Người theo dõi

Thứ Năm, 31 tháng 12, 2015

PHÍA BÊN KIA SÔNG - CHƯƠNG IV -


CHƯƠNG IV :
LỬNG THỬNG QUANH NĂM, NGHÍA LẼ ĐỜI.

Tưởng như thành được ước mơ.
Giựt mình tỉnh giấc ai ngờ. Chiêm bao
Mồ hôi ứa giữa đêm thâu
          Mộng thì không thật. Đời đâu dễ dàng 

       Tiếng loa báo cài dây an toàn đưa tôi về thực tại. Cài xong dây, nghiêng đầu nhìn qua cửa kính. Tỉnh lỵ Rạch Giá hiện ra trọn vẹn dưới mắt tôi gần hơn, gần hơnvà tôi xốc lại balô. Gần nửa giờ bay, tôi về lại cái tỉnh lỵ thân thuộc của mình. Một thoáng náo nức chạy ùa vào lòng. Chỉ hơn một tháng thôi mà, có lâu lắc gì cho cam. Tôi bước ra cầu thang, từng bước một chầm chậm hít thở cái không khí mằn mặn quen thuộc. Phi trường Rạch Sỏi nhỏ xíu và tĩnh lặng như một bến xe miền quê. Bước vào nhà chờ đợi, tôi đưa mắt nhìn quanh bổng có tiếng ai đó gọi:
         

 - Hiền. Hiền
          Tôi quay lại thấy Chơn cười tít mắt, tôi hỏi:
          - Mày đi đâu vậy ?
- Rước mày
Tôi tròn mắt ngạc nhiên :
- Rước tao? Ai bảo ?
- Đại đội trưởng mới.
- Tại sao rước tao. Tao là VIP hồi nào vậy ?
- Tao có biết đâu? Ổng bảo tao rước mày thì tao rước mày. Thôi lên xe. Dọt.
Chúng tôi lên xe, ngang qua Rạch Sỏi tôi bảo :
- Kiếm gì ăn Chơn. Tao đói bụng quá rồi.
Chúng tôi vừa yên chỗ. Lại nghe tiếng ai đó kêu. Tôi quay lại và thấy chú Sáu Hưng :
- Chú Sáu. Chú Sáu uống café với con.
Ông bước qua chưa tới nơi đã hỏi :
- Mày đi đâu mà không nói với anh Tư một tiếng. Ảnh vô hỏi tao, tao không biết. Tao đi hỏi lung tung, ai cũng trả lời không biết. Mày thiệt là tình.
Tôi nhìn chú và lượng giá tình hình ở nhà. Phen này thì chắc te tua với ba tôi:
- Con còn không biết nữa thì nói với ai?
Ông trợn mắt nhìn tôi:
- Bộ mày giỡn với tao hả mậy?
- Chuyện kỳ cục lắm chú, có người biết đó, nhưng tại họ không nói với chú. Thủng thẳng rồi cháu nói cho chú nghe sau. Chỉ biết là việc này tiền hung hậu kiết.
Ông nín thinh. Chúng tôi kêu thức ăn, đói tôi lua một mạch sạch bách dĩa bún xào. Chú sáu và thằng Chơn nhìn tôi, lắc đầu tỏ vẻ ái ngại.
- Không sao đâu chú sáu, con có thiếu thốn gì đâu? Chẳng là từ chiều hôm qua tới nay con uống nước không. Rồi ngồi máy bay gần cả tiếng đồng hồ nên đói. Thằng Chơn lắc đầu:
- Tao sợ mày, mày đi có ai hay biết gì đâu ?
Tôi trả tiền café, rồi nói với chú Sáu :
- Thôi con về chú Sáu, mai mốt con nói cho chú nghe.
Trên xe, dọc đường Chơn kể cho tôi nghe việc ở đại đội. Ông năm Tôn, đại đội trưởng, về làm trưởng cuộc Vĩnh Thanh Vân. Bộ sậu ban chỉ huy đại đội thay gần hết. đại đội trưởng mới bằng tuổi chúng tôi, khoá năm Biên Tập Viên, trẻ măng và chịu chơi hết biết. Sắp chuyển sang cảnh sát sắc phục những thằng có bốn năm thâm niên CSDC Xe tới ngã tư Am Ông Địa, Chơn hỏi tôi về nhà hay xuống đại đội. Tôi nghĩ mình không trình diện đại đội cũng được, nhưng thôi ghé một chút cũng không sao. Thế là chúng tôi về đại đội. Xuống xe tôi vào ngay văn phòng đại đội trưởng. Một viên đại úy trẻ măng như tôi vậy, ngồi sau bàn giấy. Tôi để balô xuống đứng nghiêm chào trình diện đúng quân cách :
- Trung sĩ nhất Nguyễn văn Hiền, tiểu đội trưởng tiểu đội một, trung đội bảy, công tác ở BTL về. Trình diện đại úy đại đội trưởng
Ông đứng dậy chào lại và chỉnh tôi:
- Thượng sĩ chứ. Thôi anh ngồi xuống đi. Ông cười cười tiếp. Đáng lý ra anh không phải trình diện tôi, vì anh không còn ở đơn vị nữa, Nhưng vẫn đến chào. Như vậy cũng hay. Bây giờ chúng ta là bạn. Ông đứng dậy. Thôi mình kiếm cái gì uống.
Chúng tôi ra quán café ngang đó. Ông kêu hai chai 33. Ông nói:
- Tôi không rõ về việc của anh lắm. Hồi sáng nhận được công điện báo cho xe đi rước anh ở phi trường Rạch Sỏi. Tôi ngờ ngợ. Hỏi mấy anh em trong đơn vị, thì được trả lời là đơn vị có TS1 tên Hiền. Cả đơn vị không có ai mang cấp bậc thượng sĩ. Tôi hỏi anh ở đâu? Thì được biết anh về trình diện ở BTL. Nhưng về chuyện gì thì không ai biết. Thế thì chuyện gì?
- Thưa đại úy. Tôi cũng không biết phải trình bày chuyện này cho đại úy như thế nào? Bởi vì chính tôi, tôi cũng không biết là chuyện gì? Trước khi về đây tôi chỉ nhận được lệnh là về trình diện Trung Tá Chỉ Huy Trưởng. Ở đó thì may ra sự việc mới rõ ràng.
- Thôi uống, mai kia mốt nọ chúng ta còn gặp nhau, tôi mới về, rất cần sự giúp đỡ.
- Cám ơn đại úy. Nhưng xin phép đại úy. Uống hết chai này. Tôi về nhà. Ông già đang hoang mang vì không biết tôi đi đâu ?
- Vậy thì cạn nào. Để tôi kêu Chơn đưa anh về.
Chúng tôi cạn ly và chia tay.
Từ trên xe bước xuống, cả nhà uà ra hỏi han đủ mọi chuyện. Chỉ có ông nội ngồi tựa lưng vào thanh giường nhìn tôi không nói một lời. Còn vợ tôi thì ra nhà sau ngồi khóc. Tôi đến gần ông :
- Thưa nội. Con mới về
- Đéo quạ con cào nay. Mày đi đâu vậy?
- Con đi Sài Gòn, tính vài bữa về, ai dè công việc lu bu tới bữa nay mới xong. Ba tôi lên tiếng:
- Không gởi thơ hay điện về ? Ông tỏ vẻ tức giận.
- Thủng thẳng để nghe nó nói coi. Mẹ tôi lên tiếng
Ông lườm mẹ tôi:
            - Cũng bà. Con với cái. Nó làm như cái bụng của tôi bằng cây, không biết động đậy gì với việc của con cái.
Tôi nhìn ông không biết phải nói sao, nhưng rồi cũng phải lên tiếng:
            - Công việc của con hơi phức tạp. Để chiều con nói cho ông nội với ba mẹ nghe. Thực ra thì không có gì đáng lo. Con chỉ có thể nói trước với nội và ba mẹ điều này là từ đây về sau con không đi đâu nữa, công tác tại BCH Tỉnh.
            Cả nhà bổng nhiên nín thinh, không biết qua từ bao giờ ông ngoại lên tiếng:
            - Thì thôi. Nó nói vậy thì mừng, Vợ chồng bây cho nó nghỉ một chút, rồi chiều nó nói hết cho mà nghe. Tôi quay qua chào ông ngoại và thế là êm ái mọi bề.
Cơm nước xong xuôi, tôi đánh một giấc thẳng cẳng, khi thức dậy thì đã hơn hai giờ. Tôi tắm rửa qua loa, rồi xách xe đạp ra chợ mua vải may hai bộ đồ thường phục. Mua một ít quà cho nội, ông bà ngoại và các em, ghé cửa hàng bách hóa Nguyễn văn Tâm mua một bộ lon Thượng sĩ, ghé Dư Âm uống café, nghe nhạc. Quán vắng, tôi thả hồn theo những giai điệu êm đềm tuôn ra từ dàn Akai. Giọng hát Khánh Ly đang hát cho người nằm xuống “ Anh nằm xuống, sau một lần đã đến đây, đã rong chơi trong cuộc đời này, đã bay cao trên vòm trời đầy….” Tôi bổng nhớ thằng Bích, thằng Thuật “…. Rồi nằm xuống, không bạn bè , không có ai, không có ai từng ngày, không có ai đời đời, ru anh ngủ vùi mùa mưa tới trong nghĩa trang này có loài chim thôi … “ Đấy. Bạn tôi chết như thế đó. Khi tôi đến bên cạnh nó, thì mọi việc đã xong và từ đó đến giờ Tôi kêu hai ly café đen, rồi đốt hai điếu thuốc. Hình như lâu lắm rồi tôi không làm điều này cho bọn nó “… Bạn bè còn đó anh nhớ không anh, người tình còn đây anh nhớ không anh. Vườn cỏ còn xanh, mặt trời còn nguyên khi bóng anh như cánh chim chìm xuống. Vùng trời nào đó anh đã bay qua, chỉ còn lại đây những sóng bao la, người tình rồi quên, bạn bè rồi xa. Theo tháng năm. Những dấu chân rồi cũng bụi mờ…” [i] Bích ơi. Thuật ơi. Bạn bè rồi xa, tất nhiên rồi, nhưng không có nghĩa là không nhớ. Hai ly café đã nguội như có người đang uống, điếu thuốc đang tàn như có người đang hút và khóe mắt cay cay như có người đang khóc. Tiếng hát bổng ngưng bặt, tôi quay lại, ông thầy cũ, chủ quán, tắt máy, chạy băng sang bản nhạc khác, rồi ông đến bên tôi:
            - Em có biết một ngày tôi chứng kiến cái cảnh này bao nhiêu lần không ? Ít nhất là hai. Nhưng hôm nay em làm cú đúp.
            - Phải thế thôi thầy ạ. Ngoài việc làm này, tụi em không biết phải làm gì cho bạn bè mình, Những thằng còn sống gặp nhau là nhậu tối trời. Nhậu bất cần sống chết. Những thằng đã chết thì chỉ thế thôi. Tôi nói lớn. Chỉ thế thôi
            Ông tròn mắt nhìn tôi :
            - Tôi hiểu tấm lòng của em. Tôi tắt bản nhạc ấy là vì thái độ duy nhất mà tôi có thể làm để biểu lộ tình cảm của mình đối những người như em. Thế thôi. Em bình tỉnh lại. Người chết thì đã yên, nhưng người sống thì nghìn trùng khó khăn. Em hiểu không, học trò của tôi ?
            Tôi nhìn ông, ông thầy là sĩ quan biệt phái Bộ Giáo Dục. Ông sống vừa phải, chừng mực đi ngược lại phong thái và tuổi tác của mình. Bọn chúng tôi đối với ông là không thích lắm mà cũng không dám giở trò, nghĩa là phải chừng mực như ông đã chừng mực. Dù rằng vợ ông là bạn đồng học cùng lứa với chúng tôi. Và không biết vì lý do gì mà cái bọn học trò nghịch ngợm chúng tôi lại gắn cho ông cái hỗn danh “Phún Xuất Thạch“ (dung nham trào ra từ miệng núi lửa rồi nguội lại thành đá) ngồi với ông một lát rồi tôi về. Nắng chiều vàng rực cửa biển, tôi đạp xe chầm chậm qua cầu Nguyễn Trung Trực. Gió biển lồng lộng thổi vào, không khí mặn mòi mùi biển cả, hăng hắc mùi cá khô. Cái không khí này làm sao mà tôi quên được. Chính nó  và những hàng me xanh trong cái thị xã nhỏ bé này nuôi chúng tôi lớn lên mà. Tiếng hát Khánh Ly đuổi theo tôi về đến tận nhà.

Tôi đọc cuốn Huấn Thị Điều Hành. Những gì tôi nhận được ở đây làm cho tôi thấy phấn kích. Mình đã được đẩy vào nơi mình muốn rồi. Thôi thì tha hồ. Tôi tự nhủ phải cố gắng hết sức. Và để tự trang bị cho mình một khả năng. Tôi lấy giấy bút ra viết một bức thư cho thằng bạn đang học Luật với yêu cầu gởi cho tôi tất cả tài liệu học tập mà nó có, và trong những ngày sắp tới nó có nhiệm vụ khi lấy cua là lấy cho cả hai. Mọi chi phí, tôi gởi mandate lên sau.
            Ngày hôm sau, tôi cuốc bộ ra BCH trình diện chỉ huy trưởng. Vừa bước vào cổng, mọi người, quen cũng như lạ, trố mắt nhìn ông thượng sĩ mới cáu trẻ măng. Cần nói thêm, tôi là một hạ sĩ quan mang lon thượng sĩ trẻ nhất của ngành. Khi vào trình diện chỉ huy trưởng. Ông đọc xong tất cả giấy tờ của tôi trình lên, sau đó là nhìn tôi từ đầu đến chân, rồi nói:
- Tôi có nhận được công điện từ BTL. Nhưng cái đống giấy tờ mà chú đưa cho tôi quả tình là trong suốt cuộc đời lính tôi chưa gặp bao giờ.
- Dạ thưa trung tá tôi cũng không biết nữa ?
- Có thật là chú không biết? Ông đưa mắt dò xét nhìn tôi.
- Dạ đúng là tôi không biết thật, thưa trung tá.
- Thôi không biết thì không biết. Thôi chú đến phòng Quản Trị Nhân Viên làm thủ tục nhận nhiệm vụ mới, nhưng tôi cho chú hay, nhiệm vụ này không nhẹ nhàng đâu? Nhưng tôi nhắc chú, trong cái đống giấy tờ này có một cái lệnh cấm chú mặc cảnh phục. Vậy mà chú đang khoe với tôi cái lon Thượng sĩ với cái bộ mặt bún ra sữa. Đây là lần đầu tiên tôi thấy cái lệnh này.
- Vâng thưa trung tá. Từ đây về sau em không m8a5c cành phục và mang lon nữa. Xin phép trung tá.
Tôi đứng nghiêm chào ông rồi lui ra, vừa ra khỏi cửa tôi gặp ngay chú sáu Hưng, ông lôi tôi xuống canteen và bắt đầu truy tôi. Cũng may canteen giờ này vắng hoe. Tôi có thể yên tâm kể hết mọi việc cho ông nghe. Nghe xong ông nín thinh một hồi rất lâu, cuối cùng rồi ông cũng nói :
- Nhiệm vụ của mày phức tạp đây. Đây cũng là cái may rất lớn cho mày. Theo tao là mày thoát chết trong đường tơ kẻ tóc đấy. Những bài báo của mày, dù báo đã bị tịch thu, nhưng bên tụi tao vẫn có để đọc. Đến khi biết tác giả là mày, tao có đọc kỹ lại thì tao xanh mặt. Theo tao nhận định, những gì mày viết đụng chạm rất lớn. Mày khui ra một vấn đề mà ai cũng thấy, nhưng chẳng ai dám chạm vào. Cái may của mày, là mày chỉ là một thằng tép riu. Cái may thứ hai của mày, là mày có ai đó giúp đỡ. Nếu không? Mày tiêu. Tao đã nhận được chỉ thị phối hợp với an ninh cảnh lực điều tra về những hành vi chính trị của mày. Tao đâm nghi, nhưng cũng không ngờ là nó to chuyện đến thế.
Tôi chợt nhớ đến câu nói của anh Thanh là “từ đây về sau chú chỉ có viết thư tình“ Tôi nói điều này cho chú Sáu nghe. Ông mím môi một lát :
            - Đúng, đúng rồi. Từ đây về sau mày không được dính dáng bất cứ điều gì với báo chí kể cả giao du với mấy thằng phóng viên. Ở đây có mấy thằng phóng viên đều là dân theo đóm ăn tàn, mày ráng mà liệu hồn. Mày thuộc dạng nói dóc nghe chơi. Bọn chó đẻ đó nói dóc ăn tiền, hai thứ này không thể chơi với nhau.
            Bổng dưng tôi có cảm tưởng từ đây tôi sẽ trở thành một kẻ tật nguyền vừa câm, vừa đui, mà muốn vậy thì phải điếc. Thế thì tôi là cái gì trong cuộc sống này, một cái cây chăng? Một cái cây còn có quyền reo với gió mà.
            - Mày nghĩ cái gì đó. Chú sáu lên tiếng. Bây giờ không phải là lúc mày suy nghĩ vẩn vơ, mà hãy bắt tay vào công việc một cách cẩn thận. Mày nhớ, hồi mày còn học tiểu học không, cái vụ cảnh sát Mỹ đó. Mày chỉ có thể làm cái chuyện đó, nhưng cẩn thận hơn gấp một ngàn lần hoặc hơn nữa cháu ạ. Anh chị tư, tao và cả mọi người không ai muốn mất mày. Hiểu không, con ngựa non háu đá. Hãy mãi mãi là một thằng tép riu đi chú nhóc ạ.
            Tôi cười mà cái miệng méo xẹo, mãi một lúc sau tôi mới nói gần như năn nỉ chú sáu:
            - Cái việc này chú đừng nói với ai nghe chú, nhất là với ba mẹ cháu, dù gì nó cũng đã qua rồi.
- Ôkê. Chỉ có tao với mày
Chú cháu tôi rời khỏi canteen. Một vài thằng rủ rửa lon. Tôi cười đi thẳng, ngang qua phòng Phát Ngân Kế Toán, có ai đó kêu tôi. Quay lại thì gặp tay phát ngân viên đại đội, hắn nhìn tôi cười:
- Ô chào thượng sĩ. Mời thượng sĩ lãnh lương cho, để vài hôm nữa em đánh bài thua hết đấy.
Tôi chợt nhớ mình còn một tháng lương chưa lãnh, thế là lãnh lương. Có thể nói đây là lần đầu tiên, trong đời lính của tôi, tới kỳ lãnh lương mà tôi còn tiền. Vừa làm thủ tục lãnh lương tôi hỏi nó về thang lương cấp bậc mới và cách thức làm hồ sơ tăng lương. Nhét cọc tiền vào túi, tôi đảo qua các phòng ban có người quen để tào lao thiên địa. Gần tới giờ tan sở, tôi ra cổng tìm người quen có giang về. Chắc là phải mua chiếc xe đạp.
Ngày hôm sau, tôi mặc bộ đồ mới may vào phòng quản trị nhân viên, nhận nhiệm vụ mới, trưởng ban Kế Hoạch Phòng Hành Quân kiêm nhiệm tổng thư ký ủy ban Bài Trừ Tham Nhũng Và Tệ Đoan Xã Hội Tỉnh. Ôi. hai cái chức vụ đọc lên nghe muốn nổ cái lỗ tai. Anh trưởng ban nhân viên dẫn tôi qua phòng Hành Quân giới thiệu với đại úy Chủ Sự Phòng và các trưởng ban khác. Sau khi bàn giao, đại úy Nhật, Chủ Sự Phòng mời cả phòng xuống canteen uống café. Ở đây đại úy CSP nói sơ qua về nhiệm vụ mới của tôi và người đồng nhiệm vừa bàn giao nhiệm vụ sẽ phải ở lại đây vài ngày để giúp tôi quen việc sau đó mới trở về đơn vị mới.
Thế là, cuộc đời tôi qua cua, một cú qua cua ly kỳ không giống ai của một viên chức tép riu. Buổi chiều là một lô thủ tục cá nhân. Nào là hồ sơ tăng lương theo cấp bậc mới, phụ cấp chức vụ, ký nhận tiền may cảnh phục mới (chỉ để may thường phục), làm thủ tục hoàn trả vũ khí quân trang quân dụng cho đơn vị cũ, nhận vũ khí của đơn vị mới, một khẩu Smit Wesson P.38 Kể ra cái lon thượng sĩ cũng hay hay. Lắm người ngờ vực, nhiều kẻ không tin. Cả BCH xì xào, mấy em Cảnh Sát nữ thì thầm nhận xét. Một thiếu úy mới ra trường không phải là chuyện lạ, nhưng một thượng sĩ mặt còn bún ra sữa như tôi thì quả là hơi kỳ. Ngần ấy thứ đang diễn ra chung quanh tôi. Nhưng không ai biết trong lòng tôi có một thứ cảm giác là lạ. Tôi bổng dưng nhớ lại khái niệm hiệp sĩ mà một huấn luyện viên giao tế của trung tâm huấn luyện CSQG Rạch Dừa[ii] nói với chúng tôi. Một khái niệm nghe rất buồn cười nhưng hoàn toàn không sai với vai trò của người Cảnh Sát chân chính. Cứu khổn phò nguy, luôn luôn quên thân mình đấu tranh cho công lý. Ghê thật! Một thằng nhóc con như tôi cảm thấy mình lớn lên với cái lon thượng sĩ trên vai và trong giây phút ấy tôi quên mất tiêu một điều cực kỳ thực tế. Tôi không là cái gì cả.
Tôi thích nghi một cách nhanh chóng công việc mới. Ngoài ra, nhờ cái tài vặt của tôi mà sau một tháng. Tất cả các biểu đồ và chart thuyết trình của BCH được thay mới, đẹp hơn, tinh tươm hơn. Tôi nhận được sự ưu ái nhiều hơn của các cấp chỉ huy. Nhờ đó công việc chính của tôi gặp nhiều thuận lợi hơn. Nhưng cái cản trở lớn nhất của tôi chính là cái lon thượng sĩ và mấy cái lệnh phạt không ghi rõ lý do và kỳ cục. Phòng An Ninh Cảnh Lực[iii] luôn luôn đặt dấu hỏi về tôi. Không phải tôi không biết điều này, nhưng cái bản tính “mọi việc rồi sẽ qua“ đã giúp cho tôi vô tư. Tôi cứ nghĩ là mình chẳng có gì, nhưng tôi quên là ba tôi từng là một cán bộ Việt Minh. Quan hệ giữa tôi và đại úy Nhật càng ngày càng tốt hơn. Thỉnh thoảng anh Văn có viết thư cho tôi với tư cách cá nhân, hỏi thăm về việc này việc khác. Nhưng tôi biết có những điều được viết trong thư là lệnh và tôi thi hành khá nghiêm túc và hiệu quả khá cao. Lúc đó Bộ Nội Vụ có phát động một loạt các chiến dịch Vì Dân nhằm mục đích xóa đi các ổ mãi dâm, buôn lậu, mua bán và sử dụng ma túy. Đơn vị chịu trách nhiệm chính trong chiến dịch này là UBBTTN&TĐXH. Tôi là tổng thư ký, nên tất cả mọi việc đều đổ lên đầu tôi, thế là đi ngày, đi đêm. Hết loăng quăng nơi này, nơi khác, thì về ngồi tại văn phòng lên kế hoạch nọ, kế hoạch kia. Hai tay nhân viên dưới quyền chạy theo tôi càng ngày càng hốc hác. Tiếng tăm càng ngày càng nổi và tôi mang thêm một hỗn danh rất ấn tượng Cò Gòm. Nhưng hầu hết mọi người chỉ biết tiếng ấy thôi chứ chẳng ai biết mặt mũi của Cò Gòm.
Một hôm, đang ngồi tại văn phòng, tay trực điện thoại xuống báo tôi có thư bảo đảm. Tôi lên phòng trực ký nhận thư. Nhìn tên người gởi, lạ hoắc. Về văn phòng mở thư ra xem mới biết là thư của anh Văn. Trong thư anh bảo tôi xem lại mục tiêu chấm định số 5RG. Đồng thời lên kế hoạch xóa mục tiêu và báo cho biết ngày hôm sau tôi chờ nhận bưu phẩm. Tôi thực sự chới với, vì đây là một mục tiêu buôn lậu tầm cỡ. Những thông tin tôi nhận được khá đầy đủ để lên kế hoạch, Nhưng cũng chính vì lẽ đó làm tôi chần chừ. Và anh Văn không hài lòng. Thế là tôi lên gặp trung tá CHT trình bày mọi việc. Ông tỏ vẻ trầm ngâm và cuối cùng ông nói với tôi:
- Chú lên kế hoạch và chỉ một mình chú và tôi biết việc này. Mọi thủ tục pháp lý của cuộc hành quân và bản kế hoạch. Chú trình báo cho tôi lúc 17 giờ ngày mai.
Tối đêm đó, tôi lên kế hoạch. Cái khó nhất của tôi là việc huy động lực lượng và chuẩn bị đầy đủ về mặt pháp lý cho kế hoạch. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu, có lẽ phải nhờ đến mấy tay nhà báo nói láo ăn tiền một chút mới được. Thế là bảng kế hoạch khá hoàn chỉnh, chỉ cần chờ xem cái bưu phẩm kia.
Đúng ngày hôm sau tôi nhận được bưu phẩm, nhưng lại do một người mang tay đến. Bên trong là một tấm bản đồ ghi rõ tất cả mọi chi tiết cần thiết. Tôi so lại với những thông tin mà tôi có. Nội ngày hôm đó tôi hoàn thành bảng kế hoạch chi tiết. Bây giờ phải đánh máy sạch lại và chờ xem ý kiến của CHT. Thế là lại một ngày tất bật, một mình tôi phải tự tay làm tất cả mọi văn bản.
Đúng giờ tôi lên gặp chỉ huy trưởng, sau khi nghe tôi trình bày mọi chi tiết, ông cho tôi ra về. Sáng hôm sau khi vừa ra tới BCH. CHT cho người gọi tôi. Vừa bước vào ông đưa lại tôi toàn bộ hồ sơ và nói ngay với tôi:
- Chú hãy chuẩn bị tất cả cho tôi trước chín giờ để tôi ký. Sau đó tôi không có mặt ở BCH cho đến khi nào chấm dứt chiến dịch. Tất cả mọi việc chú chịu trách nhiệm thực hiện nhân danh tôi. Tất cả các chỉ thị của chú đưa là “Lệnh trung tá CHT “ rõ chưa. Tôi ký khống cho chú năm văn bản. Nhớ sử dụng cẩn thận, mọi sai sót chú chịu trách nhiệm
Tôi lui ra và trở về văn phòng, kiểm tra lại mọi thứ. Xong tự tay mang lên văn phòng CHT. Mọi việc được giải quyết nhanh chóng. Khi tôi ôm cái chemi trên tay. Ông nói với tôi:
- Chú cẩn thận. Thật cẩn thận, nhất là bản thân chú. Chú không được công khai xuất hiện bất cứ nơi nào. Tôi ra lệnh cho phòng truyền tin đặt cho chú một máy truyền tin tại văn phòng của chú. Nghe rõ.
- Rõ. Thưa trung tá
Tôi bước ra, trong lòng cảm thấy cồn cào. Lại thêm một sự sắp xếp nữa. Tôi kêu Ân, tay phụ tá của tôi, bảo Ân mang các phong bì được niêm kín và gắn xi, gởi đi ở các nơi cần gởi. Tôi ra phòng trực, bốc điện thoại gọi cho chú sáu Hưng và xin gặp chú vào buổi trưa ở quán ông Hai Khương. Rồi tôi qua ngân hàng Việt Nam Thương Tín, rút trong trương mục mang tên tôi một ít tiền. Sau đó về văn phòng ngồi tán dóc với mấy tay trưởng ban chờ gặp chú Sáu.
Tôi đến thì chú Sáu ngồi đó tự bao giờ. Ông nghiêng đầu nhìn tôi :
            - Có gì không mậy ?
            - Làm vài chai đi chú, rồi cháu trình bày cho chú sau.
            Tôi gọi thức ăn và bia, trong lúc chờ đợi chú hỏi tôi:
            - Công việc của mày ra làm sao rồi.
            - Căng thẳng quá chú ơi, cháu sắp đánh một trận lớn. Định nhờ chú giúp đây.
            - Chuyện gì mà dính tới tao
            Tôi đưa bảng kế hoạch cho chú. Ông đọc một hồi rồi nói:
            - Mục tiêu của bản kế hoạch này là gì? Mày huy động một lực lượng lớn như thế này để làm cái gì? Mà tại sao lại cần sự có mặt của báo chí và đại diện các văn phòng nghị sĩ, dân biểu.
Tôi nói sơ lược cho ông nghe, và yêu cầu của tôi là nhờ chú giúp cho về mặt báo chí. Ông có vẻ trầm ngâm, một lát sau ông nói:
            - Kể ra vụ này hóc đây. Mày xuất hiện với tư cách gì. Với tư cách Chỉ Huy Hành Quân à?
             - Không.Với tư cách một nhân viên bình thường, nhưng người chỉ huy hành quân là một Sĩ quan đang ngồi chơi xơi nước.
             - Mày khá đấy. Nhưng phải thật cẩn thận. Được cái vụ báo bọng đó để tao lo.
             Tôi như nhẹ gánh, móc đưa cho chú sáu mười ngàn. Ông trợn mắt nhìn tôi:
             - Cái gì đây ?
              - Chi phí hành quân đấy. Không phải là tiền của cháu
              Ông cười cười nhìn tôi. Thế là mọi cái đã xong. Nhìn dáng ông nghiêng nghiêng dắt chiếc Honda dame, một cảm giác xốn xang nổi lên trong lòng. Chú nguyên là bí thư Huyện Đoàn thời chín năm. Không biết vì lý do gì mà sau ngày ký kết Hiệp Định Genève ông lại gia nhập lực lượng CSQG. Ở cương vị ông ai cũng nhà cao cửa rộng. Còn ông thì như thế đấy, sống chỉ với đồng lương và quay quắt với đôi bờ tình cảm, các đồng chí một thời của ông bây giờ tan đàn xẻ nghé, khi gặp lại nhau dù trong tình huống nào cũng làm ông chới với. Ông không thể như ba tôi vì không quen cực nhọc. Ông không thể về với các đồng chí của mình phía bên kia bờ sông Cái Lớn vì lý lịch. Nhưng cái chủ yếu là ông biết quá nhiều. Ông ở phía bên này vì vợ con. Cả hai bên đều buộc ông phải vứt bỏ một cái gì đó mà ông không thể. Ông đang đánh đu với số phận mình.
Giờ G đến. Đúng theo kế hoạch của tôi mọi việc đều suông sẽ cho đến khi bị bắn trả và một nhân viên cảnh sát bị thương. Nhưng cuối cùng, chúng tôi cũng đạt được mục đích. Ba chiếc ghe chài đầy ắp hàng hóa. Đến khi kiểm tra khối hàng hóa thu được cũng như xác định được thành phần của những tên áp tải thì tôi thực sự bị sốc. Lúc này tôi không quan tâm đến cái vai trò của báo chí và các văn phòng dân biểu, mà bảo Ân cập nhật từng giờ mọi kết quả kiểm kê. Trong lúc tôi đang tìm cách nào đó để liên lạc với anh Văn thì phòng trực vào báo có người xin gặp. Tôi bước ra phòng khách thì gặp anh Nam, người mấy bận đưa đón tôi ở Sài Gòn. Anh đến bắt tay tôi và rủ đi uống café. Tới nơi, anh nói ngay:
- Anh Văn đã nhận được khá đầy đủ những thông tin về việc này. Thượng sĩ không phải lo về việc xin chỉ thị của anh Văn. Hãy báo cáo trực tiếp kết quả chiến dịch đúng theo những gì đã thu được cho anh ấy bằng miệng, thông qua tôi. Mọi hành động của mục tiêu, Sài Gòn sẽ theo dõi chặt chẽ. Nếu có áp lực nào đó tác động vào Thượng sĩ, hãy thông báo cho tôi ở khách sạn Hải Thiên. Chiến dịch vẫn chưa kết thúc. Thượng sĩ liên lạc với tôi mỗi ngày hai lần vào cuối giờ làm việc.
Anh uống vội một hớp café rồi kêu tính tiền. Và anh rời quán, tôi không nói được một tiếng. Còn lại một mình, tôi ngồi bất động và không biết mình phải làm gì tiếp theo. Những chỉ thị của anh Nam ẩn chứa bên trong rất nhiều điều mà một thằng như tôi không nên biết rõ ngọn nguồn. Tôi đã bị đẩy vào một môi trường còn khắc nghiệt hơn cú vượt sông Cái Lớn ngày nào. Ở những hoàn cảnh như vậy chỉ có hai điều sống hay chết, rất dứt khoát, rất rạch ròi. Còn bây giờ muốn cười, cười không nổi; muốn buồn, buồn không được. Tôi thực sự thành một khúc gỗ rồi sao? Anh Văn. Anh Thanh. Hai ông tướng chơi tôi như đùa con chốt qua sông? Tôi là một thằng nhóc con vô danh tiểu tốt mà.
              Tôi vào văn phòng, ngồi chờ hai phụ tá của tôi ở phòng Hành Quân và ban thư ký UB hoàn thành hồ sơ tổng kết nội vụ. Đúng như CHT nói, chỉ một mình tôi. Một mình tôi đảm đương một công việc vượt quá sức mình. Tôi phải thật dè dặt khi cung cấp thông tin cho những nơi cần và cả những nơi không cần. Gặp được anh Nam, tôi yên tâm một phần. Tôi biết sau lưng tôi có một cái lực nào đó. Tôi không một mình, nhưng những ai đứng về phía tôi thì chỉ có họ mới biết, chớ tôi thì không. Tất cả các Sĩ Quan phụ trách các bộ phận liên quan đến vụ này hình như đều vắng mặt.
               Ân trao cho tôi toàn bộ các biên bản kiểm kê, Tôi không đọc được chữ nào, kêu Ân đi photocopy, và dặn thu hết những bản photo không đủ chất lượng. Bảo ban Thư ký UB làm báo cáo tổng kết và gởi các nơi có liên quan, bảo Ân làm công điện báo cáo tổng kết gởi BCH Khu 4, làm công văn trình văn phòng tỉnh trưởng.
Tôi nói như cái máy, khi Ân đưa tôi bản thảo công điện, tôi liếc qua và cho đánh máy. Tôi ngã người lên thành ghế thở hắt ra. Hết mẹ nó một ngày với đống giấy tờ chết tiệt. Nếu không có anh Nam, tôi không biết phải liên lạc với anh Văn ra làm sao? Năm văn bản ký khống còn nguyên không sử dụng một cái nào. Tôi tự tay mang trả lại văn phòng Chỉ Huy Trưởng.
Ngày hôm sau, tất cả báo chí thi nhau đưa tin với những tít rất ấn tượng, kèm theo đó là những bài viết, hình ảnh giựt gân. Cả bộ chỉ huy gần như cắm đầu vào những tờ báo. Cầm tờ báo trên tay, tôi chợt nhớ những lời chú Sáu. Đúng là nhà báo nói láo ăn tiền. Không hiểu tại sao khi họ xin thông tin, chúng tôi cung cấp khá đầy đủ và trung thực đến từng con số lẻ, ấy vậy mà họ nỡ lòng nào thêm vào bớt đi một cách khá khó hiểu, như vậy để làm gì? Tất nhiên là họ thì hiểu mà tôi thì không? Thôi đành nghe lời anh Thanh vậy, từ đây chỉ viết thư tình. Thôi. Mọi việc đã qua rồi. Nhưng Ân đến, để xấp công điện lên bàn,tôi bảo:
- Sao không mang qua phòng truyền tin ?
- Thì ông xem đi.
Lật cái chemi, tôi tái mặt. chỉ huy phó không ký mà phê vào “ P.HQ mang toàn bộ h/s vụ này gặp tôi và làm lại b/c theo chỉ thị của tôi “. Một mũi tên chỉ vào các hàng số được sửa chữa chi chít và tách từng mảng nhỏ tang vật rồi ghép vào cho từng người bị bắt. À thì ra là vậy, chuyện phải tới đã tới, nếu báo cáo theo hướng này, thì chỉ cần họp Ban Thanh Lọc giải quyết là xong, nghĩa là xét phạt, rồi thả người trả lại hàng. Tôi đưa tay xem đồng hồ 10 giờ 30, cái đồng hồ cứu tôi. Tôi có hai tiếng rưỡi hành động. Tôi bảo Ân đưa toàn bộ hồ sơ cho tôi, rồi nói:
- Mày xuống canteen kêu dùm tao một ly café đá, một gói thuốc, chút nữa về ngang nhà nói với vợ tao, tao không ăn cơm trưa. À. Thiếu tá có bảo bao giờ tao lên không ?
- Làm lại xong báo cáo mang lên luôn.
- Được trưa nay tao ở lại.
Tôi đút toàn bộ vào tủ khóa lại. Rồi ra phòng trực gọi điện gặp anh Nam, nói anh chờ tôi đến đi ăn cơm. Tôi trở vào ngồi uống cà phê làm lại báo cáo theo lệnh chỉ huy phó, làm rất nhanh, rất đúng theo chỉ thị. Tôi viết cố gắng cho tương đối tinh tươm, nếu phải xoá thì xóa còn đọc được. Khi hết giờ làm việc thì bản báo cáo đã xong những phần chính, mọi người ra về hết. Tôi lôi tập hồ sơ chọn những bản sao để lên bàn, bên trên là bản thảo báo mới, lấy thanh gỗ dằn lên. Phần bản chính bỏ vào tủ khóa lại. Lấy cái công điện có bút phê để vào chemi cuốn lại, nhét vào ngực áo đi gặp anh Nam. Phải đề phòng thôi. Lúc này không tin ai được
Ngang tiệm photocopy, tôi chụp một bản và đến nơi hẹn. Anh Nam đang chờ tôi :
- Chú không hẹn tôi cũng tìm chú, nhưng thôi vào việc đi.
Tôi đưa anh bản photo, anh liếc qua rồi cất vào túi:
- Thôi ăn cơm
Chúng tôi vừa ăn, vừa tào lao thiên địa đủ chuyên dưới đất trên trời, chợt anh hỏi tôi :
- Nhắm xe Honda chạy về SàiGòn bao giờ tới, nếu khởi hành lúc 1 giờ.
- Ít nhất là 6 tiếng nếu chạy giỏi.
Anh có vẽ trầm ngâm :
- Thôi được anh có cách, tối nay anh Văn nhận được. Bởi vì nếu chậm, thì chú sẽ gặp khó khăn. Thôi anh đi. Chú trả tiền dùm.
Tôi trở về BCH làm nốt lại phần báo cáo, đến giờ làm việc, tôi bảo Ân đánh máy, rồi kèm theo tất cả hồ sơ theo lệnh của thiếu tá chỉ huy phó. Ân mang lên, tôi ngồi chờ. Bổng Ân khều tôi nói nhỏ:
-  Tôi mới thấy đại úy CSP vào canteen.
 Tôi tức tốc bước qua. Thấy tôi ông cười khà khà chỉ ghế cho tôi ngồi, rồi nói :
            - Chà, anh cực dữ hả ?
- Không cực gì lắm, nhưng mệt quá đại úy, đối phó với mấy cha Việt Cộng coi bộ dễ dàng hơn là với chiến hữu của mình.
- C’est la vie. Ông buông một câu tiếng Tây kèm theo một thoáng buồn. Anh phải chấp nhận thôi nếu muốn tồn tại, dù rằng một sự tồn tại vô lý. Mấy ngày nay tôi nằm trên Nhà Bè. Nghe thằng De báo cáo tình hình, tôi lo cho anh quá sức, nhưng cuộc sống mà, tôi biết anh không đơn độc. Tôi là cấp chỉ huy trực tiếp của anh mà trong vụ này tôi bị có cảm tưởng như mình là một tên đào nhiệm, nhưng thôi… không nói nữa.
            Ân xuất hiện:
            - Chào đại úy. Rồi quay sang tôi. Thượng sĩ. Thiếu tá gọi.
            Tôi đứng dậy lên văn phòng chỉ huy phó. Vừa xô cửa vào chưa kịp chào thì nhận ngay tức khắc trận lôi đình :
            - Thượng sĩ làm ăn cái kiểu gì? Một mình một chợ, múa gậy vườn hoang phải không?
            Tôi đứng như trời trồng chẳng hiểu gì hết. Ông quăng xấp công điện, bảo :
            - Thượng sĩ xem đi. Thượng sĩ là cái con gì ở BCH này hả? Nói cho tôi nghe ?
            Tôi lấy xấp công điện và thấy cái phần cuối có một câu bị đóng khung “ BCH chúng tôi đang kết hợp với các cơ quan chức năng làm thủ tục truy tố ra tòa. Chấm hết “. Và một câu viết bằng bút bi với nét bút biểu lộ sự giận dữ tột cùng “cái gì, cái này là cái gì? “. Tôi biết biết mình đang gặp bão, vừa định trình bày thì:
            - Thượng sĩ đưa ai ra tòa, tôi hay ai? Tự động tổ chức hành quân, tự động bắt người, tự động đưa ra toà. Thượng sĩ coi cái BCH này là cái gì, cái thùng rác phải không? Cái lon thượng sĩ bao lớn. Sẽ không có báo cáo nào cả. Sự việc này thượng sĩ gây ra, thì tự giải quyết lấy. Tôi sẽ không ký bất cứ một cái gì hết, ngoại trừ ký sự vụ lệnh đưa thượng sĩ đi Hiếu Lễ[iv].
            Tôi thực sự nổi nóng nhưng cũng thực sự lo sợ, dù chẳng biết là mình sợ cái gì? Tôi cố ghìm lại:
            - Thưa thiếu tá. Cái việc ký hay không ký cái gì đó thì là quyền của thiếu tá. Còn những việc tôi làm là làm đúng. Cái lon thượng sĩ bé tẹo của tôi không là gì cả, bản thân nó chỉ để cho những người như thiếu tá sai vặt, nên thiếu tá nói tôi tự động này, tự động kia là không đúng. Chỉ huy trưởng ký lệnh hành quân. Còn cái việc thiếu tá đưa tôi về Hiếu Lễ nơi mà Việt Cộng nhiều hơn dân ấy à. Tất nhiên, vì Thiếu Tá có cái quyền đó.
            Ông trợn mắt nhìn tôi, mặt đanh lại và đỏ bừng lên, chỉ cần rút khẩu súng ra là sự giận dữ được thể hiện vẹn toàn. Không chờ ông nói thêm, tôi cầm xấp công điện báo cáo đi thẳng. Tôi mang cái bộ mặt xám ngoét về phòng, không hiểu vì sợ hay vì giận, có lẽ cả hai. Quăng xấp công điện lên bàn, tôi đứng tựa mông vào cạnh bàn rút thuốc hút. Ân bước lại nhìn xấp công điện, rồi nhìn tôi nói nhỏ :
            - Ông bị chiếu tướng rồi.
            Không hiểu sao, tôi lại nói cứng:
            - Nhằm mẹ gì, chưa chiếu bí được tao đâu ?
            Ân trợn mắt, le lưỡi nhìn tôi, nín thinh. Không đầy một giờ sau cả BCH ai ai cũng biết chuyện và tôi đi đến đâu cũng như mang ôn dịch tới đó. Chán nản tôi ra quán chú Hai Khương ngồi tì tì uống bia một mình. Tôi chờ ngày mai, anh Nam ở Sài gòn xuống. Bổng đâu Ân chạy vào hớt hãi:
            - Cha nội, vô phòng truyền tin báo cáo miệng cho khu 4. Thiếu tá Chánh Sở đang chờ.
            Tôi nhìn đồng hồ, đã 5giờ30 chiều. Tôi vội vào phòng truyền tin và chờ đợi một cơn bão nữa. Cầm cái máy lên, bấm nút liên hợp :
            - Alô. thượng sĩ Hiền xin nghe.
            - Thiếu tá Phước đây. Sao Kiên Giang chưa báo cáo về vụ ba ghe chài hàng lậu ? Đại tá đang chờ.
            - Xin Thiếu tá vui lòng gọi lại bằng điện thoại. Có một vài rắc rối.
            Phòng truyền tin nằm sát vách văn phòng Chỉ Huy Phó.
            - Rắc rối, rắc rối gì? Ngưng một lát ông tiếp. Thôi được. Hãy ra phòng trực.
            Trên điện thoại tôi trình bày hết tất cả mọi việc và luôn cả kết quả kiểm kê. Thiếu tá Chánh Sở ghi nhận hết mà không có ý kiến gì cũng như không đòi hỏi thêm bất cứ một báo cáo chính thức nào.
            Tôi lại tiếp tục uống bia, một mình, rồi Ân, rồi đại úy Nhật, rồi đại úy Năm, rồi nhiều người nữa… tất cả uống và tào lao không ai nói gì về việc của tôi. Cuối cùng đại úy Năm đưa tôi và cả chiếc xe đạp về nhà bằng chiếc xe Jeep của ông. Tới ngã tư Am Ông Địa, tôi nói với đại úy Năm cho tôi xuống, ông đòi đưa về tới nhà buộc tôi phải giải thích:
            - Ông nội và ba mẹ tôi thấy tôi say rượu đến độ phải có người đưa về là họ buồn lắm, cho là tôi thiếu kềm chế, đại úy cho tôi xuống đây để tôi về một mình hay hơn.
            - Anh coi bộ được đấy. Tôi thèm được như anh. Tôi chẳng có ai rầy la cả.
            Tôi không nói gì, bê chiếc xe đạp xuống chạy về nhà. Cả nhà đã ngủ, như thường lệ vợ tôi vẫn thức chờ. Dắt xe vào nhà, tôi lầm bầm “Tôi bảo đừng có lấy tôi, không chịu nghe, thì bây giờ ráng chịu“. Cô ấy không nói gì. Lại một giấc ngủ vật vã vì say.

            Sáng hôm sau, vừa mới ra khỏi cửa, chú Sáu Hưng ghé lại rủ đi uống café. Đến quán. Chú vừa kêu café vừa hỏi:
            - Tao nghe nói mày có việc gì đó không ổn ?
            Tôi kể cho ông nghe hết mọi việc. Chú trầm ngâm một lát;
            - Nếu mày gan thì làm tất cả mọi cái mà mày cho là đúng. Ngược lại thì tao không có ý kiến. Nhưng cái việc mày thách thức thiếu tá Thảo thì mày nên suy nghĩ lại. Tại sao? Muốn đạt được ý muốn của mình thì sự kềm chế là phương cách tốt nhất trong mọi phương cách. Từ hôm ấy đến nay, tao có suy nghĩ là, mày phải đương đầu với một việc mà cái lon thượng sĩ của mày không là cái thá gì hết. Luật pháp dù rằng có đó, nhưng nó là một cái thứ dễ bị uốn cong mà cũng dễ kéo thẳng nhất trên thế gian này. Hiểu chưa? Chú ngựa non.
            Tôi nhìn ông và tôi hiểu rằng ông là chỗ dựa an toàn nhất cho tôi, dù đơn giản chỉ là những lời khuyên.
            Tôi bước vào cổng BCH thì lúc đó có một chiếc xe du lịch bóng lộn chạy vào sân BCH, tôi không để ý lắm mà đi vào văn phòng của mình. Tôi mở khoá tủ và bắt đầu một ngày làm việc mới. Tay phụ tá cho thiếu tá CHP thò đầu vào:
            - Thượng sĩ Hiền có khách đang chờ ở phòng thiếu tá.
            Tôi hơi ngạc nhiên, khách gì nhỉ, tại sao lại chờ ở nơi ấy. Tôi đứng dậy lên VP/CHP. Vừa bước vào tôi thấy một người đàn bà khoảng bốn muơi, khuôn mặt sắc sảo, ăn mặc và trang điểm đúng phong cách của một mệnh phụ đang ngồi trên salon. Tôi chào chỉ huy phó. Ông nhìn tôi rồi quay sang người đàn bà:
            - Thưa bà. Tôi xin giới thiệu đây là thượng sĩ Hiền, người phụ trách toàn bộ sự việc ba chiếc ghe chài. Quay sang tôi, ông nói :
            - Bà đây ở Sài Gòn xuống muốn gặp thượng sĩ về việc ba chiếc ghe chài. Ông gằn giọng. Thượng sĩ liệu mà trả lời.
            Tôi thấy việc này hình như là lớn hơn tôi tưởng. Tôi quay sang chào bà ấy và nói :
            - Xin chào bà. Tôi là thượng sĩ Hiền. Trưởng ban Kế Hoạch P.HQ. Thưa bà, xin mạn phép cho tôi được biết là tôi được tiếp chuyện với ai ạ ?
            Bà ta nhướn mắt nhìn tôi cất giọng kẻ cả:
            - Cậu không cần phải biết tôi là ai. Tôi hỏi cậu ba câu, cậu trả lời cho ba câu.
            Tôi cảm thấy nổi lo sợ và giận dữ trào lên cùng một lúc. Nhưng hình như sự giận dữ mạnh hơn, tôi cố gắng kềm chế và nói bằng một giọng lịch sự nhất mà mình có thể có :
            - Vâng. Xin bà cứ hỏi ạ. Xin bà hỏi từng câu cho. Thưa bà.
            - Được. Thứ nhất cậu có biết ba ghe chài đó của ai không?
            - Thưa bà của bọn buôn lậu.
- Được, cậu giỏi lắm. Đây câu thứ hai. Cậu giải quyết nó như thế nào?
            - Thưa bà. Đây không phải là thẩm quyền của tôi.
            - Thế tại sao thiếu tá ra lệnh cho cậu, cậu lại không chấp hành?
            Cơn giận lại trào lên một cách mãnh liệt, tôi cố ghìm lại và sự xung đột này làm cho tôi run lên. Giọng nói của tôi lập bập:
            - Thưa… bà. Tôi tôi không trả lời câu hỏi này.
            Mắt bà ta long lên và quay lại gằn giọng với thiếu tá CHP :
            - Vụ này thiếu tá phải giải quyết cho bằng được, nếu không thiếu tá nên từ chức đi, kể cả tên thượng sĩ nhóc con này.
            Thiếu Tá CHP tái mặt. Bổng dưng tôi hiểu ra tất cả. Một thế lực rất lớn đang đè xuống cả BCH vì cái vụ này và mọi người đang tìm cách né nó và để lại cho thiếu tá Thảo và tôi giơ đầu chịu báng, bổng dưng nổi bất bình dành cho ông tiêu tan trong lòng tôi. Tại sao? Nếu cái lon thượng sĩ của tôi nhẹ hều, thì cái lon thiếu tá của ông lại nặng trịch. Và tôi tỏ rõ thái độ đích thực của mình:
            - Xin lỗi bà. Đây là một cơ quan công quyền, chúng tôi là những công chức. Xin bà nói năng cẩn thận. Bà là ai? Tôi không biết và cũng không muốn biết. Chúng tôi nhận lương từ chính phủ, chúng tôi biết chúng tôi phải làm gì, chúng tôi chịu trách nhiệm, cám ơn bà nhắc nhở. Xin chào.
            Bà ta quay phắt lại tôi, quắt mắt, gằn giọng :
            - Được. Thầy trò cậu ráng giữ cái lon của mình.
            Bổng dưng tôi nổi cơn cà khịa, nghiêng mình nói bằng một giọng lịch thiệp đến không ngờ :
            - Một lần nữa xin chân thành cám ơn sự nhắc nhở của bà, chúng tôi xin cố gắng.
            Nói xong tôi bước ra khỏi phòng và không chào một ai, kể cả thiếu tá Thảo. Ra khỏi phòng tôi thấy nhẹ người trước những cặp mắt tròn xoe đang nhìn theo. Về đến phòng tôi ngồi rút thuốc hút, đầu óc nhẹ tênh. Mọi việc rồi sẽ qua thôi. Ân đi đâu dó, một lát sau anh ta về không nói với tôi tiếng nào mà qua rù rì cái gì đó với Hòa hô và Bình chu, hai tay trưởng ban khác của Phòng. Cả hai vừa nghe vừa nhìn tôi bằng một cặp mắt mà tôi chưa thấy bao giờ. Ngồi một mình đâm chán, tôi kêu Ân đến giao việc :
- Bây giờ mày tổng kết truớc báo cáo tháng, sau đó cập nhật mỗi ngày, thứ hai sau cộng lại và báo cáo. Tao đang gặp rắc rối đây, để đến cận ngày làm không kịp. Có ai hỏi nói tao qua UB.BTTĐXH.
Ân nhìn tôi nói nhỏ :
- Ông Hiền, ông là ai vậy ?
            Tôi phì cười :
            - Thượng sĩ Nguyễn văn Hiền.
            Vừa mới tới cửa, phòng trực vào báo có khách. Lại khách. Bước vào phòng khách thấy anh Nam đang nhìn tôi cười cười :
            - Đi uống café.
          - Ừ, đi thì đi. Tôi quay lại dặn nhân viên trực, nếu PHQ có ra tìm nói tôi qua UBBT/TĐXH.
            Anh Nam và tôi vừa đi vừa nói chuyện, anh bảo tôi là anh Văn chuẩn bị cho tôi đi Sài gòn, có thể là ngày mai. Chúng tôi tìm một quán café gần đó ngồi rù rì một lát, trước khi đi anh dặn tôi khi nào đi Sài Gòn phải gặp anh rồi mới đi. Tôi cảm thấy hơi lo lo, tôi hỏi anh là anh xuống đây gần cả tuần mà có ai biết không. Anh cười nhìn tôi không trả lời.
            Công việc bên UB cũng không có gì, tôi ký một số văn bản theo thẩm quyền, một số ký nháy trình lên chủ tịch. Ngồi loay quay một lát. Liên, thư ký của tôi bước vào hỏi:
            - Anh Hiền. trung tá chủ tịch ủy ban hỏi anh có kế hoạch giải quyết số hàng lậu đó chưa?
            - Trung Tá ở đâu ?
            - Em cũng không biết.
            - Số hàng đó không thuộc quyền giải quyết của chúng ta. Thiếu tá Thảo có nói với anh là xé nhỏ nó ra rồi họp ban Thanh Lọc giải quyết. Nhưng thôi khi nào trung tá có đến thì em báo cáo với trung tá như thế hay gọi điện thoại cho anh.
Cái UB này cũng ngộ, nghe nội cái tên không cũng đủ mất vía, nhưng nhân viên thì kiểu râu ông này cặm hàm bà kia. Có bốn nhân viên, tôi nữa là năm, mỗi tháng báo cáo hai lần, thỉnh thoảng viết thư mời họp ban Thanh Lọc. Hết. Bốn nhân viên có thừa thì giờ để học tiếng Anh. Chủ Tịch UB và tôi, tổng thư ký. Thậm chí, cả tuần mới ghé một lần. Không biết trung tá Hiến ghé để làm gì, chớ tôi thì ngoáy mấy chữ, rồi thì tán dóc. Nói tới Trung Tá Hiến. Tội nghiệp ông già, gần giải ngũ rồi, chức thì trọng mà quyền không cao, lính không có một ngoe, lương đủ nhậu. Buồn quá ông đem cái tú tài tây nộp vào đại học Văn Khoa để học văn ta, nghe nói đâu cũng sắp lấy được cái cử nhân rồi. Thỉnh thoảng tôi mời ông đi uống vài chai ở quán cơm gà Văn Xương. Đầu bạc, đầu xanh cụng ly thoải mái. Ông bảo ông thì gan, mà tôi thì liều, người gan phải sợ kẻ liều, trong cơn say chập choạng tôi không nhớ để phân trần. Từ hôm việc ba chiếc ghe chài, tôi không gặp ông. Không biết ông có né hay không, tôi không rõ. Nhưng ông cũng thường nói trâu già không sợ dao phay.
            Tôi trở lại nơi làm việc của mình, lúc đó gần 10 giờ. Đại úy Nhật nhìn tôi mặt mày méo xẹo, đưa cho tôi cái công điện. Tôi cầm lấy đọc, cái công điện ngắn ngủn “ BCH/CSQG.KG.Stop. Cho thượng sĩ Nguyễn văn Hiền về trình diện BTL nội nhật ngày…/…/ 197… Stop. Mọi chậm trễ CHT chịu trách nhiệm Stop Hết”. Bút phê của thiếu tá CHP “P.HQ thi hành-P.QTNV làm công vụ lệnh”. Tôi nhìn Đại Úy Nhật, ông nhìn tôi :
- Cái này là cái gì ?
- Tôi đâu biết. Đại úy.
            Ông với tay lên bàn lấy cái công vụ lệnh đưa cho tôi. Tôi cầm lấy nhét vào bóp, vùa lúc đó Phòng PNKT cho người mang phiếu vản phản cho tôi. Thế là đi Sài Gòn. đại úy Nhật kéo tôi xuống canteen, hình như ông không ghìm được, vừa đi ông vừa nói
            - Anh tiêu rồi. Anh liều quá. Anh biết bà đó không? Vợ của chef lớn đấy.
            - Mọi việc sẽ qua thôi mà đại úy.
            Tới nơi ông bảo tôi :
            - Ở trên đó không phải mọi cái anh đều có thể trình bày. Anh hiểu không? Tôi nói cho anh biết việc này. Đến giờ này, bên điều tra tư pháp chưa có một động thái nào về vụ này. Anh biết tại sao rồi.
            Tôi thực sự có hơi lo dù anh Nam đã báo trước, mà nếu tôi dọt thì đúng ý thiên hạ rồi. Tôi thực sự đang ở trong một vị trí cực kỳ khó khăn. Dĩ nhiên, về mặt luật pháp, tôi không lo, nhưng…
            Từ giã đại úy Nhật, tôi đi mua vé xe đò, rồi về nhà chuẩn bị cho chuyến đi, chợt nhớ là không còn đủ tiền, tôi nhìn đồng hồ đã ba giờ chiều, tôi lại phải ra BCH xin nhận lương sớm, Khi về đến nhà thấy chú sáu Hưng đang ngồi nói chuyện với ba tôi, thấy tôi ông hỏi ngay:
            - Mày lại đi Sài Gòn ?
- Sao chú biết ?
- Mày nổi tiếng lắm rồi. Mày biết không?
- Nổi tiếng kiểu này con không ham.
Ba tôi chen vào :
- Trông cho nó về ở gần nhà để mình bớt lo, ai dè nghe chú nói tôi hết biết.
- Có chuyện gì đâu mà ba lo làm gì cho mệt. Trâu buộc ghét trâu ăn mà ba.
            Chú Sáu lên tiếng :
            - Nhưng mày không ăn, thành ra mới bị ghét nhiều hơn. Mày có lượng định được chuyến đi Sài Gòn này như thế nào chưa ?
            - Chưa. Thưa chú, nhưng theo cháu nghĩ là không đến đỗi nào. Còn thời gian thì không biết, bởi vì trong công điện không nói rõ, Nhưng cái cháu thắc mắc nhất là không rõ nơi cháu trình diện, chỉ ghi chung chung là BTL.
            Ông ngồi ngẫm nghĩ không nói gì, ba tôi tỏ vẻ sốt ruột :
- Chú thấy sao chú Sáu?
- Tôi nghĩ là anh chị Tư đừng nên lo lắng quá. Thực ra thì cái vị trí của nó cũng không đủ sức để thực hiện việc này. Nó chỉ là một người lính phải thực hiện nhiệm vụ nào đó mà cấp trên giao. Không ai có thể bắt bẻ nó. Cái khó của nó chính là vì cái tính thẳng thắn đến ngang bướng. Đã thế mà nó lại lơ mơ, cứ nghĩ ai cũng như nó. Nhưng bù lại nếu cái tính này chọc vào hông của người này thì cũng gieo được cảm tình vào người khác.
            - Tôi cũng mong như vậy
            Ba tôi thở dài, chú Sáu nghiêng đầu nhìn tôi :
            - Mày thông minh, tài hoa hết mực, nhưng bướng bĩnh cũng không ai bằng. Đứng về mặt xã hội thì ai cũng như ai, hơn nhau ở chỗ tài năng và đức độ, điều đó được đi, nhưng trong chốn quan truờng thì Thôi tao không nói mày cũng biết. Thôi. Chú về. Chú đứng dậy chào ba tôi. Khi chú Sáu đi xa hẳn, tôi hỏi ba tôi:
            - Ông nội đi đâu rồi ba. Ông nội hay vụ này chưa ba ?
            - Chưa. May là nội vừa đi nhà bác hai mày thì chú sáu tới. Rồi mai có tiền đi không ?
            - Có. Con lãnh trưóc một tháng lương.
            Ăn cơm chiều xong, tôi tắm rửa rồi xách xe chở vợ tôi đi vòng vòng chơi, cô ấy nhắc chuyện này chuyện kia, rồi vô Dư Âm uống café nghe nhạc. Đối với vợ tôi ít khi nào tôi nói những điều mà các cặp vợ chồng trẻ khác hay nói. Hình như là những lời nói tình tứ văn hoa thì tôi đã sử dụng với ai mất hết rồi, nên với vợ tôi thì tôi hết vốn. Đang ngồi thả hồn theo tiếng nhạc, thì có bàn tay ai đó đặt lên vai, tôi quay lại, thì ra anh Nam:
            - Mời anh, sao anh biết quán này.
            - Tôi có ghé nhà, nghe ở nhà nói chú chở bà xã đi chơi. Còn biết được quán này là em của chú chỉ.
            - Anh uống gì ?
            - Tôi kêu rồi. À mà như vầy. Sáng 6 giờ tôi đến đi với chú.
            - Anh lấy vé chưa? Hồi trưa không nói tôi lấy luôn.
            - Thôi không sao? Sáng tính.
            Chúng tôi uống café, nói chuyện với nhau một lát rồi về. Tôi đưa vợ tôi đi mua trà thuốc và một ít bánh ngọt cho ông nội, ông bà ngoại rồi về. Trên đường về bổng nhiên vợ tôi nói :
            - Em muốn về Sa Đéc thăm ba má.
            Tôi giật mình, lâu lắm rồi tôi không đưa vợ tôi về Sa Đéc, ngẫm nghĩ một lát tôi nói:
            - Ừ chút nữa anh về hỏi nội và ba mẹ.
            Về đến nhà, tôi hỏi nội và ba mẹ tôi. Tôi lựa lời báo cho nội biết là tôi đi công tác ở Sài Gòn và vợ tôi cùng đi về thăm ba má vợ. Ông nội cười cười bảo tôi:
            - Mày còn nhớ đường không ? Đéo quạ con cào nay. Con với rể.
            Ba mẹ tôi thì có vẻ giận dỗi bảo là tôi không chuẩn bị mua món gì đó. Nhưng rồi mọi việc cũng suông sẽ. Hai ông bà sai em tôi đi mua nào khô cá, nước mắm lủ khủ. Tôi đưa tiền cho vợ tôi trả lại cho ba má tôi. Cầm xấp tiền trên tay ba tôi kê liền tức khắc :
            - Anh chị sui ăn miếng nước mắm của thằng rể này thì sống lâu trăm tuổi. Rồi ông quay đưa tiền ấy cho vợ tôi rồi nói:
            - Nè, vợ thằng Hiền, ba cho con đó, về trển mua rượu cho anh sui uống.
            - Thưa ba, ảnh có cho con tiền rồi ạ.
            Ông nội lên tiếng :
- Thôi. Ba con cho, con cứ lấy. Nhưng đi dọc đường không đưa lại cho nó nghe. Ba con nói đúng đấy, uống rượu mà như ba con thì nội chịu đó.
            Vợ tôi nhận lấy tiền rồi ra nhà sau. Ông nội tôi nói :
- Thằng Hiền này. Ông bà già vợ mày hiền lắm y như ông ngoại bà ngoại con vậy. Con liệu mà cư xử. Ba con đối đãi với ông bà ngoại con như thế nào thì con phải ráng làm như thế đó.
            Ba tôi nói tiếp :
            - Mày đó, ráng mà cố gắng bỏ đi cái tính vô tâm. Ông nội dạy thì ráng mà nghe theo. Thôi đi ngủ đi sáng còn đi sớm.
Tôi chẳng biết phải trả lời ra sao, ông nội và ba tôi nói rất đúng. Tôi quả là tên vô tâm. Thấy thì làm hùng hục, không thấy thì quên.

            Mới năm giờ vợ tôi đã thức dậy, lục đà lục đục một hồi rồi lay tôi. Đang ngáy ngủ, tôi xem đồng hồ rồi càu nhàu :
- Xe tới bảy giờ mới chạy làm gì mà gấp thế.
- Anh gì đó nói sáu giờ đến đón anh.
- Ừ. anh quên mất.
Tôi bật ngồi dậy, đi làm vệ sinh cá nhân vừa xong thì anh Nam đến. Tôi ngạc nhiên khi thấy anh đi trên chiếc Jeep sơn trắng mang bảng số tư nhân. Anh vừa bước vào vừa nói :
- Chú chuẩn bị xong chưa? Mình  đi kiếm gì ăn rồi đi.
- Đi xe này hả anh ?
- Ừ.
- Còn ai nữa không anh, cho bà xã em đi tới Sa Đéc. À còn cái vé xe
- Được thôi. Vé xe hả? Bỏ
Chúng tôi chất hành lý lên xe, chào hỏi ông và ba mẹ tôi, rồi lên đường. Tôi hơi lo vì suốt lộ trình từ Rạch Giá, Sài Gòn có những đoạn rất nguy hiểm, dù chiếc xe là xe dân sự, nhưng chính cái kiểu dáng và hiệu xe thì không dân sự chút nào. Bổng dưng tôi đưa tay sờ vào thắt lưng, khẩu P.38 không làm tôi yên tâm hơn. Đường rất xấu, vợ tôi ngồi phía trước và anh Nam lái xe. Anh chạy với một vận tốc nhanh nhất có thể được. Qua khỏi phà Vàm Cống, chúng tôi gặp một đoàn công voa tải quân của sư đoàn 9 có bốn trực thăng Cobra yễm trợ, chúng tôi yên tâm hơn. Nhưng tới ngã tư Cai Bường thì đoàn công voa bị bắn sẻ, thế là mất gần một tiếng đồng hồ. Khi gần tới cầu Simonar, tôi nhìn thấy vợ tôi bụm mặt nôn thốc nôn tháo. Xác một thiếu nữ trần truồng nằm chỏng chơ mà không có đầu, mảnh vãi duy nhất còn trên người là một ống tay áo, có chiếc chiếu có lẽ ai đã đắp cho nhưng gió đã thổi bay đi gần đó. Xe chạy chậm nên tôi nhìn khá rõ, một cảm giác buồn nôn làm nước miếng ứa ra đắng nghét. Anh Nam mặt như tối sầm lại. Tôi chồm lên lấy dầu xức cho vợ tôi. Cũng may là cảnh tượng khủng khiếp ấy hiện ra trước mắt chúng tôi không quá một phút. Nhưng như thế cũng quá đủ.
Anh Nam đang nghiến răng lái chiếc xe chạy ngoằn ngoèo tránh các ổ gà do mấy tay du kích đào phá, đặt mìn cũng có và những đoàn công voa, thiết giáp tàn phá cũng có. Và tôi thì lại nghĩ về những con đường. Ôi con đường không bình yên đang chở chuyên trên mình nó không biết bao nhiêu là bất trắc, tang thương, buồn tủi. Và tôi biết, không phải chỉ con đường này, mà tất cả những nẻo đường trên đất nước tôi, ở cả hai miền Nam Bắc. Những chiếc xe như xe tôi đang chạy có thể nổ tung lên bất cứ lúc nào với những con người ngồi trên đó. Những con đường được hình thành để nối những niềm vui, những tấm lòng như những ước mong của những người làm ra nó. Nhưng bây giờ thì nó như thế đấy. Tôi và bao nhiêu con người nữa, đang dò dẫm giữa hai lẽ tử sinh trên đường với tấm lòng thắc thỏm, âu lo. Cô gái ban nãy cũng thế và cô đã nằm lại trên đường. Con người khi sinh ra vốn trần truồng thánh thiện. Nhưng khi chết thì mang theo biết bao nhiêu là lề thói của cuộc đời. Cô ấy thì không. Đến như thế nào thì về như thế ấy, để lại bao nhiêu tức tưởi cho nhân gian.
Rồi cũng đến Sa Đéc, tôi lái thay cho anh Nam đưa vợ tôi đến nhà dì út của vợ tôi gần BCH CSQG tỉnh rồi tiếp tục lên đường đi Sài Gòn.
Anh Nam gần như phờ phạc hẵn sau cuộc hành trình dù tôi đã lái thay cho anh nhiều đoạn. Tôi thật sự ngạc nhiên khi mà cái nơi tôi phải đến trình diện không phải là VP/BTL mà là anh Văn. Tôi chợt hiểu là anh Văn cho người đón chúng tôi. Khi về phòng, tắm rửa xong xuôi, người ngợm khỏe ra. Tôi tự thưởng cho mình một điếu thuốc. Tôi nhớ lại những gì đã xảy ra chung quanh chuyến đi và tôi không hiểu được bây giờ tôi là ai và vị trí của tôi như thế nào trong cái sơ đồ tổ chức của anh Văn. Đang nằm suy nghĩ lan man thì ông service phòng ăn mang cơm vào, tôi ngạc nhiên hỏi:
            - Chú để cháu qua bên ấy cũng được, thế mắc công quá.
            - Chú em yên tâm. Phòng quản trị dặn như vậy. À tôi nói chú em nghe điều này, bên phòng cũng bảo tôi dặn chú đừng có đi lung tung, muốn ăn uống hay cần gì vào ban đêm thì bấm cái chuông trước cửa phòng.
            - Dạ. Thưa chú
            Ông đặt mâm cơm xuống và tôi thực sự không hiểu gì cả. Nhưng thôi, có ăn thì cứ ăn. Nhưng nuốt làm sao vô, bao nhiêu câu hỏi nhảy tới nhảy lui, tôi ráng nuốt một chén rồi nốc sạch ly trà đá, mang cái chén đôi đủa vào toillette rửa sạch để vào mâm.
            Tôi không phải chờ lâu, hút chưa tàn điếu thuốc thì anh Nam tới với câu hỏi:
            - Sao khỏe rồi phải không ? Mặc quần áo vào anh em mình đi uống nước.
            Chúng tôi qua phòng ăn, lần này thì có khá đông người đang ăn uống, ăn mặc đủ kiểu, sắc phục cảnh sát, cảnh sát dã chiến, quân đội, thường phục… Anh dẫn tôi đến một cái bàn cách khá xa mọi người. Khi gọi xong thức uống, anh nói nhanh :
            - Bây giờ chú trình bày thật chi tiết cho anh nghe vụ ba chiếc ghe chài và nhất là những trở ngại, khó khăn mà chú gặp phải. Anh sẽ trình bày trước với anh Văn.
            Tôi trình bày thật chi tiết theo thứ tự diễn biến của sự việc, kể cả sự nhận xét của mình về những người có liên quan. Nhưng có một việc làm cho tôi thắc mắc mà không thể lý giải là việc một nhân viên cảnh sát, khi tôi vào thăm, anh ta không nói với tôi một câu nào. Anh nghe chăm chú những gì tôi kể, nhưng không tỏ rõ một thái độ nào. Khi tôi dứt lời, Anh nói thật chậm rãi :
            - Tất cả những gì chú trình bày thì anh đều hiểu được khá đầy đủ. Nhưng có hai việc; thứ nhất việc nhân viên cảnh sát bị thương không nói gì với chú thì anh sẽ trở về Rạch Giá tìm hiểu thêm, thứ hai là thái độ của chú đối với bà mệnh phụ đó là hoàn toàn đúng đắn, nhưng cái kiểu cách tỏ rõ thái độ của chú thì hơi… hơi gì nhỉ? Ừ,có thể là hơi trẻ con, nhưng chú có biết bà ta là ai không ?
- Thưa anh. Em nghe đại úy Nhật nói là vợ của một chef lớn
Anh Nam cười :
            - Chú cũng khá rạch ròi đấy. Chưa ai gọi bà ta là vợ ông chef mà gọi là bà chef.
            Tôi phì cười và nổi máu bốc đồng :
            - Thưa anh, vậy thì anh Văn có bà Thiếu Tướng chưa ạ?
            Anh trợn to mắt nhìn tôi :
            - Chà. Chú mày cũng láo nhỉ. Anh ấy chỉ có chuẩn bà xã thôi. Nhưng thôi, bây giờ anh sẽ gỡ hết tất cả mọi dấu hỏi trong đầu chú em. Chú có đọc tiểu thuyết trinh thám không ?
- Có. Thưa anh. Nhưng không thích lắm, vì em thấy nó có cái gì đó không thực. Nếu không muốn nói là nói láo
            Anh cười nhìn tôi :
- Hư cấu chớ
- Không. Hư cấu là cốt chuyện, nhưng diễn tiến sự kiện là nói láo. Tôi cãi.
            - Đúng, Nhưng dù sao nó cũng có một phần sự thật, mà cái sự thật ấy là một sự thật của ngành an ninh tình báo. Còn cái vị trí và nhiệm vụ của anh em chúng ta gian nan hơn gấp bội. Những kẻ mà chúng ta kiên quyết chống lại chính là bạn bè, là đồng sự, là cấp chỉ huy của chúng ta. Sự nguy hiểm của chúng ta nằm ở đó, nổi đau đớn của chúng ta cũng ở đó. Ông Cụ, anh em mình cùng với đang làm một việc làm gần như không thể. Nhưng phải làm. “Không thành công cũng thành nhân “. Nguyễn Thái Học nói thế. Thôi bây giờ trở lại vấn đề. Ba chiếc ghe chài này, về phía chú, chú đã làm xong nhiệm vụ, phần còn lại là của anh. Nhưng để, tạo điều kiện cho chú trong những ngày sắp tới, chú phải ở đây năm ba ngày. Ngày mai chú viết một cái thư về gia đình, nói cho ở nhà biết là chú đi công tác. Còn việc chú xung đột với thiếu tá Thảo thì anh sẽ giải quyết. Nhớ nhé, chú không đơn độc. Công việc thì đã xong. Còn phần chú những ngày ở đây. Chú ra phố giờ nào cũng được nhưng phải trở về phòng trước 8 giờ tối. Khi ra phố không được mang súng, mang theo đầy đủ giấy tờ, tuyệt đối tránh dây dưa với Tuần Cảnh, Quân Cảnh. Ngày mai chú sẽ nhận thẻ nhân viên. Việc ăn uống, giặt giũ, nghỉ ngơi thì có người lo cho chú. Chú không được phép đi lung tung trong khuôn viên ngôi nhà này. Hôm nào thuận tiện anh thu xếp cho chú gặp ông Cụ. À quên còn việc của bà chef thì chú yên tâm, anh sẽ có cách giải quyết riêng. Thế nhé.
            - Thưa anh. Ông Cụ nào ạ?
- Gặp là biết ngay. Thôi chú ăn uống gì thêm cứ kêu. Anh về.
            Anh đứng dậy bắt tay tôi. Còn lại một mình, khi mà mọi thắc mắc đã được giải tỏa phần nào. Tôi cảm thấy đói. Tôi bước lại quầy thì gặp ông service mang cơm lúc nảy. Tôi mời ông lại bàn, rồi hỏi :
            - Thưa chú. Đây là lần thứ hai tôi ghé lại nơi này. Ở đây có một điều tôi hơi thắc mắc, xin chú chỉ cho ạ.
            - Rồi. Chú em cứ hỏi
            - Đây là một quán ăn, một CLB của một đơn vị nào đó hay chỉ… tôi không biết gọi là cái gì? Việc ăn uống, việc tiền bạc và những ai mới được vào đây ăn uống.
            Ông cười :
            - Chú em thắc mắc cũng phải thôi. Hai lần chú đến đây đều đi với anh Văn. Bữa cơm chú em ăn ban nãy cũng theo lệnh anh Văn. Còn cái quán này thì để phục vụ cho những người làm việc ở đây hay những người từ nơi khác trong giờ hành chánh. Ai ăn uống cũng phải trả tiền, kể cả ông Cụ và anh Văn.
            - Vậy thì chú tính tiền cho cháu phần nước uống này và một phần cơm nữa, bởi lúc nãy mệt quá, ăn không được, bây giờ thấy đói.
            Ông cười :
            - Rồi có ngay. À mà chú đúng là lính nhé. Ăn xong chỉ rửa đúng một cái chén, một đôi đủa
            Tôi cười nói với ông :
            - Chẵng lẽ ngồi chơi xơi đủ thứ. Thưa chú.
            Ông vừa quay đi vừa cười :
            - Xơi được thì cứ xơi.
            Không có một bất cứ một cái gì để chứng minh được đây là bữa cơm ban nãy còn lại. Canh chua cá bông lau, cá rô biển kho tiêu, lòng gà xào đậu đủa, cơm gạo trắng tép. Một bữa ăn trên cả tuyệt vời. Không có một lý do gì ngăn cản tôi bỏ mứa.

            Về lại phòng nghỉ, tôi nằm hút thuốc vặt, những mệt mỏi sau chuyến đi dịu dần và cái đầu óc háo sự của tôi lại bắt đần tra tấn tôi. Những giải thích của anh Nam vừa tỏ rõ vừa mơ hồ. Tôi nhận một nhiệm vụ khá rõ ràng. Trong các huấn thị điều hành của P.HQ thì công việc của tôi ngoài các công việc có tính hành chánh ra, thì chủ yếu chỉ là theo dõi, phát hiện các mục tiêu tệ đoan xã hội như: Mãi dâm, ma túy, buôn lậu, du đảng, trộm cắp, cướp giật, đào binh, quân dịch. Soạn thảo các kế hoạch hoạt động tuần tiểu, tổ chức các cuộc hành quân cảnh sát. Khi có kết quả thì họp ban Thanh Lọc để giải quyết như : Mãi dâm, ma túy, du đảng, cướp giật, trộm cắp thì giao cho Cảnh Sát Tư Pháp thụ lý; Buôn lậu thì giao cho Quan Thuế; Đào binh, quân dịch thì giao cho Phòng 1 Tiểu khu. Riêng buôn lậu thì hướng giải quyết có phức tạp hơn. Tuyệt nhiên không có cái vụ tham nhũng trong này. Nhưng trong HTĐH của anh Văn trao cho riêng tôi thì chỉ nói có điều này không thôi. Nhưng mọi cái có vẻ mơ hồ, bởi vì cái chức vụ của tôi nắm giữ, mới trông thì ta bà thế giới nhưng quyền hạn thì không có bao nhiêu, với lại cái cấp bậc bé tẹo, nên tiếng nói nhẹ hều như gió. Nếu có bài trừ tham nhũng thì có chăng tự bản thân đừng tham nhũng là khá lắm rồi. Chắc có lẽ phải nhờ anh Văn giải thích thêm mới được. Còn anh Văn nữa, ở một cương vị như anh ấy mà sự tiếp xúc giữa anh và tôi xem ra không đơn giản. Chưa bao giờ tôi thấy anh đặt cái quan hệ giữa anh và tôi vào đúng vị trí của một ông tướng với thằng hạ sĩ quan quèn. Thế là sao nhỉ? Vị trí nào dành cho tôi? Nếu ai đó nhìn vào thì không bao giờ nghĩ là một ông tướng nói chuyện với một thằng lính? Không hiểu? Vừa dứt được cái này thì những thắc mắc về ông Cụ lại hiện ra. Ông ấy là ai mà anh Văn kính trọng thế. Rồi tôi tức tối cho mình ở Sài Gòn mấy năm mà không biết được ngôi nhà này. Nhưng cũng không đúng. Đây là con đường một chiều, dẫn từ phi trường Tân Sơn Nhất về Sài Gòn. Tôi ở quận 2 đi đâu cũng bằng xe đạp mà con đường này là một trong những con đường quý tộc. Tôi cười thầm với ý tưởng con đường mang tên Công Ly[v] và chạy có một chiều. Thôi ngủ… Nhưng rồi không ngủ được, hình ảnh cô gái mất đầu trần truồng hiện ra. Một hình ảnh chụp vào óc tôi như một ánh chớp và cái đầu nhạy cảm của tôi là một âm bản cực tốt. Bây giờ cô gái hiện ra không còn ghê rợn như tôi tưởng mà là một cái gì đó cái gì đó không biết nữa. Trong tư thế chết của mình. Cô phô bày tất cả cái thân thể không toàn vẹn nhưng đẹp tuyệt vời như một thách thức. Một sự kiêu hãnh thật xứng đáng với những gì mà cô có. Cô nằm đó bất động. Nhưng chính cái bất động nói lên một sự thật làm chát chúa lòng người. Kẻ giết cô và kẻ làm cho cô trần truồng, nếu có, đã tàn sát một linh vật đẹp đẽ của tạo hóa và muốn làm nhục cô. Điều đó đã làm cho những ai nhìn thấy, trong đó có tôi, thực sự rúng động. Một phần vì sợ hãi và thù ghét thái độ dã man. Một phần vì câu hỏi chợt nảy ra trong đầu “tại sao những kẻ làm việc này lại tự phản bội mình bằng một hành động dã man, đốn mạt như thế ?“. Rồi đây cái thân xác tuyệt vời kia đang bắt đầu quá trình thối rữa. Sự thối rữa ấy êm đềm đưa cô về lại nơi mà mình đã ra đi. Nhưng sự thối rữa của tâm hồn người thì đưa họ về đâu? Và tôi nghĩ tâm hồn người cũng là một linh vật tuyệt vời của tạo hóa. Nếu như tâm hồn ấy thối rữa, thì thân xác mà tâm hồn ấy trú ngụ sẽ là cái gì đây?
            Tôi thức dậy giữa những tiếng ồn ào của thành phố đang tỉnh giấc. Nhìn đồng hồ, mới 5 giờ rưỡi sáng. Tôi súc miệng, đánh răng, xong mở tủ lạnh lấy nước uống. Rồi nằm hút thuốc lá vặt, không đi lung tung. Bổng nghe có những tiếng chân đi bên ngoài hành lang, tôi mở cửa nhìn ra, thấy mọi người đi sang phòng ăn. Thế là tôi mặc quần áo rồi bước qua. Phòng ăn đông người hơn tôi tưởng. Tìm một bàn để ngồi, tôi gọi một ly café sữa nóng, vừa uống café vừa hút thuốc đưa mắt nhìn chung quanh, Mọi người ăn uống, nói chuyện với nhau vui vẻ ồn ào. Tôi chẳng quen ai, ngồi một mình đưa cặp mắt nhìn họ mà phát thèm. Trời đày tôi, cái tính luôn luôn phải có cái gì để nói, có nơi nào đó đó để đi, phải có cái gì để nghĩ. Thế mà trong vòng mấy tháng mà bị hai vố này. Chán thật.
- Xin lỗi, anh có phải là thượng sĩ Hiền ở Rạch Giá. Tôi quay lại, một anh chàng đen nhẽm, mập thù lù và lạ hoắc :
- Vâng. Tôi là Hiền. Xin lỗi tôi không biết anh.
            Anh ta cười ngất :
- Anh không biết là phải thôi, chúng ta mới gặp mà. Tôi Trung. Trung béo ở Long An, tác giả vụ còi hụ.
            - À ra vậy. Tôi bị cuốn vào bởi phong thái của anh ta. Chào anh. Tôi Hiền, hỗn danh là Cò Gòm.
            Hai đứa bắt tay nhau cười ngất.Trung béo hồ hởi:
            - Mấy bữa nay nghe nói râm ran về vụ của anh. Hôm qua thấy ngồi với anh Nam, tôi hơi nghi. Bữa nay hỏi ra ngay bóc. Lên làm gì ?
            - Chẳng biết. Tôi đáp cụt ngủn.
            - Tôi cũng thế, lên được ba ngày rồi. Chắc có lẽ họp hành gì đây.
            Tôi hỏi Trung Béo :
- Này Trung béo. Dính vô cái trò nữa úp, nữa mở này này bao lâu rồi?
-  Hơn một năm. Còn Cò Gòm ?
- Mới ba tháng, mệt bỏ mẹ. Biết vậy ở CSDC sướng hơn. Tình hình này, tôi thấy trường hợp của tôi như là đi trốn
            - Theo kinh nghiệm của tôi thì không phải vậy. Tùy theo từng vụ, nếu vụ lớn mà căng thẳng quá thì ông Văn phải dấu lính ổng thôi. Chờ êm thì về, không êm thì đổi. À, Cò Gòm mới hơn ba tháng mà chơi một vố ngon vậy ?
- Ngon cái con khỉ, một mình tả xông hữu đột. Run bỏ mẹ luôn. Chẳng qua là liều mạng.
- Ê. Kiếm ở đâu được cái lon thượng sĩ vậy ?
Tôi kể cho Trung béo nghe về lai lịch cái lon thượng sĩ. Rồi nhảy qua tham gia vào cái trò này. Trung béo cười ha hả, giơ ngón tay cái lên:
- Number one, thế là hôm nay gặp sư phọ rồi. Ê ở phòng nào.
Tôi chỉ phòng cho Trung béo rồi hỏi:
- Nè. Ông cụ là ai vậy.
Hắn nhìn tôi :
- Đâu biết, có nghe ai nói gì đâu ?
  Hai tên đang nói cười rôm rả thì anh Nam bước vào. Thấy một thằng béo, một thằng gòm đang châu đầu vào nhau nổ mát trời ông địa. Anh cười ha hả:
            - Trời đất nào giun rủi cho hai tên này gặp nhau vậy ta. Tụi bây nổ một hồi chắc banh chành cái phòng ăn này. Anh vừa nói vừa kéo ghế ngồi.
            Thế là chuyện nọ xọ chuyện kia. Đủ thứ đầu cua tai nheo, tôi và Trung béo chuyển tông sang mày tao một cách ngon ơ. Anh Nam cũng góp chuyện cũng không kém phần tiếu lâm. Hình như anh quên mất cái lon thiếu tá, chắc tại ít khi mặt quân phục. Chúng tôi là như thế đấy. Dù lạ dù quen luôn luôn cố tìm cách biến những lý do dù nhỏ nhất để khoa trương thành một niềm vui. Dù rằng niềm vui ấy có thật, tiếng cười có thật, nhưng tất cả đều là hư ảo. Chúng tôi biết thế và cũng chính vì biết thế nên chúng tôi càng lúc, càng cố tìm mọi lý cớ để mà vui. Mặc cho cho nó có phải hay là không phải. Xem đồng hồ anh Nam nhắc tôi viết thư và báo cho biết chín giờ anh đến lấy. Trung béo nói:
            - Thế thì, Cò Gòm này, tao đến phòng mày, sau khi thư viết xong, tụi mình ngồi rù rì với nhau chơi. Đợi khi mày giao thư rồi, mình đi một vòng. Mấy hôm trước tao đi chơi với thằng Hà nẫu ở Huế. Hổng biết mấy ngày nay nó đi đâu mất tiêu, không còn quen ai buồn bỏ mẹ.
            - Ê. Trung. Anh Văn cư xử với mày ra sao?
            - Thì cũng như mày thôi. Anh anh, chú chú. Ban đầu tao cũng lấy làm lạ. Nhưng riết rồi quen. Tao không hiểu anh ấy muốn gì ở tụi mình?
            - Tao nói thật với mày, khi tao biết anh ấy là một ông tướng. Tao hết hồn.
            Chúng tôi kéo nhau về phòng, sau khi viết thư xong và giao cho anh Nam. Chúng tôi kéo nhau ra Lê Lợi. Chui tọt vào Hà Nội. Cảnh cũ thì vẫn y nguyên, bạn bè thì tứ tán, cô bé ngồi két ngày nào cũng biến mất. Chắc là anh sinh viên sĩ quan Thủ Đức nào đó dẫn đi rồi. Cô bé mới hơi ngạc nhiên trước hai ông khách có bộ dạng nửa tỉnh, nửa quê của chúng tôi. Gọi thức uống và một bao Capstan cùng với yêu cầu cho nghe Sylvie Vartan hát Les Tempes à L’Amour. Trung béo nhìn tôi nheo nheo mắt :
- Biết tiếng Tây không mà đòi nghe nhạc Pháp vậy?
- Thì phải làm ra vẻ trí thức một chút, không thôi cô bé ấy bảo mình quê(?)
- Tao sợ mày luôn.
            - Ôi . Cái thời sâu bọ làm người này, mà mày dốt muốn làm khôn thì cũng vẫn còn tốt hơn chán vạn thằng rồi. Tội lỗi gì cho cam hả cái thằng Trung béo.
            - Ôkê. Đồng ý.
            Café và thuốc mang ra và có thêm manh giấy “dĩa hát quá cũ, nên hơi rè. Mong các anh thông cảm. Ký tên. Thu hay Thư cũng không rõ “. Tôi rút viết ghi lại “ Bước qua tiệm sách bên kia, mua dĩa mới, tiền tính cho tôi. Ký tên. Hiền “. Chúng tôi uống café và đấu láo, những gì viết trên manh giấy thì đã quên rồi. Bổng tiếng hát ngọt ngào của một thời xa cũ vang lên thì vừa lúc đó cái đĩa hát cũ và manh giấy khi nãy xuất hiện cùng cô bé ngồi két. Chữ Hiền viết bằng bút nỉ mờ mờ trên dĩa hát cũ nằm phía sau chữ Hiền vừa viết bằng bút bi có thêm vào dấu cộng. Tôi nhìn lên với một niềm vui mới mẽ bất chợt. Tôi lấy manh giấy có chữ Hiền xé bỏ dấu cộng và chồng lên chữ Hiền trên đĩa nhạc và nói :
- Phải như thế này mới đúng cô bé ạ. À cô bé tên Thu hay Thư
- Tên em là Thu. Vậy cái dĩa hát này là của
- Vâng của tôi.
- Thế cái dĩa đang hát đó thì sao ạ ?
- Cô cứ giữ ở đây, khi nào tôi đến thì mở cho tôi nghe.
- Nếu có người nào đó yêu cầu.
- Nếu họ nói đúng tên người chủ dĩa hát.
- Còn em muốn nghe.
- Cô có biết tên người chủ dĩa hát không ?
- Tất nhiên là biết
- Tất nhiên là được.
           - Cám ơn anh Hiền. Thu nhấn mạnh chữ Hiền một cách láu lỉnh. Thôi các anh uống café và nghe nhạc. Thu trở về chỗ của mình và Trung béo bắt đầu làm việc :
- Mày ghê thật. Đúng là sư phọ của tao rồi.
Chúng tôi yên lặng đón nhận những tiếng hát ngọt ngào của Silvie Vartan, mỗi đứa một suy nghĩ, hay đúng hơn là ý nghĩ tự tràn vào. Thế đấy. Chúng tôi có lắm lúc hành động không tự chủ, cũng may là quán tính chưa bao giờ điều khiển chúng tôi chệch khỏi đường ray. Khi chúng tôi ra về. Thu không nhận tiền dĩa hát mà còn yêu cầu tôi ký tên lên dĩa. Một niềm vui bất ngờ “ Ít ra cùng còn có ai đó quan tâm đến ta“. Tôi vừa ký tên vừa hỏi :
- Thu còn đi học không ?
- Thưa anh, còn ạ. Em học Văn Khoa, Ban văn chương Pháp.
- Hay đấy nhé. Thu dịch lời bản nhạc cho anh đi.
- Cái gì? Nghe mà không hiểu gì à?
- Tất nhiên. Có biết tiếng tây, tiếng u gì đâu? Thấy âm điệu du dương thì nghe.
- Anh vừa thôi nhé. Anh phát âm Les Tempes à L’Amour y như dân Tây.
            - Thôi. Bọn anh về. Cám ơn Thu nhé
Chúng tôi vui vẻ ra về, dọc đường Trung béo vô cùng thán phục, anh ta tuôn một câu làm tôi phổng mũi :
-  Sư phọ thả dê rất bài bản, người từ “U Minh tịnh độ” lên đây mà sư phọ chỉ cần phán mấy câu mà một em sinh viên chưa chi đi đứng muốn liêu xiêu rồi.
Tôi buồn cười về cái từ sư phọ của anh ta. Nhưng thôi, giải thích cho anh ta biết vậy :
- Trung béo này. Thực ra thì hồi đó tao có ở trên này một thời gian. Tao và tụi bạn tao thường đến là cái quán Tuyết Lan kế bên kìa. Nhưng không biết vì lý do gì mà cả bọn tụi tao chuyển qua cái quán ban nãy(?) Mà cái quán này không có cái dĩa hát đó, nên tao mua để mỗi lần ghé vào bảo cô ngồi két mở cho nghe. Lúc đưa cái dĩa hát, sẵn thấy cây bút nỉ tao vớ lấy và ngoáy cái tên tao vào. Chuyện xảy ra hồi còn trốn quân dịch ấy. Nếu không có cái dĩa hát ấy thì tao cũng đành câm như thóc thôi.
- Ê. Mà cái dĩa hát ấy; nhạc thì nghe đã thiệt, mà cái tựa nó tiếng Việt nghĩa là gì? Tao  nghe tiếng Tây như nghe chim kêu.
- Tiếng Tây của tao giỏi như Tây nói tiếng Việt. Không hiểu dịch thế nào cho đúng. Nhưng cũng có thể hiểu na ná như vầy “ Những khoảnh khắc của tình yêu”
          Trung béo cười ha hả trêu tôi :
          - Thế thì cái khoảnh khắc ở quán café ấy có thể trở thành một trong những khoảnh khắc của tình yêu không?
- Thôi người bạn thân mến của tao, có một khoảnh ở nhà là muốn ná thở rồi, ở đó tìm thêm nhiều khoảnh nữa.
- Đang vui ra phết, mày nhắc tới cái khoảnh ở nhà, làm tao nhớ muốn chết.
           - Ờ há
Chúng tôi dù tới hai đứa nhưng vẫn cảm thấy lẻ loi giữa cái tấp nập của Sài Gòn trong giờ tan sở. Quả tình khó lòng mà hòa nhập vào một nơi mà mình chẳng thân quen. Chúng tôi về đến nơi cũng là lúc đến giờ phòng ăn mở cửa, cả hai ai về phòng nấy, rửa mặt qua loa, rồi qua phòng ăn. Không thấy Trung béo đâu, tôi chờ một lát rồi về phòng, nằm nghĩ ngợi lan man một lát, tôi rút tờ báo mua lúc nãy trên đường về ra xem, cũng ngần ấy tin xe cán chó, chó cán xe. Tin hội đàm Paris cù cưa cù nhằng như chó nhai giẻ rách. Mấy cha cứ nhủng nha nhủng nhẳng. Nội cái vụ bàn vuông bàn tròn, chân cụt chân dài cũng làm mất khối thời gian, mặc cho cuộc chiến cứ cặm cụi từng ngày tống tiển mọi người đi về phía hư không. Và những ai còn sống cứ tha hồ mà hy vọng. Ôi buồn. Thôi lật trang trong của tờ báo kiếm tiểu thuyết võ hiệp xem chơi. Ôi mới có mấy tháng mà Lệnh Hồ Xung đã bỏ Nhạc Linh San để cặp bồ với Nhậm Doanh Doanh rồi. Mà cũng phải thôi. Hơi đâu mà yêu người mình yêu, khi họ chẳng chịu yêu mình.

Đã ba ngày như vậy trôi qua, tôi không có thêm một người nào quen nữa. Những người có mặt ở phòng ăn thì hình như ai cũng đều có việc và bạn bè riêng của họ, thỉnh thoảng tôi canh me tào lao với ông service một đôi câu. Thực ra thì tôi hơi lạ lùng về cái cách làm việc và sinh hoạt ở đây. Nhưng tôi không dám tìm hiểu, ăn ngủ, đọc báo, tối xem tivi. Hoặc là tôi và Trung béo lại kéo nhau đi tào lao thiên địa. Mà không hiểu cái tình trạng chơi chẳng ra chơi, làm chẳng ra làm này bao giờ chấm dứt. Thỉnh thoảng chúng tôi đi long rong ngoài phố. Nhưng lời dặn của anh Văn thu xếp cho tôi gặp ông Cụ làm cho tôi không thể long rong ngoài phố quá lâu. Quẩn quá, tôi hý hoáy làm thơ, nhưng chẳng cảm hứng gì, nên thơ tôi đã dỡ lại càng thêm dỡ.
Nhưng rồi cũng tới thôi. Thật hú hồn, tôi vừa mới về phòng, thì anh Nam tới. Tôi hỏi thăm về việc nhà và việc tay nhân viên Cảnh sát bị thương, anh trả lời chi tiết cho tôi về việc nhà, việc còn lại vài bữa nữa về sẽ biết. Trước khi ra khỏi phòng tôi, anh bảo tôi chiều nay một giờ ăn mặc tề chỉnh, anh Văn dẫn đi gặp ông Cụ. Tôi thật sự lo lắng không biết ông Cụ là ông nào mà chỉ mới nghe tiếng thôi mà đã ám ảnh tôi đến thế. Nhưng thôi, tới giờ ăn rồi qua ních một bụng cho no cái đã. Chiều qua bỏ cơm nên bữa điểm tâm coi mòi không bù nổi rồi.
            Tôi vừa chuẩn bị xong thì anh Nam bước vào, thấy tôi anh cười :
            - Chà. Thượng sĩ nhóc coi cũng ra phết đấy. Xong chưa, chúng ta đi.
         Anh dẫn tôi ra xe. Chúng tôi đi loanh quanh ngoài phố khoảng mười lăm phút, rồi đến vào một toà nhà đồ sộ. Cả hai xuống xe. anh Nam đưa tôi đến tiền sảnh của ngôi nhà, đẩy cánh cửa bên phải. Một căn phòng mênh mông, cách xây dựng tráng lệ như một cung điện hoàn toàn tương phản với cách bài trí giản dị đến không ngờ. Một cái bàn bureaux bằng gỗ hình vòng cung, trên bàn có cắm một lá cờ vàng ba sọc đỏ. Phía sau là một cây tùng vẽ cách điệu nhưng rất sống động. Phía trước cái bàn là một bộ salon bọc vải trắng. Chỉ có thế, anh Nam đưa tôi đến và bảo tôi ngồi ở salon. Tôi đưa mắt nhìn anh, anh cười và nói nhỏ:
 - Cứ ngồi tự nhiên.
Rồi anh bước sang cánh cửa nhỏ. Trong khi tôi đưa mắt nhìn quanh thì anh Văn và một ông lão mặc một complé trắng, không cravate, đầu hớt ngắn, tóc bạc trắng, tay cầm cây gậy, nhưng dáng đi chắc chắn, đang từng bước khoan thai. Tôi hết hồn kêu thầm “Ông cụ là “. Tôi bật đứng dậy, rút chân theo tư thế nghiêm và đưa tay chào, theo phản xạ tự nhiên của người lính gặp thượng cấp. Ông Cụ ra hiệu cho tôi ngồi xuống. Nhưng tôi gần như chết cứng. Ông lại lên tiếng, giọng ông trầm ấm và chậm :
            - Cháu ngồi xuống đi, hãy xem qua như là ông giáo già, để ông cháu mình dễ nói chuyện.
            Anh Văn nhìn tôi gật đầu ra hiệu cho tôi ngồi. Xong anh đỡ ông Cụ ngồi xuống, khi ông cụ ngồi xong. Tôi rón rén ngồi xuống và lí nhí :
            - Con chào Cụ ạ.
            Ông gật đầu. Anh Văn hơi cuối đầu xuống nói nhỏ:
            - Thưa thầy. Đây là Hiền mà thầy muốn gặp. Văn xin phép thầy ra ngoài.
            Ông Cụ gật đầu ra hiệu, anh Văn lui ra. Ông Cụ lên tiếng :
            - Qua có đọc mấy bài báo của cháu, cháu viết như vậy là đúng. Nhưng tuổi cháu còn trẻ, thế lực không có. Cháu đặt vấn đề như thế cháu có sợ không ?
            Tôi lại ấp úng một lát mới nói được :
- Dạ, cháu cũng không biết nữa.
- Cháu nói như vậy là thành thật đó.
            Ông lại hỏi tiếp :
            - Công việc của cháu có khó khăn lắm không?
            - Dạ thưa Cụ, có ạ
            Ông cười ;
            - Đừng có kêu qua bằng Cụ, mà kêu bằng thầy.
            - Dạ
            - Trong khi làm việc cháu có sợ gì không ? Chắc lại là không biết.
            Tôi lại ấp úng. Ông chồm tới vỗ nhẹ nhẹ lên vai tôi :
            - Hảy thoải mái nói chuyện với qua. Qua nghe nói cháu gan góc lắm mà. Chuyện của cháu, qua nghe kể hết rồi. Người gan góc là người ngay thẳng, cứ như vậy nghe cháu. Những người ở trong cái nhà này hầu hết là như cháu cả, tiếc là ít quá.
            - Dạ.
Tôi ngồi nghe ông Cụ nói dần dần bình tỉnh lại, nhưng còn một chút lo lo. Nó dứt hẵn khi nghe ông Cụ hỏi :
            - Qua nghe nói cháu biết làm thơ.
            - Dạ thưa thầy biết ạ. Nhưng cháu làm rồi quăng tứ tung và cũng không thuộc được bao nhiêu.
            Ông từ tốn :
            - Phải. Cái gì cũng vậy. Đáng giữ thì giữ, không đáng thì bỏ. Ví dụ như hai câu mà cháu đọc cho chú Văn nghe mà bỏ thì uổng lắm. Cháu đọc lại cho qua nghe coi.
            Hai tai tôi đỏ bừng, tôi đọc như muốn hụt hơi
                   Sống mà không đổ mồ hôi,
            Làm sao biết được cuộc đời ngon cơm.
            Ông cụ cười thành tiếng :
             - Không phải, chú Văn đọc cho qua nghe thế này “ Sống mà đếch đổ mồ hôi. Làm sao biết được cuộc đời ngon cơm .“ Phải không ?
            Tôi lại ấp úng nữa, nhưng cũng cố trả lời một cách vô nghĩa:
- Thưa thầy. Phải ạ, con đọc chệch đi chữ thứ ba câu đầu ạ.
            Ông Cụ cười thành tiếng:
            - Nè. Cháu dấu đầu mà lòi đuôi, cháu thay cái chữ “đếch” bằng chữ “không” mà vẫn giữ chữ “ngon cơm “. Thì vô tình cháu đã làm hai câu thơ của mình trở nên khập khiểng. Theo ý của qua, cháu không cần phải thay bất cứ chữ nào cả. Những từ ngữ mà cháu sử dụng trong lúc cảm hứng bất chợt. Nó lột tả trọn vẹn ý nghĩa của câu thơ mà cảm xúc của cháu muốn nó chuyên chở. Thứ hai nữa nó thể hiện được cái bản chất ngang tàng, khinh bạc của cháu. Nhưng toàn bộ hai câu thơ lại đầy ý thức trách nhiệm.
            - Dạ. Con xin lỗi thầy ạ.
            - Không có lỗi phải gì trong cái việc này. Qua nói thêm cho mà nghe. Thơ không phải làm như thế nào là để như thế ấy. Phải sửa, thậm chí từng dấu chấm, dấu phết. Nhưng sửa thì phải cẩn thận, nếu thấy không sửa được mà nếu để vậy thì coi cũng không xong thì phải bỏ. Còn sửa vì vị nể ai thì càng hư. Hư bài thơ thì chả làm sao  Nhưng nó lại làm hư cả mình. Mà hư mình thì rối.
            Cái không gian mênh mông của ngôi nhà như ấm lại và cái khoảng cách ban đầu bị thu hẹp. Nhanh chóng một cách không ngờ.
            Ông Cụ lại hỏi :
            - Cháu có thuộc thơ ai khác không ?
            - Dạ có.
            - Đọc cho qua nghe đi. Bài nào cháu thích.
- Dạ cháu đọc bài Kẻ Sĩ của Nguyễn Công Trứ.
            Ông Cụ nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên
            - Ừ. bài thơ này thì qua không lạ gì. Nào cháu đọc để qua nghe xem cháu đọc như thế nào ?
Không khí không còn đặc như lúc ban đầu mà đã thoáng ra. Tôi đọc bài thơ cho ông Cụ nghe bằng cả sự xúc cảm của mình.
            Ông Cụ nghe xong, cười lớn :
            - Cháu được đấy. Cái giọng đọc của cháu thì lại lột tả được hết cái hào sảng và sự tự tin đầy kiêu bạt của tác giả. Học trò mà đứa nào thuộc bài thơ này cũng đều khá cả. Giọng ông trở nên đượm buồn, nhưng theo ông biết cuộc đời đều ì ạch, chỉ một vài đứa… Nhưng rồi chẳng biết hỏng lúc nào. Lối hoạn lộ sao mà lắm ngõ tắt, đường ngang.
Ông Cụ chấm dứt bằng một giọng ngậm ngùi. Tôi cũng lặng yên. Ông trầm ngâm một lúc rồi vỗ nhè nhẹ lên bàn, rồi tiếp:
- Hình như là hai câu của cháu nó sắc kẹo lại bài thơ này. Nào, phải không? Cháu nghĩ lại coi. Ánh mắt ông Cụ chợt sáng lên.
Những nhận xét của ông Cụ làm tôi bất ngờ. Tôi cũng không dám cả quyết;
            - Dạ thưa thầy. Cháu thấy chắc chưa được như thế đâu ạ.
- Chắc chắn rồi chớ sao lại chưa chắc. Ông Cụ cả quyết và cười thành tiếng. Cổ nhân không phụ cháu rồi. Cháu biết không? Hồi qua còn dạy môn Việt văn ở Mỹ Tho. Qua đã giảng nghĩa bài thơ này không biết bao lần, và học trò của qua cũng không ít người biết làm thơ. Cháu cũng làm thơ, dù qua mới được nghe có hai câu nhưng với hai câu đó qua thấy cháu có một cái gì đó hay hay. Thôi bây giờ như vầy. Qua hỏi cháu, cái mục đích của cháu trong cuộc sống ra làm sao đâu? Nói cho qua nghe coi.
Tôi im lặng, không biết phải trả lời Ông Cụ như thế nào cho phải. Thấy tôi có vẻ lưỡng lự. Ông Cụ khích lệ:
            - Cháu cứ nói hết ý mình, như đứa học trò tâm tình với người thầy cũ.
            - Thực ra… thì cháu chỉ cố gắng làm tròn cái nhiệm vụ của mình, để khi ngữa tay ra lãnh đồng lương mà không cảm thấy hỗ thẹn.
            - Như vậy thì tốt. Nhưng chỉ có thế thôi à?
            - Dạ thưa thầy. Cháu cũng biết như vậy là chưa đủ. Nhưng chưa có ai bảo cho cháu biết là ngoài việc ấy ra thì cháu phải làm cái gì thêm nữa?
            Ông cụ ngắt lời :
- Đại loại như là một lý tưởng. Phải không ?
- Dạ thưa thầy có nhiều lần cháu đi tìm cái thứ đó qua sách vở. Nhưng vì cái lý do gì đó đại loại như; trình độ hạn chế của cháu… mà cháu cảm thấy trong cái mớ hỗn độn kia làm cháu tối tăm mặt mũi. Ai cũng chỉ nói nói lên một mặt của vấn đề. Điều này có thể là cháu đụng đâu đọc đó hoặc khả năng hạn chế nên chưa thấu hiểu, từ đó những nhận định của cháu rất có thể sai. Tất nhiên, những ước mơ của họ rất đẹp.
Ông Cụ ngắt lời tôi:
- Còn thực tế thì không như vậy?
- Vâng ạ, cháu thấy có cái gì đó khập khiểng. Mà cháu thì tuổi còn trẻ, kiến thức chẳng có bao nhiêu và tạng người cũng không được thông minh lắm. Thành ra cháu vừa nghi ngờ những gì mình đọc được, rồi sau đó nghi ngờ cả khả năng mình, mà cái sau thì bao giờ cũng lớn hơn cái trước. Thế nên, trước mắt thì cháu chỉ biết cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình.
            Ông Cụ nhìn tôi đăm đăm, một lát sau ông Cụ mới từ tốn:
            - Những suy nghĩ của cháu thì đúng, ngoại trừ cái cháu nói cháu không được thông minh, cháu quá thông minh nữa là khác. Cái mà cháu muốn tìm nó không nằm trong sách vở. Mà nó nằm trong cuộc sống, sách vở chỉ là phương tiện, phương tiện thì tốt có, xấu có. Chọn được phương tiện tốt, cháu có cuộc hành trình hứa hẹn sẽ tốt. Tất nhiên phương tiện chỉ mới là một yếu tố. Bởi thế thái độ của cháu bây giờ là đúng đắn. Qua nhắc cho cháu nghe câu này “Hãy tin đi, sẽ có. Hãy tìm đi, sẽ thấy“. Còn tin được điều gì, tìm được cái gì thì cái đó tùy cháu. Bởi vì cuộc đời của cháu không phải tùy thuộc vào một ai. Qua tin là cháu sẽ hiểu. Ngoài bài thơ ấy cháu còn thuộc bài nào của Nguyễn Công Trứ nữa không?
            - Dạ chỉ có hai câu thôi. Thưa thầy
            - Ừ. Đọc cho qua nghe
Không hiểu sao tôi đọc ngay :
Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ,
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà.
            Ông Cụ nhìn tôi, rồi nói giọng buồn buồn:
            - Phải chi qua có được cái nhìn cuộc đời một cách lạc quan như cháu. Nhưng cháu còn quá trẻ để tham dự một cuộc chơi như thế. Cháu cần phải có thời gian để mà cảm nhận một cách thấu đáo cái đẹp của Nguyệt Lộ và Yên Hà. Cụ Hi Văn đã phải trả sạch nợ tang bồng rồi, mới có đủ bãn lĩnh để mà phẩm đề và rủng rỉnh dăm đồng để mà tiêu sái. Cháu cũng nên hiểu như thế, dù không thể bằng được người xưa thì chí ít cũng có được cho mình một vài câu thơ, dăm ba chung rượu của chính mình. Thơ thì dở làm sao mà phẩm đề, rượu của người mình đi uống chực thì sao gọi là tiêu sái? Phải cố gắng nhiều hơn thì cuộc chơi đó mới có ý nghĩa. Qua đang cố  gắng đây nhưng chắc có lẽ là không xong. Cháu thấy qua nói có đúng không nào. Nhưng thôi, bây giờ thì hơi muộn rồi. Cháu cần qua giúp gì không?
             - Thưa thầy. Cháu xin nghe lời thầy. Còn cần thầy giúp thì không có ạ.
Ông nhìn tôi một lát, rồi tiếp :
            - Qua rất vui vì hôm nay gặp cháu. Nhưng qua nhận xét về cháu thế này. Cháu thì cái gì cũng có thể gọi là vượt trội hơn những người cùng tuổi. Nhưng cũng vì những thứ đó mà cháu trở thành một kẻ tham lam kiến thức. Kiến thức thì như biển cả mà sức người, tuổi người thì có hạn. Cháu nên biết mình cần cái gì, thì cháu thu nạp cái đó để hiểu cho tường tận và cố làm một cách tinh tường. Sự tham lam quá mức có thể làm cháu trở thành một người không thành đạt. À khi cháu về Rạch Giá cho qua gởi lời thăm thầy Vân. Thầy Vân rất hay. Hồi còn đi học ở trường Cao Đẳng Sư Phạm. Bao giờ qua cũng kém hơn. Qua không bằng thầy Vân đâu ? Giọng ông Cụ bổng trầm xuống. Thầy Vân rất hiểu lẽ đời. Ông cháu mình mới gặp nhau có một lần, nhưng qua rất thích cháu. Qua mong mỗi lần lên Sài Gòn, cháu nói với chú Văn sắp xếp cho ông cháu mình gặp nhau để nói chuyện cho vui.
            Anh Văn đã có mặt tự lúc nào tôi cũng không hay, khi ông Cụ vừa dứt. Anh lên tiếng :
            - Thưa Thầy vào nghĩ ạ. Sắp đến giờ cơm chiều rồi.
            Anh Văn đưa ông Cụ về phòng, vẫn dáng điệu đó, những bước đi đó. Tôi đứng tần ngần nhìn theo ông, rồi nhìn căn phòng mênh mông vắng lặng. Một nỗi cô đơn bổng ập vào tôi và tôi biết khi ra khỏi căn phòng là tôi thoát khỏi nó. Nhưng ông Cụ thì sao và cái gì đã níu chân ông ở lại nơi này. Tôi cũng biết, những con người ở trong ngôi nhà này, dù họ có lăng xăng lộn xộn như thế nào chăng nữa thì họ cũng không thể không thấu hiểu ông, nhưng chắc chắn họ mong muốn trở thành con người xứng đáng trước ông. Nhưng liệu họ có làm được không, khi mà có một khoảng cách nhất định mà chính ông, chính họ đều không muốn có nó và đều bất lực khi toan phá vở nó. Sự vững chãi của ông có nhiều cố gắng. Một sự cố gắng mà tôi không mong mõi. Nhưng nó là hiện thực. Và tôi cũng không ngờ đây là lần duy nhất tôi gặp ông Cụ. Và ông Cụ gặp tôi chỉ để nói như thế thôi sao? Hay là ông chỉ cần một người để mà thư giản, quên đi những nhùng nhằng của cuộc sống mà đáng ra ở tuổi ông không còn cần thiết nữa. Hay là chỉ vì tôi nghĩ rằng khi gặp một nhân vật như thế là phải bàn chuyện quốc gia đại sự, trong khi những gì ông nói với tôi chỉ là lời một ông già nói với con cháu của mình. Anh Văn trở lại đưa tôi ra khỏi ngôi nhà. Rồi ra xe trở về nơi ở, khi đi ngang phòng tôi anh bảo tôi cùng đi uống nước, chúng tôi qua phòng ăn. Sau khi kêu thức uống, anh nhìn tôi cười :
- Xem ra ông Cụ thích chú rồi. Ông Cụ và chú nói gì thế?
Tôi không trả lời anh, mà nói:
- Cả lý lịch và hành vi của tôi . Ông Cụ biết hết trơn.
- Ông Cụ đã đọc những bài báo của chú. Ông Cụ bảo anh tìm chú. Khi anh truy ra được tông tích chú, thì chú đang bị giam lỏng ở bên ấy. Anh ngưng lại như suy nghĩ một điều gì đó, rồi tiếp. Thôi, nói cho anh nghe, chú nói gì với ông Cụ mà lâu thế ?
- Thì hai câu thơ của tôi lỡ miệng đọc cho anh nghe.
- Chỉ có thế. Anh Văn nhìn tôi cười.
- Vâng từ cái việc đó nó lôi dài ra những chuyện khác.
            Anh Văn có vẽ trầm ngâm. Cuối cùng anh nói với tôi:
- Trong tất cả các nhân viên của anh. Chú là người mới nhất và trường hợp tuyển dụng chú cũng là trường hợp khá đặc biệt. Anh tuyển dụng chú theo chỉ thị của ông Cụ. Nên anh khuyên chú phải cố gắng nhiều hơn, hãy biết kềm chế lại. Nếu tính khí của chú như thế mãi thì chú sẽ gặp nhiều khó khăn trong công tác và cả cuộc sống nữa. Chú là người anh tiếp xúc ngoài công việc nhiều nhất, và cũng là người duy nhất được gặp ông Cụ. Ông không có nhiều thời gian và anh cũng thế. Sẵn đây anh thông báo cho em biết, chú Nam, Thiếu Tá Nam sẽ là người chỉ huy trực tiếp của chú, các anh em khác ở các tỉnh Miền Tây cũng vậy. Bắt đầu từ giờ phút này nếu anh và chú có gặp riêng nhau chỉ là chuyện riêng của anh em mình. Không dính dáng gì đến công tác. Ngày mai chủ nhật nhưng đừng đi đâu. Chú Nam có một số chỉ thị cho chú và các anh em khác.
Anh nói xong, đứng lên đi thẳng. Tôi chới với, một lời khiển trách rất nhẹ nhàng mà lại nặng như đá. Tôi thực sự lo. Tôi đưa tay xem đồng hồ. Đã đến giờ cơm, vừa định kêu cơm ăn thì Trung béo và một tên nữa đi về phía tôi. Trong khi tôi đang ngờ ngợ về cái tên đi với hắn thì hắn và tên ấy kéo ghế ngồi,hắn ồn ào:
- Xin giới thiệu đây là Hiền, Nguyễn văn Hiền, có hỗn danh Cò Gòm ở Kiên Giang, hắn quay sang tên kia, đây là Hà nẫu, Trần Đức Hà ở Thừa Thiên.
Tôi chợt nhớ ra, bắt tay Hà tôi hỏi :
- Có phải Hà ở đại đội 3 khoá 16 Rạch Dừa,
Hà nẫu trố mắt :
- Hồi mãn khoá nghe nói mày về ĐĐ111 biệt lập. Về Kiên Giang bao giờ. Mà làm sao mày có cái lon thượng sĩ ngon thế.
Tôi cười cười :
- Thì hai thằng mày cứ vung tay lên rồi hét to “Thượng sĩ muôn năm“
Rồi tôi kể lại lai lịch cái lon thượng sĩ không giống ai của tôi. Cả bọn xúm nhau cười. Hà nẫu tiếp :
- Hèn chi mày bảo tụi tao tung hô “Thượng sĩ muôn năm“. À mày gia nhập vào cuộc chơi này được bao lâu ?
- Ba tháng. À. Mày là người Nam rặt mà tại sao lại có hỗn danh Hà nẫu.
Trung béo chen vào:
- Hai con vợ nó đều là dân Quảng Nam cả.
- Cái gì? Mày hai con vợ!?
Tôi hét lên định trêu chọc thì thấy Hà nẫu buồn hiu:
- Trung béo nói đúng. Vợ trước của tao, dân Quảng Nam mà nhà ở Biên Hòa, mới cưới được ba ngày, hết phép cưới vợ, tao về đơn vị, nó đòi theo. Ừ thì đi, anh ở đâu thì em ở đó. Mới về tới nơi, ngay trong đêm đó mấy cha Việt Cộng, mừng tao cưới vợ gần một chục quả 122 ly. Vợ tao chết trong ngay trong trận đó. Còn tao thì ngất ngư gần một tuần hay một tháng gì đó mới tỉnh. Tỉnh lại, thấy vợ chết queo. Buồn quá, tao xách mùng ra mả vợ tao ở sau vườn nhà ông già vợ, định ngủ vài đêm. Ai dè sáng hôm sau ông bà già vợ tao ra khóc quá trời, rồi đưa tao vô nhà. Mấy ngày sau có một thằng, người Biên Hoà mà đơn vị nó ở Huế, nó muốn tìm người xin hoán chuyển. Tao ừ luôn, nó chung cho tao 10.000đ. Ra ngoài ấy tao gặp và thương con vợ tao bây giờ, cũng dân Quảng Nam.
Trung béo chen vào :
- Tao đẩy cho nó cái tên Hà nẫu. Tao tưởng nó giận ai dè nó khoái.
Tôi hỏi Hà nẫu :
- Sau khi cưới con nhỏ này mày có dẫn nó về đơn vị không ?
- Tao cưới vợ sau, khi đã gia nhập vào cuộc chơi này được gần năm. Vợ tao dân nhà nghèo. Miệng đói tay bươi, mới nghỉ học, không biết làm gì bèn đi buôn lậu cò con. Bị tụi nó múm. Ra ban Thanh lọc tao tha, rồi tao cho thêm ít tiền bảo mở cái tiệm giặt ủi. Lần lần khá ra mới tình nguyện giặt đồ cho tao không lấy tiền.
Trung béo lại chen vào :
- Nó nói con vợ sau của nó giống vợ trước nó dữ lắm,
Trong phòng ăn lúc này có nhiều khuôn mặt mới xuất hiện. Chúng tôi vừa ăn cơm, vừa hỏi thăm về cuộc sống của nhau. Thằng nào cũng có chuyện buồn, chuyện vui. Trung béo vốn không phải là Cảnh Sát, hắn học HSQ Đồng Đế rồi ra Biệt Động Quân. Lăng quăng đâu đó không biết, rồi dính một trái mìn lòi ra một nùi ruột, không biết tại sao hắn không chết. Ra loại 2 xin qua Cảnh Sát, được anh Nam tuyển về. Tôi kể cho hai thằng nghe về cú vượt sông Cái Lớn. Cả hai trợn mắt nhìn tôi. Hà nẫu thì bảo tôi liều mạng, Trung béo thì nói tôi điên.
Cơm nước xong, chúng tôi định kéo sang quán café bên kia đường tìm không khí mới, thì anh Nam đến, anh nói:
- Hiền. Ngày mai họp để trình bày lại vụ ba chiếc ghe chài, nên chú phải chuẩn bị thật kỷ. Chú lần đầu tiên về họp, nên sáng mai chuẩn bị sẵn sàng anh đến đưa đi. Quay sang Hà anh hỏi. Đưa vợ đi chơi được mấy chỗ rồi.
Hà nẫu cười cười không trả lời. Chúng tôi không đi nữa, ngồi lại phòng ăn xem tivi một lát rồi về.

Anh Nam đưa tôi đến phòng họp. Trên dường đi anh dặn:
- Khi chú trình bày sự việc. Nhớ là phải ngắn gọn nhưng đầy đủ, chính xác, những việc gì không rõ thì kh6ng nên nói. Nhớ nhé. Khi vào phòng họp thấy cái ghế nào có chữ Kiên Giang thì ngồi.
Phòng họp đã khá đông người, nhưng không giống các phòng họp thông thường, mà là hai dãy bàn để dọc theo căn phòng ở đầu trên là bàn chủ tọa và đoàn thư ký.
Khi mọi người đã vào đúng vị trí. Anh Văn xuất hiện trong bộ quân phục và cấp bậc Thiếu Tướng. Mọi tiếng xì xào im bặt, tôi dợm đứng dậy, nhưng thấy mọi người vẫn ngôì yên. Tôi chửi thầm thằng Trung béo “ Mẹ nó, nói chẳng hướng dẫn mình tí nào“. Theo sau anh Văn là hai sĩ quan cấp Đại Tá và một số sĩ quan cấp úy. Tất cả đã ngồi vào đúng vị trí, anh Văn cất tiếng chào, rồi nhanh chóng đi vào cuộc họp :
- Trước tiên, tôi xin giới thiệu với tất cả anh em một nhân viên mới và sau đó chú ấy sẽ trình bày công tác đầu tiên của mình tại đơn vị Kiên Giang.
Viên sĩ quan ngồi ở bàn thư ký đứng dậy :
- Xin mời thượng sĩ Nguyễn văn Hiền, đơn vị Kiên Giang, trình diện Uy Ban và trình bày sự việc ba chiếc ghe chài.
Tôi vừa đứng dậy, vùa kêu khổ, nhưng cũng bậm gan làm theo. Lệnh mà:
- Thượng sĩ Nguyễn văn Hiền, đơn vị Kiên Giang, trình diện Thiếu Tướng và các đồng sự trong Ủy Ban. Hết. Tôi xoay người một vòng để mọi người thấy khuôn mặt mà không biết dùng cái thuộc từ nào để diễn tả. Đã đủ một vòng tôi tiếp:
- Sau đây, tôi xin được phép trình bày diễn tiến công tác xóa mục tiêu chấm định mang bí số 5RG…
Tôi cố gắng trấn tỉnh, nói thật chậm để thuật lại toàn bộ sự việc cũng như những trở ngại, và khó khăn cùng những biện pháp đối phó. Phải mất gần nữa giờ. Tôi mới nói được hai chữ “Xin hết“. Tiếp theo là Hà nẫu trình bày vụ ma túy Khách Sạn Sông Hương, rồi đến Trung Béo vụ còi hụ Long An, cuối cùng Trần văn Ngọc, một Thiếu úy trẻ măng, trình bày về vụ đoàn quân xa Gò Dầu ở Tây Ninh Qua sự việc của mình. Rồi nghe các anh em khác trình bày các sự việc của họ. Tôi mới cảm nhận hết tất cả những khó khăn. Thậm chí nguy hiểm đến chết người của chúng tôi. Đúng như anh Văn nói chúng tôi đang tham gia vào một cuộc chơi mà ở đó chúng tôi luôn đứng về vị trí những kẻ chống lại những đồng sự, những thượng cấp của mình. Một cuộc chiến đấu gần như tuyệt vọng, nhưng phải làm. Những vụ này, bằng một cách nào đó, chúng tôi đã cố gắng phơi bày trước công luận. Nhưng liệu còn có bao nhiêu vụ nằm ngoài tầm với của chúng tôi. Những sự việc này, chỉ có vụ còi hụ Long An là được giải quyết khá tới nơi tới chốn. Những việc còn lại hiện là một mối bận tâm lớn nhất của anh Văn. Theo tôi thì cái vụ của tôi thì có vẻ nặng ký nhất. Đúng như tôi đã nhận định. Sau khi ban một số chỉ thị và chỉnh sửa cung cách cũng như tác phong từng nhân viên một. Buổi chiều anh Văn và hai vị Đại Tá quay tôi ra trò.
Tôi phải mất gần một tiếng đồng hồ để trả lời đủ mọi thứ xoay quanh việc này. Tất cả như có vẻ hài lòng. Khi việc của tôi chấm dứt. Tôi thở phào, ngồi xuống và không còn hơi sức đâu để nghe chuyện khác. Buổi họp còn phải tiếp tục thêm một ngày nữa.
Buổi tối, tôi không đi chơi. Một mình trong căn phòng vắng lặng. Nhớ lại những sự việc của mình của các đồng sự từ các nơi về trình bày. Bổng dưng một nỗi buồn ập đến. Cuộc đời này bệ rạc đến vậy ư? Người giết nhau bằng mọi thứ mà mình có trong tay. Người vẫn chết hàng ngày bởi hàng ngàn nguyên nhân kỳ cục. Người vẫn say sưa đú đởn và trong cái không gian ngập ngụa dơ bẩn ấy, Những ý nghĩ dơ bẩn đang dần dần trở thành hành động. Một nhúm người đếm trên đầu ngón tay của anh Văn, trong đó có tôi đang quẩy đạp trong tuyệt vọng. Tôi tự hỏi chúng tôi là ai? Chúng tôi là những anh hùng ảo tưởng hay là những tên tự sát, hay tệ hại hơn là những thằng phá đám. Phá đám sự bình yên đến kinh hoàng của một xã hội được phân tầng. Dưới con mắt của mọi người có thể chúng tôi là những Don Quijote[vi] chống lại những chiếc cối xay gió. Nếu không muốn nói là những thằng ba trợn. Nhưng có một điều an ủi tôi là không khí buổi họp không nặng nề như các buổi họp mà tôi được đôi lần tham dự ở BCH Tỉnh. Sự cách biệt rất xa về cấp bậc và cả tuổi tác của các thành viên tham gia cuộc họp không làm cho không khí đơn điệu, một chiều. Tất cả bình đẳng với nhau trong việc đưa ra quan điểm, ý kiến của mình. Bổng dưng tôi nói thầm “ Anh Văn đã thật ”
Nhưng rồi những khuôn mặt của những người thân, của bạn bè, của những đồng đội, của những người đã chết mà tôi gặp trên những bước đường lính tráng, của bên này hay của bên kia. Tất cả đang diễn hành qua cái đầu háo sự của tôi. Trời ơi phải chăng cuộc sống thực là như thế? Tôi bước ra cửa, nhìn sang phòng ăn thấy còn sáng đèn, tôi bước qua tìm cái gì đó để uống, để tránh những suy nghĩ nặng nề. Chỉ có một tên duy nhất còn ngồi uống bia. Tôi dễ dàng nhận ra đó là thiếu úy Ngọc. Tôi gọi một chai bia mang đến :
- Chào thiếu úy.
Ngọc ngước lên nhìn tôi :
- À. Chào thượng sĩ. Rất muốn gặp nhưng không biết thượng sĩ ở đâu? Ba  chiếc ghe chài của thượng sĩ có vẻ rắc rối to đấy.
- Tôi biết. Thiếu úy
- Anh gọi em là Ngọc thôi. Cái cách trình bày và giải quyết sự việc của anh, còn lâu lắm em mới làm nổi. Em đuối rồi anh ạ. Một thân một bóng mà quyền hành bao la trong khi lính chẳng có một tên. Em không biết phải làm thế nào ?
- Ngọc nói đúng, tôi cũng không hiểu anh Văn muốn gì ?
Thực sự chúng tôi hoàn toàn không hiểu gì cả. Đứng về mặt công khai thì chúng tôi là nơi xuất phát mọi hoạt động của Cảnh Sát ở địa phương mình. Nhưng cái quyền hành mà chúng tôi có là một thứ quyền hành vay mượn. Cả bọn chúng tôi đến từ những nơi, mà ở nơi đó tất cả chúng tôi đều được xem như là những kẻ ba gai, bất trị. Ở phía sau cái công khai đó thì chúng tôi có cảm tưởng mình như là những con rối. Những con rối thảm hại bị tất cả mọi người giựt dây mà không theo bất cứ một kịch bản nào. Trước mắt một số người, chúng tôi là những kẻ bung xung vô kỷ luật. Sự can thiệp của anh Văn và các cộng sự gần gủi anh cho chúng tôi, hình như chỉ là một cách đối phó. Tôi định đem những ý nghĩ này nói với Ngọc. Nhưng liệu Ngọc có hiểu không và sẽ giải quyết được gì? Điều này chỉ có thể nói với anh Văn. Nhưng sự cách biệt quá xa về cấp bậc cũng như tuổi tác đã trở thành một rào cản dù tôi cũng biết rằng cả anh Văn và chúng tôi đang cố gắng xoá cái rào cản đó. Cái không khí của những buổi họp đã chẳng cố gắng làm điều là gì? Thế là tôi im lặng ngồi uống bia. Bổng dưng tôi chợt rùng mình khi nghĩ tới cái việc. Nếu chúng tôi lợi dụng cái mà mình được giao để thủ lợi thì Tôi không dám nghĩ tiếp.
Sáng hôm sau, chúng tôi lại vào phiên họp mới. Sau khi cho một số chỉ thị. Anh Văn giọng buồn buồn báo tin anh Thanh không còn giữ chức Tư Lệnh CSQG. Nhưng anh cũng cho biết có những thuận lợi mới, nhưng anh lại không nói là thuận lợi gì? Tôi thầm nhận định. Cái UB này đang đánh đu với số phận. Nhưng tôi cũng chợt nhớ câu nói của Nguyễn Thái Học mà anh Nam viện dẫn. Ừ thôi thế nào cũng được, trước tiên hãy là con người cái đã. Nhưng sẽ buồn vô cùng nếu là một con người chết. Cuộc họp chấm dứt lúc 10 giờ. Anh Văn gọi riêng tôi, Trung béo, Hà nẫu và Ngọc thông báo cho biết chúng tôi hãy ở lại, ngày mai gặp riêng anh lúc 8 giờ.
Tất cả đã trở về đơn vị của mình, chỉ còn lại bốn thằng, chúng tôi rủ nhau ra Lê Lợi chui vào Hà Nội uống café. Trung béo hưởng ứng mạnh nhất. Thực ra cả bọn không xa lạ gì Sài Gòn, cái thành phố mang mỹ danh Hòn Ngọc Viễn Đông này vẫn luôn luôn là một bí ẩn, luôn luôn là sự hấp dẫn đối với những tên học hành lở dở như bọn tôi. Ở đây có những điều luôn luôn mới, thế mà cái hồn của những ngày tháng khai hoang thì luôn luôn hiện diện. Những kẻ hậu sinh như chúng tôi. Chỉ cần một vài giây phút lắng sâu vào trong lịch sử, chúng tôi có thể nhận diện một cách rõ ràng, những đường nét hào sảng, bạt mạng trong tính cách từng con người là hậu duệ của những lưu dân tham dự chuyến Hành Phương Nam mở rộng cõi bờ. Nếu Hà Nội là cái nôi của dân tộc. Thì dù cho biến thiên của cuộc sống có như thế nào chăng nữa thì Sài Gòn luôn luôn là một trái tim, một trái tim nhân hậu. Con đường Công Lý dẫn chúng tôi đến nơi mình muốn. Cô bé ngồi két đón chúng tôi bằng một nụ cuời. Thức uống chưa mang ra nhưng giọng hát ngọt ngào của S.Vartan đã tới. Ngọc, Hà nẫu tròn mắt nhìn tôi. Thì ra Trung béo đã nói gì đó với bọn nó khi cả bọn lang thang trên đường trong khi tôi đang miên man với những suy nghĩ của mình. Hà nẫu thì ngạc nhiên chớ không quan tâm lắm đến bản nhạc. Nhưng với Ngọc thì khác, bởi bất cứ một sinh viên sĩ quan Thủ Đức nào mà chẳng dăm ba lần lê la trên con đường này trong những ngày nghĩ phép cuối tuần và tất nhiên các quán café như Mai Hương, Hà Nội, Tuyết Lan… luôn là điểm dừng chân.
Đốt điếu thuốc, hớp ngụm café. Trung béo khai cuộc:
- Ê. Có lẽ nên cho thằng Ngọc một cái hỗn danh chớ ?
- Mày thì cứ thế, mọi người dưới con mắt mày đều méo mó hết. Hà nẫu lên tiếng.
- Tất cả đã méo mó hết, nên tao phải làm vậy. Hai cái trừ trở thành cộng, hai cái méo trở nên tròn. Trung béo lý sự cùn.
- Và tròn y hệt như mày. Hà nẫu chêm vào
- Tất nhiên. Thế thì coi thằng Ngọc này, hay là cứ gọi nó là Ngọc Baby.
Ngọc nhăn mặt :
- Ở Tây Ninh cái hỗn danh đó nó hành tôi như ma hành vậy, lên đây gặp mấy ông nữa. Chắc tôi đến tám mươi tuổi vẫn còn con nít.
Cả bọn cười ngăt ngoẻo, thì ra chí lớn luôn gặp nhau. Không khí bắt đầu nhộn. Chúng tôi ngồi kể cho nhau nghe những kỷ niệm của riêng mình, rồi chọc phá nhau, rồi buồn, rồi vui cho nhau.
Bốn ông lão sinh ra bốn thằng đang quây quần tại đây cùng là Việt Minh thứ thiệt. Khi mà cái hoà bình mong manh lập lại. Họ lao vào việc tìm kiếm chén cơm manh áo cho lủ con của mình, cùng đong đưa qua hai lẽ tử sinh. Hà nẫu lại là thằng không may mắn. Khi chiếc xe chở hàng của ba nó cán phải mìn. Cả ba mẹ nó, hai người xuơng thịt trộn lẫn vào nhau. Một sự keo sơn gắn bó làm tan nát lòng người. Tám anh em nó phải dắt díu nhau đi qua những đoạn đường đói lạnh. Thằng Trung béo thì lý lịch có vẻ gồ ghề hơn. Mẹ nó là một giáo viên nghỉ hộ sinh nhiều hơn thời gian đứng lớp. Ba nó thì có một trường dạy đánh máy chữ. Nhưng cũng không đủ nuôi mười một cái tàu há mồm. Cũng may bây giờ có hơn phân nữa anh em nó có việc làm, nên đã thoát cơn thiếu thốn. Còn thằng Ngọc baby thì là con út trong một gia đình có bảy anh chị em, trong đó có hai ông anh là sĩ quan biệt phái Bộ Giáo Dục nên nó không được hoản dịch vì lý do gia cảnh. Ba nó có cái quán café, mẹ nó thủ một nồi bún cá bán cho dân lao động. Bốn ông già, bốn hoàn cảnh sống khác nhau, nhưng lại chung một cảnh khó nghèo và một bầy con đếm hoài không hết. Những bầy con đông đúc ấy được nuôi nấng bằng lòng thương yêu vô hạn. Được ăn những chén cơm, mặc những manh áo đổi bằng mồ hôi, nước mắt và cả máu. Và bây giờ những đứa con của họ đang tham gia vào một cuộc chơi chết người với những kiến thức còm cõi và tính khí khinh bạc, vong mạng. Tội nghiệp thay cho những người cha, người mẹ. Và cuộc sống này có bao nhiêu nữa những người cha, người mẹ như thế? Và bao nhiêu thằng con có số phận bọt bèo đầy bất trắc như chúng tôi. Cái khái niệm Việt Minh luôn luôn mơ hồ trong chúng tôi. Cái khái niệm Việt Cộng là đào đường phá lộ, gài mìn, quăng lựu đạn. Cái khái niệm Quốc Gia mà chúng tôi khoác lên người thì cụ thể đến trần trụi. Chúng tôi còn quá trẻ để tham dự một cuộc chơi rất ư kỳ cục. Những người Việt Minh hầu hết đã trở thành cha chú, còn Quốc Gia và Việt Cộng thì chỉ là một đám nhóc con đánh nhau chí mạng mà chẳng biết tại sao (!?). Thằng nào cũng rộng mồm yêu nước. Chẳng biết yêu cái kiểu gì mà đất nước tan hoang, Nga đầy Hà Nội, Mỹ nhóc Sài Gòn. Những thằng mắt xanh mũi lỏ ấy cặm cụi dúi vào tay bọn nhóc chúng tôi từng khẩu súng, viên đạn, trái mìn để chúng tôi bắn giết nhau chơi.
Và nỗi buồn cũng qua đi khi chúng tôi bắt đầu kể cho nhau nghe những trò quái quỷ của mình. Cả ba thằng hì hục chép lại bài thơ duy nhất được đăng báo của tôi. Ngọc Baby ngâm nga mãi hai câu chót “Anh chờ em đến bạc áo nâu sồng“ mà mắt thì cứ nghiêng nghiêng nhìn cô ngồi case. Thằng Trung thì cười hô hố khi nghe kể cái việc đi mua kẹo của tôi. Chúng tôi tự động công khai những trò chọc trời khuấy nước của mình thời làm con nít, rồi cùng hè nhau cười. Cô bé ngồi két ban đầu cũng không để ý đến câu chuyện của bọn tôi. Nhưng đến buổi trưa quán vắng người. Cô bé bắt đầu chăm chú nghe, chăm chú buồn, chăm chú cười và chăm chú ghi thêm thức uống, ghi thêm thuốc lá. Cái bàn con con đã ngỗn ngang ly tách, những cái gạt tàn cứ vơi rồi lại đầy. Đấy lính lác bọn tôi thì như thế đấy, tự tàn phá đời mình bằng đủ mọi trò. Chúng tôi rời quán lúc 4 giờ chiều. Sau khi đáp ứng yêu cầu của cô ngồi két bằng cách viết lại bài thơ nặng mùi ấy và hình như có một cái hẹn bằng mắt gởi cho Ngọc Baby? Ngộ nhỉ. Tôi chưa bao giờ thả mồi bắt bóng thành công bằng bài thơ này. Nhưng bạn bè quen biết gần xa hình như ứng dụng khá hiệu quả. Hai tháng sau Thu nghỉ học, nghỉ ngồi case, quảy gói về Tây Ninh. Có hai lý do để cho Thu có quyết định này. Nhà hết tiền để cho cô học tiếp và tình yêu đã tới. Nhưng dù có mấy lý do chăng nữa thì nó cũng xuất phát từ trái tim. Thì thôi. Tình yêu thì bao giờ cũng đẹp. Không đẹp thế này cũng đẹp thế kia. Miễn sao là chịu yêu nhau. Tiếc rằng cái đám cưới ấy quá xa nên tôi không đến dự.
Sáng hôm sau, chúng tôi gặp anh Văn ở phòng ăn. Sau khi ăn sáng xong anh đưa chúng tôi về văn phòng của anh. Ở đây anh cho chúng tôi biết rõ tình hình ở đơn vị của từng thằng và cho một số chỉ thị mà chúng tôi phải thực hiện. Riêng phần của tôi anh bảo :
- Việc của chú Hiền về mục tiêu 8RG. Phải có kế hoạch xóa ngay không được chần chừ, khi về tới đơn vị chú phải bắt tay ngay vào việc. Chú Nam sẽ những chỉ thị cần thiết cho chú, tôi đã có những liên hệ cần thiết với BCH khu 4. Thiếu Tá Phước có vẻ chịu chú đấy, đó là một thuận lợi. Còn có những phức tạp nối tiếp sẽ xảy ra ở vụ 5RG, những phức tạp đó chú sẽ lãnh đủ, nếu chú không khéo. Nhưng chú cứ yên tâm và phải biết kềm chế. Còn lại một số mục tiêu khác rất quan trọng là ở Kiên Giang vừa hình thành một đường dây mua bán ma túy trong đó một sĩ quan cấp úy của tiểu khu. Theo anh thì anh ta bị lợi dụng, nhưng cũng có thể khác hơn. Chú về bằng mọi cách xác định vai trò của anh ta trong đường dây này và từ đó phăng ra những người có liên hệ. Anh sẽ chuyển thêm cho cho chú một ít tiền nữa vào trương mục[vii] mang tên chú để tùy nghi sử dụng cho vụ này, món tiền không lớn, nên chú phải thật cẩn thận khi sử dụng. Điều này thì anh nhắc cho cả bốn là không ai có thể ký lệnh thuyên chuyển mấy chú mà không có ý kiến anh. Bây giờ thì yên tâm chưa?
Chúng tôi cùng nhận chỉ thị, nhưng tâm trạng mỗi đứa mỗi khác vì tùy theo vụ việc của mình, nhưng có một điểm chung là không hiểu tại sao chúng tôi bao giờ cũng đơn thương độc mã. Anh Văn bấm chuông và một nhân viên mang đến cho chúng tôi Phiếu Vảng Phản đã ký xong, mỗi đứa nhận được tiền về xe, riêng Hà nẫu ngoài tiền, còn phải chờ thu xếp về bằng máy bay quân sự. Anh Văn đứng dậy bắt tay chúng tôi, chúng tôi rời văn phòng của anh trở về phòng mình chuẩn bị hành lý. Phong cách của anh Văn làm bọn tôi bất ngờ với những lần đầu và thắc mắc những lần sau. Với tư cách là một tướng lãnh, anh không việc gì phải tự thân giải quyết những việc lỉnh kỉnh như thế, lại càng không cần phải trực tiếp ra lệnh thế này, chỉ thị thế kia, khuyên nhủ, chỉ dẫn cho đám nhóc chúng tôi chuyện này việc nọ. Nhưng thật tình, chúng tôi cảm thấy gần anh hơn và cũng rất sợ làm anh phật lòng.

Tôi trở lại Lý Thái Tổ tìm hỏi thăm Lan, nhưng không ai biết cả, ông anh họ của tôi đã chuyển về Chương Thiện từ lâu. Đứng tần ngần một lát, không hiểu rồi ma đưa lối, quỷ dẫn đường như thế nào mà tôi lại kêu xích lô máy tìm đến nhà của Thu Huyền. Thu Huyền ra mở cửa trố mắt nhìn tôi :
- Thì ra là cậu. Mời vào
Thu Huyền đón tiếp tôi với một thái độ hơi lạnh:
- Cậu đừng có nói với tôi là đến đây hỏi thăm Lan nghe.
Bị đánh phủ đầu, tôi cũng biết nói sao, đành đứng nhìn Thu Huyền, nhưng cuối cùng cũng bắt đầu xạo:
- Chuyến này lên Sài Gòn là nhằm mục đích gặp chị.
            - Gặp tôi ? Ngộ nhỉ. Để làm gì. Để xin lỗi à?
            - Cứ cho là như vậy đi.
Tôi đành nói vậy. Chứ có lỗi phải gì mà xin. Tôi đưa mắt nhìn quanh, rồi nhìn Thu Huyền, trông có vẻ già đi và tiều tụy hơn một chút. Bất chợt tôi hỏi:
            - Lúc này chị sao rồi ?
            Một nụ cười khinh bạc :
            - Vẫn vậy. Còn cậu?
            - Lính. Một con đường không lựa chọn. Tôi nhìn Thu Huyền rồi tiếp, Chị không vẫn vậy như chị nói đâu. Có một cái gì đó khác đi ở chị. Tôi nói chị đừng buồn. Thời gian không đứng yên thì chúng ta khó lòng mà trụ vững. Sự khác đi là phải rồi.
            - Thế thì cậu bảo tôi phải làm gì nào ?
            - Sao chị không lập gia đình đi, trời nực có người quạt cho mát, gió lạnh có người ôm cho ấm. Ở một mình, liệu có ổn lắm không ?
Thu Huyền nhướng mắt nhìn tôi, cười khẩy :
            - Cậu học ở đâu cái kiểu ăn nói như thế. Mới ăn có dăm miếng cơm cháy nhà binh mà xem ra cũng tiến bộ nhanh đấy. Thế cậu bảo tôi lấy ai nào? Lấy mấy chú lính rày đây mai đó, tiền lính tính liền à. Nó sống thì nó xỉn, nó say. Chẳng may nó ngủm thì lãnh mười hai tháng lương tử tuất, một mảnh khăn tang. Đó là chưa kể nó để lại một đống lính con thì nuôi có mà mất thở.
Ngừng lại một chút. Giọng chị lại gắt lên:
- À mà cậu này lạ nhỉ? Xô cửa bỏ chạy mất tăm mấy năm nay, rồi bây giờ quay lại bảo tôi lấy chồng. Cậu là anh cả tôi chắc.
            - Xin lỗi chị, tôi không nghĩ thế, nhưng cứ nói như chị thì thiên hạ chẳng ai có vợ có chồng à?
            - Tại tôi nhát, họ có gan họ cứ làm. Thế còn cậu?
            - Ai cũng nghĩ như chị thì tôi làm sao đây? À. Mà đứng mỏi chân quá. Tôi ngồi được không chị? Tôi lửng lơ. Ghê thật.
Thu Huyền nhìn tôi, trong đôi mắt ấy anh ánh lên một cái gì đó gọi là ngổ ngược nhưng cũng rất đời:
- Chà. Hay thật đây. Thành sói bao giờ vậy? Thì ngồi, Ngồi xong rồi nói cho tôi biết đến đây làm gì? Thu Huyền lại vặn vẹo tôi.
Tôi ngồi xuống và lảng qua chuyện khác:
            - Nói thật với chị. Cuồng chân chẳng biết đi đâu? Ghé thăm chị xem bây giờ chị sống như thế nào? Sau là xin lỗi chị về những nói năng không lịch sự trước kia
Thu Huyền nhướng mắt nhìn tôi:
            - Nghĩa là giải quyết vụ cuồng chân của mình trước. Còn việc xin lỗi chẳng qua là cái cớ.
Tôi cười ngượng nghịu:
- Đã lỡ đến đây thì chị trách như thế nào cũng phải chịu. Chẳng lẽ vừa nói lời xin lỗi rồi lại phùng mang trợn mắt với chị sao?
- Cậu coi bộ cũng chẳng vừa. Nhưng dù sao cũng nên cám ơn cậu.
Một lần nữa tôi lại phải đánh trống lảng:
- Thôi mà chị. Lúc này chị còn viết lách gì không?
- Vẫn viết và vẫn bán. Bán được thì có tiền xài, không được thì nhịn.
            - Chị viết được bao nhiêu rồi?
            - Chẳng biết nữa. Người ta đặt hàng bao nhiêu, viết bấy nhiêu. Cải lương, tiểu thuyết. Ngắn có, dài có. Ngắn tiền ngắn, dài tiền dài. Đặt đâu viết đấy, mua đứt, bán đứt. Đôi lúc cả thơ nữa. À cái thứ này, giá cả chẳng bao nhiêu, vài ngàn một bài thơ chín mười giòng. Ngoáy ba mươi giây là xong.
            - Chị bán cho ai. Tôi lộ vẻ nghi ngờ.
            - Thì bán cho người đặt hàng, họ mang về xào nấu lại rồi họ bán cho các đoàn hát, cho mấy tờ báo. Dăm ba chục ngàn một giao kèo. Đôi khi thì năm, mười ngàn. Văn chương hạ giới rẻ như bèo mà. Thế thôi. Ơ. Mà cái cậu này. Ở đâu mà chui vào nhà tôi rồi truy vấn lung tung thế nhỉ?
            - Thì hỏi thăm vậy mà. Thế sao chị không trực tiếp đi bán cho những nơi cần bán, mà lại bán cho họ?
            - Đợi mấy ông bầu, mấy nhà xuất bản mua một tác phẩm của một kẻ vô danh tiểu tốt, thì lấy cái gì mà ăn hả cậu? Giọng Thu Huyền trở nên ngậm ngùi
            - Chẳng lẽ với ngần ấy thứ chị đã viết mà không tạo nổi một cái tên Thu Huyền à?
            Thu Huyền cười khanh khách, trong tiếng cười ấy nó mang theo một nỗi u uất không có gì tả nổi. Khi Thu Huyền ngưng cười, thì mắt đã ngấn nước, không rõ vì tủi hay vì cười :
            - Này cậu ơi, cuộc đời nó như thế đấy, người ta mua, mình bán. Bán xong rồi thì cái đó là của người ta, người ta ăn dộng như thế nào đó là quyền của họ. Tại sao mình lại vác cái mặt mình đến để làm gì ?
            - Chị có thể cho tôi biết tên một vài tác phẩm nào không ?
            Thu Huyền trợn mắt nhìn tôi :
            - Để làm gì ? Để cậu nổi máu anh hùng rơm đòi nhét cái tên vô nghĩa của tôi vào đó à? Mà liệu cậu có làm được không ?
            - Biết đâu tôi tìm được một chút công bằng cho chị. Tôi nói mà không biết mình nói gì?
            Thu Huyền lại cười, giọng cười lần này thì đầy chua chát:
            - Cậu ngây thơ nhỉ ? Mà nếu không thì cũng chúa lọc lừa như mấy thằng cha nhân tình họ Sở của tôi vậy. Công bằng ư? Một vài cuốn tập, mấy cây bút bi, ngoáy ngoáy dăm ngày là xong một câu chuyện bố láo, bố lếu. Bán cho người ta dăm ba chục ngàn, gần nửa năm lương của cậu. Quá công bằng đấy chứ. Cái không công bằng chính là cuộc sống của cậu kìa. Cậu đem cả tuổi thanh xuân, mồ hôi, nước mắt và không biết chừng cả máu nữa để đổi lấy một nhúm tiền vừa đủ mấy cơn say. Thế đấy, cuộc sống này ác quỷ và thiên thần hoà lẫn vào nhau như nồi thịt chó xáo măng. Ấy vậy mà ngon. Này. Bây giờ thì tắm rửa đi, tôi cho ngủ nhờ đêm nay
            Thu Huyền nói tiếp như con mẹ điên :
            - Bây giờ, tôi thành thật cám ơn cậu. Dù sao cậu cũng làm cho tôi bớt một ngày trống trải. Tôi nghĩ rằng giữa hai ta còn có nhiều điều muốn nói cùng nhau. Mới ngần ấy năm mà thấy cậu coi bộ muốn thành ma rồi đấy. Chừng nào thành quỷ nhớ ghé đây rửa lon. Thu Huyền nhắc lại lần nữa. Cậu tắm rửa đi cho khỏe. Tôi cũng vừa mới bán một cuốn tiểu thuyết ba xu được mấy chục ngàn đồng. Lời chán vạn chưa? Tiểu thuyết ba xu mà bán mấy chục ngàn. Ha ha Cậu thấy chưa? Tôi sẽ mua vài món đưa cay cùng cậu. À mà cậu ăn thịt chó được không? Đừng nói là không đấy ?
           Tôi không biết phải nói gì? Cái liều mạng của tôi không làm người ta nhột. Nhưng cái khinh bạc cuộc đời của Thu Huyền thì như búa bổ vào đầu, và tôi nói bằng cái giọng tưng tưng:
            - Con mời thì ăn, con mua thì không?
            Thu Huyền bước ra nhà sau lấy cái xô nhôm, bước ra vừa đi vừa nói:
            - Cậu cà khịa cũng khá đấy. Đúng lý ra là tôi tống cỗ cậu ra khỏi nhà. Thế mà chẳng những không làm mà còn mời ăn nhậu. Riết rồi tôi hết hiểu nổi tôi. Thôi, trông nhà dùm. Không có gì phải ngại, cái món quý nhất trong ngôi nhà này là tôi mà cũng chẳng ai buồn lấy nữa là Tiếng của Thu Huyền xa dần. Nhìn theo cái vóc dáng đây đẫy, thấp thấp, mập mập, tròn tròn của Thu Huyền khuất dần trong con hẽm. Một cái gì là lạ đẩy vào tôi một cảm giác nôn nao về khung trời của một làng quê xa lắc, mà giờ đây chắc vẫn còn xơ xác tiêu điều vì bom đạn.
            Tôi khép hờ cửa lại và ra sau tìm nhà tắm. Tắm xong, thay bộ đồ sạch sẽ, tôi cảm thấy khỏe hơn. Không như mọi lần, lần này tắm xong thì sạch người mà lòng thì không sạch mấy. Nhìn đồng hồ đã ba giờ chiều. Ra salon ngồi, đốt cho mình điếu thuốc. Ngước lên nhìn tấm ảnh của Thu Huyền phóng to chụp lúc còn đi học, cái áo dài trắng tinh khiết với cái khuôn mặt đầy tinh nghịch, không biết cái gì khiến tôi đứng dậy mân mê khuôn hình bằng những cái vuốt ve trang trọng, tôi thấy ở đó một chân trời sáng lạng như cái chân trời tôi đã từng mơ uớc. “Tiểu thuyết ba xu mà bán mấy chục ngàn. Ha ha.“ Câu nói  nghe sao mà ngất trời cay đắng.
Một tiếng động ngoài cửa tôi quay lại khuôn mặt Thu Huyền xuất hiện nơi khung cửa nhìn tôi, Cái khuôn mặt dạn dày, lọc lõi hằn lên nét đớn đau. Và lặng lẽ như chiếc bóng, chị đi thẳng vào nhà bếp để mặc cho tôi với cái khung ảnh lồng bên trong là khuôn mặt thánh thiện đến có thể tôn sùng.
            Rồi tất cả được bày biện ra với cái vẻ tinh tươm đến không ngờ. Chỉ có người đàn bà đã chịu đựng trăm nghìn đắng cay trong sự thèm khát mâm cơm, có hơn một người, đến cháy lòng mới có thể tinh tươm đến thế. Sự khờ dại vụng về, đáng yêu không thể làm được điều này. Tôi ngồi lặng yên đón nhận mà không thể nào cất tiếng hay có một phản ứng gì. Vẫn lặng lẽ như lúc mới về, Thu Huyền lôi ra từ trong tủ một chai Rémy Martin. Tôi trố mắt nhìn:
            - Trời đất, ăn thịt chó, uống rượt tây. Cái này lạ đây?
            Thu Huyền cười to:
            - Rượu lậu đấy, Rượu lậu được mấy ông Parker (Bắc kỳ) gọi là “cuốc lủi” . Ăn thịt chó mà uống “cuốc lủi” thì còn gì hơn, phải không ?
             Rót đầy hai ly, Thu Huyền nâng lên :
            - Nào, mừng cuộc tương phùng.
            Tôi im lặng nâng ly, một thứ hương thơm nồng nồng xông lên mũi và cái hơi ấm lan tỏa từ cuốn họng vào lòng. Tôi chợt nhìn và thấy đôi mắt Thu Huyền long lanh, long lanh. Tôi ngắt từng cọng ngò om, lá quế, mấy cái lá mơ, một miếng củ riềng, vài lát sả, gắp một miếng dồi nhúng vào chén mắm tôm pha chanh ớt và bột ngọt để vào chén. Nâng chén lên, dồn hết vào mồm, nhai ngồm ngoàm để cho mọi thứ tan ra. Tất cả quê hương ngọt ngào, cay đắng , nồng nồng, chua chua, chát chát tụ lại thành một thứ hương nồng tan ra, rồi thấm vào vị giác mang theo cái gì đó ngất ngây. Thu Huyền lại rót thêm một ly nữa, rồi một ly nữa.
            Đôi má hồng lên. Thu Huyền lại trở thành con người khác, dáng vẻ điệu đàng, cái nhìn dữ dội, đôi môi cong lên đanh đá trên khuôn mặt khinh bạc đang trộn lẫn vào nhau tạo ra một cái nhan sắc lạ kỳ và làm cho tôi chới với. Một thoáng thèm muốn hiện lên trong tôi nhưng bị triệt tiêu ngay tức khắc. Cũng hay. Từng ly rượu nhỏ vừa một hớp cứ được rót ra, vơi rồi lại đầy, đầy rồi lại vơi. Bổng nhiên Thu Huyền cất tiếng ngâm :
       “ Sống trên đời có miếng dồi chó,
       Xuống âm phủ biết có hay không?”
       Nâng ly lên để ấm lòng,
       Say say, tỉnh tỉnh trong vòng nhân gian.
       Cõi địa phủ, thiên đàng chán ngắt,
       Cứ ở đây quay quắt với đời.
       Khi buồn ta cất tiếng cười.
       Khi vui khóc cái cuộc đời lu bu.
       Buông ý nghĩ mịt mù thế giới,
       Mang mộng mơ gởi khắp xó đời.
       Cứ say xỉn để mà chơi.
       Cứ chiêm bao để giọng cười bớt đau.
       Mặc thiên hạ lao xao lộn xộn.
       Riêng lòng ta. Trọn vẹn cho ta,
       Buồn vui một kiếp… Khà khà…
            Tiếng cười chấm dứt bài thơ lại cất lên đầy một trời thách thức. Tôi ngẩn người nhìn chị. Trời ơi. Có phải là con gái của Lỗ Trí Thâm không vậy ta? Rồi cái gì đó làm cho tôi phá lên cười theo chị. Khi dứt tràng cười cả hai đầm đìa nước mắt mà không hiểu vì sao. Bổng dưng Thu Huyền dứng dậy đến ngồi sát bên tôi tựa đầu vào vai tôi. Và không biết cái gì xui tôi ôm chị vào lòng. Và như thế, chỉ như thế thôi. Cái mùi của đàn bà bốc ra làm một thoáng dâng lên, rồi nhanh chóng tắt ngấm nhường lại cho tôi cái cảm giác phiêu bồng. Chúng tôi tựa vào vai nhau và để cho cái cảm giác kỳ thú bởi men rượu và cái hơi hướm lạ lẫm của nhau dẫn dắt chúng tôi bay vào một cõi mơ hồ.
            Khi chúng tôi trấn tỉnh lại và dọn dẹp xong cái ngỗn ngang của cơn say sưa để lại. Thu Huyền pha café, mỗi người một ngụm, mỗi người một hơi thuốc và yên lặng nhìn nhau. Bổng Thu Huyền   nói với tôi:
- Cậu làm ơn đi đánh răng cho. Để cái mồm đầy mắm tôm, ngủ một giấc, thức dậy sẽ chẳng còn cây răng nào.
Tôi nheo mắt nhìn chị rồi đi ra nhà sau và tiếng chị vọng theo:
- Đôi mắt hí của cậu lại trở thành đôi mắt quỷ dử bao giờ vậy?
Cơn khát vọng ầm ào xâm chiếm lấy chúng tôi khi tôi trở lại. Chúng tôi đã sử dụng cho đến hết cái phương cương của tuổi trẻ không một chút đắn đo, dưới sàn nhà, trên salon hay bất cứ nơi nào mà chúng tôi nghĩ rằng nơi đó giúp cho cả hai đạt những xúc cảm cao nhất của yêu đương.
            Tôi ngủ thiếp đi giữa tiếng ngâm thơ đầy khinh bạc văng vẳng bên tai.
            Tôi tỉnh dậy, và không biết tự bao giờ Thu Huyền lại trở thành một người đàn bà đích thực, sự dịu dàng, nhẫn nại trong công việc, tôi nằm yên nhìn chị sắp xếp dọn dẹp lại căn nhà. Và tôi cảm thấy mình có lỗi, khi nhìn thấy nụ cười của chị với câu nói mà tôi không ngờ là có được trong con người mà tôi vừa thấy trước kia:
- Nào dậy đi ông mãnh.
Tôi đứng dậy di vào nhà nhà tắm, một cái khăn cực sạch, một thau nước ấm, một bàn chải đánh răng đã có sẵn kem. Câu nói đưa tôi trở lại mái hiên nhà với cái võng mà tôi đong đưa trên đó khi nhận ly nước dừa của ngày nào “Nè. Uống đi. Y như con nít”. Và tôi tận hưởng cái thú vị được chăm sóc như đứa trẻ con quen được chiều chuộng, nhưng đã từ lâu rồi không có nữa. Sự  thú vị của một điều gì đó mơ hồ và cái thực tại đang sờ nắm được. Ngoài kia Thu Huyền đang tận hưởng cái thú vị khi được làm cái thiên chức của một người có bổn phận phải chăm sóc cho ai đó thân yêu. Khi trở ra, một bữa ăn sáng đã sẵn sàng. Chúng tôi ngồi ăn với nhau trong im lặng, mỗi người một suy nghĩ riêng. Có thể chị ấy đang tận hưởng cái hạnh phúc mong manh mà mình vừa có được. Không để cho nó tan loảng dù chỉ là tan loảng trong cái không gian nhỏ bé của căn nhà. Khi mà mọi cái qua đi, tôi lại tự trách mình, tại sao ghé lại nơi này.
            - Cậu ở lại với tôi một hôm nữa. Được không? Tiếng của Thu Huyền nhẹ như gió, thiết tha. Không hiểu sao tôi lại trả lời:
            - Được. Nhưng để làm gì? Dứt tiếng, tôi hiểu ngay tại sao tôi chấp nhận một lần nữa một việc mà mấy giây trước đây tôi tự trách mình
            Vừa dọn dẹp bữa ăn sáng, chị trả lời :
            - Tôi cũng không biết để làm gì? Như cậu cứ ở lại đi. Hãy xem đây như một lời năn nỉ.
            - Vâng. thì ở lại. Nhưng những gì chị dành cho làm tôi cảm thấy bức rức mà không hiểu tại sao?
- Có gì mà cậu phải bức rức. Hãy tham gia một cách cật lực vào các niềm vui mà bất chợt mình có được. Cậu không có nhiều cơ hội đâu? Cậu đừng hiểu lầm tôi. Đừng mang những khái niệm đạo đức do thiên hạ tự đặt ra, rồi tự vo tròn bóp méo mà quên đi những nhu cầu bức thiết của bản thân mình, mà những nhu cầu đó thì tạo hóa ban cho, chứ không phải cái khái niệm đạo đức do con người tự tạo. Nhưng suy cho cùng, cái loại đạo đức mà một tay nào đó tạo nên chẳng qua là họ muốn làm cha thiên hạ. Thế thì, tại sao lại không dám làm những chuyện mình thích, tại sao không dám nói lên điều mình nghĩ, khi mà những cái mình thích, những điều mình nghĩ không làm rụng của ai một cọng lông chân. Trong mọi khái niệm đạo đức, chỉ một khái niệm duy nhất tôi chấp nhận. Đó là đạo đức của gia đình. Cậu hiểu tại sao không? Đây là một yêu cầu của sự tồn tại. Cần phải tuân thủ nghiêm nhặt. Ngoài ra tôi sổ toẹt. Những người đàn ông mà tôi cần đến để lên giường thì không thiếu. Như cái cách mà tôi với cậu đến với nhau không phải lúc nào cũng có được. Cậu an tâm. Hãy sống cho hết mình khi có thể. Hãy tự thân mà chiều chuộng chính mình và cũng vì nó mà nhận những âu yếm của người, nếu có. Đừng bắt ai chiều chuộng mình, cũng không nên cắn răng mà chiều chuộng ai. Bởi vì hơn ai hết, cậu phải hiểu là có hàng trăm kiểu chết đang chờ chực cậu từng phút, từng giây. Tôi không quan tâm đến việc cậu có vợ hay chưa, Còn tôi, tất cả mọi người đến với tôi, nếu họ không chiếm đoạt và tàn phá thân xác tôi thì cũng tìm cách đày đọa tâm hồn tôi. Tôi không giàng giật cậu từ tay vợ cậu. Hai chúng ta cần nhau và chỉ có thề, không điều kiện nào ca ngoài điều kiện cả hai cần nhau đúng lúc, khi thoả thuê rồi thì chia ly, bình thản chia ly hay ngậm ngùi chia ly đều được cả. Tôi chờ… và cậu đã đến thật, sau một lần chối từ vì cái ý thức khốn khổ của cậu. Bây giờ khi trở lại, tôi biết một sự trở lại xuất phát từ trong tâm thức cậu. Tôi và cậu phải tận hưởng, bởi vì nó cực kỳ ngắn ngủi. Đừng bỏ sót nó, đừng để nó rơi vãi một cách lãng phí. Thú thật với cậu, bao nhiêu người đàn ông đi qua cái giường ngủ của tôi, hầu hết đều với một thái độ vị kỷ. Họ làm tình mà đeo cái mặt nạ đạo đức, trong khi thân thể thì trần truồng và tấm lòng thì đốn mạt. Tất nhiên. Tôi cũng đáp trả lại đâu kém gì. Mà đây lại không phải là bản chất của tôi, tôi cố gắng thực hiện nó bằng một khả năng kém cõi và nó làm tôi mệt, tôi chán, rồi sau đó là đau đớn. Thú thật, khi làm tình với cậu tôi mới có cảm giác ái ân. Bởi lẽ tôi và cậu đến bên nhau và trong một phút bất chợt cần có nhau. Sẵn đây cho tôi cám ơn cậu về sự từ chối tôi lần trước. Bởi vì nhờ nó, tôi mới hiểu được giá trị của việc cậu bất chợt trở lại nơi này. Cậu có thể cho là tôi ngụy biện. Nhưng có một điều rất thật mà tôi chưa bao giờ có được. Đó là lần đầu tiên tôi có một cuộc ái ân không điều kiện. Mà nếu có, thì cái điều kiện đó tôi chưa bao giờ gặp, bởi vì nó không do tôi hay cậu đặt ra. Mà do chính tạo hóa ban cho, nhưng đã từ lâu, vì một cái gì đó mà cả tôi lẫn cậu đều cho là không nên, không nên. Ôi cái không nên khốn khổ.
            Thu Huyền nói như trong cơn mê sảng. Tôi lạnh người và cũng không thể phản bác được những gì Thu Huyền nói. Nhưng có một điều tôi không thể phủ nhận. Quả tình, cuộc đời này cho chúng tôi rất ít niềm tin, rất ít tình yêu để có thể sống, có thể vui. Nếu có, thì có kèm theo điều kiện. Và khi quen với những điều kiện đó bèn gọi là vui. Lập luận Thu Huyền y như của người góa phụ trồng hoa nhưng cay đắng, bạo liệt hơn. Thu Huyền trở lại ngồi xuống cạnh tôi và giọng nói chuyển sang như một lời tâm sự :
             - Cậu biết không khi tôi bán tác phẩm đầu tay của mình, một tác phẩm tôi dành hết tất cả tâm lực của tuổi thanh xuân mà mình có. Tất nhiên là nó không hoàn chỉnh, nhưng ăn khách vì nó trong trẻo, hồn nhiên. Vì thế mà nó đã làm cho tôi quay quắt đến điên rồ. Tôi nôn nao chờ đợi ngày nó khai sinh. Như hởi ơi, khi mà cái ngày đó đến thì nó không còn là đứa con của tôi nữa, từ cái hình hài cho đến cái tên của người tạo ra nó. Sự căm giận, uất hờn trào dâng trong lòng tôi. Nhưng tôi làm được gì nào? Không có một an ủi nào dành cho tôi cả, ngoài một nhúm giấy bạc lạnh tanh. Tôi càng vùng vẫy thì càng trở nên lố bịch. Tôi chỉ chợt hiểu ra khi cái bụng đói meo mà trong túi không có một đồng xu. Cậu biết tôi mừng rỡ thế nào không? Khi có người đến đặt hàng. Xen lẫn trong các cú đặt hàng chữ nghĩa ấy là những cú đặt hàng cái thân xác của tôi. Cậu cứ cười nhạo tôi đi. Tất cả cái gì tôi có, tôi đều bán tất. Trước tiên là bán cái đầu và sau đó là đưa ra cái đít để tìm một niềm vui mong manh. Rốt cục rồi, thiên hạ dụi mặt vào đầu tôi để kiếm tiền, dụi mặt vào đít tôi để tìm vui. Tôi chấp nhận mà lòng đau đớn, rồi lạnh tanh. Nhưng tất cả đều là của tôi. Chưa bao giờ tôi giống như thiên hạ, bán một cái gì đó không phải là của mình. Ấy thế mà thiên hạ nhìn tôi chỉ có nửa con mắt thôi.
Tôi nín lặng, trong khi Thu Huyền phá lên cười thích thú khi nói ra được hết cái lẽ đời bi phẩn mà chị khám phá ra được bằng cách đánh đổi cả cuộc đời mình.
Thu Huyền lại tiếp sau cái nháy mắt:
- Bây giờ tôi và cậu đi thăm thú Sài Gòn. Hình như khá lâu rồi cậu mới lên đây. Nhưng trước khi đi thì… cậu hãy chiều chuộng tôi cái đã.
Thân thể chị lại gấp gáp lộ ra đầy mời gọi, tôi lao vào và chìm ngay vào trong ấy. Những ngọn sóng yêu đương trào lên lên những âm thanh rền rĩ mặc cho ánh nắng ban mai lấp lóa chen qua rèm cửa sổ
Thế là chúng tôi tay trong tay, đưa nhau đi qua từng con đường, đứng nhìn mọi vật, mọi người qua từng góc phố. Khát vào quán café, đói vào quán cơm. Nếu muốn hôn nhau thì tìm vào công viên hay một nơi nào văng vắng. Cứ thế, chúng tôi dắt nhau đi cho đến lúc phố lên đèn, nhàn tản như kẻ đi du lịch, líu lo như một đôi tình nhân và gì gì nữa nhỉ ở trong một khách sạn bất chợt thấy cần và ghé vào.
Chúng tôi trở về nhà với đôi chân rã rời. Nhưng khi tắm táp xong xuôi là cả hai lại quấn vào nhau.

Tôi thức giấc khi trời chưa thật sáng, dưới cái ánh đèn ngủ mờ mờ, tôi nhìn thấy nét bình yên thấp thoáng hiện ra từ khuôn mặt đẹp, nét đanh đá, kiêu kỳ đã biến đi đâu mất, toàn bộ cái thân thể trắng ngần được giữ gìn trau chuốt cẩn thận kia cũng thế, rất đẹp, rất dễ đắm say, kích động lòng người. Nhưng bây giờ cái thân thể ấy gợi lên cho tôi một sự đam mê của chiêm ngưỡng chứ không còn là cái cuốn hút của dục tình. Tôi tần ngần một lát rồi bước ra phòng khách ngồi xuống đốt một điếu thuốc vừa hút vừa ngó quanh trong cái bóng tối mờ mờ. Rồi tôi đứng dậy bật đèn. Thấy cây bút nỉ để dưới bức ảnh của Thu Huyền, tôi nhìn cây bút, nhìn bức ảnh, tôi lấy cây bút và viết sau lưng khung ảnh
       “ Cuộc đời rồi sẽ đẹp,
       Phải là như thế thôi.
       Một chút gì để lại.
       Như giấc mơ giữa đời.
       Giấc mơ thì không thật,
       Đời rất thật. Huyền ơi.
       Đừng rơi thêm nước mắt,
       Hãy tươi thêm nụ cười.”
Viết xong tôi mới biết, những gì tôi viết với những gì tôi đã làm sẽ làm đã đẩy tôi vào hàng ngũ những tên nhân tình họ Sở, vốn đã hơi nhiều của Thu Huyền. Tôi lặng lẽ treo khung ảnh về nơi cũ, tôi chợt thấy mình quả là thằng ranh con. Mấy mươi năm sau tôi mới hiểu rõ hơn, tôi là thằng ranh con siêu hạng.
      
Phải ba ngày sau, tôi rất khó khăn  mới ra khỏi nhà Thu Huyền và mang trong lòng một cái gì đó rất nặng nề. Gần trưa xe mới tới phà Mỹ Thuận. Muời mấy cây số nữa tới Sa Đéc. Tôi nhớ đến vợ tôi và tôi không hiểu mình là cái giống gì, rồi nhớ lại bài thơ của Thu Huyền đọc trong cơn say, nếu như bài thơ này là của chị ấy thì quả tình tôi đã gặp thứ dữ và tôi bị khuất phục cũng là lẽ đương nhiên. Nếu Từ Hải mà chết đứng vì Kiều thì tôi là cái thá gì mà không đổ gục trước Thu Huyền. Bổng nhiên một sự thương cảm trào dâng lên trong lòng. Thu Huyền ơi. Cái gì đã tạo nên cái giao tình giữa tôi và chị như một trò chơi. Chúng ta đã vất phăng đi cái gọi là đạo lý và hết mức chiều chuộng cái thân xác của mình và biện minh cho nó bằng hành động rất con người. Xin chị hãy quên đi, tôi không bao giờ trở lại. Không tự biện minh, nhưng tôi biết nếu tôi trở lại với Thu Huyền một lần nữa thì tôi không thể nào vùng vẫy nổi. Tôi sẽ chìm sâu trong những ngày tháng tuyệt vời ngắn ngủi và một hậu quả khôn lường. Xin lỗi chị, hãy để cho tôi sống cuộc đời của tôi. Chị cũng thế. Một khoảnh khắc đến với nhau, như thế và chỉ như thế chứ không thể hơn nữa được. Trong mọi lúc, mọi nơi khi nào nhớ đến chị. Tôi xin cầu mong cho chị bình yên trong cuộc sống.

Tôi ghé Sa Đéc vào thăm gia đình bên vợ, vẫn khó nghèo, vẫn suốt ngày quay quần bên cối xay bột, trong một vòng đời có biết bao nhiêu vòng cối được quay và cũng ngần ấy rã rời cực nhọc. Nhưng hình như sau những giờ phút lam lũ, cực nhọc ấy là sự nghỉ ngơi, là nụ cười đã hoàn thành một công việc, là tận hưởng những thú vị nhỏ nhoi trong cuộc sống. Cái vùng quê này không có những niềm vui tràn bờ, rất đơn giản vì cuộc sống chưa bao giờ phức tạp. Thấy tôi vào cả nhà mừng rỡ, thế là trà. nước, và sau đó là mâm cơm giản dị kèm theo những lời hỏi thăm thân tình. Vợ tôi thì bao giờ cũng thế, như một chiếc bóng quẩn quanh, luôn luôn gây cho tôi những bực bội vô cớ, không hiểu sao mà tôi chịu được. Nhưng hình như có những lần tôi nhớ quắt nhớ quay cái bóng ấy và thèm những điều khó chịu ấy biết là nhường nào.
Sáng hôm sau chỉ có một mình tôi về Rạch Giá. Ngồi trên xe tôi chập chờn trong giấc ngủ bị đứt quảng bởi con đường xấu và mù mịt bụi đường, xe ngang qua chỗ cô gái nằm chết hôm đó chỉ có lơ thơ một đám cỏ uá vàng, không hiểu người ta chôn cất cô gái như thế nào? Thân nhân có ai biết cô đã chết hay không? Và bây giờ, qua khung cửa xe tôi chợt nhìn về áng mây trắng trôi lững lơ trên khuôn trời vuông vuông trong vắt kia. Tôi nghĩ rằng cô đang ở đó và khi nhìn xuống nhân gian thì cô nghĩ gì về cái nơi mình đã từng hiện diện, về cái thân xác trần truồng không toàn vẹn mà cô đã bỏ lại nơi này. Cô có đau đớn lắm không, sợ hãi lắm không? Tôi chợt buồn, buồn tê tái với ý nghĩ của mình. Xe đến phà Vàm Cống, không biết cơ man nào là lính, là xe. Tôi len lỏi giữa dòng xe, dòng người dày đặc kia và tìm một chỗ đứng trên phà. Khi phà đến giữa sông thì súng nổ váng trời, tôi chẳng hiểu chuyện gì xảy ra. Cuối cùng, thì ra mấy người lính của Sư đoàn 9 đang mần thịt mấy tên quăng bài ba lá. Nhìn họ bị thúc ké, mặt mày xám ngoét, thấy cũng tội, nhưng như vậy cũng phải thôi. Chắc rồi khi được thả ra thì chứng nào tật nấy. Nhưng khi lên đến phà thì mọi việc không như tôi tưởng. Cả bọn bốn tên bị quăng lên xe GMC chở theo đoàn quân. Tôi kêu thầm “bỏ mẹ bọn này rồi”. Trong chiến tranh con người ta ác thật, không hiểu mình có thế không?
            Đúng  bốn giờ tôi về tới Rạch Giá. Sáng hôm sau khi vừa vào cổng BCH thì mọi người nhìn tôi bằng cặp mắt ái ngại, tôi đi vào văn phòng của mình thì thấy trên bàn tôi Tuân đang ngồi lù lù một đống. Tôi chẳng hiểu gì ráo. Tuân đứng dậy quàng vai tôi xuống canteen :
            - Tao cũng không hiểu vì sao tao lại được đưa lên thế chỗ của mày.
            - Tao biết rồi. Đi khỏi chỗ đó tao còn khoái nữa là khác. Tuân tròn mắt nhìn tôi :   
- Mày có biết mày đi đâu không? Về làm trưởng ban hành quân Quận Hiếu Lễ.
            Tôi ngớ người ra và tôi đã hiểu, nhưng không ngờ là đến nước đó. Tôi không sợ, nếu có là cảm thấy mình bị xúc phạm.Tôi vỗ vai Tuân :
            - Thôi được. Chỗ này không ngon ăn như mày tưởng, ráng mà giữ thân. Tao trả phiếu vãng phản và nhận SVL mới đây. Nhưng nhớ nhé, tất cả hồ sơ về vụ ba chiếc ghe chài, mày liệu mà giữ, mất một manh là mày tiêu đấy. Ai có hỏi lấy bản photo giao cho họ, nói bản chánh tao không có bàn giao lại. Nhớ nghe. Tôi đi thẳng qua phòng QTNV làm thủ tục trả vũ khí và nhận lệnh mới. Trong lúc đang làm thủ tục thì Tuân bước vào:
- Hiền, ra nghe điện thoại.
- Ai gọi ?
Vừa đi Tuân vừa trả lời :
            - Tao lên nghe, vừa nói tên và chức vụ tao xong thì người nghe máy hét lên “tôi không biết anh là ai. Tôi muốn gặp thượng sĩ Hiền “ và tao chạy đi kêu mày.
            Tới nơi, tôi vừa áp ống nghe vào tai, và tôi biết ngay là anh Nam. Anh hỏi tôi chuyện gì đã xảy ra. Tôi trình bày tình hình của tôi. Anh bảo cứ nhận sự vụ lệnh nhưng không đi đâu hết, hàng ngày cứ ra phòng trực điện thoại chờ lệnh. Anh cho tôi số điện thoại và bảo báo ngay cho anh biết mọi việc bất thường xảy ra cho tôi. Anh cũng báo cho biết là chậm nhất trong vòng 24 giờ việc của tôi sẽ được giải quyết. Anh cúp máy và tôi xuống nhận SVL. Nhét cái SVL vào bóp, rút khẩu súng trả lại và tôi ra phòng trực ngồi chơi, hút thuốc lá vặt. Chưa yên chỗ thì tay phụ tá thiếu tá Thảo đến bảo tôi lên trình diện. Thì lên. Đến nơi thì một trận phủ đầu chụp xuống ngay :
            - Thượng sĩ cho tôi biết thượng sĩ đi đâu ? Tại sao hôm nay mới về. Nội ngày hôm nay thượng sĩ phải làm tờ tường trình cho tôi.
            - Thưa Thiếu tá tôi về trình diện BTL. Chính Thiếu Tá ký công vụ lệnh mà. Còn việc làm tờ tường trình thì thưa Thiếu Tá. Tất cả mọi hoạt động của tôi trong suốt thời gian công vụ ở Sài Gòn, tôi không được phép tiết lộ
            - Hừ. Anh giỏi lắm. Anh nhận sự vụ lệnh đi Hiếu Lễ chưa ?
            - Thưa thiếu tá. Rồi ạ.
            - Đi ngay, không được chậm trễ
-Tình hình an ninh không cho phép. Tôi chờ chuyến bay ạ.
            - Anh tưởng anh là ông tướng chắc.
            - Dạ không. Tôi là thượng sĩ. Thưa thiếu tá Tôi lại nổi máu cà khịa
            Thiếu tá Thảo vỗ bàn một cái rầm  và hét lên:
            - Đi ra ngay. Tôi bắn anh nát đầu bây giờ.
            Tôi đứng nghiêm chào ông rồi lui ra. Tiếng ông đuổi theo sau lưng :
            - Đồ ba gai.
            Vừa qua ngang phòng tôi, thì nghe đại úy Nhật kêu :
            - Anh Hiền.
            Tôi bước vào chào ông :
            - Chào đại úy.
            Ông chỉ ghế cho tôi ngồi, khi tôi ngồi xong, ông nói:
            - Việc của anh sao rồi ?
            - Đi Hiếu Lễ. Thưa đại úy
            - Tôi có hỏi trung tá thì ông ấy chỉ lắc đầu. Cuối cùng ông ấy bảo với tôi là anh nên chịu đựng một vài tháng. Thú thật tôi không hiểu gì cả?
            - Đại úy không hiểu, nhưng tôi thì hiểu. “Thời thế thế, thế thời phải thế”. Tôi pha trò. Ông ấy đứng dậy rủ tôi đi ra canteen. Tôi nháy Tuân và Ân cùng đi nhưng cả hai lắc đầu. Khi chúng tôi vào thì có một số sĩ quan Chủ Sự Phòng ở đó, thấy chúng tôi vào mọi người nhìn tôi cười, đại úy Trần, An Ninh Cảnh Lực nói:
            - Anh cũng ghê gớm thật.
            Hầu hết các sĩ quan mang cấp đại úy đều tốt nghiệp các khoá Biên Tập Viên hơn tôi một vài tuổi, có người bằng tuổi, dù sự cách biệt khá xa về cấp bậc, nhưng chính cái lon thượng sĩ khá bất thường của tôi đẩy tôi đến gần họ hơn là các thượng sĩ già. Sau khi kêu hai chai 33. Đại úy Nhật hỏi tôi :
            - Bây giờ anh tính sao ?
            Tôi nhìn quanh nói lửng lơ :
            - Chờ máy bay.
            - Anh chắc thế à. À anh trình diện BTL vì cái vụ gì ?
            Tôi suy nghĩ, chắc có lẽ cần phải hé một chút về cái vị trí của mình;
            - Thưa đại úy, tôi về nhận chỉ thị mới và vì vậy nên có thể không đi.
            - Tại sao không là tôi mà là anh. Ông thắc mắc.
          - Tôi cũng không biết nữa. Có thể đại úy là giang đoàn trưởng kiêm nhiệm chủ sự phòng. Thế nên BTL cho rằng tôi nhận chỉ thị thì sau này khỏi mắc công.
           Ông ấy là một người hiền lành và cả tin, nên tôi qua cua khá ngọt. Tôi cảm thấy bực bội vô cớ. Dù sao tôi cũng vẫn là một người chớ không phải là một món đồ. Nhưng tôi cũng nhanh chóng nhận ra cái vị trí của mình như thế đấy. Tôi là một món đồ, cả thiếu tá Thảo cũng thế.
            Buổi chiều tôi mới vào BCH. Cũng những ánh mắt nhìn lạ lẫm, dù có thấy nhưng tôi phớt lờ ngồi tại phòng trực đọc báo. Đúng như tôi dự doán, nhưng hơi khác hơn một chút. Đích thân thiếu tá Thảo kêu tôi lên văn phòng, đến nơi ông chỉ ghế cho tôi ngồi, rồi từ tốn nói :
            - Thượng sĩ hãy về giữ lại chức vụ cũ. Tất cả mọi việc ít ra thượng sĩ cũng nên nói với tôi một tiếng. Để những sự hiểu lầm xảy ra, mang tai tiếng quá. Ông nhẹ nhàng trách tôi lấy lệ.
            Tôi nói cho qua tang lề :
- Thiếu tá thông cảm. Tôi tưởng thiếu tá đã biết.
Ông đứng dậy bắt tay tôi và nói :
- Thôi anh về làm việc đi.
- Vâng. Cám ơn thiếu tá. Xin thiếu tá hãy cho Tuân ở lại phụ tá cho tôi.
- Được. Tôi sẽ thu xếp
Tôi quay về phòng ngồi. Một lát sau, tất cả mọi thứ đều được Phòng QTNV mang trả cho tôi đầy đủ và sự vụ lệnh bổ nhiệm Tuân làm phó ban. Tôi Tuân và Ân bắt tay ngay vào việc kiểm tra lại mọi thứ, may mà Tuân chưa làm đảo lộn một thứ gì. Riêng mục tiêu 8RG, thì tôi để riêng ra vào một nơi khá kín đáo. Tôi Hỏi Tuân và Ân một số việc rồi qua ủy ban BT.TĐXH. Ở đây thì bao giờ cũng thế, chẳng có việc gì làm, họ học và tán gẩu. Thấy tôi, mọi người ồ lên không hiểu vì mừng hay vì ngạc nhiên, tôi hỏi qua loa đôi việc rồi toan ra về thì Liên đưa ra một việc làm tôi lưu ý. Liên nói :
- Anh Hiền. Hình như cái vụ ba chiếc tàu có cách giải quyết rồi đó.
- Cách gì ?
- Em nghe trung tá nói sắp đưa ra ban Thanh Lọc.
Tôi làm như không quan tâm buông nhẹ một câu :
- Thế à. Tôi mới về nên không rõ lắm.
- Bộ như vậy thiệt hả anh?
- Ừ để anh hỏi lại coi.
Tôi ra về và hiểu rằng, cách giải quyết của anh Văn ở trên ấy có điều gì đó không ổn, phải báo cho anh Nam việc này thôi.
Tôi không thể sử dụng điện thoại của BCH nên phải qua Bưu Điện. Tôi vừa lên tiếng thì anh Nam hỏi ngay :
- Sao công việc của em ổn chưa?
- Ổn rồi thưa anh, nhưng có việc này. Em nghe nói vụ 5RG đã có ai đó ở đây đưa ra ban Thanh Lọc. Hôm trước anh Văn nói vụ này giải quyết ở trên ấy, anh thông báo cho anh Văn kẻo ở đây em khó xoay sở.
- Được, có gì anh cho hay. Em đang ở Bưu Điện?
- Vâng
- Hãy tìm cho anh một số khác của tư nhân.
- Việc này hơi khó đây. Nhưng em sẽ cố. Hay là anh cứ gọi qua số của văn phòng UB BT. TĐXH. Em gác máy đây.
Tôi trở về BCH hỏi Tuân và Ân về việc này. Cả hai cho biết, suốt thời gian tôi không có mặt ở BCH không ai nói gì về vụ này, chỉ có bên Quan Thuế có công văn qua hỏi, họ trình CHP rồi không thấy trả lại và cũng như không cho chỉ thị gì. Tôi kêu thầm “Chết rồi, vụ này lạng quạng anh Văn cạo mình tới xương “. Suy nghĩ một hồi đành phải gọi và thông báo cho anh Nam lần nữa, anh Nam chắc lưỡi hít hà rồi bảo, anh sẽ thông báo ngay cho anh Văn việc này. Tôi gác máy. Tôi trở lại BCH. Mọi người đã ra về. Chỉ còn một mình tôi, không hiểu sao mà Tuân trở lại, khều tôi xuống canteen, vừa đến nơi, Tuân nói như không kịp thở :
- Ông kéo tôi ở lại, thiệt tình thì tôi cảm ơn ông. Nhưng từ chiều tới giờ nghĩ lại tôi đang run đây.
- Cái con khỉ. Run cái gì mà run. Lội qua sông Cái Lớn không run, mà bây giờ run. Mày có giỡn với tao không đó?
- Nói thiệt với ông chết sống tôi đéo sợ, nhưng ở đây mới gần chục bữa, nghe nội cái chuyện của ông, tôi ăn hết muốn nổi. Ông biết không, tự hỗm rày mấy chả sai tôi làm nhiều việc thấy ở tù như chơi. May mà cái nào tôi cũng đổ thừa là ông mang chìa khóa đi, hoặc là không tìm thấy hồ sơ. Còn lại thì tôi hỏi ý kiến đại úy. Đại úy nói là tôi cứ làm bằng văn bản hết trình lên trung tá. Tôi làm lên cái nào mất tiêu cái đó. Mới ngày hôm qua, ở văn phòng trung tá trả lại cho tôi một đống mà không có một nét chữ nào.
- Ai bảo mày làm cái gì ?
Tuân kể lại cho tôi nghe từng chi tiết. Ghê thật, từ đó tôi có thể suy luận ra được là anh Văn có thể đã chuẩn bị cho tôi hướng giải quyết tại ban Thanh Lọc. Dù rằng tôi không thích lắm. Lý do là mệt và không thể nào toà án ở đây có thể rớ được tới cái đầu. Chưa kể có một áp lực nào đó tẩu tán bớt tang vật và Ôi. Thu Huyền ơi. Cái lẽ công bằng mà chị nhận định sao mà đúng phóc. Có lẽ tôi phải bắt chước chị đi làm thơ mướn mất. Tôi quay lại nói với Tuân.
- Tao hỏi thiệt mày nghe, mấy năm sống chết với nhau. Bây giờ mày chán tao rồi phải không ?
- Không phải chán ông. Nhưng mà gốc gác của ông bành ky, còn tôi chân chòi cổ loi.
- Gốc cái con khỉ. Chẳng qua là liều.
- Ông giỡn hoài, cái liều của ông tôi không lạ. Nhưng mấy cái vụ này liều là toi ngay. Tôi sắp cưới vợ cha nội.
- Cái gì ? Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó.
- Phải vậy thôi. Hai mươi bảy rồi.
- Thôi. Tùy mày, nhưng từ từ tao tính.
Tôi trả tiền nước rồi hai đứa đi ra cổng, ngang qua phòng trực, sĩ quan trực thấy tôi, ông gọi lại :
- Có cái công điện của BTL thuộc phần hành của anh đây. Nhận và coi mà giải quyết .
Cầm cái công điện đọc lướt qua, tôi mừng húm, tôi lôi Tuân trở lại phòng và tôi đọc cho Tuân đánh máy lại một số văn bản để hôm sau trình ký và chuyển đi cho các cơ quan thẩm quyền. Anh Văn đã nắm được tình hình và yêu cầu tất cả các thẩm quyền có liên quan vào cuộc. Tuân hình như đã đọc được ý nghĩ của tôi. Loáng một cái đã xong, tôi paraph và xếp sẵn sàng, ngày mai trình ký sớm.
Trên đường về tôi chợt hiểu ra rằng anh Văn cố tình tạo ra cho tôi thành một tên con ông cháu cha có gốc bự ở Sài Gòn. Điều này là con dao hai lưỡi, tôi mà sử dụng cà khịa một chút thì sớm muộn gì cũng tiêu. Bởi thế cho nên gần như lần nào gặp, anh cũng nói với tôi là nên kềm chế hơn, mềm mỏng hơn. Cuộc  chơi này sao mà rắc rối. Chả bù lúc còn ở CSDC, ăn bự, nói to, đếch sợ thằng nào. Bởi thế cho nên ở BCH ai cũng nhìn tôi bằng cặp mắt e dè. Chắc là phải cải thiện tình hình lại vậy. Cái ghế bé tẹo tôi ngồi, nếu khéo khai thác một chút là có khối tiền đấy, nên lắm thằng thèm. Thằng Tuân đúng là chân chòi cổ loi thật. nhưng tính nó hiền dễ sai chớ không phải như tôi, tọi cho nó bị đẩy vào một nơi dễ đánh mất mình như chơi. Mới có mấy ngày mà thiên hạ rủ đi nhậu chùa tá lả.
Sáng hôm sau khi mà cái công điện ấy được chuyển đi. Thì tôi bắt đầu một ngày làm việc trối chết. Tôi bảo Ân đi thông báo cho các cộng tác viên là tôi đã về, cần thêm tin tức, và hàng lô hàng lốc các việc khác. Trong khi đó thì cả BCH đang xì xào về cái “gốc bự” của tôi. Tôi đón nhận nhiều cái nhìn thân thiện hơn mà cũng e dè hơn. Ý nghĩ, tôi là một thằng chân chòi cổ loi lần này bị triệt tiêu hẵn, nghĩ mà buồn, buồn cho người và buồn cho mình. Khi tất cả mọi thứ đều là vay mượn thì tôi không hiểu mình là ai nữa, nhưng khi đã vào cuộc chơi rồi mà nếu văng ra, điều đó có nghĩa là toi. Những lời anh Văn luôn nhắc nhở không phải là vô lý. Nhưng bảo nó song hành với sự ngay thẳng thì quả là khó khăn. Thôi “thời thế thế, thế thời phải thế”.
Đúng như tôi dự đoán, vụ này đưa ra ban Thanh Lọc. Nhưng người làm lệnh triệu tập không phải là tôi mà là làm theo yêu cầu của thiếu tá Phước cùng với sự có mặt của anh Văn và ông Dự Thẩm. Khi biết có anh Văn tham dự, tôi thở một cái khì. Bây giờ chuyện của tôi không là 5RG mà là 8RG. Tôi chuẩn bị thật kỹ lưỡng cho Tuân và Ân tham gia phiên họp trong ban Thư Ký. Còn tôi âm thầm lặng lẽ tổ chức hành quân xóa 8RG vào đúng thời điểm ban Thanh Lọc đang họp. Lần đầu tiên tham gia họp ban Thanh Lọc mà có sự hiện diện của quá nhiều chef lớn làm cho Tuân và Ân run. Run thật sự và tôi cũng hơi lo, nhưng biết sao bây giờ. Tôi chạy đến khách sạn Hải Thiên nhờ điện thoại báo sơ cho anh Nam kế hoạch của tôi. Anh cười bảo là tôi cũng khá láu lỉnh biết thừa gió bẻ măng. Phải thế thôi. Chợt một ý nghĩ lóe lên, lỡ rồi tại sao không bứng nguyên bụi mà chỉ bẻ có một cây, Đêm đó tôi kiểm tra lại tất cả các mục tiêu trong Thị Xã, sửa lại một ít trong bản dự thảo của lệnh hành quân. Làm thêm một số phóng đồ các mục tiêu cần xóa.
 Lần này thì thành công ngoài sức tưởng tượng. Những kết quả thu được làm tôi choáng váng. Khi anh Văn đang họp ban Thanh Lọc. Thì các lực lượng tham dự bắt đầu khống chế và tiến hành lục soát các mục tiêu. Tôi chỉ quan tâm đến hai mục tiêu 8RG và 3MT. Ngồi tại văn phòng với máy bộ đàm trên tay tôi nhận báo cáo từ các nơi gởi về.
Trong lúc tôi đang vừa nghe vừa ghi chép và ra lệnh thì anh Văn bước vào với Tuân. Anh ra hiệu cho tôi không phải chào, rồi bước tới nhìn qua những kết quả tôi ghi vội lên giấy. Anh quay sang Tuân bảo;
- Em ghi báo cáo dùm cho Hiền, còn Hiền đưa anh ra thăm các nơi.
- Dạ rõ ạ. Tuân đứng nghiêm chào, rồi vào việc.
Tôi đứng dậy và cùng anh Văn ra xe của anh. Anh cho tài xế ở lại BCH và bảo tôi lái xe đưa anh đến 3MT trước. Tôi không yên tâm, nếu không muốn nói là lo sợ, khi phải đi một mình với anh. Không hiểu những vệ sĩ của anh đang lẫn ở phương nào? Thấy tôi tỏ vẻ ngần ngừ. Anh Văn bảo:
- Tôi không sợ, tại sao chú phải sợ? Thôi được. Tôi có cách. Anh đưa tay gỡ hai ngôi sao bỏ vào túi áo rồi nhìn tôi. Đi được chưa?
Chúng tôi lên xe. Đây là khu Hòa Lạc, một nơi khá phức tạp của thị xã, toàn là dân lao động nghèo. Các tệ nạn mãi dâm, ma túy, cờ bạc gần như là một phần trong cuộc sống của họ. Cảnh sát khó lòng mà xâm nhập vào bởi các hệ thống báo động khá tinh vi. Tôi đã nghiên cứu rất kỷ trước khi ra tay, và tất cả các nhân viên tham gia toàn là những người từ nơi khác tới. Bởi thế khi anh Văn đến, anh nhìn thấy nhân viên cảnh sát mặc quần áo đủ thứ sắc lính và cả những người mặc thường phục. Anh nhìn tôi tỏ ý ngạc nhiên. Tôi phải giải thích và anh cười rồi nói nhỏ :
- Kể ra chú cũng khá lém đấy, có hay thường xuống đây một mình không ?
- Em xuống mà tụi nó biết được, em bị lụi liền. Anh có cần gặp sĩ quan chỉ huy của nhóm này không ạ ?
Anh lắc đầu :
- Thôi khỏi, anh chỉ muốn xem coi chú làm ăn như thế nào. Bây giờ chú đưa anh qua mục tiêu 8RG.
Tôi lái xe qua bến xe Hà Tiên, đến gần đến nơi. Tôi thấy một cảnh tượng không thể nào tả nổi, người ta ở đâu mà lắm thế, tôi quay lại tỏ vẻ lo ngại nhìn anh Văn, rồi nói ;
- Quá phức tạp thưa anh, theo em thì anh đừng đến.
Anh nhìn tôi, bảo :
- Cứ vào.
Tôi tìm được nơi đậu xe, rồi tôi cùng anh lách qua đám đông vào đến nơi. Một cảnh tượng không ngờ, một khối lượng hàng hóa khổng lồ chất đống ngỗn ngang bên vệ đường mà không có băng niêm phong cả. Mục tiêu là ngôi nhà ba gian, ba tầng dài hơn hai mươi mét chất kín hàng lậu. Tôi nhìn quanh, bất ngờ thấy trung tá Hiến và thiếu tá Thảo có mặt tự bao giờ. Tôi kêu thầm trong bụng “Chết mẹ rồi làm ăn cái kiểu này thì chết”. Tôi không biết phải làm sao, vì không thể để anh Văn đứng một mình. Bất ngờ tôi nắm tay anh kéo ngay vào chỗ trung tá Hiến và thiếu tá Thảo đang đứng. Nhìn thấy tôi và anh Văn, hai ông toan đưa tay chào, anh Văn ra hiệu, rồi anh đứng lại nhìn không nói gì. Tôi vội chạy đi tìm vị Sĩ quan chỉ huy hành quân, vừa gặp ông tôi nói nhỏ:
- Chết rồi trung úy ơi. Sao đem đồ chất đống bên ngoài vậy làm sao mà giữ được. Ông nhìn tôi lắc đầu :
- Thiếu tá ra lệnh, tôi chịu.
- Trung úy cho tôi mượn máy. Ông đưa tôi cái HT1.
Tôi gọi cho ba toán Tuần Tiểu Bộ đến mục tiêu, và gọi tiếp ngay cho Tuân lên gặp CHT xin lệnh điều động một trung đội CSDC. Tất cả phải có mặt trong vòng mười phút. Vừa lúc đó anh Văn và trung tá Hiến tới. Tôi trả máy cho viên trung úy và nói với trung tá Hiến nhờ ông ra lệnh không cho mang tang vật ra nữa. Kiểm kê tại chỗ và dán niêm phong, cái nào đã mang ra rồi thì giữ cẩn thận và cho kiểm kê lại, giao cho các toán Tuần Tiểu bộ giữ. Vừa lúc đó các trưởng toán Tuần tiểu bộ và trung đội trưởng CSDC đến. Tôi phân công:
- Nhiệm vụ của ba toán TTB là gìn giữ trật tự và tang vật. CSDC có trách nhiệm yễm trợ và bảo vệ. Ai có hành vi chống cự hoặc tẩu tán tang vật, bắt giữ ngay.
Khi tất cả vào việc. Tôi quay lại không thấy thiếu tá Thảo đâu và tôi biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng anh Văn cứu tôi một bàn thua trông thấy, anh chỉ thị cho trung tá Hiến những điều cần thiết sau đó bảo tôi ra xe. Trên đường về anh Văn nói như là khiển trách:
- Chú quá xem thường sự việc. Nếu chú nghĩ ai là người đứng sau vụ này, chú phải có những biện pháp đối phó thích nghi. Nếu như không có tôi là chú thua tuốt. Tại sao bên 3MT chú chỉnh chu đến thế thì bên này vô cùng lượm thượm.
Tôi yên lặng lái xe vì không có cách nào chống chế. Anh Văn tiếp:
- Chú Nam đã nói cho tôi nghe toàn bộ kế hoạch của chú. Khá đấy, nhưng khi vào việc thì Chú phải nhớ những đối thủ của chú hơn chú gấp trăm, gấp ngàn lần về quyền hành, thần thế và cả sự lọc lõi nữa. Trong khi chú thì gần như cô độc, những người đứng về phía chú thì vì một lý do nào đó họ không thể ra mặt. Ở cương vị tôi, tôi không nên, nếu không muốn nói là không được tham dự mấy việc này, nhưng tôi phải đến thì chú phải suy nghĩ.
Xe về đến BCH. Anh lên thẳng văn phòng CHT. Tôi về văn phòng mình hỏi Tuân về việc điều người, Tuân bảo đã xong. Tôi không có thì giờ để hỏi nó về kết quả phiên họp ban Thanh Lọc. Đã hai giờ chiều, tôi đói meo, nhờ thằng Ân chạy xuống canteen mua dùm tôi mì và ly café đá. Khi trở về nó nói nhỏ với tôi :
- Tôi thấy trung tá, thiếu tá cùng với ông tướng qua bên Tỉnh.
- Mày cũng phải cho mấy ổng ăn uống chớ. Tôi nói, nhưng tôi biết thằng Ân nghĩ khác.
Khi mọi việc tạm xong thì đã mười giờ tối. Chúng tôi rời khỏi văn phòng mà cái bụng trống trơn. Chúng tôi kéo nhau đi ăn phở, không hiểu sao tôi lại hỏi Ân và Tuân có mang theo súng không. Cả hai nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, đường phố đã vắng người, chúng tôi đến quán phở Đại Hoa ngang rạp Nghệ Đô[viii]. Khi kêu thức ăn, Tuân nói với tôi :
- Ông Hiền này, mới có mấy bữa mà coi bộ tôi đuối rồi, ngồi một chỗ coi bộ nó ngọ ngoạy chân tay quá.
Tôi không nói gì thì Ân lại tiếp :
- Ông đi mấy ngày, tôi khỏe re. Ông về tới là tóc tai dựng ngược.
Tôi cười cười, nói nửa đùa, nửa thật:
- Hai thằng đều là trung sĩ nhất, đi làm phó cuộc được hết rồi.
Tuân chen vào :
- Ông nói vậy tôi dọt thiệt à.
Không hiểu sao tôi xuống giọng :
- Tụi mày làm tao chán quá. Tụi mày thấy cái cảnh tao ở Sài Gòn, chắc tụi mày khóc ngất. Bọn mình không có quyền lựa chọn. Hiểu chưa ?
Ân đổi sang chuyện khác :
- Ông có biết ở BCH họ nói sao về ông không ?
- Sao?
- Họ nói cái lon thượng sĩ của ông là do có gốc bự nên làm tàng.
- Điên. Thế sao họ không đi chạy lon đại úy về mang. Còn gốc bự hả. Kệ họ, họ nghĩ sao thì nghĩ.
- Nhưng ông biết không, bữa ông nẹt với cái bà gì ở văn phòng của thiếu tá. Ai cũng nói ông tiêu rồi. Kế thấy ông có lệnh trình diện BTL, rồi thằng Tuân về thay ông, thì họ chắc như cua gạch. Bổng dưng ông trở về thu tóm lại binh quyền rồi đánh một cú ngoạn mục ban chiều, ai nấy đều le lưỡi.
Ba tô phở bưng ra. Tôi nói:
- Thôi ăn đi. Rồi về ngủ, ngày mai còn hàng đống việc đấy. Nghe tụi mày nói. Tao cứ ngở tao là ông tướng. Nên nhớ, bọn mình là lính, mãi mãi là lính. Nghĩa là không có bất cứ một thứ tự do nào. Kể cả ông tướng Văn.
Ân vừa húp xì xụp vừa trố mắt nhìn tôi, nói;
- Ông giở giọng triết gia nghe cũng hay đấy. Ơ đâu mà ông có thứ đó vậy. Nhưng thực tế, thấy ông anh anh, em em với ông tướng. Cha nào cha nấy xanh cả mặt.
Tôi phì cười :
- Tụi mày cứ anh em với anh ấy thử một lần xem sao?
 Tuân đang ăn nghe tôi nói, vội ngưng ăn le lưỡi:
- Có cho kẹo tôi cũng không dám. Ông không biết chớ lúc họp Ban Thanh Lọc. Ổng búa búa nào, búa nấy như trời giáng. Cuối cùng ông biết Ổng nói sao không?
- Nói sao ? Tôi hỏi.
- Thiếu tướng nói “Tôi không hiểu tại sao cái vụ như thế này mà các anh lại đòi giải quyết tại ban Thanh Lọc. Các anh họp lại thanh lọc cái gì? Buôn lậu cò con à? Tôi chỉ thị đưa ra toà án. Tôi đề nghị văn phòng Dự Thẩm tiếp nhận vụ này. Chấm dứt phiên họp tại đây. Thư ký ghi vào biên bản chỉ thị của tôi”. Ông biết mọi người làm sao không? Nín thinh, mặt mày xanh lè.
- Mày và thằng Tuân xanh theo luôn. Tôi cười hỏi.
- Không xanh, chỉ muốn té đái thôi.
Tôi cố nhịn cười. Thực ra thì cả hai nói đúng. Nếu tôi không có những tiếp xúc với anh Văn nhiều, thì cũng vậy thôi. Quả thực. Quyền lực là một cái gì rất ghê gớm. Thảo nào mà thiên hạ giành giựt cho đến chết cũng chẳng chịu thôi. Với tôi, chẳng qua là số phận đẩy đưa nên mới coi trời bằng vung. Nhưng cũng chính cái số phận ấy mà tôi biết được ít nhiều về tâm trạng của những người có quyền hành. Họ chẳng sung sướng gì đâu? Trong sâu thẳm tâm hồn họ. Họ là người cô đơn nhất, mọi người đến với họ; tôn trọng họ thì ít, nhưng luôn luôn sợ họ, xu nịnh họ và luôn luôn gian dối. Những thứ đó thì nhiều vô thiên lủng. Cả tôi cũng thế, những điều tôi nói với anh Văn, dù là trên cái thân tình anh em, nhưng bao giờ cũng phải lựa lời. Thế đấy, họ thực sự không có bạn bè, thậm chí không có người thân. Bổng dưng tôi nhớ ông Cụ với một thoáng ngậm ngùi. Rồi tôi nghĩ đến thân phận mình. với một chút xíu quyền hành vay mượn trong tay mà mọi người nhìn tôi như thế đó. Đối với Tuân, với Ân dù hiểu tôi quá nhiều, dù bạn bè cùng trang lứa, cùng cấp bậc, cùng chung sống chết với nhau. Nhưng bây giờ cung cách cư xử của cả hai với tôi đang dần dần khác đi cũng vì cái thứ quyền hành vay mượn mà tôi nắm trong tay kia.
Chúng tôi ai về nhà nấy. Tuân và tôi cùng đường, trong cái vắng lặng của đêm hai thằng vừa chạy xe và Tuân than thở:
- Ông Hiền này. Bữa nay tôi mới thấy cái thần thế của ông. Thiếu tá Thảo xám mặt vì giận ông. Nếu ai đó thì ông ấy vặn cỗ như vặn cỗ vịt, tôi về đây dù mới có mấy bữa, nhưng cũng nhận thấy cái uy quyền của ông ấy. Thậm chí trung tá CHT còn phải e dè. Nhưng với ông, thì ông ấy bất lực. Nội cái việc ông đi Hiếu Lễ thôi cũng đủ thấy ông ấy kiềng ông tới độ nào, rồi bây giờ tới cái vụ này nữa. Ông tưởng tôi không biết gì sao? Những tài liệu nằm trong tủ của ông tôi đọc mà xanh cả mặt. Thôi, ông thương tôi, nghĩ tới một thời cùng chung gian khổ, ông thu xếp cho tôi làm cái việc gì đơn giản một chút coi.
Tôi không biết phải giải thích gì với Tuân, nói thật cũng khổ, mà không nói thì nó làm sao ấy. Cái trò cáo mượn oai hùm coi bộ chẳng sung sướng gì đâu, mà tôi có muốn thế đâu? Nhưng thú thật, trong thâm tâm của tôi cũng đôi khi thấy khoái chuyện này. Điên thật, cũng may là chỉ một thoáng thôi. Nhưng ai tin như thế. Thấy tôi im lặng Tuân lại nài nỉ :
- Ông làm ơn đi. Tôi mệt quá rồi ?
Tôi cười trấn an nó :
- Mày lưng mật từ hồi nào vậy Tuân. Nhưng thôi rán cố gắng với tao cho xong vụ này, tao thu xếp cho mày ra một toán Tuần Tiểu bộ nào đó. Chịu không? Nhưng nói thật, tao chán tụi mày quá rồi. Tụi mà tìm chữ “ông” đó ở đâu vậy. Mỗi lần nghe tụi mày kêu tao ông Hiền ơi, ông Hiền à. Gai ốc của tao nó sợ thấy mẹ không dám nổi lên.
Tuân nói mà giọng như khựng lại ;
- Ừ. Tao cũng không biết nó đến từ bao giờ. Hèn thấy mẹ. Nhưng có chắc là mày cho tao ra Tuần Tiểu Bộ?
- Ừ. Chắc chắn. Tôi đáp mà trong lòng buồn hiu.
Về đến nhà đã quá nữa khuya. Ông nội ra mở cữa kèm theo những lời bực bội :
- Đêm nào mày cũng đi tới nữa đêm gà gáy. Không làm khuya, thì cũng nhậu khuya. Con với cháu.
Tôi không biết phải nói gì. Dựng chiếc xe xong rồi đóng cửa, để nguyên quần áo mà chui vào mùng. Tôi đi vào giấc ngủ mệt mỏi với trăm nghìn ý nghĩ ngổn ngang. Nếu không có vợ tôi thì chắc là tôi không ngủ được (?)
Sáng hôm sau, khi vừa vào tới văn phòng thì thấy đại úy Nhật đã có mặt tự bao giờ. Ông nhìn tôi cười :
- Mệt đấy nhé.
- Vâng. Mệt. Thưa đại úy. Đại úy vắng mặt đúng lúc bọn em đang tơi bời hoa lá. Tôi đáp lại cũng không kém. Ông choàng vai tôi rủ đi uống café.
Vừa ngồi xuống, ông nói nhỏ :
- Tôi mà ở đó là phải duyệt kế hoạch cho anh, phải paraph lên công văn. Mắc công đủ thứ, chỉ cần biến đi đâu đó để cho anh xử lý thường vụ phòng. Tha hồ anh muốn làm gì thì làm.
- Đại úy mà chơi cái kiểu này hoài thì chết bọn tôi. Hai tên trưởng ban kia coi bộ kỵ giơ tôi rồi đại úy. Hỏi cái gì cũng đáp theo kiểu nhát gừng.
- Mấy tay đó nhát như thỏ đế, nhưng tính tình thì thượng đội hạ đạp. Anh tính coi, có ai đó có thể thay được anh nói với tôi.
- Làm vậy có kỳ lắm không đại úy?
- Kỳ cái con khỉ. À thằng Tuân được đấy. Anh kiếm cho tôi một người nào nữa đi. Mà này khoan nói chuyện này ra nghe. Khi nào anh tìm ra, anh cho tôi biết rồi tính luôn.
Tôi suy nghĩ thấy như vậy cũng kỳ, chỉ tổ mang tiếng. Lỡ tên nào mình đưa ra không xong thì mệt lắm, nhưng cũng nói cho qua chuyện :
- Đại úy để từ từ. Tôi thấy hơi khó là ở phòng mình ai cũng ngại, đụng chạm thì nhiều mà quyền lợi thì không.
Đại úy Nhật nhìn tôi :
- Anh bữa nay hơi lạ. Bộ run hả?
Tôi cười và im lặng. Ông lại tiếp:
- Thôi ráng lo giải quyết công việc của anh đi.
Về tới nơi là một chồng công văn nằm sẵn trên bàn, đủ thứ trên trời dưới đất, đọc một hồi muốn hoa cả mắt. Chán quá tôi gom hết giao cho Tuân và bảo:
- Mày coi mà giải quyết.
Tuân nhận lấy cái chemi xốc qua, xốc lại một hồi rồi chìa qua cho tôi hai cái thư :
- Đây thư của ông.
Tôi cầm lấy hai cái thư, một cái của tay cảnh sát bị bắn gãy chân trong vụ ba chiếc ghe chài và một cái của Thu Huyền. Trời đất. Làm sao mà Thu Huyền có địa chỉ của mình nhỉ? Tôi không biết phải đọc cái nào trước. Cuối cùng tôi mở cái của tay Cảnh sát trước. Trong thư anh ta cho biết có hai người đến gặp anh trong bệnh viện. Người thứ nhất bảo anh ta nói mình tự cướp cò súng và hứa sẽ lo giấy tờ cho anh ta được giải nhiệm và cho anh ta năm chục ngàn. Người thứ hai, đến sau mấy ngày, bảo anh ta có sao nói vậy. Anh ta đã nghe lời người thứ nhất, bây giờ anh ta lo quá không biết phải làm sao viết thư nhờ tôi giúp. Thì ra là vậy, hèn chi khi tôi đến thăm hỏi gì anh ta cũng không nói, còn người thứ hai tôi biết chắc là anh Nam. Nếu không, thì cũng là người của anh. Vụ này mất thời gian đây.
Cầm cái thư Thu Huyền trên tay tôi tần ngần, nữa muốn xem, nữa muốn không. Nhưng cuối cùng tôi cũng mở cái thư.
“ Hiền.
Khi cậu ra khỏi nhà, tôi muốn ngộp thở. Hình như là tất cả không khí trong nhà cậu đã mang đi. Thú thật cho đến khi viết thư này tôi thực sự chưa hiểu hết những gì đã xảy ra. Cái gì đã khiến cho cậu xuất hiện rồi biến đi như ma vậy và cái gì đã khiến tôi đọc những câu thơ quái dị trong cơn say như thế. Tôi không hiểu gì cả, cậu có hiểu gì không? Chỉ có một điều mà tôi hiểu là tôi có những lần ân ái tuyệt vời. Xúc cảm của nhau, con người của nhau được trân trọng. Ấy vậy mà lúc đó, cả tôi và cậu không phải là hai kẻ yêu nhau. Thành ra cái từ ái ân chỉ là một cách nói khiên cưỡng để chỉ những động tác làm tình của hai con người biết tôn trọng nhau.
Tôi biết rằng quan hệ giữa cậu và tôi sẽ không ra cơm cháo gì, nhưng tại sao nó làm cho tôi vừa lâng lâng, vừa ray rức mấy ngày nay. Tôi thấy tiếc là tại sao tôi không nhét vào mấy chục viên thuốc ngủ trong chai rượu. Để cả hai nằm chết trần truồng bên nhau. Rồi khi mấy tay phóng viên của mấy tờ báo lá cải khám phá ra, rồi bọn họ nháo nhào nhảy cẩng vào thêu dệt trăm điều bố láo. Và thiên hạ cũng có một vài giây thư giản? Để hai đứa mình đứng đâu đó trên gió trên mây mà nhìn xuống cười một trận cho thỏa thích. Và ở cái nơi trời không mông quạnh ấy chỉ còn có cả hai thì nếu không yêu nhau thì sẽ yêu ai? Tại sao nhỉ? Tại sao lúc đó tôi không nghĩ ra nhỉ? Nhưng mà thôi, cuộc đời cậu, cậu có quyền chọn cho mình cái kiểu chết hay kiểu sống. Tôi xen vào để làm gì?
 Hình như cậu giỡn với tôi đấy phải không? Tại sao cậu lại viết được mấy câu vào phía sau khung ảnh (Cậu thật là… viết lén mà treo khung ảnh lại không ngay, cò bót gì mà làm ăn dở ẹc) Tôi tìm đâu ra được nụ cười. Một cô gái bán thân nuôi miệng, họ chỉ bán cái thân thôi. Còn tôi, tôi bán luôn cái đầu của mình để sống, cậu nghĩ xem một kẻ không đầu, thì còn cái miệng đâu mà cuời, mà không cuời được thì lấy gì để tươi. Cậu em yêu quý của tôi ơi. Thì ra bao nhiêu năm lăn lộn giữa cái sống và cái chết mà cậu chưa hiểu được một chút nào về nhân tình thế thái. Tôi nói cậu đừng buồn. Cậu. Với cậu ấy, bất cứ lúc nào tôi cần, cậu đều sẵn sàng đến ngủ với tôi. Nhưng, nếu phải cưới tôi cậu dám không? Không dám à. Cậu mà còn không dám thì ai dám. Cậu đừng có liều mạng nói là “nếu tôi dám thì sao? “nhé. Ôi sao mà tôi lại muốn cậu liều mạng quá…
Mà cái kiểu ái ân của cậu cũng lạ thật. Cậu trân trọng tôi từ trước tới sau, từ lúc mới bước vào cho đến lúc rời đi. Tôi cảm thấy được an ủi vì thấy mình không phải là một que kem mà người ta vất đi khi kem không còn nữa. Cậu thật là… Cậu làm cho tôi rất khổ sở khi muốn quên đi. Cực thế đấy, cố gắng thế đấy, mà đến hôm nay vẫn chưa quên được. Ôi tôi nhớ quá những giây phút tôi và cậu tay trong tay giong ruỗi giữa phố phường.
Thôi nói nhảm quá nhiều rồi, mục đích của lá thư này ngoài cái việc tôi tự làm nhẹ lòng mình còn có một thứ nữa là…
        … Giọt sương rơi xuống cỏ khô
Cũng long lanh một giấc mơ muộn màng
Cám ơn Cậu. Đừng viết gì cho tôi cả. HẾT
                                                Thu Huyền.
Tôi nhét hai lá thư vào túi, hình như tôi nghe được tiếng thở dài vọng lại từ đâu đó. Rồi đầu óc trống không và tôi cũng không biết mình phải làm cái gì? Tôi quay qua bảo Tuân :
- Mày giải quyết cái gì được thì làm, cái nào không được thì trình đại úy, nói với đại úy tao quá mệt, xin ông ấy cho tao nghĩ một ngày.
Không đợi Tuân trả lời, tôi đi vội ra cổng xách xe đạp chạy ra chợ chui vào một quán nhậu, kêu một món và rót bia ngồi uống một mình. Những hình ảnh trong buổi gặp ông Cụ lại hiện về từng chi tiết một. Giọng đượm buồn của ông Cụ nói sau khi buông ra một tiếng thở dài ”… Những ai thuộc bài thơ này đều có một cuộc đời ì ạch…” Ôi. Nếu thế thì cái tinh thần của Uy Viễn Tướng Công không thể sống được trong cuộc đời này. Chẳng hợp thời chăng? Tôi nên quên đi chăng? Nhưng liệu có quên nổi không? Hay là tại bọn tôi chí lớn tài hèn. Cũng có thể lắm. Tôi chợt giật mình. Tôi chưa qua thăm thầy Vân. Lâu lắm rồi tôi không ghé thăm thầy. Tôi đưa tay nhìn đồng hồ, hôm nay thứ năm, không được. Chủ nhật này phải đi thăm thầy mới được, mấy năm rồi từ ngày đi lính.
Một ngày nghỉ và một giấc ngủ sâu đã cho tôi bắt đầu một ngày làm việc mới khá hưng phấn. Giao việc cho Tuân và Ân làm, tôi đọc lại biên bản phiên họp ban thanh lọc của vụ 5RG. Không còn gì phải bàn thêm ngoài việc chứng minh cho được việc tay cảnh sát bị bắn là có thật và đưa anh ta ra tòa với tư cách nhân chứng. Kế tiếp là kiểm tra lại các biên bản kiểm tra vụ 8RG và 3MT, chuyển cho cảnh sát hành chánh xác định lại lý lịch các người bị bắt và có liên quan. Kiểm chứng và xác định lại các nguồn tin thu nhận được từ các cộng tác viên và một việc nữa cũng khá quan trọng là từ chối một cách khéo léo những lời mời đi uống café hoặc đi nhậu mà không mất lòng ai (?!). Buổi chiều, phải qua phòng Dự thẩm và văn phòng UBBT.TĐXH. Cuối cùng là đến nhà tay cảnh sát bị thương.
Sáng thứ bảy có vẻ trơn tru cho đến khi tay phụ tá CHP xuống nói là CHP mời lên gặp. Bước vào văn phòng chào ông xong, ông chỉ ghế và tôi ngồi xuống, rồi chỉ để nhìn ông ngồi nín thinh. Tôi chẳng biết phải nói gì, khoảng năm phút sau ông mới lên tiếng :
- Thuợng sĩ có thể cho tôi biết thượng sĩ là ai ?
Tôi chẳng hiểu gì cả và cũng không biết phải trả lời làm sao, thấy tôi không nói gì, ông tiếp :
- Tôi về đây đã năm năm, tôi gặp đủ loại nhân viên, đủ loại tính cách. Và tôi hiểu hết, biết hết trong vài lần tiếp xúc. Trong khi với thượng sĩ thì không. Tôi hỏi thật thượng sĩ là ai? Cứ trả lời tôi, không có gì phải ngại .
Thật ra thì những câu hỏi như thế này thì chưa bao giờ tôi gặp, nó như là một cái bẫy mà tôi đi về hướng nào cũng bị sập. Tốt nhất là giả mù sa mưa :
- Thưa thiếu tá thật ra thì tôi cũng chưa nắm rõ ý của thiếu tá, thành ra khó mà trả lời cho đúng, bởi vì toàn bộ lý lịch, cấp bậc, chức vụ và nhiệm vụ của tôi phải làm, những thứ đó thiếu tá biết cả rồi. Còn về mặt tính cách thì hơn ba tháng về làm ở phòng Hành Quân. Tôi nghĩ thiếu tá cũng đánh giá được phần nào. Nếu ngoài những thứ đó thì quả tình tôi không biết.
Ông nhìn thẳng vào mắt tôi, gằn giọng lật ngay bài tẩy:
- Anh thật không biết à? Anh là người của Trung Ương, của VP/BTL hay của thiếu tướng Văn.
Tôi nghĩ thầm “tới chuyện rồi đây“.Tôi trả lời mà như không trả lời :
- Thưa thiếu tá. Từ ngày tôi gia nhập Cảnh Sát tới hôm nay, mọi SVL thuyên chuyển từ đơn vị đầu tay đến bây giờ thiếu tá biết rõ cả. Còn những nơi mà thiếu tá nói, thì thiếu tá nghĩ dùm cho. Cái lon thượng sĩ của tôi làm sao mà chen vào nổi. Mà có chen vào được thì một là gác cổng hay là lon ton ?
- Thôi được thượng sĩ không nói tôi cũng biết. Thượng sĩ ghê gớm thật đấy. Nhưng tôi nhắc cho thượng sĩ nhớ một điều mà thượng sĩ đã biết. Đó là. Tôi, thiếu tá Thảo CHP ở đây.
- Thưa thiếu tá, tôi luôn luôn nhớ rằng thiếu tá là một trong những cấp chỉ huy của tôi. Và tôi có nhiệm vụ phải thi hành mọi mệnh lệnh mà Huấn Thị Điều Hành đã quy định
- Được anh khá lắm. Bây giờ anh về chỗ được rồi.
Tôi đứng lên chào ông rồi bước ra mà lòng buồn vô hạn, không phải vì bị áp lực một cách vô lý mà là một cái gì đó mơ hồ đang xoáy xoáy trong lòng, vì lòng tự trọng bị tổn thương. Đúng như anh Văn đã nói, sự có mặt của anh ở đây đúng là con dao hai lưỡi. Không biết tôi thì cắt được ai chưa, nhưng nó bắt đầu khứa khứa tôi đây. Sắp kết thúc một tuần lễ làm việc trối chết bằng một nỗi buồn. Thực ra thiếu tá Thảo, ông ấy muốn gì ở tôi, trên cương vị là một cấp chỉ huy trực tiếp. Tại sao ông lại buông ra những câu hỏi như thế? Tôi có cảm tưởng là ông nhỏ mọn và thiếu bản lĩnh. Bởi vì tôi trả lời như thế nào ông ấy cũng không thỏa mãn. Ông ấy biết rõ điều đó hơn ai hết. Tại sao ông không sử dụng cái quyền lực của ông ấy một cách chỉnh chu? Lúc đó ông sẽ biết tôi là ai.
Vào phòng đứng tựa mông lên bàn, rút thuốc hút nhìn quanh, không biết phải làm gì vì quá chán. Tôi lại móc bóp lấy lá thư Thu Huyền ra đọc lại. “ Giọt sương rơi xuống cỏ khô, Cũng long lanh một giấc mơ muộn màng. Cám ơn cậu. Đừng viết gì cho tôi. HẾT”. Tôi không ngờ mình lại nghễnh ngãng đến độ gây ra một việc mà đúng ra là không thể xảy ra. Tại sao lại không về thẳng, tại sao lại không đến thăm xưởng vẽ, tại sao lại không qua Quận 10 thăm anh Lập. Sài Gòn đâu có thiếu chỗ cho tôi đi. Còn ngôi chùa với một kệ sách đầy ắp trong một không gian tĩnh lặng nữa kia. Tại sao lại phải đến đó và gieo vào đấy một chút ngậm ngùi. Gần ba mươi rồi, mà tôi vẫn cứ mơ mơ màng màng để gây ra quá nhiều hệ lụy. Một giọt sương. Tôi là một giọt sương ư? Chỉ là một giọt sương thôi sao? Và nó, giọt sương ấy, chịu đựng được bao lâu dưới ánh mặt trời để rồi bốc hơi và tan biến vào hư không? Ấy thế mà nó làm cho long lanh lại một giấc mơ. Kỳ cục.
- Ông Hiền. Trung Tá CHT gọi. Tiếng Ân vang lên.
Tôi bước vào văn phòng CHT. Trung tá chỉ ghế bảo tôi ngồi. Ông nói:
- Bắt đầu từ giờ phút này. Khi ra phố, chú phải đi hai người. Buổi tối, ngủ ở một nơi mà chỉ một mình chú biết. Tôi cử người bảo vệ chú. Cẩn thận. Chú mà có việc gì thì tôi không yên với ông Văn.
Tôi đứng dậy chào ông. Xương sống lạnh ngắt. Anh Văn ơi. Anh chơi tôi tới bến rồi.
Tôi bắt đầu cuộc sống du mục lang thang, hết các khách sạn này, đến nhà quen khác. Xuất hiện ở bộ chỉ huy như là ma. Cuối cùng, Trung Tá Hiến ổn định cho tôi bằng cách, mỗi chiều, khi thì ông khi thì người khác đến rước tôi về nhà ông ngủ. Đúng là trốn Việt Cộng coi bộ dễ hơn trốn các chiến hữu của mình. Ba tháng như thế. Tôi vẫn ở nhà, nhưng lại là kẻ vắng nhà. Chịu đựng những lời rầy la của ông nội, ba mẹ tôi và những chì chiết giận hờn của vợ.

Nhưng rồi công việc của tôi cũng tới lúc suông sẽ. Tôi cố gắng đem hết tâm lực của mình vào công việc. Nên lần hồi tạo được một uy tín nhất định trong vị trí của mình phụ trách. Ngoài ra, nhờ những cây bút nỉ, mấy cây cọ mà tôi củng cố thêm mối quan hệ với bộ phận khác cũng như những cơ quan khác và tôi cũng có thêm  một ít tiền còm. Tuy nhiên những giới chức có dính dáng đến vụ 8RG thì luôn luôn dè chừng tôi. Trong chừng mực nào đó họ gây cho tôi không ít khó khăn. Nhưng tình hình buôn lậu, tệ nạn ma túy và các tệ nạn khác giảm đi đáng kể. Nhưng có một việc làm cho tôi cảm thấy xốn xang trong lòng đó là việc Cao văn Hà. Một người học trước tôi mấy năm. Anh là một người rất mực tài hoa, đàn hay hát giỏi, làm thơ rất có nghề và nhiều thứ khác nữa. Khi còn đi học, anh có một thời gian dài là thần tượng của tôi trong học tập. Tờ bích báo Thơ của anh và hai người bạn của anh đã gây một ấn tượng lớn trong tôi. Sau bao nhiêu năm tôi gặp lại anh trong một tình huống oái oăm. Anh bị bắt vì tội sử dụng ma túy với cái lon thiếu úy trên vai. Khi ra ban Thanh Lọc, tôi dùng mọi cách để anh khỏi vào trung tâm cai nghiện vì lời hứa từ bỏ ma túy của anh. Mọi người trong ban Thanh Lọc đồng ý với tôi. Nhưng sau đó một sĩ quan bên Phòng 1 Tiểu khu cho tôi xem cái quân bạ của anh, làm cho tôi tái mặt. Anh nhập ngũ năm 1965. Sau chín tháng huấn luyện ở Thủ Đức anh mang lon chuẩn úy. Thăng cấp rất nhanh, được đánh giá rất cao. Nhưng anh hai lần mang lon trung úy, một lần mang lon đại úy. Khi bị bắt vì nghiện ma túy anh mang lon thiếu úy. Nghĩa là bị giáng cấp 4 lần cùng một lý do, mà ở vị trí của anh quả là kinh khủng. Ăn cắp, anh ăn cắp mọi thứ, cái gì bán được thì lấy và tình trạng này xảy ra liên tục. Nguyên nhân của những lần ăn cắp ấy là để mua ma túy. Lúc bị bắt anh là sĩ quan ngồi chơi mà không xơi nước vì không ai dám cho tới gần. Thế là anh tụm năm tụm ba bọn đầu trộm đuôi cuớp dùng cái lon thiếu úy còm cõi của mình để bảo kê. Mấy tháng sau tôi nghe nói anh té gãy hết các ống tay ống chân. Cú té không nặng nhưng xương đã bị mục ra vì sử dụng ma túy quá nhiều. Anh chết sau đó mấy ngày. Dự đám ma của anh toàn là lủ trời ơi đất hởi. Không một người thân, không bạn bè. Thôi, cũng xong một kiếp (xin lỗi tôi không thể thêm phía sau chữ người )
Sau vụ anh Hà tôi mạnh tay với ma túy, kể cả người chơi lẫn người bán. Chỉ một thời gian ngắn thôi, tôi trở thành hung thần, người ta gọi thế. Nghe nơi nào có hơi ma túy là tôi cho xác định và khi biết chắc là ra tay ngay. Ra tay một cách bạo liệt. Nhất là bọn buôn bán, chủ chứa, ma cô. Tôi không từ bất cứ thủ đoạn nào. Tôi đã bắn gãy giò, thủng bụng mấy tên. Đại úy Nhật cũng phải lắc đầu trước sự quá khích của tôi. Trong số đó có vợ của một viên trung úy Quân Cảnh. Khi ông ta can thiệp cho vợ mình. Tôi cũng tìm mọi cách và tôi làm cho bằng được. Cuối cùng vợ ông ta đi tù, còn ông ấy bị giáng cấp và đổi đi. Sau vụ này, không rõ vì sao anh Văn biết. Trong một lần lên Sài Gòn anh gọi riêng tôi và khiển trách. Không phải vì việc làm của tôi mà cách làm của tôi. Tôi nín thinh không bào chữa. Nhưng từ đó tôi có vẻ cẩn thận hơn. Nhưng dù sao thì tình hình tệ đoan xã hội có suy giảm, mà suy giảm đáng kể nữa là khác.
Sau khi cơm nước xong tôi đang ngồi trước nhà hút thuốc thì đại úy Nhật và Tuân tới. Cả hai vào nhà chào ông nội và ba tôi rồi xin phép rủ tôi đi chơi. Cả ba lên xe, vừa chạy xe đại úy Nhật cười và nói :
- Lâu lắm rồi anh em mình không đi nhậu, bây giờ xuống ông Văn Xương kiếm 33 đít tròn và gỏi lòng gà.
Khi sòng nhậu được bày ra, bổng đâu ông Tư Qưới khệnh khạng bước vào, tôi và Tuân chào ông và giới thiệu với đại úy Nhật, mời ông ngồi và bắt đầu cuộc chơi một cách thoải mái. Những bài thơ của tôi được ông Tư Qưới và Tuân đem ra đọc và đại úy Nhật cười ha hả tỏ ra khoái chí khi thấy mình có một nhân viên là một nhà thơ (?) Thế là đêm đó nhà thơ tiêu tán tỏi. Tôi đành nhờ Tuân về nhà cho hay tôi ngủ lại cơ quan. Đại úy Nhật cũng ra về.
Còn ông Tư Qưới rủ tôi lên khách sạn Hải Thiên. Tôi đi mua thêm một ít thức nhắm và một chai Beehive[ix] Khi tôi về tới nơi thì mọi thứ chén dĩa đã sẵn sàng và hai cô, một sồn sồn, một be bé. Tôi nghĩ thầm “Ông già này coi bộ chịu chơi đây, nhưng hơi quá“. Thế là rượu vào lời ra. Không biết ở đâu mà có cây đàn kìm. Ông nâng cây đàn lên gãy điệu Xuân Tình và nhị vị “phu nhân“ kia trình  diễn một màn Tống tửu Đơn Hùng Tín không chê vào đâu được. Men rượu hay là giai điệu đã làm cho tôi hưng phấn, tôi cũng không rõ lắm. Tôi hối hận vì đã nghĩ sai về ông già. Nếu Hát ả đào đã từng một thời làm cho các sĩ phu Bắc Hà ngã nghiêng. Thì đàn ca tài tử miền Nam đã quét sạch mọi cực nhọc, ưu phiền và tăng thêm sức lực cho những con người đi khai hoang mở nước và nó đã trở thành quốc hồn, quốc tuý của dân miền Nam. Tiếng đàn hát đã mời gọi thêm những người khách lạ và cây guitar phím lõm. Nhiều người trong số họ tham gia. Tôi không biết được từ đâu có thêm rượu và từ đâu có thêm thức nhắm. Với cây đàn kìm ông Tư đã dẫn dắt cuộc chơi mà không một ai có thể phàn nàn. Trông ông không giống như một người nát rượu vì bất mãn (?) Ông đã trở lại con người đích thực của mình. Ông chấm dứt cuộc chơi bằng lớp vọng cổ 20 câu Sầu Vương Biên Ải[x]. Với cái giọng khàn đụt vì rượu. Điều đó đã không xấu đi mà làm đậm đà thêm sự diễn đạt một tâm sự, không phải tâm sự của tác giả bài hát hay của người lính nào đó ngoài biên ải xưa kia. Mà là tâm sự của ông. Với tôi, tôi hiểu thế. Cuộc vui rồi cũng tàn. Khi mọi người ai về phòng nấy thì đã bốn giờ sáng. Ông quay sang bảo tôi :
            - Chú mày và con nhỏ đó qua phòng bên kia, ngủ nghê hay tâm tình gì đó thì tùy. Tao với mụ này cần phải ngủ.
            Phải công nhận ông già gân thiệt. Tôi và cô be bé ấy qua phòng bên, thay phiên nhau tắm táp. Khi tôi tắm xong thì đã có sẵn café. Hớp một ngụm café tôi nhìn cô be bé và hỏi:
            - Tại sao cô hát hay thế? Nhưng đừng có nói với tôi cô là đào hát cải lương nghe.
            - Hát hay thì phải làm đào hát chớ. Anh này. Anh làm nghề gì vậy ?
            - Cảnh sát.
            Cô le lưỡi nhìn tôi :
            - Bắt em không ?
            - Bộ Cảnh sát muốn bắt ai thì bắt sao? Mà cô làm gì mà sợ tôi bắt?
            Cô không trả lời tôi mà hỏi :
            - Anh nói anh làm cảnh sát vậy chớ anh biết ông Cò Gòm không? Nghe nói ổng bắt người tàn canh gió lạnh luôn.
            Tôi cười cười;
            - Không biết. Mà sao cô biết ông ta bắt tàn canh gió lạnh?
            - Em nghe người ta nói, ổng mà bắt rồi là hết mong chạy chọt, nghe nói ổng bắn gãy giò, lủng ruột hết mấy mạng.
             Tôi chợt ngẩn người, mình đáng sợ đến thế sao?
            - Nếu cô sợ ông ta bắt thì đừng có đi đứng lung tung, nay ngủ với người này, mai đi với người khác.
            Cô bé cười buồn:
- Không đi lấy gì nuôi con, tiền trợ cấp cô nhi quả phụ thì không đủ sống, cực khổ thì chẳng quen.
- À mà cô bao nhiêu tuổi rồi?
- Em mới có mười chín.
- Trời đất. Mười chín tuổi, một con. Yêu sớm thế?
Cô ấy cười:
- Bởi vậy mới khổ thế này
- Ủa. Cô nói cô là đào hát?
- Đâu có đào gì đâu anh, chẳng qua là theo chị Tám. Chỉ thấy em hát được nên dạy cho em. Có tiếng hát, thêm chút tính văn nghệ nó dễ dàng hơn khi kiếm sống.
Tôi bàng hoàng khi nghe cô nói. Cái giai điệu rộn ràng của lớp Xuân Tình, cái bi phẩn của Trình Giảo Kim. Đơn Hùng Tín trước những tráo trở của tình bạn, tình đời đã được họ diễn đạt bằng hết cả tâm hồn mình. Nhưng hởi ơi, nó lại là nên cầu dẫn cho những cô gái buôn hương đi qua nẻo đoạn trường. Lần đầu tiên tôi nhận ra cái sự thật não nề này. Làn nước mát và ly café đã không còn tác dụng. Tôi muốn ngủ, tôi muốn quên. Quên hết. Tôi nói :
- Thôi ngủ đi, anh buồn ngủ quá.
- Không gì hết sao anh? Cô gái có vẻ buồn.
- Không. Ngủ đi. Sáng nếu thức sớm nhớ kêu anh.
Cô cố vớt vát:
- Thiệt hông đó.
Cô thẩn thờ đốt một điếu thuốc và nhìn tôi ngã vật xuống giường. Không có gì, ngoài lòng thương cảm mong manh và cơn buồn ngủ nặng nề kéo đến.
Tôi thức dậy lúc chín giờ. Cô bé bé vẫn còn say trong giấc ngủ. Nhìn thân thể trần truồng của cô lồ lộ trong ánh nắng buổi sáng hắt qua khung cửa làm tôi ngậm ngùi. Những đường nét thanh xuân vẫn còn đó nhưng trùm phủ một nỗi buồn. Cô đã sẵn sàng cho tôi  hay bất cứ ai đó dày vò để lấy vài trăm bạc. Không cần biết đó là ai. Xấu tốt, trẻ già, sạch sẽ hay dơ bẩn, tỉnh táo hay xỉn say. Thân thể ấy vẫn đang đầy ắp khát vọng yêu đương. Nhưng liệu cô có được bao nhiêu lạc thú khi mà phải chung đụng với những con người xa lạ. Khuôn mặt trẻ măng mà dày dạn gió mưa làm cho giấc ngủ của cô nhuốm đầy tủi cực. Tôi lặng lẽ nhét hờ vào gối của cô hai trăm đồng. Buớc sang phòng bên thấy không khóa, tôi ghé mắt vào, ông già đang ôm cô đào già ngủ say sưa. Ông chỉ độc có cái quần cụt còn người ngủ cùng thì chẳng có gì. Thấy cây viết và và cuốn tập trên bàn ngủ. Tôi với lấy và ngoáy lia lịa gần cả trang. Tôi rời khách sạn. Cặp tình nhân già bên này và cô gái bên kia vẫn còn trong giấc ngủ.
Ngồi trên xích lô về nhà, tôi vừa lẩm nhẩm những gì đã viết vừa nhớ lại chuyện đêm qua và cô gái ấy. Gái mãi dâm, tức là một cô gái đi làm tình với ai đó để được nhận một món tiền. Nhiều lần tôi tự hỏi như vậy nghĩa là làm sao? Thú thật tôi cũng không ít lần tham dự cái trò này. Nhưng hầu hết là trong cơn say bí tỉ, nên chẳng ra cơm cháo gì? Chỉ tốn tiền thôi chứ không tốn tí tình nào. Nghĩ đi nghĩ lại một hồi thấy nóng bừng cả mặt. Lạ hoắc, lạ hươ. Cứ anh anh, em em một chút là xong. Có thể là tôi ngây thơ cụ đấy. Nhưng quả tình cái trò này coi bộ không ổn. Ít ra thì cũng quen biết sơ sơ, đá lông nheo chút đỉnh, rồi mời đi café cà pháo. Chớ cái gì mà ì đùng như đánh giặc theo chiến thuật “đánh nhanh, rút lẹ”. Thật ra từ ngày được giao cái nhiệm vụ này tôi chưa lần nào mó tay vô cái chuyện đi bắt bớ gái mãi dâm. Thấy họ tội tội làm sao ấy.
Bổng nhiên tôi lại thèm viết, dù vừa mới viết xong và tôi lại viết như là một giấc mơ. Giấc mơ yên bình:
- Tôi và em là hai con dế
Rất hiền hòa và rất dễ ưa
Cất tiếng gáy gọi nhau say đắm
Bờ cỏ non mát mẻ cơn mưa
- Tôi với em là hai con dế
Chưa bao giờ biết đến hung hăng
Cũng chẳng biết đá nhau chí tử
Bờ cỏ non xanh cứ tung tăng
- Tôi với em là hai con dế
Suốt đêm cao tiếng gáy gọi tình
Tôi tặng em chồi non cỏ mượt                                                     
Em tặng tôi đôi mắt long lanh

- Tôi với em là hai con dế

Đắm say nhau quên phận bọt bèo
Tôi run râu và em run cánh
Không đá càng mà đá lông nheo
Ôi tôi đang mơ tôi và cô gái ấy cùng mơ? Và trong giấc mơ này. Rất có thể con dế mái còn đang nằm ngủ ấy sẽ gặp một con dế trống không phải là tôi và trái lại. Nhưng nếu có một giấc mơ như thế thì tại sao mà chẳng yên bình.

Giấc ngủ trưa làm cho tôi tỉnh táo lại, vợ tôi vẫn chưa về. Những ngày nghỉ cuối tuần thường không yên ả cho tôi, nhưng hôm nay thì hơi khác. Nhưng khi định rút một quyển sách nào đó để xem thì cô út thò đầu vào:
- Anh hai, có khách. Tôi vội mặc quần áo và bước ra nhà trước.
Tôi thấy ông nội đang nói chuyện gì đó với một người độ tuổi ba tôi bộ đồ khá tinh tươm nhưng không đủ để che lấp sự nhọc nhằn khắc khổ, còn có một cô gái khoảng trên dưới hai mươi khá đẹp. Không phải. Rất đẹp, cô mặc bộ đồ bà ba đen may theo kiểu dưới quê đang khép nép ngồi trên chiếc ghế sát tường. Mái tóc của cô che đi gần một phần ba khuôn mặt làm tôi choáng váng. Thấy tôi ông nội nói:
- Có chú đây kiếm con nè.
Ông ấy quay lại. Tôi nhận ra là ba của Thuật, bác ấy có vẻ già hơn trước rất nhiều, già hơn cái tuổi mà bác có. Tôi vội hỏi :
- Chào bác ạ. Bác ra tới từ bao giờ.
- Tôi mới đến. Chào chú.
Tôi ngồi xuống hỏi thăm ông về việc làm ăn và gia đình. Sau cùng tôi hỏi :
- Bác ra chơi hay có chuyện gì không bác.
Ông chỉ tay vào cô gái :
- Tôi ra đây vì chuyện con nhỏ này nè.
- Cô đây là con bác à ? Tôi hỏi
- Đâu phải, em nó là người ở xóm. Sau khi thằng Thuật chết hơn năm tôi không ở Thứ Sáu Biển nữa, mà về ở Hốt Hỏa, kế nhà con nhỏ này đây. Nó nghe nói cái vụ của cháu với thằng Thuật, nó hỏi thăm tới. Bác cũng không biết chuyện gì? Hỏi lại thì nó bảo nó được mấy anh cảnh sát dã chiến cứu, còn bỏ lại cái mền lính có chữ Hiền. Thành ra nó đòi dẫn nó ra coi người đó phải là cháu không.
Tôi không hiểu gì cả, nhìn cô gái tôi hỏi :
- Cô nói tôi cứu cô mà cứu hồi nào, ở đâu? Cô kể lại tôi nghe?
Cô gái không trả lời mà cúi xuống lấy cái gói dưới chân ghế, mái tóc dài, óng mượt bật ra phía trước và tôi chợt nhớ ra. Cô cầm lấy gói giấy mở ra, tôi thấy cái poncho laine. A. Tôi chợt nhớ ra, thì ra cái thằng lính mắc ma nào đó của tôi nó rút cái poncho laine trong balô tôi đắp cho cô ấy. Đồ mắc dịch, nó muốn làm phước mà lấy đồ của tôi. Thế mà tôi cứ tưởng nó rơi mất trên đường qua sông. Tôi nói:
- Thôi tôi nhớ ra rồi. Có phải cô là cô gái trong chòi? Cái đêm có một trận đánh lớn ở chùa Hốt Hỏa?
Cô mở to mắt nhìn tôi đăm đăm, nói nhỏ:
- Dạ phải.
- Trong đêm tối mịt như vậy mà cô lại mê man làm sao mà cô biết tôi là cảnh sát dã chiến.
- Em em đâu có mê man, thấy mấy anh, em sợ quá, nên giả bộ mê man chứ mấy anh nói gì em nghe hết. Em nghe có một người đòi bắn em bỏ, em sợ hết hồn luôn. Rồi một người khác la lên không chịu, em chắc đó là anh. Còn màu áo thì em phải hỏi thăm mãi mới biết được. Em ra chợ Thứ Ba mấy lần. Hỏi thăm anh mà không ai biết. Người ta nói có một người tên Hiền mà không có ở Thứ Ba. Hỏi anh ở đâu thì không ai chỉ hết. Mà còn chọc em nữa, em sợ quá không dám ra nữa. May mà gặp bác Năm.
Tôi phì cười trước cái kiểu nói chuyện đặc nhà quê của cô, tôi thấy hay hay ở cái vẻ quê mùa ngây thơ của cô gái:
- Bọn tôi có hung dữ gì đâu mà cô sợ đến như vậy?
Mặt cô đỏ bừng :
- Em nghe người ta nói mà. Em mang trả cho anh cái mền, với ba em có gởi cho anh hai con gà. Nhà nghèo quá, anh thông cảm. Ba em và em rất cám ơn anh.
Tôi nhìn cô lóng cóng với cái poncho trên tay :
- Có phải ngày hôm đó lúc ban chiều tôi thấy cô chạy giữa đồng rồi bị một trái pháo rơi trúng. Cô đi đâu mà vào chỗ người ta đánh đấm rầm trời như vậy ?
Mặt cô bổng tỏ vẻ sợ sệt, im lặng một lát, cô nhìn tôi không nói gì cả. Bác Năm đỡ lời :
- Lúc đó nó mới đi du kích, làm giao liên được mấy tháng. Sau trận đó thương tích đầy mình, sợ quá nó nghỉ luôn. Mà nó không nghỉ, người ta cũng không cho theo nữa. Từ ngày đó đến giờ, lúc khỏe thì không sao, lúc nào yếu trong mình, mỗi khi trở trời là mấy cái miểng còn trong người hành nó như ma hành.
Tôi thấy mái tóc phủ xuống che gần nửa khuôn mặt trắng xanh vì sợ:
- Tôi không bắt cô đâu, đừng có sợ. Du kích người ta gan lắm, ai mà nhát hít như cô vậy. Mà hổng biết nhát không nữa à nghe. Phải gan lắm mới dám ra nhà tôi.
Cô ngước lên mở to mắt nhìn tôi :
- Anh không bắt em thiệt hả?
- Không đâu. Cô nghỉ sai rồi, cô không theo du kích nữa, bắt cô làm gì. Thôi không đến thì thôi. Đã đến thì tôi mời bác Năm với cô ở lại ăn cơm và nghỉ rồi mai sáng mới về. À mà cô tên gì ?
- Dạ tên Út Giữa. Cô hơi ấp úng
Tôi thấy buồn cười vì cái tên:
- Như vậy thì còn cô chị Út Trước và cô em Út Sau nữa phải không ?
Ông nội tôi gắt :
- Cái thằng, ăn nói lu bu.
Bác Năm và Út Giữa từ chối không ăn cơm và từ giả ra về, chắc có lẽ là ngại và cũng có thể sợ nữa. Tôi không nhận hai con gà và cái poncho laine thì tôi nói cho luôn Út Giữa. Cả hai cương quyết không nhận lại hai con gà, và vui mừng xin giữ lại cái poncho laine nói là làm kỷ niệm. Nhìn hai người; một già một trẻ bước đi trong cái khung cảnh không phải là của họ. Trông họ có vẻ lạc lỏng, nhưng cũng những bước đi ấy tôi nhận ra những bước chân ấy có vẻ nhẹ nhàng vì họ vừa cất đi trong lòng một gánh nặng ân nghĩa. Nếu những hành động của tôi dành cho Thuật là hành động dành cho tình bạn bè. Nhưng với Út Giữa thì hành động của tôi là một hành động dành cho tình người. Tôi đã cứu cô ấy thoát chết, thì tôi không thể đưa cô ấy vào vòng tù tội. Mà đã như vậy thì tôi cũng không thể làm cho cô ấy phải lo lắng. Dù tôi biết rằng việc làm của tôi hiệu quả không cao. Có chăng là cô ấy và gia đình chỉ bớt đi một mối lo. Tôi thật sự an lòng vì việc làm của mình. Đừng vội tưởng tôi có cảm tình với Việt Cộng. Ngon thì gặp nhau ngoài mặt trận coi, tôi bắn cũng có hạng lắm.
Tôi bổng nhớ lại một việc, nên vội ra nhà sau tìm cô em Út. Thấy cô bé đang học bài, tôi gọi:
- Út này. Đừng bao giờ nói bất cứ điều gì và bất cứ ai về việc hai người hồi nãy tới nhà nghe chưa ?
Cô út nhìn tôi :
- Anh hai khỏi lo, ông nội dặn rồi. Bộ cái chị hồi nãy là Việt Cộng hả?
Tôi trợn mắt :
- Đã bảo đừng có um sùm.
- Xời ơi. Ai mà nghe, mà em cũng không tin. Đẹp muốn chết mà ViXi[xi].
- Bộ Vi Xi xấu hoắc hả ? Tôi phì cười.
- Ai biết.
Nhìn cái nét vô tư, ngây thơ của em mình, tôi nhớ ra Út Giữa cũng thế. Từ lối nói chuyện, đến cái cung cách nhà quê đến là dễ thương. Nhưng cái gì đã xô đẩy cái ngây thơ kia vào lửa đạn. Tôi rùng mình nhớ lại cụm khói tung lên và cái bóng dáng bé nhỏ kia biến mất. Lúc đó chỉ một thoáng thảng thốt trong tôi. Bây giờ tôi lại thật sự kinh hoàng khi tưởng tượng lúc đó Út Giữa chết đi. Và toàn bộ hình ảnh của ngày hôm đó và chuyến vượt sông hiện ra trong trí tôi. À, mà không hiểu anh chàng Việt Cộng gãy giò, gãy tay bây giờ ra sao nhỉ? Cũng may, hôm đó trái lựu đạn không nổ và mình không ngéo cò. Tôi nổi gai ốc mà không biết tại sao? Chuyện qua lâu rồi. Không hiểu tôi sợ cho ai? Nhưng thôi tất cả đang bình yên.
Tôi đã một đôi lần đến cầu Hiền Lương, để nhìn giòng sông Bến Hải. Hai lá cờ bên vàng, bên đỏ, nó chỉ gây cho tôi cảm tưởng như là một vết cắt trên da. Sự hơn thua nhau về độ cao của kỳ đài. Cây cầu thì không còn làm cái nhiệm vụ nó được giao phó là nối liền hai bến bờ, mà là để giơ mình ra cho người ta sơn, nay màu mày, mai màu khác, nhưng chưa bao giờ cùng được một màu, điều này làm cho cây cầu trở nên dị hợm. Nhưng chính sự dị hợm đó nhắc nhớ cho mọi người luôn luôn nhớ rằng “ Mình còn có một phân nửa quê hương trong niềm đau và nỗi nhớ”. Vâng. Đối với tôi, có lẽ cả cho nhiều người khác nữa, nó trở thành một biểu tượng cho sự đau đớn. Chỉ có giòng sông bình thản làm một cái vạch ngăn đôi. Sự ngăn chia tách bạch rạch ròi đến đau lòng. Nhưng ở đây. Giòng sông này, giòng sông Cái Lớn. Cái vết thương ngăn cách lại nằm ở phía bên trong. Theo các bác sĩ thì nội thương khó trị hơn. Nếu ở ngoài kia thì không thể lại qua thì ở đây lại khác. Đã bao lần tôi qua lại đôi bờ. Nhưng mỗi chuyến lại qua như vậy là đau thương mất mát. Đau cho kẻ ở bên này cũng nghĩa là cho người ở bên kia. Giòng sông thì không nói gì, giòng sông vẫn vậy như từ khi mới hình thành. Nhưng người hai bên bờ thì trong tấm lòng mình đã có những cuộc phân ly. Bên đông thì Tắc Cậu, Lô Hào Dầu, Cái Mới Nhỏ, Cái Mới Lớn, Đường Ruồng, Cái Bần, Gò Quao… bên tây thì Xẻo Rô, Cái Nước, Hốt Hỏa, Xẻo Cạn, Xẻo Kè, Thầy Quơn, Nhà Ngang[xii]… những tên xóm, tên làng, kinh rạch mộc mạc, chân tình. Mỗi khi đi đâu xa nghe ai nhắc tới là tâm hồn xao động. Ấy vậy mà con người hai bên bờ gặp nhau tay vẫn bắt mà mắt e dè, mặt vẫn mừng nhưng lòng ái ngại. Cái gì đã làm nên điều ấy. Câu trả lời thì cũng dễ thôi, tùy theo ở bên này hay ở bên kia mà có thể trả lời dứt khoát. Nhưng sâu thẳm trong tấm lòng thì biết nói sao đây? Bác Năm và Út Giữa muốn nói lời cám ơn mà cũng phải dòm trước ngó sau. Ông cháu tôi tiếp họ bằng tấm chân tình thì cũng lo lo. Tội cho giòng sông phải luôn luôn chứng kiến những điều mà mình không muốn. Lúc còn nhỏ, với những ý nghĩ viễn vông về một nhịp cầu bắt qua hai bờ sông ấy, để tôi có thể đi về thoải mái theo nhu cầu tình cảm hai bên nội ngoại. Bây giờ thì liệu như nhịp cầu có được bắt qua thì nối cái gì đây? Hay là phải nối liền hai chuổi xót xa.
Thế là hết một buổi chiều suy nghĩ vẩn vơ. Chợt nhớ là còn một cuốn sách mới mua chưa đọc “ Một thời để yêu. Một thời để chết” của Eric Maria Remarque. Câu chuyện cuốn hút tôi ngay từ trang đầu. Ông nội, rồi ba tôi, mẹ tôi và các em thay nhau cằn nhằn cho đến lúc đói quá tôi mới buông sách và lục cơm nguội thì đã chín giờ. Thế đấy, khi tôi mà cầm cuốn sách trên tay thì dù có đòn xeo cũng không thể làm cho tôi bật dậy. Điều này làm cho rất nhiều người chung quanh tôi phiền phức. Khi thấy tôi cầm tô cơm. Ông nội tôi nói:
         - Đói rồi hả con. Đéo quạ con cào nai. Trong đó viết cái gì mà mày mê dữ vậy?
         Tôi nín thinh, nếu mà trả lời ấm ớ một lát thì lãnh đủ ngay. Dứt tô cơm, tôi kêu cô út :
         - Út đi mua cho anh hai, ly café đá.
         - Anh hai biết ý em hết trơn. Tiền đâu ?
         - Trong túi áo đó.
          Cô út lấy tiền, lấy ly đi mua café, trong khi tôi lại chúi đầu vào quyển sách cho đến khi :
          - Anh hai. Uống café. Tôi quay lại thấy cô út nhà ta hai tay hai ly. Tôi trợn mắt :
          - Anh kêu mua một ly.
         - Anh dặn rõ ràng “ Mua cho anh, hai ly café đá“ nghĩa là anh một ly, út một ly. Tôi ngớ ra là hồi nãy con bé nói “ anh hai biết ý em hết trơn“ Lém thật. Trang sách cuối cùng chấm dứt lúc một giờ sáng và tôi lăn ra ngủ như chết.

          Sáng hôm sau, ngày 27 tháng 1 năm 1973, ngày Hiệp Định Paris có hiệu lực, một thoáng vui mừng vì hòa bình đã đến (?!). Nhưng khi ra Bộ Chỉ Huy tôi mới sững sờ, những con người vui mừng quá sớm bị bắt ngồi sắp lớp, họ là những người cả tin cũng như tôi cách đây vài phút, một cái gọi là hòa bình chỉ là một sự thay đổi hình thái chiến tranh. Vẫn tiếp tục chia lìa và ly tán.
            Những ngày sau đó là những tin tức chiến sự và kèm theo những tin tức người này, người kia chết, mất tích, bị bắt vì cả tin có một hòa bình. Rồi những lời tố cáo nhau, bên này, bên kia vi phạm Hiệp Định và rồi ai cũng giành lấy quyền giáng trả kẻ bội ước? Người chết. Cứ tiếp tục. Lòng tôi như khô lại, người bị lường gạt không là Sài Gòn, Hà Nội hay Washington mà là những người như tôi, là bạn bè tôi, là dân tộc tôi. Không hiểu mọi người nghĩ gì? Nhưng tôi thì đau đớn.

Tôi đến thăm thầy Vân, với hy vọng sẽ làm giảm đi sự bức bối của mình.
 Bước vào tuổi bảy mươi, gánh nặng của năm tháng chỉ tác động tới dáng vẻ của thầy, nhưng với phong cách và đức độ thì thời gian chỉ có thể làm được một điều duy nhất, làm cho đức độ và vị trí của thầy trong lòng mọi người càng lúc càng lớn hơn. Thầy chỉ ghế cho tôi ngồi rồi hỏi thăm về gia đình, về việc làm của tôi. Tôi kể cho thầy nghe về việc được gặp ông Cụ, và ông Cụ gởi lời thăm thầy. Thầy cười, nhìn tôi :
           - Cái thằng đó số nó khổ. Lợi thì không màng, danh thì không muốn mà đút đầu vào. Thầy không biết để làm chi? Để thầy viết sẵn một cái thư, khi nào con đi lên nhớ ghé lấy. Gởi bằng Bưu Điện khó tới tay nó lắm. Lâu quá rồi bọn thầy không gặp nhau. Bè bạn khi tuổi càng lớn, trách nhiệm đối với gia đình, với mọi người càng nặng thì càng xa. Nhưng may mà cách mặt chớ chẳng cách lòng.
          Tôi vô cùng ngạc nhiên, vì từ trước đến giờ tôi chưa khi nào nghe thầy Vân gọi ai bằng thằng hay nó. Thầy kể cho tôi nghe về tình bạn của thầy với ông Cụ và các bạn đồng học. Và rồi tôi chợt hiểu ra chính vì sự quan hoài của tình bè bạn, mà thầy mới trở lại cái phong cách của thời niên thiếu và cũng có lẽ thầy gián tiếp dạy cho tôi cái cung cách ứng xử này thông qua tình bè bạn của thầy. Hầu hết những học trò của thầy. Ngoài việc được ở thầy kiến thức còn nhận được của thầy không ít những điều cần thiết để làm nên tính cách của một con người. Thầy tỏ vẻ quan tâm đến việc tôi chưa có con, thầy bảo :
         - Con phải đưa vợ con và con đi bác sĩ. Không có con tức là không có tương lai. Trong cuộc đời ai cũng có nhiều hoài bão, mà thử hỏi mấy ai thực hiện được hoài bão của mình. Bởi thế, khi có được một đứa con, mình sẽ rất yên tâm. Vì con cái chính là một hoài bão lớn đấy, rất lớn đó nghe con. Thầy nói cho con nghe. Khi con trồng một cái cây nào đó, chăm sóc nó, vun phân, tưới nước. Hằng ngày thấy nó lớn lên, thấy nó đâm một chồi non, một lá mới con sẽ thấy lòng mình sảng khoái biết bao. Thấy một chiếc lá rụng đi thì chiếc lá đó mang đến cho con một thoáng ngậm ngùi. Đấy. Trồng một cái cây mà còn như thế đó, huống hồ gì chăm sóc và nuôi dạy một con người. Mà con người đó lại là máu thịt của mình. Thầy không có cái hạnh phúc đó và thầy không muốn những học trò của thầy bất hạnh.
           Thầy cám ơn tôi về việc đến thăm thầy. Thầy thì như thế đó. Nhưng thưa thầy, người phải nói tiếng cám ơn chính là chúng con. Mỗi khi gặp một khó khăn nào đó chúng tôi đến với thầy. Rồi khi ra về lại theo trong lòng mình những cái nhẹ nhàng, những điều mới mẽ. Những thứ quý giá ấy không phải chúng con tìm ở đâu cũng có, nhất là trong hoàn cảnh hiện nay.

Hai vụ việc có giải quyết tới nơi nhưng không tới chốn, tôi không hài lòng và có cảm tưởng mọi người quay lưng lại với tôi. Lần lên Sài Gòn họp tổng kết, tôi đem ý nghĩ này nói với anh Văn khi anh cùng tôi uống café ở La Pagode, anh Văn nói với tôi :
         - Anh hiểu chú, nhưng anh nói cho chú nghe thế này. Cái nhiệm vụ của chúng ta. Không phải là khám phá ra và xóa cho nhiều các mục tiêu TĐXH, mà cũng không phải là bắt, rồi truy tố họ ra tòa với cái án thật nặng, Cái nhiệm vụ của mình là phải làm sao cho TĐXH càng lúc nó càng ít đi. Hàng tháng đọc báo cáo từ các nơi gởi về. Anh rất buồn khi thấy tháng trước nơi nào đó xoá được 10 mục tiêu, tháng kế đó 12, rồi tháng sau cao hơn tháng trước. Đến cuối năm, dương dương tự đắc với cái kết quả cao ngất trời. Làm ăn cái kiểu gì kỳ vậy, càng bắt càng nhiều? Đấy cái vấn đề nó nằm ở chỗ đó. Anh nhắc chú điều này, mình làm cái nhiệm vụ bài trừ TĐXH mà mình vì một nắm tiền thưởng con con bởi những kết quả đạt được hay tệ hơn là vì một chút tình cảm, lợi lộc gì đó rồi cho qua. Thế là mình hại mình, mình hại người.
          Trong cuộc sống ai cũng có nhu cầu này nọ. Anh em mình cũng không khác. Nhưng chú thử nghĩ trong cuộc sống này cái nhu cầu thật sự cần thiết có nhiều nhặng gì cho cam. Nói một cách nôm na theo kiểu lúc trà dư, tửu hậu là “Ăn uống. Ngủ nghỉ. Làm tình. Bài tiết”. Chú thử nghĩ xem nếu không đáp ứng được một trong bốn nhu cầu này thì loài người sẽ ra làm sao ? Tất nhiên trong cuộc sống thì vấn đề không đơn giản thế. Anh nghe ông Cụ nói chú là người rất khoái Cụ Nguyễn Công Trứ. Tất nhiên là chú phải biết ông ấy có nói câu này “ Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc “ nếu chú hiểu được câu này thì chú sẽ “tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn“. Anh không phải là một nhà xã hội học hay là một triết gia. Mà là một người nhận một nhiệm vụ. Thi hành nhiệm vụ đó để lãnh lương nuôi sống bản thân mình. Thành ra cái tri túc, tri nhàn kia. Nguyễn Công Trứ tri hành nó như thế nào thì anh cố xin được hiểu và làm như thế ấy. Anh mong chú cùng các anh em khác cũng như vậy. Anh hiểu ý chú. Chú muốn làm một việc gì thì chú sẽ đem hết năng lực của mình làm cho tới nơi chốn. Nếu chú đi cày một thửa ruộng, đi cấy một công đất thì được. Nhưng đi làm một chuyện mà có liên quan đến nhiều người mà chú nghĩ như thế là không được. Việc trước chỉ cần cố gắng, việc sau thì buộc phải kiên trì.
          Năm nay anh đã hơn bốn mươi. Cuộc đời anh tương đối hanh thông, nhưng cũng gặp không ít khó khăn. Bởi vì chúng ta được sinh ra và lớn lên trong một thời đại khó khăn. Nhưng không phải là không có niềm vui. Niềm vui và nỗi buồn của riêng anh, thì mọi người có thể chia sẻ. Nhưng dứt khoát không phải là của người khác. Bởi vì mỗi một người là một cuộc đời hoàn toàn riêng rẽ. Vì vậy, không thể đem kinh nghiệm của mình mà chỉ vẽ cho ai. Nhưng anh biết chắc là có cái niềm vui ấy. Có điều, từng người nhận nó và hưởng thụ nó như thế nào đó theo cách của mình. Chú nói chú sinh ra mà không biết khóc. Như vậy có thể cho bản chất của chú là lạc quan, chú có nghĩ thế không? Thế thì hôm nay tại sao chú lại buồn vì việc đó. Những gì anh nói với chú chỉ là lời tâm sự, hoàn toàn không phải là một lời khuyên. Nếu có thì với riêng chú, anh nói thế này; chú hay làm thơ. Khi chú làm được một bài thơ. Dù chưa chắc đã hay, nhưng nếu chú thích nó, ngâm nga nó thì cũng là một niềm vui. Dù rằng bài thơ đó chỉ để diễn tả một nỗi buồn, một nỗi thất vọng. Chỉ duy nhất điều này là anh biết chắc. Chú nghĩ lại xem và cố mà giữ lấy.
Anh Văn là người ít nói, còn tôi thì nói hơi nhiều, nhưng lần này thì ngược lại. Anh ngồi nói như là một lời tâm tình và tôi thì ngồi nghe.
Rồi chúng tôi bàn về thái độ tri và hành của Nguyễn Công Trứ. Chúng tôi ngưỡng mộ ông, sảng khoái với ông. Không biết anh Văn nghĩ thế nào về con đường tình ái của Uy Viễn Tướng Công, mà tôi thì không dám hỏi. Nhưng với tôi thì bị ảnh hưởng hơi nặng. Tất nhiên là cuộc sống đương đại thì không thể chấp nhận. Cầu trời cho tôi đừng quá sa đà vào chuyện này. Chợt nhớ ra, tôi nhờ anh chuyển một bức thư của thầy Vân gởi cho ông Cụ. Anh hỏi tôi thầy Vân là ai. Tôi nói cho anh về quan hệ của hai người. Anh nói:
      - Chú hay lắm. Ông Cụ rất cần những người bạn. Anh thấy ông Cụ thường hay nhắc người này, người nọ nhưng không thấy ai tới thăm. Ông Cụ cô đơn lắm. Ông Cụ rất thèm được nói chuyện với ai đó về một chút kỷ niệm, một điều gì đó riêng tư. Nhưng lâu lắm rồi, những câu chuyện như thế ông Cụ không có dịp để nói.
       Anh Văn nói bằng một giọng buồn buồn, hình như anh cũng vậy. Cái lon Thiếu Tướng đã làm cho anh không thể nói những điều mà bản thân cần thiết.
         Bổng nhiên anh hỏi tôi:
         - Thấy chú có vẻ quá ngưỡng mộ cụ Nguyễn Công Trứ?
         - Vâng. Thưa anh.
         - Chú có làm bài thơ nào về Cụ không? Nếu có thì đọc cho anh nghe.
         Thấy tôi có vẻ ngần ngại. Anh khuyến khích:
          - Chú cứ đọc. Dù chú viết thế nào anh cũng không có ý kiến. Kể cả chú thọt léc anh
          Và tôi ấp úng đọc được mấy câu. Anh khoát tay :
- Không được. Mới nghe vài câu anh biết chú viết theo thể hát nói. Thế mà chú đọc với cái giọng gà nuốt dây thun thì làm sao mà nghe. Bộ chú nghĩ là anh không biết thơ thẩn là gì à?
Ôi. Chuyện chơi thôi mà cũng khó lòng qua cua với ông tướng rồi. Bổng nhiên tôi hết ấp úng, thế là đang rù rì, tôi lên giọng rổn rảng lại từ đầu cho đến cuối:
Làm quan thì cứ làm quan.
Ăn chơi thì cứ đàng hoàng ăn chơi.
Nợ tang bồng không gánh lấy gì vui
Thú phong nguyệt mà nói không thì cũng uổng,
Nam Bắc bôn ba khai sông khẩn ruộng,
Sau công đường cứ tom chát râm ran.
Đông Tây dong ruỗi yên định giang san.
Trong trướng hổ giọng đào tơ thỏ thẻ,
Tuyết nguyệt phong hoa. Cầm kỳ thi tửu,
Khắp non sông gom góp cuộc chơi vào.
Không giai nhân, tài tử biết vui sao.
Chẳng tài tử, giai nhân buồn ủ rủ,
Không tài tử nhạt cầm kỳ thi tửu,
Chẳng giai nhân sầu tuyết nguyệt phong hoa.
Có cả hai nhân gian đẹp thêm ra.
Ở đâu có con người đều có thế,
Cứ hòa hợp âm dương cho đúng lẽ,
Ông hóa công bảo vậy cãi làm chi.
Cứ thuận theo. Trời đất cũng cười khì.
Làm đúng điệu, chơi đúng trò mới khoái,
Chức trọng cần làm đâu ra đấy,
Quyền cao phải cân nhắc rõ ràng.
Dây cương thường giữ đúng chớ quẹo ngang.
Chớ hãnh tiến, làm cho ra vẻ,
Ngày thì miệng cứ chi hồ giả giả,
Đêm thèm thuồng chơi bẩn. Bậy rồi a?
Đã trót mang lấy tiếng hào hoa.
Cứ lịch lãm chơi cho tới bến,
Đừng ỷ thế làm quan rồi ba trợn,
Cho lăng xăng, lộn xộn cái cuộc đời.
Quan chơi quan cứ quan chơi.
          Anh nhìn tôi cười và giữ lời hứa không một ý kiến nào. Nhưng có mấy ông bự bự ngồi bàn bên đang lắng nghe. Một ông mang ly qua và nói:
Phải nói là ông anh có một chú em hay ra phết. Xin mời ông anh khéo dạy em mình. Xin mời ông em không làm hổ mặt anh mình. Chúng tôi khoái nhất mấy câu “Ngày thì miệng chi hồ giả giả, Đêm thèm thuồng, chơi bẩn. Bậy rồi a? Đã trót mang lấy tiếng hào hoa. Cứ lịch lãm mà chơi cho tới bến.”
Anh Văn nhìn tôi gật đầu. Cả ba vui vẻ nâng ly. Hai ông bự bự bàn bên nâng ly hưởng ứng. Đặt ly xuống, anh ấy hỏi:
- Chú em mày còn tí nị mà chơi coi bộ bạo thật. Em mà chơi như vậy, chắc anh thì dữ hơn.
Tôi lỏn lẻn:
- Thưa anh. Em biết làm thơ chút đỉnh. Lấy ngữ điệu của Cụ Uy Viễn để nói về Cụ thôi. Chứ làm và chơi như Cụ thì có lẽ hết đời này cũng chưa bằng cái móng tay của Cụ. Còn anh của em thì có khi nào dẫn em đi chơi đâu mà em biết? Anh ấy chỉ dẫn em đi làm thôi. Hôm nay dẫn đi uống café là dữ lắm rồi.
Anh Văn nhìn tôi:
- Chú khéo mồm làm tôi phát sợ. Cái giọng của chú mà chế thêm một tí nọc độc nữa là thiên hạ quay cu lơ ráo.
Cả ba cùng cười.

Khi tôi xô cánh cửa khép hờ và bước vào ngôi nhà ọp ẹp, trên bộ ngựa năm đứa bé đang chí chóe với nồi khoai lang luộc. Đứa lớn nhất khoảng hơn mười tuổi. Thấy chúng tôi cả bọn im bặt lấm lét nhìn. Tôi hỏi :
- Ba má cháu đâu ?
Chúng nhìn tôi im lặng. Tôi nói lớn :
- Chủ nhà đâu. Xin vui lòng cho Cảnh Sát xem tờ khai gia đình. Một người đàn bà khoảng trên ba mươi từ nhà sau bước ra, vừa đi vừa vuốt tóc tai lại cho gọn, làm phô ra cái bụng đang mang bầu. Khi thấy tôi, chị tái mặt. Tôi bảo:
- Chị cho xem tờ khai gia đình, chị quay vào, rồi trở ra mang tờ khai gia đình đưa tôi. Nhìn tời khai, tôi biết ông chồng đang tuổi quân dịch và anh ta có đủ điều kiện để hoãn dịch. Tôi hỏi :
- Anh nhà đâu chị ?
Chị ấp úng và tôi bước vào nhà sau thấy anh ấy nép vào sát trong vách buồng mặt xanh như tàu lá. Tôi hiểu tất cả và bảo:
- Anh ra đây.
Anh líu ríu đi theo tôi cũng vừa lúc ấy một nhân viên Cảnh Sát khác đi vào, nhanh như chớp tôi hiểu tình hình này tôi không thể giải quyết tại đây mà phải làm theo một hướng khác. Tôi bảo anh Cảnh Sát mới vào :
- Anh giữ anh này lại và kiểm tra giấy tờ.
Không một manh giấy gì khác ngoài căn cước. Tôi quay lại hỏi chị vợ trong khi bọn con nít khóc dậy trời:
- Các cháu có khai sinh không ?
- Dạ có.
- Tại sao không làm hồ sơ xin hoản dịch vì lý do gia cảnh?
- Dạ. Gia đình nghèo quá.
Tôi đảo mắt nhìn quanh căn nhà, rồi nhìn lên nóc nhà. Trên lỗ chỗ mảng lá dừa nước, mảng tol, chèn nhét đủ thứ để chống dột. Đúng rồi, nghèo thiệt. Chà khó đây. Tôi nghĩ thế và nói mà không biết tại sao tôi nói:
- Thôi ráng đi, ngày mai ra gặp tôi, mang theo tờ khai gia đình, hôn thú, khai sinh, để tôi hướng dẫn làm hồ sơ hoãn dịch, bây giờ chúng tôi tạm giữ anh ấy.
Trong khi tôi chỉ chỗ để chị ấy tìm tôi mà chị ta có nghe đâu vì bận khóc, lạy tôi. Tôi hết hồn la lên :
- Nín. Đừng như vậy nữa. Nghe tôi này.
Bà vợ và đám con cứ khóc lóc um sùm, còn ông chồng thì im bặt đứng như trời trồng:
- Tôi bảo chị đến thì cứ đến, gặp tôi rồi tôi chỉ cách cho, chớ trốn chui, trốn nhủi như thế này thì làm ăn sao được mà nuôi con.
Chị nhìn tôi, đôi mắt thất thần, rồi lúi dúi móc trong túi đưa cho tôi hai ngàn :
- Xin chú tha cho.
Tôi gạt đi, rồi bảo anh cảnh sát dẫn anh ấy đi. Chúng tôi cùng anh ấy bước ra ngoài giữa những tiếng khóc đuổi theo. Dọc dường tôi nghĩ “Chết rồi, gánh bàn độc mướn phen này”. Nhưng lỡ hứa mạnh quá rồi làm sao đây? Con đường từ Cầu Quay vô Kinh Cụt lổm nga, lổm ngổm đá. Phải chi bữa nay đừng hứng chí lội theo thì đâu có cực thân, cực lòng đến thế này. Đây chỉ là một cuộc hành quân cảnh sát thông thường chớ có gì đâu mà phải lội theo. Bất chợt tôi nhìn anh ta, những bước đi nặng nề, cam chịu, không biết anh ta đang nghĩ gì? Chắc là không nghĩ gì đâu, đầu óc đặc quánh lại rồi làm sao mà nghĩ được. Cuộc hành quân chấm dứt. Không hiểu sao tôi không theo xe về mà ghé lại nhà chị ta. Thấy tôi chị nhìn bằng cặp mắt như đổ lửa :
- Chú còn ghé đây làm gì? Mấy đứa con tôi chết đói cho vừa lòng chú.
Đàn bà nghĩ cũng lạ thật khi họ hiền thì hiền hết mức, nhưng khi nổi tam bành lục tặc lên thì ghê thật. Tôi là thằng bán trời không mời thiên lôi mà còn phải tránh đôi mắt ấy:
- Chị cho tôi xem lại tờ khai gia đình, hôn thú và các khai sinh của mấy cháu. Rồi tôi giúp cho.
Chị nhìn tôi đôi mắt như dịu lại, nói nhỏ:
- Nhưng tôi đâu có tiền.
- Thì chị cứ cho tôi xem đi đã.
Chị lấy giấy tờ cho tôi xem, tất cả đã đầy đủ. Tôi thở phào nghĩ thầm “đỡ được một phần “. Tôi quay lại hỏi:
- Ở nhà còn tiền không ?
Chị móc đủ các túi, được ba bốn trăm gì đó rồi đưa cho tôi. Tôi nhìn chị, bây giờ thì có vẻ hiền hiền một chút:
- Chị giữ lấy. Bấy nhiêu tằn tiện cũng sống được cả tuần. Ngày mai chị mang hết giấy tờ ra gặp tôi. Tôi bước ra, không buồn xem coi phản ứng chị như thế nào.
Tôi về tới BCH, ngồi loay hoay với cái ý nghĩ là giúp họ như thế nào. Về mặt thủ tục giấy tờ thì không lo. Nhưng tiền đi tới đi lui, rồi lệ phí này khác. Thời gian ít nhất là phải cả tháng, thế thì chị ta và sáu cái xáng cạp mini ấy ăn cái gì? Chợt tôi nhớ ra “À mình còn một trương mục của ban kế hoạch“. Suy nghĩ một hồi tôi quyết định mượn trong số đó hai chục ngàn đồng. Chỉ có cách ấy thôi. Tôi vội lên xin gặp CHT và trình bày hết mọi việc với ông và hứa trả bằng cách trừ lương mỗi tháng hai ngàn. Sở dĩ tôi phải làm vậy là vì khi phát hành chi phiếu sử dụng số tiền này phải có hai chữ ký của tôi và của ông. Ông nghe tôi nói xong ông cười khà khà :
- Ngộ. Ngộ thiệt. Cảnh Sát thì lấy tiền của mấy thằng trốn quân dịch, còn chú thì chẳng những không lấy mà còn xuất tiền túi lo giấy hoản dịch dùm. Ngộ há. Nhưng thôi làm sao đó thì làm. Đâu chi phiếu đâu đưa đây tôi ký. Kỳ này vợ chú mày đẻ con trai nhé.
Tôi mừng húm, đưa chi phiếu cho ông ký. Cầm cái chi phiếu trên tay về phòng mà tôi thấy nhẹ trong lòng.
Sáng hôm sau chị ta đến mang theo giấy tờ đến gặp tôi. Tôi bảo Tuân hướng dẫn chị ấy cung cấp giấy tờ cho Tuân làm hồ sơ. Tôi đưa cho Tuân muời ngàn đồng với một cái lệnh chắc như cua gạch :
- Trong vòng một tuần mày phải hoàn chỉnh và lấy xong biên nhận của trung tâm tuyển mộ nhập ngũ. Đây mười ngàn cho các lệ phí và xăng nhớt cho mày cho xe. Người này là anh họ tao.
Tuân nhìn tôi;
- Cái gì mà gấp dữ vậy cha nội.
- Ừ thì càng sớm càng tốt. Mấy đứa nhỏ đang đói ở nhà.
Tôi đưa cho chị ấy mười ngàn và nói :
- Chị cầm lấy về lo cơm gạo cho mấy đứa nhỏ trong khi chờ đợi anh ấy về. Có gì thì chị cứ tìm Tuân.
Có vẻ chị không tin lắm ở mắt mình nên nhìn tôi trân trân mà không nói một lời nào. Tôi quay người bỏ đi.

Phải công nhận là thằng Tuân này hay thật, mọi việc trơn tru nhanh chóng mà tôi không hiểu tại sao. Cho tới khi gặp trung tá Hiến, khi ông hỏi tôi về việc ông anh họ tôi có được giấy hoãn dịch chưa. Tôi ngớ người một lát, rồi chợt hiểu. Thì ra thằng Tuân này cũng khá lém. Nó xin cái thư tay của ông. Tôi nói:
- Nếu trung tá không giúp thì ông anh họ tôi chắc thua.
Ông cười, lật tẩy tôi ;
- Anh họ cái con khỉ. Ông thầy mày nói với tao hết rồi. Nhưng thôi cũng hay hay. Chiều nay nhậu. Tao bao.
 Tôi thật nhẹ lòng. Thế đấy. Dốt và nghèo là hai cái tội lớn nhất thế gian này. Cái thứ nhất thì thôi không nói, cái thứ hai thì coi bộ chó quá. Tôi nghĩ mà không biết có đúng không “Mấy thằng nghèo hầu như là những thằng quá ngay thẳng, quá hiền hậu. Tất nhiên. Cũng còn khối thằng lơ tơ mơ trong chuyện làm ăn như tôi nữa “. Ơ kìa, tôi có làm ăn cái gì đâu? Cái làm của tôi từ nhỏ đến giờ chẳng liên quan gì tới cái ăn cả và trái lại.
Buổi chiều sau khi tan sở tôi rủ Tuân qua mời trung tá Hiến ra Hưng Phát nhậu. Một ông già và hai thằng nhóc cụng ly rốp rốp trước sự ngạc nhiên của mọi người, nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất. Nhưng không ai đá động gì tới cái vụ đó. Bổng ông già trở giọng ngậm ngùi :
- Tụi bây biết không? Tao đi lính tây, rồi chuyển sang lính ta, suốt cuộc đời không làm nổi một điều gì xấu. Rồi nghĩ lại thiệt là mình dở ẹc, chuyện xấu dễ như trở bàn tay mà làm còn không được thì lấy gì làm chuyện tốt.
Nghe ông lý sự cái kiểu này, hai thằng nhóc tụi tôi cười thiếu điều muốn nôn ruột. Khi hết cười tôi nói :
- Theo như ông thầy nói muốn làm được chuyện tốt thì phải làm chuyện xấu cho giỏi.
 Ông ngớ người nhìn tôi:
- Mày. Mày xỏ lá mậy. Mày nói thế là mày nói tao dạy tụi mày làm bậy à?
Hai thằng chúng tôi lại cười. Ông nghiêm mặt nhưng rồi cũng cười theo, dứt cơn, ông nói tiếp:
- Tụi bây cười hén. Được mai mốt bằng tuổi tao đi rồi tụi bây biết. Ở cái thời này, làm việc xấu dễ lắm con ạ. Thí dụ như tụi bây nè. Bắt một thằng trốn quân dịch nè, lấy của nó mấy chục ngàn, thả. Chiều có một chầu nhậu, còn dư một mớ đưa cho vợ mua gạo. Dễ dàng như trở bàn tay, lính như tụi bây còn làm được nữa là. Đâu làm thử coi. Còn làm như tụi bây phải mất cả tuần, chạy đầu này, chạy đầu kia, nhờ vã khắp nơi. Ấy là tụi bây còn có một ít thế thần đó, mà còn phải tốn tiền. Chân chòi cỗ loi thử coi. Nhưng thôi. Vô, một chăm phần chăm
Tất cả cạn ly và phen này cười hết nổi. Bổng dưng ông hỏi tôi :
- Ê Hiền. Bộ bữa đó ông Nguyễn Trung Trực nhập vô mày hả ?
Tôi ngớ ra :
- Ông thầy nói sao ạ?
- Thì tại sao mày lại đi lo cho cái thằng mà mày không quen biết gì cả? Sao mày không tha mẹ nó đi, đừng nhận cái gì của nó hết là được rồi.
- Tôi cũng không biết nữa ông thầy ơi. Chắc có lẽ là thấy bầy con của thằng chả thấy hơi tội tội.
Thằng Tuân chen vào:
- Ông thầy không thấy mấy đứa nhỏ, ông thầy thấy mà ông thầy không tội nghiệp quá nữa là khác. Còn vợ thằng chả hả. Cái bụng chong bóc.
Ông gật gật :
- Ừ giòng cái thứ con nít, nó ăn hiếp người lớn giỏi lắm. Thôi nghỉ. Tính tiền nè, đứa nào đó.
- Để tôi trả ông thầy.
Ông trợn mắt nhìn tôi :
- Ê tao rủ mà mậy. Tụi bây đừng có lộn xộn.
Cả ba khệnh khạng ra khỏi quán, đường phố vẫn tấp nập người qua lại, Không ai nhìn cái cảnh này mà bảo rằng đây là một đất nước có chiến tranh. Ông thầy ra về. Tôi và Tuân kéo nhau vào Dư Âm uống café, vẫn khung cảnh đó và những con người đó với những giai điệu quen thuộc nhả ra từ dàn Akai. Nhưng cũng chính những cái quen thuộc ấy nó cho chúng tôi một chút mơ mộng để đủ sức tồn tại. Những giai điệu mượt mà ấy kèm theo mỗi thứ một chút; ưu tư, đau xót, hy vọng, niềm vui và nhiều thứ nữa, Ôi cám ơn những âm thanh dịu dàng này. Cám ơn nhiều lắm.

Mới sáng sớm, tôi chưa kịp rửa mặt, thì có khách. Bước ra thấy hai vợ chồng tư Lụa quần áo tinh tươm đang ngồi nói chuyện với mẹ tôi. Thấy tôi cả hai mừng ríu rít. Tư Lụa, móc cái giấy hoản dịch loại vĩnh viễn còn mới cáu, được ép plastic cẩn thận ra khoe với tôi :
- Trời ơi, nói ra chú đừng nói tôi nịnh nghe. Tôi nghĩ chú là ông Phật sống. Chớ có ai đời không quen không biết mà chú giúp tôi một cách ngon ơ.
Lúc này người lúng túng lại là tôi :
- Tôi nói thiệt với anh chị, nhìn mấy đứa nhỏ khóc, tôi chịu không nổi. Nên hứa ẩu cho qua tang lề. Ai dè lại nên việc. Thôi bây giờ thì yên rồi, ráng làm ăn nuôi mấy đứa nhỏ.
Chị Tư lại chìa ra một gói giấy lên tiếng :
- Hôm trước chú tốn hết mấy chục ngàn, nay tôi có xin nội ngoại mấy cháu nó để trả lại chú với mang cho chú chút ít ăn lấy thảo.
Thấy tôi hơi ngần ngừ, anh Tư lại lên tiếng :
- Chú không nhận vợ chồng tôi áy náy lắm. Rồi quay sang mẹ tôi, anh tiếp. Nhờ dì nói với chú ấy dùm cháu.
Mẹ tôi nói:
- Hôm trước em nó cho chú thiếm mượn bao nhiêu, thì trả lại bấy nhiêu. Đừng có đưa dư tôi không cho em nó nhận đâu.
Vợ chồng Tư Lụa nài nỉ :
- Đâu có gì đâu dì, hôm trước chú ấy lo cho vợ chồng cháu mọi chi phí còn đưa thêm tiền nuôi mấy đứa nhỏ, tất cả là hai chục ngàn. Nay vợ chồng cháu xin hoàn lại đủ với gởi thêm chú ấy chút ít đặng uống nước với người ta.
Mẹ tôi bảo :
- Thôi chú thiếm trả cho em nó hai chục thôi. Quay sang tôi bà hỏi.Tiền ở đâu mà con có?
- Con mượn ở đơn vị.
- Thôi thì như vầy, con lấy hai mươi ngàn trả lại đơn vị. Quà cáp gì đó thì nhận cho chú thiếm vui. Còn tiền thì không. Bà lại nói với vợ chồng Tư Lụa. Chú thiếm cũng nghèo. Thôi em nó giúp chú thiếm là để cái đức lại về sau. Nếu mang ơn nó thì để trong bụng được rồi.
Hai vợ chồng đếm tiền đưa lại cho tôi. Tôi nhận tiền, phần còn lại anh chị cất vào túi rồi lôi một giỏ xách, nào đường, sữa, café trà và hai con gà. Tôi nghĩ thầm “ Lại gà. Bộ mình khoái ăn gà lắm sao ta“. Hai vợ chồng ngồi nói chuyện ríu ra, ríu rít cho tới lúc ông nội và ba tôi đi uống café về, rồi lại tiếp tục cám ơn cám nghĩa thêm một chập nữa. Còn tôi thì viện cớ đi làm, dọt mất.
Ngồi ở quán café, tôi cũng thấy vui vui, nhớ lại xấp tiền tôi lấy ra coi lại. Tôi có cái tật khá lớn. Ai đưa tiền gì, tôi chỉ hỏi là bao nhiêu rồi đút túi. Cái việc đếm tiền trước mặt người khác tôi xem như là một cực hình, bị mẹ tôi rầy hoài mà không bỏ. Bây giờ đếm lại thì tá hỏa. Ba mươi tám ngàn. Tôi bỏ ly café tại đó xách xe chạy về nhà, thì vợ chồng tư Lụa đã về tự lúc nào, mẹ tôi hỏi có gì không. Tôi nói không rồi chạy tuốt, đến quán café vừa uống vừa nghĩ. Không hiểu sao mà khi xong xuôi họ chạy tiền hay nhỉ? Tại sao không lo sớm đi để khỏi ai bắt. Nếu không phải là mình cám cảnh mấy đứa nhỏ thì họ làm sao? Thật tình không hiểu, hay là họ cũng như mình, tới đâu hay tới đó, mọi việc rồi sẽ qua đi. Nhớ lại khuôn mặt của hai vợ chồng họ mà tôi mắc tức cười. Hôm bị tóm với hôm nay, khác nhau một trời một vực. Thì ra, con người khi vui khi buồn, khi giận dữ, khi sợ sệt nó khác nhau xa quá. Không hiểu tôi có như vậy hay không? Chắc có lẽ mỗi khi vui, buồn mình nên coi kiếng xem nó khác nhau như thế nào? Nhưng thôi, đứng về mặt pháp luật mình không sai, đứng về mặt đạo lý mình giúp được một người. Từ nhỏ tới giờ chắc có lẽ tôi làm việc này là coi được nhất.

Từ ngày về thị xã, tôi có dịp đến thăm gia đình Bích nhiều hơn, mua ít quà cho cháu, đốt một nén nhang cho bạn. Thỉnh thoảng đưa vợ con Bích đi ciné. Tôi tự đặt cho mình trách nhiệm phải chăm sóc cho cháu Bích Vân trong một chừng mực nào có thể. Tội cho cháu nó không có một ký ức nào về cha mình, mỗi lần thấy tôi đến bi bô “chào bác”. Tôi nghe nhoi nhói trong lòng khi chứng kiến những bất hòa giữa bác gái và vợ Bích. Tôi chỉ ậm ừ cho qua chuyện khi bác cả than phiền, hay khi vợ Bích thầm thì trong những lần đưa cháu đi chơi. Muốn tránh, nhưng không thể, tình bạn bè luôn luôn kéo bước chân tôi đến dù chỉ thắp một nén nhang. Nhưng lại phải dè dặt trong lời nói, thận trọng trong cư xử. Tôi nhớ tới thầy Vân khi thầy nói về sự chân tình và lòng quan hoài trong tình bạn bè, và tôi phải biết đến cái giới hạn của nó, Nhớ đến ông Cụ nói về tính cách của một con người, nhớ anh Văn nói về thái độ sống, nhớ ông tư Qưới về kiểu cách ăn chơi. Nhớ đến ba tôi với tấm lòng của một người cha luôn luôn muốn con cái mình toàn vẹn. Nhưng tôi thì nhận được quá nhiều điều tốt đẹp từ mọi người mà sự đáp trả lại thì rất mơ hồ. Sắp đến cái tuổi tam thập nhi lập rồi mà tôi hình như vẫn còn rong ruổi trên những bước đường không định trước. Những ước mơ cháy bỏng đang lụi tàn dần. Sự cố gắng đang làm tôi mệt mỏi. Tôi không bi quan, tôi luôn luôn yêu mến cuộc đời này, mong muốn và cố góp phần làm cho nó bình yên và để tâm hồn mình yên tĩnh, nhưng sao vẫn cứ lộn xộn và vì thế Bèn buồn.
Đang ngồi trong quán café suy nghĩ vẩn vơ. Bổng đâu ông Tư Qưới xuất hiện :
- Ê. Thằng nhóc. Đi nhậu mày.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                       
- Được thôi Bác Tư.
Thế là một già một trẻ, mới hơn chín giờ sáng, đã đèo nhau trên xe đạp đi gầy sòng. Tính tới tính lui một lát ông bảo tôi:
- Thôi bữa nay đừng có rủ rê um sùm, chỉ có tao với mày. Mà nếu như vậy thì vô Hưng Phát.
Thức ăn và bia được bày ra. Mới cụng ly một cái, ông vào đề ngay:
- Mày với con Quyên đừng có nghĩ là tao không biết. Nhìn mày tao nhớ thằng Hoa. Hai thằng đều tài hoa như nhau. Nhưng tính khí của mày khác nó. Mày chừng mực, nghiêm túc. Nên tao khoái mày, rồi thương mày. Mày làm rể tao được đấy. Nhưng cuộc đời không đơn giản thế. Ngăn tụi bây thì tao không nỡ. Để cho tụi bây nhảy bổ vào nhau thì tao không chịu được. Cái đêm đi chơi với mày ở nhà ngủ Hải Thiên. Một lần nữa chứng minh cho tao thấy cái bản lĩnh của mày. Con bé đó, nó bán thân nuôi miệng. Nếu không bán cho mày thì bán cho người khác. Nhưng mày nhận ở con bé đó một niềm vui khác. Giữa cái trần trụi của nhân gian mà mày chơi được cái trò này là mày ngon. Tiếng hát của nó, nhan sắc của nó, thân thể của nó. Mày biết rõ mày toàn quyền sử dụng khi buông ra một nhúm tiền, nhưng mày chỉ nhận cái đáng phải nhận, dù rằng mày đang say bí tỉ. Chơi như vậy mới là chơi. Mày có đồng tiền rồi mày buông ra một, toan tính lấy lại mười. Thậm chí mượn cơn say của mình để dày vò người khác. Như thế là tồi. Suốt đời thằng Hoa không làm được điều này. Tao cũng lắm khi làm không được. Hôm đó tao phải chiều chuộng mình một tí rồi mới ngủ.
- Cháu đâu có ngon lành dữ vậy bác tư, bác thương bác nói vậy. Đôi khi cháu cũng quậy đục nước luôn.
Ông lắc đầu :
- Mày không làm được điều đó đâu thằng nhóc ạ. Đừng có mà xạo sự với tao. Bởi vì sự giáo dục mà mày được thừa hưởng và bản chất của mày. Hai cái đó nó tạo thành một gọng kềm, kềm chặt mày lại rồi. Nếu có một suy nghĩ khác đi thì nó cũng không thể biến thành hành động được. Đừng có giỡn con
Ông ấy bịt đường tôi đến với con gái ông không phải bằng hàng rào kẽm gai, mà bằng một cái thứ gì đó vô phương xâm nhập được. Ông lại giải thích cho tôi về tứ đổ tường, nghe xong muốn lạnh xương sống:
-Trên đời có bốn cái quý nhất là “Sức khỏe, Nhân cách, Trí tuệ, Tiền bạc”. Nhưng cũng có bốn cái khoái nhất là “Cờ bạc, Rượu chè, Đỉ điếm, Hút sách“. Khi mày có được bốn cái trước rồi. Mày dính vô một cái sau. Một cái thôi nhóc ạ, thì bốn cái trước đi tuốt. Tao thì dính đủ bốn cái sau. Mày thấy không? Tao bước lùi lại, khỏi cái lằn ranh sạch trọi xa lắc xa lơ. Vô phương quay lại.
Rồi ông giải thích cho tôi nghe tại sao nó như vậy? Tôi không hiểu ông muốn nói gì? Nhân cách của ông còn đó. Những điều ông nói, những chuyện ông làm vẫn luôn luôn chứng minh là ông có trí tuệ. Gần bước vào tuổi sáu mươi ông vẫn còn tráng kiện. Ông nghèo nhưng chưa nợ nần gì ai, chẳng tham lam của ai. Tôi biết ông nói đúng phần trên và phần dưới ông đưa ra để phủ nhận mình. Cái gì làm ông nghĩ thế? Ông đã sa đà vào các trò này là vì cái gì? Trong cuộc sống hôm nay, có rất nhiều người sa đà vào những trò bệ rạc này. Chỉ có điều là ít hay nhiều. Có rất nhiều lý do được đưa ra để bào chữa, nhưng đều khiên cưỡng. Ông ấy đã nhận ra cái giá trị đích thực của một con người và những nguyên nhân tiêu hủy nó. Sự nhận biết này có phải là do ngắm nhìn người khác hay kinh nghiệm của bản thân? Ôi nếu là trường hợp sau thì buồn quá. Tôi cũng có kinh nghiệm đây.
Bổng nhiên mất hứng. Ông và tôi chấm dứt sòng nhậu lúc một giờ. Giữa cái nắng ban trưa cộng với cơn say chếch choáng. Tôi lại chui vào Dư Âm, kêu một ly café và nhớ lại mối quan hệ giữa ông Tư Qưới và tôi. Bổng dưng có một cái gì đó làm cho tôi phát sợ. Ông ấy có một cái gì đó không ổn trong cuộc sống của mình, nên tài hoa của ông, thường được nhận ra trong những giây phút sa đà. Quyên con gái ông, nhan sắc dưới bình thường thì lại được trang điểm bằng một phong cách khá sắc sảo so với những bạn bè cùng trang lứa. Và cô ấy đang gởi đến tôi cái tình cảm đầu đời. Tôi đang tham gia vào những cuộc chơi đầy bất trắc, vốn đã hơi nhiều so với tuổi tác của mình. Tiếng hát của Thái Thanh ngọt ngào thế kia cũng không lôi tôi ra khỏi những suy nghĩ này. Nếu tôi vẫn giữ quan hệ giữa tôi và Quyên thì tôi sẽ lại gặp khó khăn. Mà thoát ra thì lại là một điều hơi khó. Những gì ông nói phải chăng là cảnh cáo tôi.

Công việc của tôi có vẻ trôi chảy hơn. Nhất là sau khi tôi phá được một đường dây buôn lậu ma túy từ Hà Tiên về Rạch Giá và Sài Gòn. Kết quả thu đạt được không nhiều nhặng gì, cho thấy đường dây vừa mới hình thành. Nhưng như vậy vẫn tốt hơn, có một số ý kiến cho rằng tôi ra tay quá sớm. Tôi không đồng ý với những ý kiến này. Loại tội phạm nào cũng thế, phải triệt ngay từ trong trứng. Anh Văn đồng ý với tôi. Bộ mặt thị xã có vẻ tươi hơn chút đỉnh. Nếu như không có ánh hỏa châu hằng đêm, không có những tiếng súng lẻ tẻ, không có các cuộc pháo kích của mấy tay Việt Cộng, không có lệnh giới nghiêm, nhất là không có các chú lính xỉn say quậy quạng làm càn. Chắc có lẻ cái thị xã nhỏ bé này vui lắm.
Tôi biết được tin anh Thanh mất vì tai nạn máy bay trên báo. Một thoáng buồn. Sự tiếp xúc giữa anh ấy và tôi không quá hai tiếng đồng hồ. Nhưng ở đó anh đã không cư xử với tôi bằng cái quan hệ của một ông tướng và một thằng lính. Có thể ai đó biết chuyện của chúng tôi, cho rằng anh ấy đã ban cho tôi một ân huệ nào đó. Nhưng với tôi, cái mà anh làm cho tôi xúc động. Chính là cách cư xử của một người anh dành cho một thằng em. Anh chết như một người lính. Tôi tin như vậy và chỉ có như vậy tôi mới yên lòng.
Ngày nào tôi cũng có một tờ báo để đọc, tuần nào tôi cũng mua tạp chí Văn, và mỗi tháng một vài quyển sách, Nhưng không theo dõi sát sao tình hình trong nước như trước nữa. Cái tôi quan tâm là văn học, thi ca, là tiểu thuyết của Kim Dung, lúc này mọi người ai cũng chờ báo về để theo dõi những trò mánh mung của Vi Tiểu Bảo, và những cái ba lăng nhăng của giới chóp bu, kể cả một ông vua được xem là hùng tài, đại lược Khang Hy. Nên những chuyển biến về chính trị, quân sự không tác động nhiều đến tôi, dù tôi cũng lờ mờ hiểu có một điều gì đó không ổn. Dù sao thì những chuyện ấy thì ngày ngày cứ ra rả trên đài phát thanh, mỗi đài một kiểu. Khi thò ngón tay vô turning của radio thì thôi nào là đài Sài Gòn, Ba Xuyên, Quân Đội, Hà Nội, VOA, BBC,NHK Tôi nghe loáng thoáng phát ra từ những cái radio hàng xóm, rồi để tránh bực bội thì nhét một cái băng nào đó vào cái radio cassette quái chiêu một chương trình âm nhạc nào đó để nghe, còn không thì ra Dư Âm uống café, hôm nào có tiền thì nhậu. Trong khi đó, một thoáng hy vọng về hoà bình lóe lên rồi tắt ngấm. Cái hiệp định Paris như là một manh giấy lộn không hơn không kém. Súng vẫn cứ nổ, người vẫn cứ chết. Và tôi thì cứ quay quắt với những mơ ước viễn vông. Một thằng bạn học của tôi, Thạch Quốc Hoàng, một thiếu úy trẻ măng đã chết vì tin tưởng cái hiệp định Paris quái quỷ. Nó bị bắt khi đi một mình trên đường từ đồn đóng quân ra thị trấn Giồng Riềng để gặp người yêu. Và sau đó bị giết và thân xác dập vùi ở bờ đìa, mương liếp nào đó có trời mà biết.
                       
Đang mang một nỗi buồn trong lòng, thì tôi nhận được những báo cáo làm tôi choáng váng. Ân đang có những hành động không tốt. Tôi đang cố gắng làm cho mọi cái tinh tươm, bằng cái sức bé tẹo của mình, thì người cộng sự sát bên nách lại giở trò. Cũng không có gì lớn lắm, nhưng quả tình điều đó không được ngăn chặn thì Với số lương hàng tháng thì nếu cố gắng kềm chế một chút thì cũng có thể tạo cho bản thân và gia đình một cuộc sống đàng hoàng. Tôi đành phải bỏ công ra tìm hiểu xem sự việc đi tới đâu? Nếu có thể ngăn lại kịp lúc thì ngăn lại thế nào? Còn nếu như không thể thì phải giải quyết ra sao? Tình bạn bè, tình đồng đội, tôi phải làm sao đây? Tôi cũng biết trong bộ chỉ huy này có không ít thằng như thế, lợi dụng quyền hạn mà mình có được để làm những chuyện tào lao, tha một tên đào binh, quân dịch, làm một cái giấy căn cước hạ tuổi xuống, trồi tuổi lên, hay thả một vụ buôn lậu cò con, nhận một vài chục ngàn đồng hay một chầu nhậu tới bến. Thậm chí có thằng đi lấy xâu tình dục với mấy con đỉ rạc, mấy em buôn lậu Càng suy nghĩ về việc của Ân, tôi cảm thấy mình lẻ loi. Dù tôi biết chung quanh tôi không phải ai cũng vậy. Nhưng khổ nỗi những người không như vậy thì họ chỉ giữ gìn cho tròn cái nhân cách của riêng mình, nên mặc ai méo mó vuông tròn thế nào thì kệ họ, mà nếu như muốn rớ vào thì chắc cú là không xong mà còn gây thêm tai họa cho bản thân. Nhớ lại vụ vợ chồng Tư Lụa với số tiền trả lại cho tôi dư gần một tháng lương và tôi mặc nhiên chấp nhận. Bây giờ nghĩ lại còn cảm thấy nhột nhạt trong lòng. Điều này không phải xảy ra một lần, mà là rất nhiều đề nghị cho tôi như thế. Tôi đã từ chối thẳng thừng, nhưng không hiểu sao đối với Tư Lụa, tôi lại làm vậy. Tôi chợt lạnh mình khi nghĩ rằng đây phải chăng là sự khởi đầu. Êm ái, nhẹ nhàng đượm đầy tình cảm !?
Lo nghĩ về chuyện của Ân chưa xong.Thì chuyện của tôi đổ tới. Số là trong quá trình làm việc ở đây, tôi quản lý một số lượng lớn tang vật mà trong đó có đủ loại ma túy. Hơn ai hết tôi hiểu rõ những tác dụng và tác hại của nó. Trong một lúc mệt mỏi với ý nghĩ rất chủ quan và đầy khinh suất “một đôi lần đâu có sao?“. Và cứ thế, khi mỏi mệt thì tôi chơi ngay. Tất nhiên là tác dụng tức thì, người ngợm khỏe ra, tâm hồn sảng khoái. Cho đến khi thanh lý sạch, thì nó bắt đầu hành hạ tôi. Cái bộ mặt của tôi mà đi mua ai dám bán, nhưng nếu họ bán thì tôi chết chắc. Sau những ngày bị hành hạ te tua, mọi việc coi bộ đỡ dần. Tôi đành lên gặp trung tá chỉ huy trưởng trình bày hết mọi việc và xin nghỉ hai tuần. Ông trố mắt nhìn tôi một lát, rồi cười khì:
- Ghét của nào trời trao của đó chú em ạ. Nhưng thôi, kể ra chú mày cũng ngon. Dám nói thiệt. Rồi, cho chú nghỉ hai tuần. Nhưng việc này chú đã nói với ai chưa ?
- Thưa trung tá. Chưa ạ.
- Được, đừng nói với ai điều này, kể cả gia đình chú mày. Hãy nhập viện và tao điện thoại cho bác sĩ Thuận giúp chú mày.
Thế thì nghỉ dưỡng bệnh.
Tôi chào ông và bước ra. Tôi hết hiểu nổi mình.
Đấy. Tôi như thế đấy. Cũng may, sau bốn tuần là mọi việc rồi cũng qua đi, êm ái mọi bề. Vâng, bốn tuần chứ không hai tuần như tôi nghĩ. Không một ai hay biết. Sau này mỗi khi nhớ lại hay nhìn thấy mấy tên ghiền người ngợm cong queo, mặt mày xanh tái, ngờ nghệch, ngu đần. Tôi gai gai cả người.
Mấy năm về ở tại thị xã, với nhiệm vụ được giao. Tôi buộc phải đi sâu vào mọi ngóc ngách của cuộc sống. Và những gì xảy ra ở đó, ban đầu làm tôi tởm lợm như bị dị ứng, nhưng dần dà tôi miễn nhiễm không biết tự lúc nào. Có lẽ chính vì sự miễn nhiễm ấy mà tôi dính vào ma túy. Những con người đạo cao đức trọng, mở miệng ra là văn hoa, lịch sự, bước ra đường là phong cách chỉnh tề. Tất cả những cái hào nhoáng ấy, chẳng những không gói ghém được kín đáo lắm những xấu xa đen tối, mà càng làm cho nó bộc lộ ra một cách tởm lợm. Giá trị của đồng tiền cao hơn tất cả. Và tôi thì cứ mơ màng đi giữa chiêm bao. Trong cơn chiêm bao đầy hiện thực này, loáng thoáng có những con người lẻ loi cùng nhau quẩy đạp trong nỗi nghi ngại mơ hồ. Những vụ việc mà tôi thực hiện đáng lý ra là suông sẽ, đúng theo trình tự của pháp luật. Nhưng không như vậy, muốn luật pháp được ngay ngắn, đã bao lần tôi phải cong cong (!) Bực bội, giận dữ rồi buông xuôi, hầu mong tìm ở đó một chút yên tĩnh. Nhưng cũng lại không phải vậy, tất cả thay nhau hành hạ tôi. Chó thật. Và không biết tự bao giờ tôi trở thành một con người dị dạng, mang thái độ của kẻ bên lề.
Mọi việc trong phạm vi mình phụ trách. Tôi biết, thậm chí biết tường tận nữa là khác. Nhiều lần mở tủ hồ sơ. Trong ấy không biết cơ man nào là tin tức được báo về những hành vi hối mại quyền thế, tham nhũng của những lính bé tới quan to. Tôi làm gì được họ đây? Một đôi lần tôi có trình bày với anh Văn điều này. Anh trầm ngâm khá lâu mới trả lời tôi :
- Chú muốn làm kẻ quét nhà? Được chứ. Nhưng chổi đâu? Anh em mình bây giờ chỉ nhặt rác thôi. Khi nào có chổi anh em chúng ta hè nhau quét. Chỉ sợ lúc đó chú lại trở thành một đống rác thì phí công tôi. Còn bao giờ có chổi ư? Anh trả lời có thể không hợp ý chú. Nhưng thế này, cần phải có một sự đổi thay thật bạo liệt, hơi khó chịu một chút, nhưng sau đó sẽ ngay ngắn lại.
Tôi hết hồn, tôi hiểu ý anh muốn nói gì về công việc, nhất là về việc tôi dính vào ma túy và xa hơn nữa là... Thật tình, đôi lúc tôi mất niềm tin. Bởi vì anh Văn và cái ê kíp của anh, trong đó có tôi, sao mà đơn độc quá. Không hiểu trên cương vị là một tướng lãnh, anh tìm chổi như thế nào? Ở đâu? Chứ mấy thằng nhóc đủ thứ, từ lon lá, tuổi tác và khả năng như bọn tôi thì là cái quái gì đây? Một con chốt cắm chăng? Hay ý anh muốn nói chúng tôi là những cọng rơm gom góp lại để bó thành cây chổi.

Giữa năm 1974. Tình hình có vẻ nóng hơn. Tôi là một thằng lính đang tham dự cuộc chiến tranh này. Nhưng hằng ngày tôi chỉ chờ đợi và thỉnh thoảng đón nhận một cái tin của bạn bè hay một người quen nào đó đã ra đi. Càng lúc danh sách đó càng dài thêm cũng như thỉnh thoảng tôi nghe bản tin Sinh Bắc Tử Nam của đài Gươm Thiêng Ái Quốc phát ra bất chợt từ một ngôi nhà nào đó gần nơi tôi ngủ. Không hiểu bên kia chiến tuyến có ai có những suy nghĩ như tôi không? Chắc là có, nhưng có lẽ cùng một vấn đề nhưng sẽ có hai suy nghĩ khác nhau. Của tôi thì tôi biết rồi, nhưng những người anh em ấy thì làm sao mà biết, xa lắc xa lơ, lạ huơ lạ hoắc. Mà gặp nhau thì cắc bùm chí mạng. Là một thành viên cực kỳ mờ nhạt trong cuộc sống, và mịt mù lửa đạn che chắn thêm đã làm cho tôi trở thành kẻ vô hình. Mà một kẻ vô hình chết đi thì cũng chẳng sao. Những ước mơ của tôi lần lần bị bám đầy khói bụi. Những giấc mơ thấy mình còn đi học thỉnh thoảng có đến chỉ làm cho tôi thêm ngậm ngùi. Cuối tháng tám. Tôi lên Sài Gòn vì một lý do riêng. Tôi có đến thăm anh Văn. Trông anh có vẻ bức rức và luôn luôn bận bịu. Nhưng đến tối, anh cũng cho người đến khách sạn rước tôi đến Grival uống café. Ở đó tôi lại gặp trung tá Hiến. Không biết ông lên từ bao giờ. Nhưng khi nghe ông nói, thì anh Văn và tôi mới biết là ông lên Sài Gòn để nhận bằng cử nhân văn khoa Ban Sử Địa. Hứng chí, tôi rút cái Tú Tài IBM[xiii], cái Tú Tài thứ ba, mà tôi mới vừa lấy được ra khoe. Ba người mỗi người cách nhau mười lăm tuổi. Cùng nâng ly chúc mừng đại đăng khoa một ông cử nhân mới toanh ở tuổi năm mươi bảy và thằng tú tài mới cáu nhỏ hơn ông đúng ba mươi. Ông trung tá già cười ha hả với niềm vui tràn bờ. Trong khi anh Văn im lặng để nhìn ngắm và cùng chung góp niềm vui với hai người bạn vong niên,  thì tôi láu táu hỏi ông Hiến:
- Từng tuổi này rồi. Ông thầy đi học để giết thời giờ thì được rồi, Nhưng lấy về cái bằng cử nhân thì ông thầy làm gì với nó?
Trong khi anh Văn nhìn tôi, rồi lắc đầu. Thì ông trung tá già phán một câu làm tôi chưng hửng :
- Thì đóng khung treo lên giữa nhà lấy le với thiên hạ chơi. Mai mốt chú mày đến nhà tao phải kêu tao bằng ông Cống. Ông Cống Hiến. Chà cái hỗn danh này nghe hay đấy, nhưng cống hiến được gì cho ai đây? Còn mày là thằng Tú Hiền. Nhưng đặc biệt, thiếu tướng đây có bằng Tiến Sĩ. Mai mốt đến nhà ông, chúng tôi gọi là ông nghè. Ông Nghè Văn.
Tôi lại bắt đầu xạo sự:
- Thế đại đăng khoa rồi ông Cống có tính là một cú tiểu đăng khoa không ?
Cả ông Nghè, ông Cống cùng giơ tay dứ vào tôi, Ông Cống nói:
- Đồ thằng ranh con. Tao mà tiểu đăng khoa một phát nữa có mà xuống lỗ sớm.
Cả ba cùng cười. Rồi chẳng hiểu sao, anh Văn lại bảo tôi phải đọc cho ông Cống Hiến nghe bài thơ tôi viết về cụ Nguyễn Công Trứ. Nghe xong, ông Cống cười ha hả:
- Thằng nhóc này nó đang giở trò láo toét đấy thiếu tướng.
- Trung tá nói thế là sao?
- Nó mượn cụ Uy Viễn dạy mấy ông đang làm quan như mình cách ăn chơi đấy. Nhưng cũng hay. Làm quan ăn chơi mà không ăn bẩn như Cụ thì mới tài. Hèn chi hồi nãy nó xúi tôi làm một cú tiểu đăng khoa. Ngày thì miệng chi hồ giả giả, Đêm thèm thuồng chơi bẩn. Bậy rồi a?/ Đã trót mang lấy tiếng hào hoa. Cứ lịch lãm chơi cho tới bến.
Cả ba cùng cười. Anh Văn lại trêu tôi:
- À mà Hiền này. Tại sao ông Hiến lại nhắc mấy câu y hệt như cái ông ngồi bàn bên cạnh, lúc chú đọc bài thơ này vậy. Thế là chú nổi danh rồi đấy nhé.
Trong khi tôi đang ngẩn người ra. Thì hai ông cứ cười thoải mái. Cuối cùng ông Hiến bảo:
- Thiếu tướng thấy không. Tôi cũng có người đồng điệu mà. Mà Hiền này. Tao đâu có ngờ chú mày dữ đến thế. Nhưng mà nghĩ cũng buồn buồn, thì cái chuyện làm và chơi thì có lẽ tao và mày vô phương học ông Cụ rồi.
Anh Văn lại tiếp:
- Tôi nữa chứ . Trung tá.
Không khí bổng nhiên chùng xuống. Nhưng rồi anh Văn lại đuổi nó đi với cái giọng rất tiếu lâm khi kể những tình huống rất tréo ngoe xảy ra hàng ngày trong giao tiếp. Chúng tôi cứ nghĩ cái trò này chắc anh Văn không quen, nhưng chúng tôi thật sự bất ngờ. Cứ thế, giờ giới nghiêm qua lúc nào cũng không hay. Chúng tôi không nói về công việc, không nói chuyện gia đình cũng né tránh nói về một ước vọng nào đó. Chỉ nói với nhau những điều có thể đem đến một nụ cười hay hơn nữa là một tràng cười. Thú thật chưa bao giờ vui như thế này. Việc ông trung tá già có bằng cử nhân làm sống lại trong tôi cái ước vọng học hành. Tôi mơ màng nghĩ tới cái khuôn viên của một trường Đại Học nào đó. Tôi thấy không khí vui vẻ, nên tỏ lộ ý muốn vào học đại học Luật. Trong khi ông Cống Hiến hết mực tán đồng, thì anh Nghè Văn có vẻ suy nghĩ, anh nói:
- Ý muốn của chú được đấy. Nhưng hoàn cảnh của chú thì hơi khó khăn. Thứ nhất, chú đang là một nhân viên Cảnh Sát, thứ hai là việc cái lý lịch của chú hơi lu bu. Trên cương vị anh, thì anh giúp chú không khó. Nhưng giúp mà cũng như không thì anh không giúp được. Để anh suy nghĩ thật kỹ lại xem anh giúp chú thế nào cho có hiệu quả. Anh biết chú đang có một đống tài liệu của khoa Luật mà. Thôi thì cứ đọc trong khi chờ đợi. Lúc này tình hình khá lu bu, chú mà mang cái bộ mặt cò bót vào khuôn viên các trường Đại Học thì chỉ có rách việc ra thêm chứ học hành gì. Chú chưa quên vụ Lê Khắc Sinh Nhật sao?[xiv]
Anh nói đúng, tôi mà mang cái lý lịch cảnh sát kiêm trốn quân dịch vào khuôn viên đại học thì Tôi hiểu ý anh muốn nói gì, nên không bàn về chuyện ấy nữa.
Lại một giấc mơ khó có khả năng thành hiện thực. Cả ba chúng tôi dù rằng tuổi tác chênh lệnh nhau khá nhiều. Ngoài ra còn có sự chênh lệch nhau về trình độ học vấn, kinh nghiệm sống và nhiều thứ nữa. Nhưng chúng tôi vẫn có một điểm chung. Đó là biết chắc mót từng chút kiến thức, từng niềm vui nhỏ nhất rồi bằng lòng với nó. Qua những tháng ngày tiếp xúc với nhau. Cả ông Hiến và anh Văn đều biết tôi là một thằng ranh con hay lu bu chuyện đàn bà con gái và nhậu nhẹt hơi nhiều. Nhưng hai ông đứng xem và chẳng nói gì. Nhưng nếu có thì chỉ vài câu lấp lửng “Ê. Vừa vừa thôi thằng nhóc“. Tôi cũng biết ông Hiến rất buồn phiền vì chuyện mấy đứa con. Ngoài chuyện học hành không ra đầu ra đuôi, còn không có những biểu hiện nên, hư nào. Nên chuyện ông cố lấy cái bằng cử nhân. Đó là tấm lòng của một người cha đối với những đứa con của mình. Ông muốn biến mình thành tấm gương soi cụ thể. Tôi biết anh Văn chưa có gia đình. Chỉ có một người tình là một cô giáo. Nhưng hai người cứ cư xử với nhau như bè bạn. Tất nhiên những điều mà chúng tôi biết về nhau là ít ỏi. Nhưng nào có hề chi. Độ chênh về tuổi tác, về cấp bậc về mọi thứ đã làm cho chúng tôi gần gũi đến một chừng mực nào đó mà cả ba có thể chấp nhận. Không có một đòi hỏi nào thêm, từ người này đến người khác. Riêng tôi thì luôn luôn có hai cái thắng rất êm ái, nhưng hiệu quả. Và chính vì thế mà tôi muốn hư thêm cũng không được.
Cuối cùng anh Văn lại phải nhờ một toán Quân Cảnh đưa ông Cống Hiến và tôi về tới khách sạn. Một mình trong căn phòng mênh mông, với đầy đủ tiện nghi. Nhưng nó thiếu một cái thứ gì đó làm cho nó trở nên hiu quạnh. Và tôi thực sự cảm thông cho những ai có cuộc sống lênh đênh ăn quán, ngủ hotel. Tệ hơn nữa là ngủ bụi, ngủ bờ. Có thể những tiện nghi trong căn phòng khách sạn thì cao hơn nhiều ở bất cứ ngôi nhà nào. Nhưng có một cái mà ở đây không có, chính là cái không khí riêng, rất riêng của một nơi quen thuộc. Tôi nằm ngó lên trần nhà rồi nhớ về cái thành phố này với những nơi tôi đã sống, đã từng lui tới. Rồi những khuôn mặt bạn bè, người quen. Và chợt nao lòng khi nhớ tới Lan, Thu Huyền Có tiếng gõ cửa. Dù tôi không mở, nhưng cũng biết đó là ai. Một người không quen biết muốn đến làm quen. Từ cái chết của Hà tôi đã dị ứng với những cú làm quen bất tử này. Làm sao mà những cú quen biết này được như lần ở khách sạn Hải Thiên? Dù cho lần đến đó không do tôi lựa chọn. Không biết cô be bé ngày đó bây giờ ra sao? Tôi biết rằng những tiếng hát ấy chỉ là chiếc cầu dẫn cô ngập sâu vào vũng đọa đày. Nhưng chính vì thế mà làm cho tôi nao lòng khi nhớ tới. Tôi nhớ tới ông Tư Quới và cái gì làm cho ông sa đà vào tứ đổ tường với một cái nhân sinh quan như mặt trăng có hai bề sáng tối. Tôi nhớ tới tôi. Hai mươi bảy tuổi với cái lon thượng sĩ trên vai và một cái quyền hành vay mượn, với ba cái bằng Tú Tài mà lại chẳng là quan. Tôi đã đi qua gần nửa đời người mà hành trang chỉ là một giấc mơ càng ngày càng phai nhạt. 

Tôi về lại Rạch Giá thì hay tin Quyên chết vì tai nạn giao thông. Tôi quay quắt cả người. Tôi vào Giồng Riềng. Nụ cười cô ấy lung linh sau khói hương. Ông Tư Quới gần cứng cả người. Đọc những giòng nhật ký của Quyên để lại. Quyên nhắc hết người này tới người khác. Nhưng với tôi thì chỉ có một giòng ghi vào cái ngày cô ấy mời tôi đến uống café vào buổi tối “… mình cứ thao thức mãi mà không ngủ được. Thằng cha gì mà kỳ cục. Ngoài cái nắm tay ẩu tả ra thì không biết cái gì nữa tiếp theo. Hay là tại thằng chả tên Hiền. Nên muốn tỏ tình mà vẫn cứ nín thinh. Ấy vậy mà mình vẫn nhớ. Chắc là phải nhớ mãi… nhớ mãi “. Bây giờ không biết cô ấy sẽ nhớ tôi như thế nào? Nhưng chính tôi mới là người nhớ mãi.
         Tôi mang cái cái tâm trạng bồng bềnh ấy trở về Rạch Giá và đem vào công việc và sinh hoạt hàng ngày. Vợ tôi biết chuyện này và cô ấy hành xử quyền làm vợ của mình bằng một thái độ của một người đàn bà ghen. Còn tôi thì không hiểu tại sao cô ấy lại ghen với một người đã chết ?!. Ông nội và ba mẹ tôi tỏ rõ một thái độ quyết liệt và tất nhiên đứng về phía vợ tôi. Tôi cũng không kém vì nghĩ rằng cái quan hệ của tôi với Quyên chưa có gì đáng phải phàn nàn. Nhưng tôi quên đi một điều là; trái tim tôi đối với vợ tôi phải là một căn phòng duy nhất để cho cô ấy ẩn náu, chớ không phải là một khách sạn, năm bảy phòng cho ai muốn vào thuê cũng được. Và ác một nỗi là cả hai chúng tôi luôn luôn lầm lẫn khi không hiểu rằng, trong cái khách sạn tồi tàn ấy không có một căn phòng nào dành cho vợ tôi. Thế mà cả hai cứ tưởng Việc làm tròn bổn phận của một người chồng không phải chỉ là chăm sóc cho vợ mình tinh tươm là đủ. Mà còn phải là sự chăm sóc ấy được xuất phát từ đâu. Điều này có thể là sau này tôi mới hiểu. Nhưng tìm ra cái nơi xuất phát đích thực thì buồn thay. Tôi biết đấy nhưng mà sự đa đoan của tôi, đã làm tôi trở thành một kẻ mộng du lang thang trong những mối quan hệ đầy bất trắc.

          Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa. Tôi nghe tin tức qua radio, qua báo chí. Một thằng bạn thời còn đi học, nay là lính hải quân thoát chết trở về, sau gần mười ngày lênh đênh trên biển. Mình mẩy phòng rợp lên vì nắng và nước biển. Tôi phóng lên Sài Gòn vào Quân Y Viện Cộng Hòa thăm và chứng kiến sự hoảng loạn của nó. Tôi cảm thấy nóng mặt và tự ái dân tộc trong tôi nổi lên, tôi nhận ra cảm giác bị xúc phạm. Xúc phạm vì bị xâm lăng, bị xúc phạm vì có một số người biểu dương cho hành động xâm lược ấy vì mưu đồ chính trị. Nhìn bạn bè hoảng loạn, tôi cảm thấy số phận nhỏ nhoi của chúng tôi, nhỏ nhoi đến bằng không có gì. Miền Nam làm lễ truy điệu cho  những người đã hy sinh, trong đó có thiếu tá hải quân Ngụy văn Thà và tặng Bảo Quốc Huân Chương. Miền Bắc ủy lạo cho lính hải quân Trung Quốc đang lôi thôi lếch thếch trở về cảng Hải Phòng. Tôi nghe radio nói thế (?). Một phần lãnh thổ bị mất trắng. Một tự tình tổ quốc nhỏ bé bị xâm phạm và làm cho nó lớn lên. Nhưng tôi lại lầm lũi trong những cơn say và chất ngất sự thất vọng mơ hồ. Để rồi một cái tết nữa lại đến. Cái không khí chiến tranh đã phủ xuống một cách mạnh mẽ hơn và tôi thì vẫn đứng nhìn và đón mừng cái tuổi hai mươi tám của mình bằng một thái độ mơ màng. Đã từ lâu tôi không muốn quan tâm đến bất cứ điều gì. Những cái tôi thấy, những điều tôi nghe đều là những cái gì không thật. Chỉ cần một chút suy nghĩ là tôi có thể nhận ra được những gì mình cần biết. Đã có những tin đồn râm ran về sự thất bại của chính quyền Sài Gòn. Nhưng tôi thì vẫn cứ nghĩ rằng sẽ không có việc gì xảy ra ngoài cái việc cứ cù cưa, cù nhằng như từ lâu nay vẫn diễn ra. Như thế thì cái danh sách người chết sẽ dài ra và biết đâu chừng trong đó sẽ có tôi.
       Sau vụ này, tính khí của tôi trở nên thất thường. Anh Nam nhận ra. Những lần gặp nhau ngắn ngủi như thế. Tôi thường hay tỏ lộ ý mình về việc này việc khác, trong phạm vi công việc cũng có, nhưng thường là mấy chuyện tào lao. Nhưng lần này khi nhắc tới vụ Hoàng Sa. Anh, vẫn bằng cái giọng ồn ào, hòa trong giọng cười rổn rảng, khuyên nhủ tôi:
     - Chú lo cái đếch gì. Thiên hạ thằng nào mà chẳng tham lam. Mới mất một rẻo đất nhỏ xíu mà chú nhảy dựng lên rồi? Sao chú không đọc kỷ lại lịch sử xem. Muốn giữ cái mình có được thì phải mạnh lên. Muốn có thêm nữa thì phải mạnh hơn nữa. Thế thôi. Nhưng ngặt một điều là anh em mình cứ choảng nhau hoài. Chẳng ra cái thể thống gì ráo. Nghe lời thiên hạ bụp anh em mình. Thằng sút càng, thằng gãy gọng thì làm được cái đếch gì? Chú hiểu không?
Nói xong anh đưa ly café lên uống một hơi, rồi tiếp tục cười. Một cách nói, một giọng cười và một thái độ biểu cảm không giống ai. Không hiểu anh hay tôi thất thường. Tôi nói lấp cho qua:
       - Thôi anh, bỏ đi. Tết này anh vẫn ở Sài Gòn hay về quê?
       - Tới rồi tính. Mai anh đi Bạc Liêu. Hay là anh em mình đi kiếm vài chai trừ cơm.
       - Được thôi.
     Cả hai đèo nhau trên chiếc honda 67 cũ mèm. Chạy lòng vòng một mạch. Chúng tôi tấp vô quán Cây Me đường Gia Long[xv]. Mới năm giờ hơn nhưng quán khá đông. Có một bàn toàn Cảnh Sát của cuộc Vĩnh Thanh Vân và chủ xị là ông năm Tôn. Thấy chúng tôi, họ kéo ghế mời. Thế là nhập vào thôi. Lúc này quan hệ giữa tôi và các cuộc CSQG trong thị xã tương đối tốt. Đang ăn uống vui vẻ, bổng tôi chợt nhận ra ông năm Tôn, uống khan,  không gắp mồi. Tôi hỏi kháy:
      - Chú năm hôm nay ăn chay?
      - Rằm mà mậy. Ông xác nhận.
      Bổng dưng tôi nổi cơn cà khịa, móc trong túi tờ giấy năm trăm con cọp, đưa lên mũi ngửi rồi đưa cho ông ta:
        - Cái này không có máu nè chú Năm.
         Cả bàn đang ồn ào, bổng nhiên nín lặng. Anh Nam trợn mắt nhìn tôi. Và bất ngờ nhất là năm Tôn. Ông ta đưa tay lấy tờ giấy bạc nhét vào túi và cười khì :
         - Có lý.
        Không khí như giản ra. Nhưng ánh mắt ông ta thì đổ lửa. Những ly bia bổng nhiên đắng nghét. Xoay tiếp một vài vòng nhạt thếch. Anh Nam kéo tôi đứng dậy chào mọi người rồi dọt. Không ai cầm cọng. Ra đến đường anh Nam nhìn tôi:
        - Anh thua chú luôn. Vật đầu ông ta xuống bằng một biện pháp khác. Chú làm như vậy rất trẻ con, chẳng những thế, nó còn chứng tỏ mình là kẻ yếu. Thảo nào anh Văn cứ lo nơm nớp về chú. Anh biết chú thẳng tính, bộc trực. Nhưng đâu cần phải làm thế. Không kềm chế được thì nên tránh đi.
        Tôi nín thinh. Hai anh em lại đèo nhau chạy long rong một lát, rồi anh đưa tôi về bộ chỉ huy để tôi lấy xe đạp.

          Những ngày tết, ai ai cũng có một niềm vui riêng. Tôi chẳng biết tiêu phí cái thời gian này vào đâu? Vợ tôi thì đã về Sa Đéc. Đang lang thang ngoài phố tôi gặp tay cố vấn Mỹ Robert Simpson. Anh ta là một nhân viên của Cơ quan Cord. Sở dĩ có sự quen biết này là vì anh ta nói tiếng Việt y như người Việt. Tôi cùng anh ta đến café Dư Âm. Chúng tôi ngồi nghe nhạc và bàn luận về những phong tục tập quán của người Việt, về văn học Việt Nam Câu chuyện lại lan man đến truyện Kiều. Thực ra, tôi biết truyện Kiều qua các chương trình Việt Văn thời còn đi học. Sau này thỉnh thoảng có đọc lại, nhưng cũng không chú tâm lắm vì có quá nhiều điển tích, mà tôi thì nhớ cái nọ xọ cái kia. Do đó khó lòng hiểu được tận tường, ngoại trừ một vài đoạn mà mình thích thú. Thế nên tôi ngồi nghe R.S ngâm nga và lý giải từng đoạn mà anh ta thích. Quả tình tôi bị anh ta hấp dẫn, vì ngoài sự thông hiểu, mà còn vì anh ta là một người Mỹ biết và hiểu quá rành tiếng Việt. Sau khi bàn luận chán chê một hồi. Anh ta hỏi tôi:
         - Mày là người Việt Nam. Thế trong ba ngàn hai trăm năm mươi bốn câu Kiều, mày thấy câu nào là hay nhất ?
         Tôi ngớ người ra một lát, rồi trả lời chung chung:
         - Tao chưa bao giờ nghĩ tới chuyện này. Bởi vì cái tài hoa của cụ Nguyễn Du quá lớn. Tao chỉ cảm nhận thôi cũng đã muốn hụt hơi. Thì còn sức đâu mà phân tích nữa, để có thể tìm ra cái câu mà mày hỏi. Nhưng theo tao thì là hai câu cuối cùng.
           Anh ta nhìn tôi cười cười :
          - Đó là cái khiêm tốn của một một bậc tài danh. Một sự khiêm tốn được diễn đạt bằng một tài hoa cao vòi vọi. Lời ông ấy mà quê thì quá đúng rồi. Nhưng phải hiểu là lời của quê hương chớ không phải là lời của quê mùa. Vì vậy, nên thử hỏi xem có bao nhiêu người đủ khả năng góp nhặt. Mày nói cũng đúng thôi. Cả một dân tộc mày, ngày ngày đọc truyện Kiều và tìm trong đó một niềm vui, một nỗi buồn hay một chút sảng khoái nào đó. Nhưng tao thì khác. Tao muốn tìm xem Cụ Nguyễn Du muốn nói gì thông qua cái tác phẩm tuyệt vời này? Chứ không phải là chỉ là “mua vui cũng được một vài trống canh”.
        - Thế là mày đã tìm ra được cái câu mà mày cho là hay nhất, mang tính chủ đạo cho cả một cuốn truyện chớ gì? Và mày hỏi tao để nhằm mục đích là tìm một người đồng điệu.
         - Tất nhiên.
         - Thế thì mày nói cho tao nghe xem câu nào hay nhất.
          R.S nói ngay :
          - “Gẫm xem chút nghĩa cũ càng.
          Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.”
          Tôi ngắt lời R.S :
          - Tao nhớ rồi, đây là hai câu mà lúc còn đi học, bọn tao thường cãi nhau chí chóe. Cụ Tiền Điền diễn tả tâm sự của Kiều khi gặp và chờ Từ Hải trở lại. Lúc đó Kiều nhớ nhà và… Kim Trọng
          - Đúng mà cũng không đúng. Trong lòng Kiều, không có gì có thể thay thế những hình ảnh của ngày đầu tiên hẹn hò cùng Kim Trọng. Bất cứ cô gái phương Đông nào cũng thế, trong lần hò hẹn đầu tiên. Cái gì họ cầm được trên tay như cái khăn tay, hay một cành hoa, một chiếc lá nào đó đều bị họ vò, xé, bứt hay gì gì đó để trấn áp cái xúc cảm đầu đời. Mày có nhớ là Kim, Kiều gặp nhau bên hồ sen không. Chính cái ngó sen ấy. Cụ Nguyễn Du đã cách điệu nó thành cái ngó ý. Ngó của sen cũng là mầm của cây. Biểu hiện một sự sống mới của thực vật. Ngó ý là một mầm sống mới của một tình yêu. Cái ngó sen bị bứt đôi còn vướng lại mấy sợi tơ hiện thực, thì cái ngó ý bị bứt ra lại là những sợi tơ lòng huyền hoặc. Sợi tơ thì cụ thể và nhanh chóng biến đi, nhưng sợi tơ lòng huyền hoặc ấy lại tồn tại theo thời gian. Kiều nhớ Kim Trọng. Nhớ ít thôi, nhưng nhớ mối tình đầu với Kim Trọng thì nhiều không kể xiết. Một nhớ thương trong tuyệt vọng, bởi vì đó là một kỷ niệm đẹp vô ngần và chỉ bấy nhiêu thôi. Người ta có thể quên người tình đầu, nhưng không bao giờ quên những rung động ban đầu. Vâng. Không thể nào quên.
         Đó là Kiều, nhưng Nguyễn Du thì sao? Cụ đã ký thác tâm sự của mình trong Kiều, từ những tâm sự mang tính chính trị và thời thế và ông Cụ đã chuyển hóa thành một tâm sự của tình yêu. Và chỉ có thế, Cụ mới tồn tại, một sự tồn tại cần thiết không phải cho bản thân Cụ mà cho dân tộc này. Tất nhiên, thiếu một một màu sắc nào đó, thì bức tranh vẫn là một bức tranh, chỉ có điều nó kém đẹp thôi. Truyện Kiều cũng thế, chỉ một vệt màu thôi, có thể nhỏ đấy. Nhưng sẽ làm cho bức tranh lịch sử nhân văn của dân tộc này trở nên sinh động,  trở nên tuyệt vời.
         R.S tiếp ngay:
        - Trở lại hai câu ấy. Cái nghĩa cũ càng với triều đại nhà Lê trong lòng ông chỉ còn là một nỗi quan hoài. Nhưng lại không thể nào quên. Dù ông cũng biết rằng sự suy tàn của triều đại này là tất yếu. Ông sống và làm việc với triều đại mới bằng một tâm tư như thế. Một sự hợp tác mang tính nương nhờ và vì thế nó mong manh cũng như mối tình của Kiều và Từ Hải. Và trong lúc này Kiều, hay Nguyễn Du cũng Vậy, mới “gẫm xem chút nghĩa cũ càng, dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng “.
Tôi thật sự bị sốc khi nghe R.S nói như thế. Và anh ta tiếp tục đẩy xa hơn:
          - Nhưng chưa dừng lại đó. Cụ Nguyễn Du còn muốn thông qua hai câu thơ này để xác định lại cái tình tự của dân tộc, mà cũng là cái tình tự của ông. Nhưng lạ thay, nó cũng là lời tiên tri. Một dân tộc có một bề dày lịch sử như dân tộc này. Một dân tộc đã trải qua bao nhiêu là biến thiên. Nhưng vẫn tồn tại và phát triển dù rằng đã có quá nhiều cuộc phân ly. Kể từ thời Thập nhị sứ quân, Nam Bắc triều, ba anh em nhà Nguyễn Tây Sơn, mỗi người một khúc. Thậm chí họ Nguyễn dày công tôn tạo chắt mót một non sông mới toanh nhưng vẫn không quên đi cái nơi chôn nhau chắt rốn ở Gia Miêu. Hai trăm năm vương vướng sợi tơ lòng. Chính sợi tơ lòng ấy đã tạo nên một quê hương kỳ vĩ cho đất nước này. Và Pháp đã chia ba đất nước của mày. Nhưng chưa bao giờ đất nước này trở thành hai, ba đất nước. Dân tộc này chưa bao giờ trở thành hai ba dân tộc. Bây giờ lại thêm một hiện thực Nam, Bắc Việt Nam với con sông Bến Hải. Hai lần gần đây nhất là do những thế lực bên ngoài tác động. Nhưng có hề gì. Bởi vì trong cái nghĩa cũ càng còn có sợi tơ lòng. Những cái đó làm cho dân tộc mày vượt qua. Bản chất của hai câu thơ này là hai câu thơ tình. Nhưng nó thấm đẫm tính lịch sử, tính nhân văn. Hơn nữa. Nó là một sự khẳng định. Mày thấy không? Sự tái ngộ của Kim Kiều đâu phải là sự tái ngộ của một mối tình. Mà là sự tái ngộ dành cho một tấm lòng. “Đem duyên cầm sắt đổi ra cầm kỳ” Bọn Tây tụi tao cho là một điều kỳ cục. Nhưng với người phương Đông, nhất là người Việt Nam, thì chẳng có gì kỳ. Mà tuyệt diệu hơn cái duyên cầm kỳ này lại xảy ra trong một xã hội người ta chấp nhận, thậm chí còn đề cao, việc người đàn ông có nhiều vợ. Nhất là những người có địa vị xã hội cao như Kim Trọng.
         Tôi nhìn R.S. Bổng nhiên tôi cảm thấy mình làm sao ấy. Anh ta muốn gì nhỉ? Cuối cùng tôi hỏi:
           - Thế thì cái mà mày gọi tính lịch sử là ở đâu?
           R.S nhìn tôi:
          - Ở ngôn ngữ, ở tình tiết và ở từng từ. Dù rằng bối cảnh của câu chuyện là ở bên Tàu. Này nhé. Cuộc thiên di từ bờ nam sông Trường Giang về tới sông Hồng. Rồi mở rộng về sông Hương, sông Mékong. Cuộc thiên di ấy đã tạo nên một dân tộc gắn kết với nhau không thể chia lìa thông qua một mối tình huyền thoại của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Trong lịch sử của các dân tộc có rất nhiều mối tình huyền thoại và đã trở nên một biểu tượng thiêng liêng. Dân tộc này cũng thế, nhưng mày nghĩ xem, những mối tình của dân tộc Việt Nam dù có như thế nào đi nữa nó vẫn bàng bạc đâu đó một cái tính sâu lắng, dịu dàng. Khởi đi bằng một tình yêu chân thành, rồi sau đó là một cuộc chia ly có chủ định với lời thề xây dựng một quê hương. Lạc Long Quân và Âu cơ đã tạo nên cho con cháu một tiền đề thống nhất. Cơ bản là thế, cho dù cái kết cục của nó là hạnh phúc hay chỉ là một nỗi quan hoài. Nó là cái nền cho tình yêu của lứa đôi, của gia đình, của hàng xóm, của làng nước. Nó đã tạo nên cái nghĩa cũ càng của Kim, Kiều. Bây giờ dẫu đã lìa xa nhưng còn đó tơ lòng. Mà mày thử nghĩ xem những sợi tơ lòng đó nối lại được cái gì? Người phương Tây tụi tao đứt là đứt tuốt, nhất là trong tình yêu. Bởi thế mày thấy ở các nước phương Tây. Cái biên giới của quốc gia luôn biến thiên không phải theo sự trưởng thành của một dân tộc mà là vì nhiều lý do khác nhau. Nó gắn kết với nhau bằng quyền lợi, bằng thế lực và bằng gì gì nữa. Nhưng khi những cái đó không còn tồn tại thì nó chia lìa, vĩnh viễn chia lìa. Không có khái niệm thống nhất dân tộc. Trong khi đất nước này, khái niệm thống nhất dân tộc trong một đất nước thống nhất rất cao. Nên dù sự biến thiên có làm chia lìa đi trong thoáng chốc. Âu cũng là sự tất nhiên. Nhưng không bao giờ mang tính lâu dài. Chính vì những sợi tơ lòng ấy. Cuối cùng, đâu mày thử đếm xem trên thế giới này đã có bao nhiêu dân tộc biến mất rồi và tại sao lại thế?
Sống ở thời đại này mà liên kết cái mối tình của Kim Kiều, sự quan hoài một triều đại của cụ Nguyễn Du với cái tự tình của một dân tộc là hơi khập khiểng. Nhưng với ông, sự thật nó là như thế. Bởi vì mày nghĩ xem cụ Tiền Điền phải viết lại truyện Kiều như thế nào đây khi ông xóa bỏ hai câu này. Bởi vì toàn bộ ba ngàn hai trăm năm mươi bốn câu thơ chỉ là sự khởi dẫn và lý giải cho sự cần thiết phải có cái nghĩa cũ càng.
           Trong hàng trăm bản Kiểu được xuất bản thì có bản ghi là “Gẫm xem“ có bản ghi là “Tiếc thay “. Nhưng tao cho “Gẫm xem…“ thì đúng hơn. Bởi vì tiếc thay thì đã mất rồi nên mới tiếc. Nhưng “gẫm xem” thì hoàn toàn khác. Nó là cái gì đó không mất, chỉ đã cũ thôi. Món đồ càng cũ, càng quý; mối tình càng cũ, càng sâu; kỷ niệm càng lâu, càng đẹp. Yếu tố thời gian bao giờ cũng làm cho trí tuệ, tình yêu và nhiều thứ nữa trở nên vững bền và sâu lắng. Và kỳ diệu thay, những gì buồn tủi hay xấu xí thì lại lãng quên. Thế thì tại sao không “ gẫm xem“ mà lại “ tiếc thay...” Những gì tao nói với mày đều đặt trên cơ sở “ Gẫm xem“. Và tao tin là cụ Nguyễn viết như thế. Tất nhiên tao không thể chứng minh một cách cụ thể, ví dụ như là bút tích của cụ Nhưng thông qua con người, tính cách, tài năng của cụ. Tao tin như thế.
           Tôi cảm thấy mình làm sao ấy khi nghe R.S nói như thế. Tôi nói với R.S :
          - Tao cám ơn mày đã cho tao một sự nhận xét khá thú vị về hai câu Kiều. Nhưng mà mày nhận xét như thế có hơi quá không?
           - Không đâu. Mày có tin rằng khi viết hai câu thơ này cụ đã nghĩ những điều như tao nghĩ, hay chỉ là viết nó ra một cách tự nhiên như cần phải viết?
            - Tao nghĩ trường hợp sau đúng hơn.
            R. Simpson bốc tiếp :
          - Đúng. Cụ không có nghĩ như tao đã nhận thấy như thế đâu? Bởi vì cái tao thấy, nó đã thấm đẫm vào máu thịt của cụ. Nó tự nhiên đến độ Cụ không nhận ra, mày cũng thế. Chỉ có tao là người đứng ở bên ngoài. Tao nhìn vào và tao thấy. Bối cảnh của mối tình Kim Kiều là Trung Hoa. Tất nhiên không gian ấy và tất tần tật mọi thứ đều là Trung Hoa. Chỉ có một thứ, mà lại là thứ quan trọng nhất, thì hoàn toàn Việt Nam. Đó là tấm lòng, mà thuộc tính của nó là nhân ái. Không ai nói “tấm lòng độc ác“ mà chỉ nói “con người độc ác”. Nói như vậy không có nghĩa là những dân tộc khác không có tấm lòng. Nhưng cái cung cách ứng xử của một cộng đồng dân tộc Việt Nam thì nặng về tấm lòng hơn. Và cũng chính vì thế “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân thì ít người biết đến. Còn Kiều thì đã trở thành tài sản của nhân loại. Tại sao thế? Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là một sự diễn đạt lại hành trạng của một kỹ nữ với những lời lẽ dung tục, những sự kiện, tình tiết xảy ra trong câu chuyện là do một người kể lại bằng một thái độ bàng quan. Nhưng khi đã trở thành Kiều thì sự diễn đạt lại mang một hình thái khác, đó là sư diễn đạt của một tấm lòng cộng với tài hoa của một kiếp đời luân lạc, xót xa cho thân phận mình, nhưng không quên nỗi đớn đau của người khác. Chính những sợi tơ lòng ấy đã tạo nên tính cách của Kiều. Mày đọc lại đoạn Kiều xử án Hoạn Thư.
Tôi bất ngờ trước những nhận xét này, nên khá lúng túng. Một câu hỏi lướt nhanh qua đầu “ Hắn dành đất nước xa lạ với hắn một tình cảm quá cường điệu của mình để làm gì nhỉ? Hay chỉ là một cách nói? ”  Tôi nói với R.S:
         - Thú thật. Những gì mày nói, làm tao bị hụt hẩng. Quả tình tao đã đọc và đã học Kiều. Nhưng chưa bao giờ có những nghĩ suy và tìm hiểu một cách cặn kẻ. Nếu có, thì chỉ tìm để hiểu, để cảm nhận những câu thơ đẹp. Chưa bao giờ tao tìm ở trong Kiều một thứ gì khác. Nên những nhận xét của mày dù chỉ với hai câu thôi, điều đó tao xem như  là một cuộc khởi hành cho tao vào việc tìm hiểu Kiều trong một phạm trù khác, rộng hơn. Tất nhiên là khó khăn hơn.
           R.S nhìn tôi nheo mắt, rồi đảo qua chuyện khác :
         - Thôi được, mày còn nhiều thời gian mà. Bây giờ tao nói về thơ. Thơ Việt Nam và thơ Trung Hoa. Những người phương Tây bọn tao nhìn vào thấy gần như y hệt. Để rồi khi đi sâu vào mới thấy cái lầm lẫn của mình nó lớn làm sao? Cùng là ngôn ngữ đơn âm. Cũng vần, cũng đối, cũng bằng trắc, cũng niêm luật Nhưng tìm đâu ra ở thi ca Trung Hoa loại thơ như lục bát, song thất lục bát, ca dao, ca trù với cái vần lưng như thế, một lối gieo vần làm cho những câu thơ quyện chặt lấy nhau trong khi những đặc trưng tiếng Việt là sáu thanh với một khối lượng trạng từ rất phong phú Đó là tao mới nói cái xác, chưa nói tới cái hồn. Thơ Trung Hoa càng dài càng lộ ra những cái không ổn. Tại sao? Trước nhất tao khẳng định là người Trung Hoa rất tài hoa. Nền văn hóa của họ có thể là một trong những nền văn hóa chủ đạo của phương Đông. Có phải chăng vì thế nên họ có một ngôn ngữ rất cô đọng từ hình thức chữ viết đến ngữ nghĩa của ngôn từ. Do đó các hình thái nghệ thuật của họ, trong đó có thi ca, cũng phải đi theo hướng đó. Thế nên họ cũng rất kiệm ước, rất chặt chẽ trong thơ và trong cả văn học nữa. Thơ Việt Nam càng dài thì có thể càng hay.Tất nhiên là tùy thuộc vào tài năng của người viết. Tao ví dụ, Chinh Phụ Ngâm với nguyên tác của Đặng Trần Côn và bản dịch của Đoàn thị Điểm. Cả hai đều là người Việt. Nhưng Đặng Trần Côn viết bằng chữ Hán. Đoàn thị Điểm dịch ra chữ Việt. Lấy một ngôn ngữ mang đầy tính cô đọng để diễn tả một sự kiện dài hơi, một tấm lòng khoáng đạt thì làm sao mà người ta cảm được? Dù người ta rất phục. Đứng về mặt văn chương thì tác phẩm này của Đặng Trần Côn không chê vào đâu được. Nhưng nói về sức thẩm thấu thì Bởi vì tao có gặp một người Trung Hoa khá am tường về văn học Việt Nam. Họ bảo họ thích bản dịch hơn bản gốc. Và tao cũng thế. Ngoài tài năng ra còn có ngôn ngữ và thể điệu. Và mày thấy không? Một Tương Tiến Tửu, một Tỳ Bà Hành, một Trường Hận Ca lừng danh, chỉ dăm ba trang. Và nếu bảy tám trang thì không biết ra làm sao. Có thể là tao hơi quá nhưng dứt khoát không lầm. Bởi vì cụ Nguyễn Du là người đã chứng minh một cách hùng hồn nhất. Ngoài ra còn một điều nữa. Tao đã đọc Kiều bằng tiếng Anh. Tao thích. Nhưng cuốn hút tao đến không thể dứt ra được thì lại là bản tiếng Việt. Tính đặc trưng của ngôn ngữ thể hiện một cách rõ nét trong thơ. Đó là lẽ đương nhiên. Dù rằng ngôn ngữ, văn hóa Trung Hoa và Việt Nam có rất nhiều điểm tương đồng. Nhưng mày hãy đọc Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu và bản dịch của Tản Đà xem. Không gian thì vẫn là một khoảng không gian, sự kiện thì vẫn cùng là sự kiện, quan hoài thì chung nỗi quan hoài. Nhưng nguyên tác của Thôi Hiệu khi đọc lên làm cho tất cả đậm đặc lại, còn Tản Đà thì làm cho nó bàng bạc ra. Và cả hai đều là kiệt tác. Không còn là nguyên tác và bản dịch mà hai bài thơ cùng viết về một chủ đề với hai loại ngôn ngữ khác nhau, tình cảm khác nhau. Vấn đề còn lại là mày cảm nhận được những gì mình có ra sao?  Trở lại Chinh Phụ Ngâm. Mày thử so sánh xem hai câu này; Nguyên tác “ Mạch thượng tang, mạch thượng tang. Thiếp ý, quan tâm thùy đoạn trường ? “. Bản dịch “ Ngàn dâu xanh ngắt một màu,/Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.“Nguyên tác cô đọng, khúc triết làm người ta thấy quá rõ và nhói lòng. Bản dịch bàng bạc và sâu lắng, nhưng lại làm cho người đọc thấm sâu hơn.
         Trong một quốc gia, người mà hiểu được nhiều điều về cái nơi mình đang sống, thậm chí điều mình đang thích, không được nhiều lắm đâu. Tao chỉ có thể hiểu về cái đất nước xa lạ này một phần rất nhỏ. Nhưng liệu tao hiểu được bao nhiêu về cái nơi mà tao sinh ra và lớn lên. Cái quan trọng là tao với mày cùng yêu đất nước của mình như thế nào? Cũng như cụ Nguyễn Du yêu đất nước của cụ vậy. Tao với mày có thể không bao giờ là bạn bè với nhau. Nhưng ít ra chúng ta đã có với nhau một vài kỷ niệm. Tao tôn trọng dân tộc này, đất nước này. Nhưng bảo tao yêu dân tộc này, đất nước này như yêu nước Mỹ của tao, thì tao không làm được. Mày cũng thế. Nếu chúng ta cố chứng minh ngược lại thì chúng ta chẳng ra cái thể thống gì? Hôm nay là ngày lễ tiết quan trọng nhất của đất nước mày. Vậy mà mày đã dành cho một thằng xa xứ như tao một thời gian như thế này là quá đủ. Tao mới là thằng phải nói cám ơn mày. Và những gì tao nhận thấy ở Cụ Nguyễn Du, tao nói với mày như là một lời cảm ơn. Tuy nhiên có một điều tao cần lưu ý mày. Tao không phải là người Việt, nên những nhận xét của tao là không đúng lắm. Thế nên. Nếu như mày có thể, thì nên suy nghĩ lại. Cái quan trọng là không phải để biện bác hay đồng tình với tao, mà là hiểu cho đúng đắn hơn. Điều này không chỉ tao nói với mày mà còn với nhiều người khác. Mục đích của tao mày đã rõ. Thế mày có chấp nhận không?
      - Tất nhiên là tao chấp nhận. Nhưng có lẽ là hơi lâu. Thậm chí không làm được. Đây là một vấn đề lớn. Mà khả năng tao thì không như mày kỳ vọng đâu? Cần phải có thêm rất nhiều hiểu biết nữa và cần thêm vốn sống. Thú thật với mày, tao là một thằng thích, biết khá rõ về thơ và đã từng làm thơ, nhưng cái kiểu cách đến với thơ của tao thuộc về dạng rong chơi, đụng đâu xâu đó. Và cũng chưa xem đó như là một tâm huyết. Thế nên hôm nay nghe mày bình Kiều. Nghe mày nhận xét về thơ Việt, về ngôn ngữ Việt. Bổng dưng tao cảm thấy như hụt hẩng. Hơn nữa, tao thì lại không hiểu được gì nhiều về thi ca, về văn học Trung Hoa, ngoại trừ mấy cuốn truyện Tàu. Đồng ý chứ?
       - Tất nhiên. À mày có thể cho tao một vài câu thơ của mày. Được không ?
       Tôi nhìn anh ta vừa cười vừa nói:
       - Được thôi.
        Tôi bước lại quầy thu tiền xin miếng giấy trắng và trở lại bàn viết cho anh ta:
             Trời chơi khăm sắc khuynh thành
        Mười lăm năm ấy mà đành đoạn ư?
             Chuyền tay Mã Sở Thúc Từ
        Trái tim lại giữ chắc khừ chàng Kim
        Cầm lấy manh giấy, đọc xong, R.S cười và nói;
       - Thank you. Mày lạc quan lắm. Trong danh sách Chiến sĩ Trận vong không bao giờ có tên mày.
       - Cám ơn lời chúc đầu năm nhé. Thôi, tao hỏi mày câu này. Với những gì mày nhận thấy, mày cho rằng cuộc phân ly này của dân tộc tao bao giờ chấm dứt ?
        - Điều này tao không biết, bởi vì nó tùy thuộc vào ý chí và phương thức thực hiện công cuộc thống nhất, và ai làm chuyện đó. Hà Nội, Sài Gòn hay một lực lượng nào khác. Tao là người đứng bên ngoài, nhưng lại là bên ngoài của một phía, dù khách quan đến mấy cũng không thể nhận định được một sự kiện đang diễn ra rất phức tạp. Nhưng mày muốn nói đến sự thống nhất nào, lãnh thổ hay nhân tâm?
         - Cả hai
         R.S cười và nói :
        - Thế nên mày ráng mà sống. Thời gian còn dài đấy. Tốt nhất là hãy giữ gìn cho trọn vẹn những sợi tơ lòng. Có thể mày không làm được điều gì đó cho mọi người thì ít ra mày cũng làm được điều gì đó cho chính bản thân mày.
          Ngưng lại một chút. R.S chợt hỏi:
          - Có khi nào mày nghĩ là mày phải chết trong cuộc chiến này?
          Đây quả là một câu hỏi rất lạnh gáy:
          - Có. Tao có nghĩ đến điều này.
          - Cảm giác ra sao? R.S cười cười.
         - Sợ. Rất sợ. Nhưng sau đó là bình thản hơn khi nghĩ đến tình huống này. Ầm một cái và ra đi không cảm giác.
        - Nếu như khi thoát ra được cuộc chiến tranh này. Mày nghĩ vị trí của người lính như thế nào. Người lính ăn và người lính thua.
          - Mày muốn nói người lính nào? Người lính Việt Nam hay người lính đồng minh. 
          - Cả hai.
         - Bọn mày về nước. Giải ngủ. Thế là xong. Nhưng bọn tao thì mới khốn khổ. Thằng thắng thì lên lon và lên giọng là cái gì mình cũng đúng. Thằng thua thì như chó ăn vụng bột và những lời nói đúng của nó coi chừng toi mạng. Vì thế nó câm. Người ta nhắc tới thì chẳng qua là để chửi và nâng cao phẩm giá của mình. Hoặc vì một lý do mơ hồ nào đó, để làm gì đó.
          - Nghĩa là mày cho là cuộc chiến này là nội chiến.
        - Về mặt dân tộc là như vậy. Thế mà có ai chịu đâu? Tao chỉ thấy có mấy người lính Mỹ chết. Còn lại là chỉ là Quốc Gia, Việt Cộng và dân thường. Toàn là phe tao không. Nhưng tao cho mày biết. Điều này tao chưa hề nghĩ tới. Tao trả lời mày như là một quán tính.
R.S lại cười:
          - Và vì thế nó mới đúng. Mày có mong là mày thắng?
          - Mày làm như tao là ông Thiệu. Tao chỉ mong nó hết.
Chúng tôi ngồi đó lặng yên, mỗi thằng theo đuổi những cảm nghĩ riêng của mình trong những giai điệu mùa Xuân đang phát ra từ dàn Akai của quán nước. R.S nói đúng. Dù Hà Nội hay Sài Gòn là người thống nhất lãnh thổ, thì cái điều còn lại cũng phải rất lâu, mới có thể thực hiện được. Nó tùy thuộc vào ý chí, tấm lòng của người trong cuộc. Nhưng câu trả lời của tôi thì sao? Chưa bao giờ tôi nghĩ về điều này.
          Tôi với R.S đi chơi với nhau được dăm lần. Chúng tôi gặp nhau tình cờ cũng tại quán này. Khi anh ta nghe ba bốn thằng bọn tôi bàn tán về văn học. R.S xin vào góp chuyện bằng một thứ tiếng Việt rất chuẩn cùng với lập luận khá xác đáng làm chúng tôi thích thú. Từ đó thỉnh thoảng tôi hay anh ta tìm nhau, nói với nhau trăm thứ chuyện. Và hôm nay chính R.S đã đem đến cho tôi một sự thú vị đến ngạc nhiên.

           Cuối tháng ba năm 1975. Tôi nhận được lệnh về Sài Gòn giữa lúc tình hình càng lúc càng xấu đi. Những cuộc di tản chiến thuật của quân lực Việt Nam Cộng Hòa cứ liên tục xảy ra. Tôi đến trình diện anh Văn. Anh nhìn chúng tôi. Mặt anh đanh lại và bảo chúng tôi cố gắng. Chúng tôi được phân công đến ở những khách sạn. Những hoạt động của chúng tôi sẽ có người đến phổ biến cụ thể từng ngày. Không thấy Hà nẫu, tôi cảm thấy không yên. Huế đã thất thủ, trong rừng người di tản ấy không có một tin tức nào về vợ chồng nó và cũng chẳng nghe một chút tin tức nào của em tôi ở Thiết Đoàn 17. Tôi được phân công ở khách sạn Majestic. Tôi đến nơi nhận phòng và không có bất cứ một chỉ thị nào được phổ biến. Nhưng lúc này, gần như tôi chỉ trong ngóng tin tức của Hà nẫu và em tôi. Những ngày kết tiếp cũng thế và tôi choáng váng khi thấy Trung Béo nháo nhào tìm tôi báo tin anh Văn tự sát. Hai ngày sau tôi, Trung béo, Ngọc baby lặng lẽ đi theo sau đám tang anh. Chúng tôi không hiểu tại sao anh lại làm vậy? Nhưng rồi chúng tôi nghe loáng thoáng là anh Văn không tự sát. Anh bị giết. Chúng tôi không muốn tin, nhưng rồi càng lúc mọi việc trở nên rõ ràng. Nhưng dù sao thì anh cũng đã chết rồi. Bọn chúng tôi tan đàn, xẻ nghé. Tôi như nghe lại những câu nói mà âm điệu gần như thì thầm, trĩu nặng của anh khi nói với tôi khi hai anh em uống café ở Grival:  “ Nhất tướng công thành vạn cốt khô” câu nói ấy luôn luôn đúng chú ạ. Một tướng lãnh như anh khi ban hành một lệnh hành quân không ai nghĩ là sẽ có bao nhiêu người lính dưới quyền mình phải chết, mà nếu có thì cũng chỉ là một ý nghĩ hoàn toàn vô cảm. Họ viện dẫn đủ  mọi lý do để biện minh. Nhưng khi nhìn một đống xác chết của thuộc cấp thì lòng họ đau đớn và sau đó là quên ngay tức khắc khi nghĩ đến một cái quân hàm mới trên vai mình. Nhưng anh thì buồn lắm khi hiểu ra là cái quân hàm mà anh mang trên vai ấy chất nặng máu xương của đồng đội, đồng bào và của cả đối phương. Tất cả đều là con người như anh anh vậy. Chú là một lính nên chú không hiểu đâu. Nhưng anh là ông tướng … “ Bây giờ thì anh đã nhẹ tênh rồi phải không anh Văn.
Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đã đọc một bài diễn văn chỉ trích Mỹ đến nảy lửa, nhưng lại đầy nước mắt(!?). Bộc lộ nỗi uất hận, tủi hỗ vì nhận ra rằng mình là một lá bài không còn tác dụng và tuyên bố từ chức. Tiếp theo hàng loạt những biến động khác nối tiếp nhau. Ông Cụ. Rồi Dương văn Minh thay nhau làm Tổng Thống. Và tôi đã biết cái gì đã xảy ra.
Tôi nhận được tin em tôi và chỉ kịp nhắn lại vài câu. Và không hiểu sao tôi lại rời khỏi khách sạn và cùng Trung Béo, Ngọc baby vác balô về ngủ tại trường Nguyễn Thái Học. Sau  đó một hay hai ngày gì đó, căn phòng tôi ở dính một trái 122 ly. Tôi lại thoát. Cái linh cảm mọi thứ sẽ chấm dứt càng lúc càng càng trở thành hiện thực.
Ngày 29.4.1975. Chúng tôi trở về nơi làm việc của anh Văn. Tất cả yên ắng đến nỗi gai ốc. Thấy chúng tôi, anh Nam nhìn chúng tôi bằng đôi mắt thất thần. Không một lời nào có thể thoát ra nổi những cuống họng bị nghẹn lại. Chúng tôi lặng lẽ từng thằng đến đứng nghiêm chào anh Nam theo lễ nghi quân cách. Lần duy nhất chúng tôi chào anh bằng một tư thế nghiêm chỉnh, chính quy. Anh chào lại chúng tôi, rồi đưa cho chúng tôi mỗi đứa một phong bì và nói:
        - Các em nhận sự vụ lệnh, muốn về đơn vị hay về nhà thì tùy. Các em là người cuối cùng nhận sự vụ lệnh này. Không biết nó còn có giá trị gì không hay lại là một cái họa.
Khi ba thằng chúng tôi bước ra khỏi cổng, một tiếng nổ đanh, gọn từ trong phòng anh Nam vọng theo. Chúng tôi khựng lại và một cảm giác lạnh, thật lạnh chạy suốt sống lưng. Chúng  tôi là ba thằng cuối cùng mà anh ấy gặp. Chúng tôi nhìn nhau và hiểu chuyện gì đã xảy ra. Thẩn thờ, hoảng loạn, cả ba đi dọc theo con đường vừa vắng lặng, vừa nhốn nháo. Cuối cùng chui vào Hà Nội. Ngọc baby đòi uống bia. Tôi và Trung béo lắc đầu. Chúng tôi ngồi bên nhau đốt thuốc liên tục và im lặng. Mọi diễn biến nhanh đến chóng mặt. Những thằng lính lác như bọn tôi cùng có cảm giác hụt hẩng và chới với như bơi vào vùng nước xoáy. Chúng tôi cứ ngồi như thế nghe Sài Gòn chuyển động, nghe lòng mình dâng lên cơn hoảng loạn. Bổng Trung béo đứng phắt dậy, mặt đang lại, chìa tay ra bắt tay tôi và Ngọc Baby. Trung béo nói, giọng ráo hoảnh:
        - Tao nói. Cả bọn chúng ta không thằng nào được chết. “Không có gì buồn hơn, khi đời mất một người”[xvi] Mọi người đang chờ. Tụi mày cố gắng. Tao cũng thế. Không hiểu thằng Hà nẫu bây giờ ra sao? Cầu mong cho vợ chồng nó bình yên.
Trung béo thả tờ giấy năm trăm xuống bàn. Chúng tôi gặp nhau lần cuối như thế đấy. Và tôi không hiểu Trung béo nói vậy nghĩa là gì? Cả thành phố bắt đầu nhộn nhạo và cái cảm tưởng bị bỏ rơi càng lúc càng trở nên cụ thể.
           “Anh Văn. Anh Nam.
           Hai anh đã đi hết con đường của mình mà ai muốn gọi sao cũng được. Nhưng tôi và bao nhiêu thằng nữa là em út của hai anh, toàn tâm, toàn ý với hai anh, lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng để trở thành những cọng rơm cho hai anh bó chổi, để quét dọn cho sạch sẽ một căn nhà. Nhưng bây giờ thì không được nữa rồi. Những thằng như chúng tôi chỉ là những cọng rơm lẻ loi, tan tác. Rồi đây, từng thằng, từng thằng một biến thành rác rưởi? Đau đớn quá anh ơi. Bọn chúng tôi, mỗi thằng mỗi tính, nên hư, xấu tốt đủ đầy. Hai anh khua cả bọn về, sửa sang cho từng thằng một. Nếu không được ngay ngắn, chí ít cũng bớt cong queo. Chúng tôi làm mọi việc, nghĩ ngợi mọi điều. Đúng sai đều có cả, nhưng trên cơ sở là làm sao cho đúng nghĩa con người. Thế mà…giờ đây hai anh đã chết. Anh Văn với một cái chết tức tưởi không rõ ràng dành cho một con người luôn luôn minh bạch, chân tình. Anh Nam. Bây giờ thì anh hoàn toàn thanh thản, không nghĩ suy, không lo toan… Không gì cả. Hai anh đã đến và đã ra đi như là cô gái bên ven đường, lặng lẽ và thảm khốc. Nếu có sự khác biệt, thì sự khác biệt đó chính là sự lựa chọn. Nhưng suy cho cùng hai anh đâu có lựa chọn. Phải thế không? Những gì hai anh để lại nhân gian này như là một cơn gió thoáng qua và chỉ có thế. Nhưng trong lòng tôi. Hai anh vẫn là những người anh. Chân thành với công việc, với mọi hành vi của mình, với em út, với đồng sự.
 Cả hai anh và bọn tôi nữa. Chúng ta đã đem một bầu nhiệt huyết, một tấm lòng dâng tặng cho cuộc đời. Nhưng không ai chấp nhận. Nhưng chúng ta không bao giờ hối tiếc. Vâng không bao giờ hối tiếc. Chúng tôi, những thằng còn lại, phải đi tiếp trên cuộc đời đầy bất trắc, khó khăn. Và rất có thể trở thành rác rưởi dưới mắt những con người mới. Nhưng không bao giờ bọn em quên những tháng ngày đẹp đẽ này. Hai anh hãy yên nghĩ. Bọn em luôn luôn cố gắng. Để ít ra là làm được một con người”




[i] Ca khúc Hát Cho Người Nằm Xuống của Trịnh Công Sơn
[ii] Nơi đào tạo nhân viên cho lực lượng Cảnh Sát của Chính quyền Sài Gòn
[iii] Một đơn vị chịu trách nhiệm điều tra, theo dõi mọi hành vi của các nhân viên cảnh sát.
[iv] Tên trước năm 1975 của huyện An Minh
[v] Nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa
[vi] Nhân vật chính trong một tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Tây Ban Nha Cervantès
[vii] Nay gọi là tài khoản
[viii] Nhà hát Thắng Lợi hiện nay
[ix] Có nghĩa là tổ ong. Tên một loại Cognac phổ biến thời bấy giờ.
[x] Lớp vọng cổ nổi tiếng của Thái Thụy Phong và đã được hãng Asia thu dĩa với tiếng hát của danh ca Út Trà Ôn
[xi] Đọc theo âm tiếng English hai ký tự VC (Việt Cộng)
[xii] Những địa danh nằm dọc hai bên bờ sông Cái Lớn, khoảng từ Xẻo Rô đến Xép Ba Tàu, nơi con sông chia làm hai nhánh.
[xiii] Đây là lần thi Tú Tài bằng phương pháp trắc nghiệm được tổ chức một lần duy nhất tại Việt Nam (Miền Nam) năm 1974. Chấm điểm và cho kết quả bằng máy tính IBM, nên được gọi là tú tài IBM
[xiv] Môt vụ thanh toán chính trị tại Đại Học Luật Khoa Sài Gòn
           [xv] Nay là hảng nước mắm Hồng Phước, đường Lý Tự Trọng
[xvi] Câu cuối cùng trong bài thơ “ Nhân câu chuyện một người tự tử “ của Lê Đạt. Đăng trong Nhân Văn Giai Phẩm. Không nhớ số.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét