Bình luôn luôn dành chăm sóc bụi bông trang. Ông ngoại nó luôn đứng về phía tôi, ông chỉ cho tôi cách vô phân, tưới tắm. Đây là một loại hoa có mùi hương thật nhẹ, phải kê mũi vào hít thật chậm mới cảm nhận được. Người già thường hay sử dụng bông trang nhún vào chén nước mưa rồi rảy nhẹ lên mặt đứa trẻ trong ngày mừng đầy tháng hoặc cúng trên bàn ông thiên vào những ngày rằm, ba mươi. Và chỉ có thế. Nhưng với tôi thì hơn thế, nhìn thấy cây bông trang dù có hoa hay không, nhưng thường thì bông trang nở hoa quanh năm, cũng làm cho lòng tôi có một cảm xúc thật khó tả, chỉ biết là có một thứ gì đó bổng bổng bay bay trong lòng cũng như khi nhìn những chồi non hay ruộng mạ vậy. Hôm nay, sau bao năm không nhìn thấy, cảm xúc ấy lại dâng lên một cách lạ kỳ. Tôi có cảm giác mình đang tan ra trong nắng, trong gió, trong mây hay gì gì đó. Tôi cũng không biết, nhưng chắc chắn không phải là một cơn mơ.
            Mấy tay Việt Cộng có một câu thiệu nghe mà lạnh sống lưng “Việt Cộng chết vì ngủ, Quốc Gia chết vì nhậu“. Đúng phóc. Nhưng chết thì cứ chết, ngủ thì cứ ngủ, nhậu thì cứ nhậu. Những sòng nhậu luôn luôn được mở ra. Vài con cá nướng, mấy xị này, xị nọ cũng đủ giải sầu và cũng đủ lý do để cho ba tôi cự nự anh em tôi. Ông cự đàng này chúng tôi gầy đàng khác và tôi biết ông đang cầu trời khẩn phật cho tôi đổi đi đâu đó cho khuất mắt và cái ngày đó tới ngay. Tôi, một mình tôi, được lệnh về trình diện Bộ Chỉ Huy Tỉnh, mà lại về ngay trong ngày nữa chứ. Cả bọn bàn tán chẳng hiểu chuyện gì? Tôi nghi ngờ về cái tờ trình chuyện lạc đội hình hành quân và chuyến vượt sông không tưởng. Nhưng thôi. Bàn giao cho Tuân xong, cả tiểu đội đưa tôi ra Đường Xuồng, ở đấy có xe rước về Rạch Giá.
            Ba giờ chiều, tôi về tới Bộ Chỉ Huy Tỉnh trình diện không qua ban chỉ huy đại đội. Ở đây tôi nhận được sự vụ lệnh trình diện văn phòng Tư Lệnh tại Sài Gòn ngày hôm sau. Tới đây thì tôi hết phương đoán già đoán non mà là mang một dấu hỏi to tổ bố về nhà sau khi được lãnh trước một tháng lương. Vừa bước vào nhà, thấy ba tôi đã ở nhà không biết tự lúc nào, vừa thấy tôi ông chụp hỏi ngay:
- Cái gì vậy?
- Chuyện lính tráng, ba hỏi con biết làm sao mà trả lời.
- Mày đi lính kiểu này tao chắc đau tim mất.
Tôi nín thinh, ông nội nhìn tôi lắc đầu. Tôi biết ông đang nghĩ là thằng cháu ông đã trở thành con thú hoang và ông không còn đủ sức để kềm chế. Tôi lí nhí chào mẹ tôi rồi lỉnh ra sau nhà, vợ tôi xách balô lẻo đẻo đi theo. Tắm xong một phát, sai vợ đi mua một ly café đá leo lên võng nằm hút thuốc. Cái radio của nhà kế bên đang phát lên một bản nhạc của Phạm Duy “Việt Nam. Việt Nam nghe tự vào đời, Việt Nam hai tiếng nói bên vành nôi. Việt Nam nước tôi, Việt Nam. Việt Nam tên gọi là người. Việt Nam hai tiếng nói sau cùng khi lìa đời…“. Đã lâu rồi cái thú nghe nhạc gần như bị quên lãng trong tôi. Bởi nhiều lẽ; có quá nhiều bản nhạc mếu máo được hát bởi một số ca sĩ mếu máo. Bổng dưng hôm nay nghe được bản nhạc này, nó gợi lại trong lòng tôi một cái gì đó tưởng chừng như đã ngủ yên. Đồng ý là cuộc sống như thế này đâu có gì vui. Nhưng cũng đâu có nghĩa là lúc nào cũng khóc. Bản nhạc này chấm dứt và sau đó là “ Em nghe gì không hởi em, con chim nó hót vang đầu hè, em nghe gì không hởi em, con chim nó múa trên cành tre…”.[xxxviii] Ôi những ước mơ biết bao giờ mới trở thành hiện thực. Tôi thiu thỉu ngủ khi ánh nắng chiều đang cố gắng hắt những tia nắng cuối cùng trong ngày. Vợ tôi kêu tôi thức dậy ăn cơm. Cả nhà đang quây quần bên mâm cơm chờ tôi. Rửa vội khuôn mặt ngáy ngủ, tôi bước đến mâm cơm và trước cái ghế trống dành cho tôi là một ui cá rô kho muối. Chén cơm gạo trắng tép thơm phưng phức. Tôi ăn như chưa bao giờ được ăn và cô út nhìn anh hai của mình bằng cặp mắt to hết cở, ông nội thì lầu bầu:
- Đéo quạ con cào nai. Ăn uống cái kiểu không giống ai.
Tôi bật cười trước cái thành ngữ vô nghĩa mà ông nội tôi bật lên khi tỏ rõ cái thái độ thương yêu hay bằng lòng của mình đối với đứa cháu nào đó. Không ít lần tôi thắc mắc về cái thành ngữ này, nhưng chẳng ai giải thích. Dần dần tôi cũng hiểu ra chỉ là như thế. Nghe hơi tức cười nhưng rất cảm động. Tôi buông đủa đứng dậy, bụng căng phểnh. Cô út cầm cái ui giơ lên :
- Má. Láng cón. Hổng còn một con.
Cả nhà cùng cười, thằng em thứ năm ngồi kế bên cốc nhẹ cô út:
- Mày cứ nghịch ngợm, năm nay học lớp chín rồi nghe.
Gia đình bao giờ cũng một nơi yên ổn. Dù rằng mọi thứ ba lăng nhăng từ bên ngoài luôn tác động vào. Ba thế hệ của gia đình tôi luôn luôn quây quần bên nhau. Sự bức rời của tôi và sau này của hai thằng em trai là một điều không ai muốn. Chúng tôi không chờ đợi, nhưng cũng không thể làm bất cứ điều gì để ngăn chận nó. Ông nội thường kể cho chúng tôi, những đứa cháu của ông, câu chuyện của ông Trương Công Nghệ và một trăm chữ “Nhẫn“. Nhưng hình như câu chuyện này không tác động gì nhiều đến tôi, dù tôi rất thích. Ba mẹ tôi có cái thói quen là ít khi rầy la con cái, nhưng giác đác cho nghe những việc đúng sai trong cung cách cư xử hàng ngày thì gần như là ngày nào cũng có. Không hiểu anh em tôi tiếp nhận được bao nhiêu, nhưng có điều là anh em tôi ít khi cãi lộn.
Tôi đưa vợ tôi đến quán café của người thầy học cũ, quán Dư Âm, tìm một góc khuất hai vợ chồng ngồi uống café nghe nhạc. Những giai điệu trữ tình của thời tiền chiến làm cho đầu óc dịu lại, những Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa, Cô Láng Giềng, Bên Cầu Biên Giới, Trăng Rụng Xuống Cầu, Thiên Thai… Ôi cuộc đời sao mà dịu dàng đến thế và cái gì trong tình yêu mà làm cho người ta ngất ngây đến thế. “ Thuở ấy không gian chìm lắng trong mơ. Tà áo em xanh, màu mắt ngây thơ. Nụ cười hồn nhiên không vương sầu nhớ. Lời ca vang trên gác nhỏ… thoảng đưa êm đềm trong ngỏ…” Ôi Tiếng Hát Học Trò và tiếng hát Hoàng Oanh. Tôi siết chặt tay vợ mình, tất cả những hồi ức của ngày còn cắp sách đến trường và cả bài thơ đăng báo hiện ra đẩy tôi vào quá khứ.
Cái đầu óc không bao giờ ngưng nghỉ của tôi luôn luôn đầy ắp mọi thứ đầu cua tai nheo. Nó đón nhận tất tần tật và rồi xào nấu, chế biến… rồi đưa ra những câu nói móc họng hay những bài thơ dở ẹc. Nhưng rồi cuối cùng, tôi cũng hiểu ra rằng cái kiến thức mà tôi nhận được ở nhà trường cũng như bao nhiêu tháng ngày lăn lóc trong đời, chỉ đủ để cho tôi nhận biết vui buồn sướng khổ, còn làm được cho mình hay cho người khác một việc gì đó thì cái khối lượng kiến thức khổng lồ mà nhỏ xíu kia chắc chắn là không đủ. Tôi lại nhớ Tản Đà “Tài cao, phận thấp, chí khí uất. Giang hồ mê chơi quên quê hương “[xxxix] Còn tôi “ Tài hèn, mộng lớn, chí khí uất. Suốt ngày lu bu, quên quê hương “  Thế là tôi quay quắt với nó cho đến lúc tôi trở thành một tên ba trợn tự lúc nào tôi cũng không hay. Ông Tản Đà thế mà hay. Biết mình không làm gì được cho đất nước, nên đành làm văn, làm thơ, viết báo nói lên những giấc mộng lớn, giấc mộng con của mình và chơi. Còn tôi thì một ý nghĩ thôi cũng còn chưa dám. Ông quên quê hương nhưng dám chơi và biết cách chơi để tìm quên, còn tôi quên quê hương mà không biết chơi làm sao, đôi khi liều mạng chơi, mà chơi dở nên đành chịu.
Đúng ba giờ chiều tôi có mặt tại văn phòng Bộ Tư Lệnh, cái lon trung sĩ nhất bé tẹo lọt thỏm giữa căn phòng bày biện đơn giản nhưng rộng mênh mông, dù mặc thường phục nhưng tôi vẫn cảm thấy như thế. Viên đại úy lớn hơn tôi chừng vài tuổi nhận cái sự vụ lệnh của tôi, sau khi nhìn sơ qua, anh mỉm cười nhìn tôi:
- Kể ra trung sĩ cũng gớm thật. Thôi ngồi chơi một lát để tôi trình Thiếu Tướng.
Viên Đại úy đứng dậy gõ cánh cửa ở bên dưới tấm biển nhỏ với hàng chữ “Văn Phòng Tư Lệnh“. Tôi đưa mắt nhìn chung quanh, chỉ có cái bàn bureaux cho viên đại úy và bộ salon tôi đang ngồi, còn lại chỉ là tường quét một màu vàng nhạt, đang nghĩ vẩn vơ không biết mình bị trục lên đây vì chuyện gì thì viên đại úy trở ra trên tay cầm một xấp hồ sơ dày cộp. Đại úy bước lại và ngồi đối diện với tôi và nói:
- Đây là xấp hồ sơ mà trung sĩ cần phải đọc cho thật kỹ và tuyệt đối không được tiết lộ bất cứ điều gì về việc đọc hồ sơ này cũng như nội dung của nó. Trung sĩ có ba tiếng đồng hồ để làm việc này. Đúng sáu giờ tôi sẽ nhận lại hồ sơ và đưa trung sĩ đến chỗ nghỉ và trung sĩ phải chuẩn bị sẵn sàng trình diện Thiếu Tướng bất cứ lúc nào.
Tôi nhận lấy tập hồ sơ, viên đại úy trở về bàn làm việc của mình. Thì ra đây là hồ sơ cá nhân của tôi và tôi thật sự hốt hoảng khi mà tất cả nhân thân, mọi hành động, sở thích của tôi đều được ghi nhận gần như không thiếu một giây giờ nào cả. Cuối cùng. Thôi rồi. Cái mộng làm báo vừa le lói, phen này đã tan thành mây khói. Thì ra là như vậy. Tôi bị gọi lên đây là vì những bài báo này. Nhìn những nét bút gạch dưới từng giòng, từng câu của bài báo, người tôi bổng nổi gai ốc. Tôi cố gắng hết sức nhưng không thể đọc lại toàn bộ những bài báo của mình. Trong hoàn cảnh này, làm sao mà tôi có thể nhận ra những khác biệt giữa những gì tôi viết với những gì người ta sửa chữa khi biên tập lại. Tôi chỉ mơ hồ nhận ra là sự việc của tôi không đơn giản, nhưng lượng định được mức độ phức tạp của nó thì tôi không thể. Và rồi không biết cái gì giục tôi, trong cái lúc bụng đang đánh lô tô, tôi lại xoay xoay mấy tờ báo rồi đọc một cách say sưa tiểu thuyết võ hiệp đăng nhiều kỳ của Kim Dung “Tiếu Ngạo Giang Hồ“ mà nhè ngay cái đoạn Lệnh Hồ Xung bị Nhạc Bất Quần phạt phải lên núi nhìn vào vách đá để sám hối tội lỗi của mình? Bất giác tôi nhìn lên bức tường. Đúng là trớ trêu.
Viên đại úy nhận lại và kiểm tra kỷ lưỡng tập hồ sơ rồi đưa tôi về nơi nghỉ ngơi, một căn phòng khá đủ tiện nghi, đưa cho tôi tấm thẻ đeo miệng túi và dặn dò những điều mà tôi phải tuân theo :
- Trung sĩ ở đây, khi bước ra ngoài phải đeo thẻ, tuân thủ mọi mệnh lệnh của Tuần Cảnh. Ăn uống và mua mọi thứ cần dùng ở câu lạc bộ không phải trả tiền, ngoại trừ bia và thuốc lá. Cái quan trọng nhất là không được sử dụng điện thoại hay bất cứ một phương tiện truyền tin nào. Khu vực đi lại được cho phép là bên trong khuôn viên Bộ Tư Lệnh.
Thế là bị giam lỏng không thời hạn.
Tôi ném cái balô lên giường, viên đại úy để tay lên vai tôi ân cần :
- Mình ra câu lạc bộ, trung sĩ. Việc của trung sĩ tôi không được phép có ý kiến gì, mà cũng chẳng biết gì để mà có ý kiến. Tôi chỉ muốn mời trung sĩ vài lon.
Thế là tôi cùng viên đại úy đến một câu lạc bộ gần đó, câu lạc bộ chỉ có một vài người từ xa về công tác đang ăn cơm, chúng tôi gọi một dĩa thức ăn và hai lon Helm, vừa rót bia cho tôi viên đại úy nói :
- Tôi là Trương, từ ngày ra trường về làm việc ở đây đến giờ đã qua ba đời Tư Lệnh. Tôi có nghe loáng thoáng về việc của trung sĩ, tôi không được phép nói với trung sĩ điều gì ? Nếu phải biểu lộ sự đồng cảm thì điều tôi có thể làm là mời trung sĩ nâng ly.
- Cám ơn Đại úy.
Hết lon bia anh Trương từ giả tôi ra về. Tôi ngồi uống thêm một lon nữa, rồi tính tiền. Đúng là trước khi tôi có mặt tại đây, mọi việc đã được thu xếp. Chỉ tính tiền ba lon bia và gói thuốc. Tôi nhìn quanh, ai cũng đeo thẻ, tất cả giống nhau nhưng khác tôi.
Một ngày, một ngày, rồi lại một ngày nối tiếp nhau. Tôi không nhận được bất cứ một thông tin nào về sự việc của mình cũng như của gia đình, của đơn vị. Tôi cứ long rong hết CLB này đến CLB khác trong cái khuôn viên rộng mênh mông của BTL. Và tôi trở thành một độc giả trung thành của cái phòng đọc sách cũng rộng mênh mông. Mỗi ngày tám tiếng. Những người biết việc trông có vẻ có cảm tình với tôi, nhưng tiếp xúc thì rất e dè, cứ ăn xong, rồi vào phòng đọc sách, báo rồi về phòng nằm nghĩ ngợi lung tung, thỉnh thoảng đại úy Trương đến rủ uống vài lon bia để nói toàn chuyện trên trời dưới đất. Anh có vẻ thích và thông cảm cho tôi, nhưng cái lon đại úy ở tại BTL thì chẳng qua chỉ là một cái lon để lãnh lương. Tôi cũng biết vị trí của anh cũng khá ngon cơm đấy, nhưng đó lại là chuyện hoàn toàn khác với cái chuyện của tôi. Nhưng tôi lầm, chính anh chớ không ai khác, những câu chuyện đầu cua tai nheo với tôi. Anh đã giúp cho BTL đánh giá khá có lợi cho tôi. Khoảng thời gian này qua báo chí tôi có đủ thời gian và tỉnh táo, để nhận định một cách tương đối rõ tình hình ở một nơi mà tôi đang sống.
Những tin tức chiến sự, những hoạt động của các phe phái chính trị và cả những động thái của mấy ông Việt Cộng, chính quyền Sài Gòn và các đồng minh. Tôi đi đến một kết luận khá chắc chắn. Tất cả. Vì một lý do gì đó đều không nói thật, nếu không muốn nói là cả một guồng máy dối trá khổng lồ đang vận hành hết công suất. Các vụ thảm sát ngày tết Mậu Thân ở Huế, vụ lính Mỹ tàn sát ở Mỹ Lai, Sơn Mỹ, vụ pháo kích vào trường học ở Nhị Quý Cái Bè, tỉnh Định Tường, Song Phú tỉnh Vĩnh Long. Những việc đó đã xảy ra lâu rồi hay mới xảy ra, nhưng vẫn được nhai đi, nhai lại. Mỗi một cái loa phát đi sự việc theo cái giai điệu riêng của mình, phải nói là giai điệu vì tất cả đều rất êm tai. Nhưng cái sự thật hiển nhiên thì không thể chối cãi là Người Chết. Mà đâu phải chỉ những nơi ấy mới có Người Chết, mà hàng ngày, hàng giờ đều có Người Chết, không phải Người Chết theo cái thường tình của lẽ tử sinh. Ôi Người Chết. Rất đau đớn khi viết hoa hai từ này.
Trong phiên toà xử vụ án giết người hàng ngày này. Không ai đưa ra một bị cáo đích thực. Mỗi một vị luật sư đều đưa ra một lý lẽ để đẩy cái tọi ác kinh hoàng này cho một bị cáo vô hình hay hữu hình nào đó mà không nêu đích danh. Và phiên tòa ấy vẫn họp hàng ngày và người người vẫn bị giết hàng ngày. Cũng từ những suy nghĩ này tôi thấu hiểu ra việc làm của mình. Nghĩa là ngoài cái việc tham gia giết nhau bằng súng đạn. Tôi cũng tham gia vào cái trò dối trá bằng cách viết mấy bài báo tào lao, để tham dự phiên toà. Rồi bây giờ ngồi đây đoán già đoán non cái số phận của mình. Lạ một điều là tôi không hề suy nghĩ gì về những bài báo mình đã viết. Nội dung của nó chỉ là đả kích cái quan điểm chính trị hổ lốn và những tuyên bố mang tính chửi rủa, mạt sát Cảnh Sát Dã Chiến của bà dân biểu Kiều Mộng Thu. Thiên hạ vẫn chửi rủa nhau hà rầm trên báo, trên đài phát thanh đó sao.

Tôi lên trình diện Thiếu Tướng Tư Lệnh, sau lễ nghi quân cách, ông chỉ cái ghế cho tôi ngồi, khi tôi ngồi xuống ông chậm rãi lên tiếng :
- Chú em có biết lý do vì sao chú em được qua[xl] gọi lên đây không ?
- Dạ em nghĩ là tại vì mấy bài báo ạ. Tôi lí nhí
- Em có biết là như vậy là em phạm kỷ luật không. Em muốn viết báo thì phải xin phép chứ?
- Dạ. Em biết, nhưng em tức quá.
- Đúng. Qua thông cảm cho em, nhưng em có biết là những nội dung bài viết của em là làm cho tình hình xấu thêm không? Rồi giọng ông lại chùng xuống. Qua và em là một loại người không có quyền lên tiếng.
- Thưa Thiếu Tướng. Điều này em không biết ạ.
Ông nhìn tôi nheo mắt, rồi cười:
- Đúng là dê non háu đá, đã vậy còn ký tên thật, ghi rõ đơn vị nữa chứ. Sẵn đây qua hỏi em, em biết gì về cái ngành mà em đang phục vụ. Có lẽ là không phải không? Qua cho em đọc toàn bộ hồ sơ của em để cho em biết là không nên lộn xộn. Hiểu không ?
Tôi nín thinh, nhìn ông. Ông lại tiếp bằng cái giọng đều đều như âm vang:
- Đúng lý ra, trên cương vị của qua, qua không cần phải ngồi đây nói những điều này với em. Điều này là của An Ninh Cảnh Lực. Nhưng em đang ngồi đây thì chắc có lẽ em cũng hiểu sự việc nó phức tạp, kỳ cục và nguy hiểm cho em đến độ nào. Nhưng em phải nhớ may mắn không đến lần thứ hai.
 Tôi lại im lặng, bởi vì tôi chẳng hiểu gì cả. Một bài báo thôi mà có gì lớn lao lắm đâu. Tôi nhìn ông. Đó là một người tuổi trên bốn mươi, tướng người cao lớn, khuôn mặt rắn rỏi, mặc áo chemi màu xám. Nếu trên bàn không có lá cờ nhỏ có hai ngôi sao trắng thì ông trông có vẻ là Giám Đốc một công ty hơn là một ông tướng lẫy lừng.
- Bây giờ, em đã biết rồi đấy cái nghề của chúng ta là như thế, phải biết tường tận từng người một, và em cũng là một người mà cái nghề này lại cần phải biết tận tường hơn. Bây giờ mọi việc em đã hiểu một phần. Phần còn lại qua không cần giải thích. Hiện tại em có hai điều để chọn; Một, phục hồi lại lý lịch cũ, rời khỏi ngành Cảnh Sát. Với tư cách là một tướng lãnh, qua sẽ bảo đảm cho em có một chỗ ở trường Võ Bị Thủ Đức mà không phải trả giá về cái tội bất phục tùng và khai man lý lịch; Hai, nếu ở lại ngành Cảnh sát thì ngày kia em gặp đại úy chánh văn phòng.
- Dạ trình Thiếu Tướng cho em ở lại ngành. Dạ còn cái vụ viết báo ạ?
Ông nghiêm mặt nhìn tôi:
- Việc lựa chọn thì tùy em. Còn việc viết báo thì xem như chấm dứt. Từ đây cho tới chết, em chỉ có viết mỗi một thứ là báo cáo. Nhưng theo qua thì em cố mà viết thư tình cho nhiều vào. Bởi vì, thứ đó ít ra cũng làm cho một người được vui vẻ, cùng lắm là làm cho ai đó bực mình cũng không đến đỗi phải chết ai. Nhất là không chết mình. Bây giờ em có thể về nơi nghỉ.
Tôi đứng dậy chào ông theo quân cách, rồi bước ra. Khi nắm chốt cửa thì bàn tay ông đặt lên vai tôi:
- Thôi em về. Hãy xem qua như một người anh. Bất cứ người lính nào đứng trước qua, mặt mày cũng tái xanh, nói năng lắp bắp. Còn em thì không. Tuổi trẻ thì phải thế. Giọng ông ấm lại nhưng có pha chút ngậm ngùi. Tôi bước ra cửa, quay nhìn ông, tôi nói một câu như vô thức:
- Cám ơn Thiếu Tướng, em xin phép được kính trọng Thiếu Tướng như một ngưòi anh.
Tôi quay về phòng, nằm vật xuống không hiểu gì hết. Ông nói đúng, tôi không sợ ông, nhưng bây giờ thì sợ, sợ cái hậu quả việc làm của mình. Tôi không biết mình đang chờ đón một cái gì. Đầu óc lung tung, lòng dạ nhộn nhạo. Nhưng cái bản tính bất cần làm cho tôi trở thành kẻ vô tư và đến hôm nay tôi hoàn toàn không hiểu gì cả. Chẳng lẽ chỉ mấy bài báo của một tên vô danh tiểu tốt như tôi mà lại lớn chuyện như thế. Nhưng dù sao tôi cũng hiểu lờ mờ; có lẽ nội dung của những bài báo ấy gây ra một điều phiền phức gì đó cho các VIP. Và ông tướng Thanh là xếp lớn nên phải chịu trách nhiệm về lính của mình. Nhưng tại sao câu chuyện lại có vẻ đầu voi đuôi chuột thế? Không hiểu? Nhớ lại lời khuyên cuối cùng của ông, tôi bổng cười khan. Ôi cái Tú Tài ban C mà chỉ có thể viết tờ tường trình và báo cáo, cùng lắm là viết thư tình. Ôi học hành ngần ấy năm mà chỉ được có thế thôi sao? Rồi, tôi lại lơ mơ.
Hai ngày sau, hai ngày tôi chờ đại úy Trương, nhưng ông ấy đi đâu mất biệt. Tôi cứ tà tà bia, tà tà báo mà đầu óc khi quay cuồng, khi trống rỗng. Đúng lời dặn, tôi lên văn phòng tìm đại úy Trương. Nhưng người tôi gặp là một nữ đại úy. Cô đại úy trẻ măng tiếp tôi và đưa cho tôi một cái phong bì dầy cộp, rồi dặn tôi về phòng chờ xe, sau khi thông báo cho tôi biết là trong phong bì ấy có những giấy tờ cần thiết cho tôi để nhận nhiệm vụ mới.
Sau khi đứng nghiêm chào đại úy đúng theo quân cách. Tôi nhận cái phong bì bước ra khỏi phòng. Cái gì nữa đây hở trời? Cái tôi muốn là về ngay Rạch Giá. Bây giờ còn đi đâu mà có xe rước, xe đưa. Về tới phòng tôi nhét vội đồ đạc vào balô luôn cả cái phong bì mà không kịp mở ra xem, vừa lúc đó một Tuần Cảnh bước vào nói:
- Trung Sĩ Hiền xong chưa? Xe đang chờ
Tôi nín thinh xốc balô lên vai, đi theo anh Tuần Cảnh ra cổng chính, một người mặc thường phục chờ tôi ở phòng khách. Chào hỏi nhau xong anh tự giới thiệu :
- Tôi là Nam có nhiệm vụ đưa thượng sĩ về nhận nhiệm vụ mới.
Tôi ú ớ nhìn anh, không hiểu gì cả. Anh tiếp;
- Thôi mình ra xe.
Rồi anh đưa tôi lên một xe Jeep quân đội và ra khỏi cổng. Con đường Võ Tánh bao giờ cũng đầy người, đầy lính. Trên xe tôi nhìn Sài Gòn. Ôi Sài Gòn, một thời trôi nổi của tôi. Mọi người vẫn hối hả và chỉ có thế. Nếu có khác thì không ai nghĩ rằng đây là một thủ đô của một đất nước có chiến tranh. Những bộ quân phục xuất hiện rải rác trong những nẻo đường như họ đi dạo trong vườn hoa của các quân trường. Thế mà con đường này lại là con đường nguy hiểm nhất.
Tôi được đưa đến một ngôi nhà rất lớn nằm trên đường Công Lý. Ngôi nhà xưa tuyệt đẹp, nhất là khi vào bên trong. Phần nội thất rất giản dị nhưng toát lên một cái gì đó rất trang nghiêm nhưng không làm cho thằng nhà quê như tôi phải khớp. Người đưa tôi về đây hướng dẫn tôi đến một phòng khác và ở đây một người khoảng bốn mươi, nhưng trông rất thư sinh, một loại thư sinh nhà nghèo, nghĩa là có một thứ rắn rỏi từng trải toát lên trong cái khuôn mặt điển trai và vóc dáng thanh mảnh. Ông tiếp tôi, mời tôi ngồi và tự giới thiệu:
- Chào chú. Tôi là Văn. Hôm nay tôi cho đón chú đến là có việc cần đến chú.
Tôi không hiểu gì cả, ấp úng:
- Thưa Anh. Tôi không hiểu.
Ông cười :
- Không sao? Tôi sẽ giải thích cho chú. Chúng tôi cần có một người ở Kiên Giang để thực hiện các nhiệm vụ mà chúng tôi cần. Người đó phải có trình độ, có thiện chí và làm việc không sợ bất cứ một áp lực nào. Ở Kiên Giang người đáp ứng được các tiêu chuẩn trên là chú. Chú đừng lo. Chú sẽ nhận được cuốn Huấn Thị Điều Hành. Trong đó ghi rõ từng nhiệm vụ chú phải làm và cách thi hành những nhiệm vụ đó.
Tôi lại không hiểu :
-  Nhưng
- Không sao, công việc không lớn lao gì. Ở đơn vị chú, những người có trách nhiệm, họ biết sẽ phải làm gì? Cái phong bì chú nhận bên BTL. Khi về đến nhà chú mở ra và chú biết chú phải giữ lại cái gì và cái gì trình cho chỉ huy trưởng của chú. Tôi nói chỉ huy trưởng chớ không phải đại đội trưởng. Ông đưa cho tôi một cái phong bì nữa, rồi tiếp. Đây là cuốn Huấn Thị Điều Hành và một số giấy tờ khác, chú đọc và giữ riêng cho mình không giao cho ai cả. Trong thời gian đầu khi làm nhiệm vụ, nếu gặp trở ngại chú có thể trực tiếp hỏi tôi qua thư hay điện thoại.
Ông đứng dậy rồi bước đến gần vỗ vai tôi:
- Thôi anh em mình đi kiếm cái gì uống. Rồi tôi cho người sắp xếp chỗ cho chú nghỉ ngơi.
Tôi đứng dậy bước theo ông như một cái máy, ông dẫn tôi đến một căn phòng rộng mênh mông, được bài trí như quán ăn, nhưng không có một bóng người. Cả hai vừa ngồi xuống thì có một người đến rất lịch sự, thậm chí lễ phép :
- Xin thưa các ông dùng chi ạ.
Ông nhìn tôi :
- Chú ăn gì chưa ?
- Thưa rồi ạ.
- Thế uống bia nhé. Ông quay lại nói với người service:
- Cho một lon bia và một đá chanh rhum. Quay sang tôi ông nói như là một lời tâm sự. Tôi nghe anh Thanh nói về chú và tôi nhờ anh ấy cho đại úy Trương tìm hiểu thêm và tôi khoái chú. Ngoài cái chuyện khoái ra tôi còn hiểu thêm chú là người tôi cần. Giọng ông bổng trầm xuống. Tôi biết cái công việc của chúng ta làm khó lòng đạt được kết quả như mong muốn, nhưng không vì thế mà không làm. Cứ sống đi và làm những việc chúng ta thấy cần. Dù không đạt được kết quả cũng không hỗ thẹn.
Thức uống được mang ra, ông đẩy ly bia về phía tôi, rồi tiếp:
- Chú uống bia ít thôi. Không tốt cho sức khỏe. Thế nhé.
Tôi làm theo lời ông như cái máy, không hiểu gì cả. Tôi chỉ mong có thời giờ xem lại mấy cái phong bì và cái cuốn gì đó. Bổng dưng ông hỏi:
- Chú còn làm thơ không?
Tôi giật mình, nhìn ông ấp úng :
- Thưa còn ạ. Nhưng làm xong vất lung tung.
Ông cười :
- Thôi cũng được, ít ra đó cũng là một trò chơi thú vị. Đọc anh nghe xem?
- Em chỉ nhớ vài câu.
- Ừ thì vài câu.
- Sống mà đếch đổ mồ hôi,
Làm sao biết được cuộc đời ngon cơm .
- Hay, hay. Ông cất tiếng cười vang, tiếng cười đầy ắp căn phòng mênh mông. Chú giỏi thật. Nhưng chú sử dụng từ ngữ xem ra hơi khinh bạc đấy, chú còn quá trẻ. Nhưng không sao. Hai câu thơ đẹp. Ông cầm ly chanh rhum. Rất tiếc anh không biết uống rượu. Thôi thì cụng với anh ly này.
Thế là mọi thắc mắc thấp thỏm của tôi tan biến. Cái khoảng cách tuổi tác nhanh chóng tan biến, chúng tôi nói cười rôm rả, bàn đủ thứ chuyện trên đời, rồi cùng nhau bàn luận ngâm nga Nguyễn Công Trứ. Anh cho rằng lạc quan chính là bản chất con người tôi. Nhưng anh cũng nói con người lạc quan thường hay thiếu kiên nhẫn. Tôi bắt đầu xạo sự kể cho anh nghe về cái chuyện tôi sinh thiếu tháng, không biết khóc, không biết bú, uống nước cơm pha đường chảy và những trò quậy phá của tôi hồi còn con nít... Tôi thì như thế đó, khi nhảy vào chuyện văn thơ thì tôi hoàn toàn là một con người khác, dù rằng kiến thức của tôi về việc này thì cũng như bao chuyện khác, nghĩa là lam nham. Ông choàng tay qua vai tôi và nói giọng vui vẻ:
- Anh gặp nhiều thằng nhóc rất giỏi, giỏi hơn chú nhiều. Nhưng chú trông có vẻ hay hay. Anh khoái chú rồi đấy. Sau này gặp nhau, anh em mình tầm phào với nhau chơi cho đã. Nhưng trước nhất anh nói với chú điều này. Công việc của chúng ta, nói một cách đơn giản là nhặt rác rến quanh đời. Nhặt thôi chớ chưa đủ khả năng quét. Những suy nghĩ và những việc làm mang hơi hướm chính trị của chú trong quá khứ, điều đó là không phù hợp với khả năng chú. Muốn làm điều đó, chú phải có tài năng và tâm huyết lớn. Đúng, tâm huyết lớn, lớn đến cái độ mà suốt chặng đường gai góc đi đến đỉnh cao quyền lực. Cái tâm huyết ấy không bị bào mòn, hoặc nếu có bị bào mòn thì cũng không mòn đến hết sạch. Đã có  có rất nhiều thằng rất được. Nhưng khi mới nắm được cán cờ, mà chưa có cờ thì nó đã trở thành tên ăn hại.
Tôi sững sờ nhìn anh:
- Thật thế sao anh?
- Hãy nhìn và nghĩ suy, chú sẽ thấy. Thôi, đừng bàn chuyện này nữa. Nó chẳng phải là việc của anh em mình. Em về chỗ nghỉ. Mai còn về Rạch Giá chứ. Xa nhà lâu rồi.
Anh đưa tôi về tận nơi nghỉ ngơi và bảo tôi cứ yên tâm ngày mai anh sẽ lo phương tiện cho về Rạch Giá. Anh cũng dặn, nếu người đưa tôi về đây đến kêu thì cứ đi. Khi về tới Rạch Giá thì điện cho anh, hay gởi thư cũng được, rồi anh rút viết ghi số điện thoại và địa chỉ nhét vào túi tôi. Anh đi rồi tôi đưa mắt nhìn quanh, căn phòng đẹp như khách sạn hạng sang. Cái balô của tôi đã nằm sẵn trên bàn từ bao giờ. Tôi cởi giày, leo lên giường nằm nghĩ về những việc đã xảy ra. Ông Văn. Ông là ai? Làm cái gì? Hình như có một sự sắp xếp nào đó. Tôi nhớ lại đại úy Trương. Chết rồi, những lon bia của anh đâu chỉ đơn giản là thích tôi. Tôi vội móc túi lấy manh giấy. “Nguyễn Hiếu Văn. số điện thoại… địa chỉ”. Tất cả không nói lên điều gì. Không cấp bậc, không chức vụ, không tên cơ quan. Nhét lại miếng giấy vào túi. Tôi bật dậy lôi trong balô ra cái phong bì, mở ra. Thứ tự từng thứ bày ra trước mắt tôi. Một quyết định thăng cấp thượng sĩ. Một quyết định rời khỏi lực lượng CSDC. Một lệnh phạt bốn mươi lăm ngày trọng cấm. Một quyết định hoãn dự tranh thăng cấp ba năm. Một sự vụ lệnh thuyên chuyển về Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng Và Tệ Đoan Xã Hội Trung Ương. Một phong bì nhỏ đựng vừa đúng một tháng lương. Một manh giấy ghi hàng chữ “Chúc em nhiều may mắn. Tháng lương này anh tặng em. Thanh “. Cái gì kỳ vậy? Cái ủy ban này ở đâu ? À , hay là ở đây. Rồi anh Văn, anh Văn là ai? Tôi chợt ngớ người ra. Thì ra cái anh Văn nói cười rôm rả với tôi tự nãy giờ là thiếu tướng Nguyễn Hiếu Văn. Tổng Thư Ký Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng và Tệ Đoan Xã Hội, là ông tướng thứ năm “ nhất Thắng, nhì Thanh, tam Chinh, tứ Trưởng “ [xli]. Hèn chi, khi nói về ông tư lệnh thì anh ấy cứ kêu bằng anh Thanh, anh Thanh này không phải là Thanh thứ nhì. Thì ra vậy. Tôi chợt phì cười, từ một thằng lính chân chòi cổ loi bổng dưng được hai ông tướng xem như em út. Tôi thực sự không hiểu. Nhưng những gì anh nói với tôi làm tôi trằn trọc. Nhặt rác rến quanh đời và
Sáu giờ sáng hôm sau tôi được anh Nam đưa ra phi trường Tân Sơn Nhất, bảy giờ sáng lên máy bay quân sự về Rạch Giá, lại một sự sắp xếp nữa. Nhưng thôi, dù sao đi máy bay vẫn sướng hơn đi xe đò. Ngồi trên máy bay tôi nhìn xuống và nhận diện từng thành phố, thị trấn, làng quê chạy dài dưới chân mình trong ánh sáng rực rỡ của bình minh. Những giòng sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây, rồi Sông Tiền, Sông Hậu, những con kênh đào, những con rạch trời sinh và tất cả. Những hình ảnh ấy do tạo vật và con người cùng tạo nên. Uốn lượn, hòa quyện lấy nhau như sự giao thoa giữa trời đất. Tất cả hình như đã quen thuộc với tôi dù rằng chỉ một đôi lần nhìn thấy như thế này. Tất cả chừng như rất đổi bình yên. Chiếc C.47 [xlii] bay trên một độ cao, cao hơn nhiều so trực thăng tải quân, nên tầm nhìn như rộng ra. Tất cả cái dáng vẻ ấy đang chói lọi trong ánh ban mai chạy đến ngút ngàn. Là một thợ vẽ, biết chút ít về màu sắc. Nhưng tôi không thể nào phân định được cái gam màu quá ư đặc biệt này và cũng không biết gọi nó bằng cái tên nào cho hợp lý. Màu xanh, màu xám, màu lá cây dứt khoát không phải rồi. Tôi cố chọn một cái tên nào đó mang tính ước lệ hơn, trừu tượng hơn; màu nắng, màu quê hương Lại không ổn. Bổng có một cái gì đó như là một tiếng “keng” vang lên trong đầu tôi. Màu bình yên. Vâng đúng rồi đó là màu bình yên. Một gam màu có thật mà cũng không có thật. Cũng như bình yên là một thứ gì đó rất cụ thể, nhưng cũng rất vô hình. Một gam màu mà dân tộc tôi, đất nước tôi đang miệt mài tìm kiếm hơn bốn ngàn năm. Lúc gam màu ấy còn thì bạc đầu ra tìm cách để quên. Lúc mất đi thì đổ máu ra tìm và bây giờ đang vế thứ hai. Sự tìm kiếm rất chân tình nhưng vô cùng khủng khiếp. Nhưng buồn thay lẫn trong số đó. Có những kẻ cũng đang ra sức tìm kiếm (!?) bằng cách vận dụng tối đa sự thông minh cực kỳ ngu xuẩn của mình.
Tôi thực sự không biết chán khi nhìn thấy quê hương mình từ trên cao. Tất cả đã phô bày trọn vẹn những dáng vẻ yêu kiều trước không gian lồng lộng, bất chấp mọi phê phán của các vì tinh tú (?) Chẳng những thế còn kiêu hãnh trước những đổi thay mà mình có. Quên hết những đớn đau nội tại, rực rỡ mà dịu dàng hết mực. Ôi quê hương tôi.
Không biết các VIP bên này, bên kia khi ngồi trên máy bay nhìn xuống. Họ nhìn thấy cái gì? Tìm kiếm cái gì? Danh vọng? Chức tước? Quyền lực. Có lẽ họ tìm kiếm những thứ đó. Thế là họ thua rồi. Làm gì có mà tìm. Ấy vậy mà họ tìm và họ cho là họ thấy và họ cho là họ được và họ bán mạng người, một vài kẻ bán luôn mạng mình để ôm lấy. Bổng dưng tôi hiểu. Bởi vì cái cảm giác bay cao không phải ai cũng có được. Tôi thì lơ mơ, nên tôi cho là như thế. Còn họ thì cho là họ đang ngồi trên đầu cha thiên hạ. Thế nên, buồn thay cho anh em nhà Wright. Họ tạo ra đôi cánh để thỏa mãn một ước mơ chớ đâu phải để cho gieo rắc tang thương.
Tôi nhớ lại những gì đã xảy ra cho mình. Tôi quên hết những phấn  kích vừa dâng lên trong lòng. Quên hết những lời tự hứa sẽ cố gắng, phải làm một điều gì đó để đáp ứng lại những ước vọng của mình. Quên hai cái bằng Tú Tài với cái lý lịch hiện tại. Nhưng lại không quên lời tự hứa phải tìm cách đi học tiếp. Nhưng tại sao tôi không quên ông tướng Văn và vẫn tin rằng ông đặt niềm tin vào tôi là không sai chỗ. Bên dưới, màu bình yên vẫn xanh.





[i] Một hiệu xe khách nổi tiếng ở Rạch Giá trước năm 1975. Bến xe ở góc đường Trần Phú-Duy Tân, gần đó là quán phở gà Anh Viên
[ii] Bên quân đội là binh nhì, bên cảnh sát là nhân viên phù động,  nghĩa là lính trơn.
[iii] Chỉ những tướng lãnh có chức vụ lớn trong chính quyền Sài Gòn; Very Important Person (VIP) có nghĩa là nhân vật rất quan trọng. Còn KK là viết tắt chữ kaki, tên một loại vải may quân phục. Ở đây được hiểu là Nhân vật rất quan trọng của chính phủ mà phần lớn là các tướng lãnh quân đội.
[iv] Một loại súng tiểu liên do Mỹ chế tạo
[v] Một loại áo khoác của binh sĩ chính quyền Sài Gòn
[vi] Đồng Dollar màu xanh là tiền chính thức của Mỹ. Đồng Dollar màu đỏ chỉ lưu hành trong phạm vi quân đội Mỹ ở Việt Nam.
[vii] Một loại thuốc cảm phổ biến lúc bấy giờ
[viii] Tên một loại bia lon do Mỹ sản xuất và cung cấp cho quân đội Mỹ
[ix] Tên cũ của một phần tỉnh Lâm Đồng hiện nay, tỉnh lỵ là thành phố Đà Lạt.
[x] KBC….: Khu Bưu Chính là đơn vị bưu chính trong quân đội chính quyền Sài Gòn
[xi] Màu quân phục của LL.CSDC của chính quyền Sài Gòn.
[xii] Là một hàng cọc gỗ đóng xuống lòng sông. Cọc này cách cọc kia khoảng năm, sáu mét. Ở giữa hai cọc người ta mắc một túi lưới dài khoảng mười, mười lăm mét để bắt cá.
[xiii] Những loại cây cỏ họ dương xỉ thường mọc xen trong các đám lá dừa nước
[xiv] Những loại cá, các loại chim và các giống lúa đặc trưng của bán đảo Cà Mau.
[xv] Tiếng Quảng Đông có nghĩa là ly café đen nhỏ.
[xvi] Một hiệu radio do Nhật sản xuất.
[xvii] Kẹo cao su
[xviii] Hiện nay là bến xe thị xã Sa Đéc tỉnh Đồng Tháp
[xix] Tên một loại gỗ để đóng quan tài.
[xx] Tên trước năm 1975 của huyện An Biên
[xxi] Tên trước năm 1975 của huyện Giồng Riềng
[xxii] Trước năm 1975 cách xếp hạng bằng tốt nghiệp các bậc trung học ( TH.ĐNC, Tú Tài1, Tú Tài 2) được gọi bằng các thứ hạng sau: Tối ưu, ưu, bình, bình thứ, thứ.
[xxiii] Nơi đào tạo sĩ quan cho lực lượng Cảnh Sát của chính quyền Sài Gòn
[xxiv] Một loại trực thăng vũ trang do Mỹ sản xuất
[xxv] Một loại hỏa tiển trang bị cho các trực thăng
[xxvi] Loại thuốc trụ sinh có gắn sẵn kim tiêm, được dùng trong quân đội Mỹ. Đây là loại trụ sinh mạnh nhất thời bấy giờ. Trị bệnh xã hội rất công hiệu.
[xxvii] Một loại mền quân trang được dùng trong quân đội Mỹ và các lực lượng Đồng Minh ở Việt Nam
           [xxviii] Ngoài cái chốt xỏ ngang cái thìa, còn có một khoen kim loại giữ cái thìa lại sau khi rút chốt. Muốn bật cái khoen này chỉ cần ấn ngón tay cái vào là cái khoen rời khỏi cái thià. Cái khoen được thiết kế cho người thuận tay mặt.
[xxix] Loại súng phóng lựu do mỹ sản xuất.
[xxx] Gốc của lá dừa nước, thịt xốp, nhẹ, nổi trên mặt nước.
[xxxi] Lá dừa nước chưa nở to bằng cỗ tay, trông giống như ngọn lao.
[xxxii] Loại đèn thắp sáng bằng dầu hôi có cái ống khói tròn như hột vịt, hiện nay rất ít thấy, chỉ còn sót lại ở những vùng sâu, vùng xa không có điện
[xxxiii] “ To be or not to be “
[xxxiv] Nơi đào tạo hạ sĩ quan cho Quân đội chính quyền Sài Gòn
[xxxv] Là trung tâm xã Vĩnh Hoà Hiệp, một nơi nổi tiếng với nghề dệt chiếu. Nhà thơ Kiên Giang có mấy câu thơ viết về nơi đây: “Tàu đò ghé bến Tà Niên, Xem nàng dệt chiếu anh quên xuống tàu. Chiều rồi lỡ chuyến tàu sau. Ở đây làm rể bao lâu được nàng.”
[xxxvi] Một quận mới thành lập, khi tại đây xây dựng nhà máy ciment đầu tiên tại Miền Nam
         [xxxvii] Năm 2005 tôi biết biết được nhà thơ Thanh Tịnh cũng có một câu tương tự ”Bạn bè đã ít lại hao “. Thôi thì, tôi là kẻ hậu sinh, lại cũng chẳng danh tiếng gì. Xem như tạm mượn.
[xxxviii] Một ca khúc của Phạm Thế Mỹ không nhớ tựa.
[xxxix] Bài thơ Thăm Mả Cũ Bên Đường của Tản Đà
           [xl] Đại từ ngôi thứ nhất có nghĩa là tôi. Người lớn tuổi ở miền Nam hay dùng khi nói chuyện với những người đáng tuổi em cháu
        [xli] Bốn tướng lãnh được tiếng thanh liêm của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Nguyễn Đức Thắng, Nguyễn Viết Thanh, Phan Trọng Chinh, Ngô Quang Trưởng.
[xlii] Một loại máy bay tải quân loại nhỏ do Mỹ sản xuất.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét