Người theo dõi

Thứ Hai, 14 tháng 12, 2015

Truyền thuyết Âu Cơ và dư âm Bách Việt trong tiếng Việt:

Truyền thuyết Âu Cơ và dư âm Bách Việt trong tiếng Việt:
Hùng Vương, quốc tổ Việt lai Thái
http://cadaotucngu.com/Coinguon/Truyenthuyetaucovaduambv.htm
Nguyên Nguyên
Trong bài này chúng ta thử khảo sát sơ lược 'dư âm' của các tiếng thuộc khối Bách Việt xa xưa còn mang ảnh hưởng trên tiếng Việt. Bài này được viết ngay sau loạt bài về 'Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương', đặc biệt bài về 'Hùng Vương: quốc tổ mang hai giòng máu'. Với mục đích thử xem lại truyền tích ‘Âu Lạc’ qua một số tài liệu ngôn ngữ hạn hẹp có trước mắt.
1. TRUYỀN THUYẾT CON RỒNG CHÁU TIÊN
Trước hết xin tóm tắt ý nghĩa của truyền thuyết Âu Cơ, vừa được giải mã dưới góc nhìn nôm na của thế kỷ 21 (xem [1]). Trong đó chúng ta đặc biệt chú ý đến việc chia ly đầy nước mắt của vợ chồng Lạc Long Quân và Âu Cơ. Một cuộc chia ly vĩnh viễn không hẹn ngày tái ngộ.
Truyền thuyết Âu Lạc được đặt để vào trong bộ sử đồ sộ và đầu tiên 'Đại Việt Sử Ký Toàn Thư' của Ngô Sĩ Liên vào đời nhà Lê, xuất phát từ những chuyện thần tiên cổ tích của người Mường [1] [2].


Việc giải mã truyền thuyết xưa cũ bắt đầu bằng ý niệm 'Fast Forward', y như việc bấm nút cho băng video quay nhanh về phía trước. Đúng y như ý định của các tác giả truyền thuyết. Rồi truy về nguồn gốc người Mường chính thuộc chủng Thái, thuở ban đầu cư dân nước Sở ở thời Xuân Thu Chiến Quốc (770-221 TCN) bên Tàu xa xưa. Dân nước Sở rất nổi tiếng với những chuyện tích u linh hoang đường. Vấn đề này từ trước đến nay thường bị bỏ sót bởi chúng ta hiểu biết rất ít về thành phần của khối Bách Việt đó. Đặc biệt các chi chủng nhỏ lớn đủ thứ ngày trước người Hoa gộp chung lại một nhóm và gọi đó chủng Yueh (Việt). Quan trọng nhất chúng ta cũng bị ảnh hưởng sử sách viết theo quan điểm lấp loát và tiện nghi của Hoa chủng cho rằng chủng Yueh chỉ hiện diện ở phía Nam sông Dương Tử, tức miền Hoa Nam. Ngày nay với phương tiện internet, chúng ta tìm tòi tra cứu rất dễ các tài liệu rất quan trọng, ngay cả đối với thứ cổ sử mù mờ xa xưa. Rất nhiều tư liệu do các nhà khảo cứu từ những đại học lớn trên thế giới đều có thể truy cập được dễ dàng qua mạng internet.
Theo thiển ý, rất nhiều công cuộc khảo cứu về cổ sử hoặc tài liệu khai quật được thường vướng phải một vài vấn đề tuy có vẻ tầm thường, nhưng dễ gây ra lạc hướng hoặc ngộ nhận. Thông thường chúng ta vướng phải ngộ nhận do ở chỗ thiếu thốn hiểu biết về cổ sử Tàu. Hoặc nếu có hiểu biết, lại hiểu biết theo như ý muốn của người Tàu.
Xin đưa ra vài thí dụ, như sau.
Người Hoa có vua chúa từ thời các ông Hoàng Đế, Thần Nông, rồi Nghiêu (Yao), Thuấn (Shun). Thuấn sau đó truyền ngôi cho ông Yũ (Vũ) bắt đầu triều đại thế tập đầu tiên của Tàu: nhà Hạ. Hạ kéo dài từ khoảng 3000 năm trước Công Nguyên (TCN), truyền được 18 đời vua, đến lúc bị Thành Thang lật tạo nên nhà Thương (1700-1100 TCN). Sự thật, giới sử học chưa có thể minh xác chắc chắn về việc nhà Hạ có thật hay không. Còn các vị Tam Hoàng hay Ngũ Đế (như Thần Nông, Nghiêu, Thuấn, v.v.) hoàn toàn thuộc huyền sử, ở cái thời người Tàu - Hoa chủng - còn sống trong dạng bộ lạc, địa bàn quanh quẩn bên sông Hoàng Hà, khu vực Thiểm Tây, Sơn Tây. Tức chừng 1-2 tỉnh ngày nay. Ra khỏi khu vực Hoa chủng thuở ban đầu đó, người ta sẽ đi vào các vùng đất thuộc các chủng khác, người Hoa xưa ưa gọi 'rợ', hay 'man yi'. Rất nguy hiểm, bởi có nhiều thứ nhuộm răng, xâm trán, xâm mình. Và cũng có thứ giết người để tế thần, hoặc để ăn thịt [4].
Cho tới thời Xuân Thu Chiến Quốc, phía Bắc Dương Tử bao gồm Hoa chủng và phía Nam Dương Tử chỉ toàn khối rợ Nam Man, đến cuối thời Chiến Quốc, người ta mới đặt tên Bách Việt, mang nghĩa chung: khối rất lớn các chủng Yueh. Sự thật, bốn phía của Trung thổ ngày trước đều có những chủng khác với chủng Hoa. Đặc biệt chủng Yueh cũng có mặt ở Hoa Bắc, điển hình tại nước Sở (ban đầu, gồm Hồ Bắc ngày nay), khu vực nước Tề (Sơn Đông), Tấn (Sơn Tây / Hà Bắc), v.v [9]. Thế nhưng, người Hoa, ngày xưa có thói quen phân loại chủng 'rợ' theo phương hướng: Bắc Địch, Đông Yi, Nam Man, và Tây Nhung. Do đó sử sách, đặc biệt của Việt Nam, chỉ ưa chú trọng đến đám Nam Man mà thôi. Thật ra đám Khương Nhung (tức Tây Nhung) cũng có chứa một hai chi chủng Yueh, rất có khả năng tiền thân của dân Miến Điện, và Khờ Me [3], [4]. Đám Đông Yi, tụ tập ở khu vực tỉnh Sơn Đông ngày nay, còn mang tên khác Lai Yi (tức Lạc Yi) bao gồm chủng Lạc tức Yueh, cũng có nhuộm răng xâm mình giống y như dân miệt dưới [4]. Đông Yi cũng chứa một nhóm thật Việt, và có lẽ Việt rất thuần túy, gọi Bộc Việt, thường có mặt trên nhiều chiến trường thời Đông Chu Liệt Quốc [8] [18].
Đại đa số người Việt cũng thường rất mù mờ về chi tiết của các chủng Yueh trong khối Bách Việt (Bai Yue) nói trên. Sự thật: Nói là Bách Việt, nhưng không phải Việt nào cũng giống Việt nào. Thật ra, có trên hàng trăm thứ Yueh khác nhau. Muốn kiểm chứng, chỉ cần nhớ tại nhiều nơi nước Tàu ngày nay, người ta chỉ cần di chuyển chừng 30 cây số, có thể thấy ngôn ngữ, tiếng nói khác nhau rồi. Bình Nguyên Lộc [4] có lẽ người đầu tiên đã dành một phần lớn ‘quyển sách Mã Lai’ để mô tả về các chi chủng này. Dù độ chính xác của việc khảo cứu chưa được hoàn hảo, và lối viết rất lộn xộn, nhưng theo thiển ý, những kết luận và dữ kiện trình bày không thua gì các công trình của các tác giả Tây Phương, ngay cả các vị khoa bảng tại các đại học lớn tại Mỹ hiện nay. Ngoài ra, cuộc tìm hiểu dạng bỏ túi gần đây, nhất là từ internet, đã cho biết rất nhiều dữ kiện của 'quyển Mã Lai' [4] đã được nhiều nhà nghiên cứu sử Tây phương xử dụng, hay ít lắm đồng thuận với kết luận [5]. Nhưng xin được phép nhấn mạnh nhiều kết luận của 'quyển Mã Lai' rất khác với nội dung được trình bày ở loạt bài này. Mù mờ về các chủng Yueh sẽ khiến chúng ta không thể nào hiểu được hay giải mã được những điểm gút mắt của các truyền thuyết xưa nay đã dính chặt vào cổ sử. Mặc dù bên ngoài những điểm này có vẻ rất thường tình, rất xoàng, ít được chú ý đến. Việc bỏ sót những chi tiết quan trọng về các chủng Yueh từ xưa đến nay đều có thể qui về chỗ, đó chính là điểm sử sách Hoa không thích đào sâu. Bởi nó hãy còn liên hệ đến vấn đề của các khối dân tộc ít người, những khu vực tự trị, đặc biệt ở phía Nam nước Tàu.
Nhìn vào truyền thuyết con rồng cháu tiên, ai cũng thấy chuyện kỳ lạ là 18 ông vua Hùng, ông nào ông nấy đều sống trên 150 năm. Phối hợp với cái hội chứng 4000 năm, người Việt nói chung rất thích truyền tích 'Con Rồng Cháu Tiên' đó. Bởi nó cho biết chủng Việt ra đời không một lượt thì cũng không sau Hoa chủng bao lâu. Có cùng chung 1 vị thánh tổ mang tên Thần Nông thuộc hạng Tam Hoàng – Ngũ Đế. Người Tàu có lẽ rất vui khi thấy người Việt mặc dù phía ngoài không thích nhận chủng mình xuất phát từ nước Tàu, nhưng lại nhận mình con cháu Thần Nông và chép luôn 18 đời ‘vua’ nhà Hạ trong cổ sử Tàu, sang thành 18 đời Hùng Vương. Sự thật: Người Hoa cũng nhận bá vơ, thấy người sang bắt quàng làm họ. Thần Nông thật sự mang chủng Việt 100% (Xin xem bài số 2 về ‘Thuyết Hùng Vương’). Sự thật khác: Hùng Vương thứ nhất, nếu có thật, mang trong người hai giòng máu: Thái và Việt. Không một giọt máu Tàu nào hết. Và nếu thật là người, ông là một người con bất hiếu - theo quan điểm hệ giá trị của bất kỳ chủng tộc nào, tự cổ chí kim. Bởi ông ta không quan tâm gì đến đới sống của mẹ Âu Cơ sau khi chia ly với cha Lạc Long Quân.
Theo Bình Nguyên Lộc [4], giới sử gia người Tàu biết rất ít về người Mường. Nhất là trong các ‘thư tịch’ cổ. không có đề cập đến Mường. Có lẽ vì lý do đó, ta để ý, sử sách Việt cũng ít đá động đến người Mường. Nếu có, lại ưa bắt chước thói Tàu gọi họ là người Mán, trại âm từ ‘Nam Man’ y hệt như người Hoa gọi dân Bách Yiệt. Vô hình chung khiến người ta không để ý đến họ trong suốt chiều dài lịch sử, nhất là trong 1000 năm Bắc thuộc. Cũng ở lý do này, việc xem lại truyền thuyết thường xuyên không được đối chiếu với bản của Mường. Bản Mường của truyền thuyết 'Âu Cơ' lần đầu tiên xuất hiện trong quyển sách của Jeanne Cusinier vào thời tiền chiến [6], chưa hề được đối chiếu so sánh với bản trong 'Lĩnh Nam Chích Quái' mà Ngô Sĩ Liên đã chép vào bộ sử của ông. Chỉ có tác giả quyển Mã Lai [4], đã trích dẫn bản Mường, nhưng rất tiếc lại dành cho một vấn đề khác. Sự thật: người Mường, chính ra gốc Thái đa số từ hai nước Sở và Tây Âu di dân sang Bắc Việt cùng thời với, hoặc trước, chủng Lạc. Phải để ý đến họ, mới giải mã được truyền tích Âu Cơ. Hoặc ngược lại, giải mã xong truyền thuyết Âu Cơ mới biết được nước Việt Nam thời sơ khai bao gồm hai chủng chủ lực chính: Âu (Thái) và Lạc (Việt). Chủng Âu, hoặc Thái, chắc chắn đã hội nhập rất nhiều với chủng Lạc (tức Việt). Chỉ những thành phần từ chối hội nhập, cả Thái lẫn Việt, mới trở về miền rừng núi và lâu năm trở thành người Mường.
Bởi tham khảo nhiều sách Tàu viết theo quan điểm của Tàu, nhiều tác giả Việt ưa lâm vào tình trạng tránh, hay quên, so sánh hoặc liên kết sự kiện lịch sử nước Nam với những biến động kinh hoàng ở bên Tàu vào thời Xuân Thu Chiến Quốc (770-221 TCN), hay chiến tranh đẫm máu sau này như vào thời nhà Nguyên (Mông Cổ), với những chuyện di cư di tản hằng khối người thuộc khối Bách Việt, thường về hướng Nam. Sự thật: Nếu đọc kỹ lại sử Việt, ta thấy rõ, cứ mỗi lần có biến động hay chiến tranh bên Tàu là có di cư sang Bắc Việt, hay đánh phá ở vùng biên giới. Đặc biệt, cuộc xâm lược xứ dân Lạc của dân Âu (Tây Âu) do một người thuộc chủng Thái (tức Âu) lãnh đạo, mang tên Thục Phán, bắt nguồn từ chỗ chủng Âu (tức Thái) ở miền Hoa Nam chịu không nỗi sức ép khủng bố của quân nhà Tần nên phải tìm đường tạo dựng bản địa sinh sống mới. Rồi mười mấy thế kỷ sau, việc quấy phá biên giới chỉ yên sau khi xứ Nam Chiếu (tức Vân Nam ngày nay), cũng chủng Thái, bị bọn nhà Nguyên dứt điểm và cho dân phía Bắc đến định cư. Quá khốn đốn, dân Nam Chiếu tràn về phía Nam và tạo dựng nên Thái Lan và Lào [3].
Việc theo sát quan điểm của Tàu, cũng dễ đưa việc nghiên cứu về tiếng Việt thiếu thốn một lối nhìn toàn diện, bao gồm ảnh hưởng của các phương ngữ tiếng Tàu như: Hẹ, Hải Nam, Triều Châu – Phúc Kiến, Chiết Giang, Vân Nam, Quí Châu, Hồ Quảng, v.v. Ngoài ảnh hưởng hai thứ Phổ thông và Quảng Đông, như vẫn thường được chú ý từ xưa đến nay. Từ đó dẫn đến một ngộ nhận rất thông thường: tiếng Hán Việt có tự ngàn xưa, do chính tiền nhân biến đổi cách phát âm của người... Tàu. Sự thật: Như sẽ trình bày khái quát ở đây, cũng như đã trình bày chi tiết trong loạt bài về chữ Nôm và quốc ngữ [7], rất nhiều từ xưa nay vẫn thường nghĩ thuần Nôm lại có nguồn gốc Bách Việt. Ngoài ra, đối chiếu với các phương ngữ Tàu, và ngay cả tiếng Mường, Nôm, cũng đã cho thấy tiếng Việt, đặc biệt Hán phát âm theo Việt, đã biến đổi rất nhiều kể từ khi có ký âm theo kiểu a-b-c, tức chữ quốc ngữ [7].
Xin trở lại với truyền thuyết Âu Cơ, được giải mã [1] và tóm tắt như sau:
Truyền thuyết Âu Cơ bắt nguồn từ một truyền tích cổ của người Mường. Bối cảnh thật sự của câu truyện được dựng chung quanh nước Sở ở thời Xuân Thu Chiến quốc bên Tàu. Sở bao gồm hai tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc ngày nay.
Truyền thuyết Âu Lạc, như đã đề cập ở phần đầu và khác với bản Mường, có một đọan Fast Forward (quay nhanh), khiến người Việt, kể cả những nhà khảo cứu, thường không để ý đến, và bỏ sót. Đó là đoạn Đế Minh bắt chuyến máy bay China Airlines 2879 TCN [19] đi tuần thú phương Nam. Thời Đế Minh, khoảng cuối thiên niên kỷ thứ 3 trước Công Nguyên, Hoa chủng nguyên thủy không biết gì đến các địa danh như châu Kinh và Dương (cho ra tên Kinh Dương Vương), rặng Ngũ Lĩnh, Động Đình Hồ,... Bởi đó là những địa danh, nhân danh của nước Sở, chỉ được thành lập ngót 2000 năm sau khi Đế Minh ra đời (khoảng 1000 TCN). Toàn bằng chữ Tàu ròng và chỉ có vào thời Xuân Thu Chiến Quốc (770-221tcn). Đặc biệt, diễn biến câu chuyện từ khi Kinh Dương Vương xuất hiện, hoàn toàn xảy ra sau năm 1000tcn. Tức chuyện Âu Cơ và Lạc Long Quân chỉ là chuyện di tản hai chủng Âu và Lạc xuống đồng bằng Bắc Việt khi sức ép khủng bố của chủng Hoa nguyên thủy quá sức dữ dằn.
Người Sở có gốc chủng Thái. Người Mường cũng vậy. Và rất nhiều bộ tộc Mường khởi xuất di tản từ Sở, vào thời loạn lạc của Đông Chu liệt quốc. (Xin xem chi tiết ở một vài bài khác). Họ chạy xuống phía Nam, hội nhập với đồng chủng tại các xứ ven biên giới Việt Hoa ngày nay như: Tây Âu (tức Âu Việt) và Điền Việt (tức Nam Chiếu). Rồi sau đó theo với truyền thuyết, và cũng theo cổ sử Tàu, đặc biệt quyển Hoài Nam Tử của Liu An, họ vẫn bị quân Tần rượt bén nút.
Chuyện Âu Cơ - Lạc Long Quân chỉ là chuyện di tản hằng khối, hoặc chuyện cố gắng hợp chủng, của hai chi chủng Thái (Âu) và Việt (Lạc), đều có mặt tại địa bàn nước Sở thời xưa.
Bắt đầu của truyền tích: 'Đế Minh cháu 3 đời của vua Thần Nông' đã gây ra lộn xộn, và bao hiểu nhầm, suốt 600 năm qua. Mục đích của việc kéo Thần Nông vào truyền tích chỉ ở chỗ cho người Hoa biết dân Việt cũng phát xuất cùng thời với chủng Hoa. Thật ra, trong lối cấu tạo truyện thần thoại, không có cách nào khác hơn là việc kèm Thần Nông vào câu chuyện. Rất chính xác nữa là đằng khác, bởi như được chứng minh ở một bài khác Thần Nông cũng là sản phẩm trí tưởng tượng của chính người nước Sở, với chủng Thái chủ lực.
Thần Nông nên được xem như một biểu tượng, cho biết dân đó xứ đó thời đó đã tiến lên sinh sống bằng canh nông. Thần Nông, người Tàu đã nhận bá vơ là một trong những ông tổ của họ. Sự thật, Thần Nông, nếu người, lại là người Sở chủng Yueh (chi Thái). Và mãi đến ngày nay, nhiều bộ tộc Mường hãy còn thờ Thần Nông như thánh tổ nghề nông [6]. (Xin xem các dẫn chứng ở bài: 'Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương' HOẶC Tra cứu trên internet về nước Sở = CHU hay Thần Nông = Shen Nong).
Nếu xem tên các nhân vật như biểu tượng - ta sẽ thấy thật rõ:
Kinh Dương Vương: chỉ dân châu Kinh và châu Dương, đều là hai châu chính của nước Sở. Đất Kinh bao gồm dân chủ lực thuộc chủng Âu (tức Thái). Đất Dương nằm về phía Đông của đất Kinh, chứa dân Việt chi Lạc. Châu Dương bao gồm vùng đất Sở chiếm về sau này ở vùng ven biển: nước U Việt (Câu Tiễn) và nước Ngô (Phù Sai).
Âu Cơ: tiêu biểu cho nhóm dân tộc hãy còn theo Mẫu Hệ. Nhóm người Âu (Thái) ưa sinh sống ở miền núi rừng. Rất rõ 'Âu Cơ' mang họ 'Âu' của chủng Âu hay người nước Tây Âu. Bản Mường cho Âu Cơ mang tiền kiếp con nai đốm sao, cũng loại thú sống miền rừng núi. Bản Việt ám chỉ Âu Cơ chính là tiên, viết theo chữ Hán chính là 'người xuất hiện trên núi': 'người + núi' = nhân (ren) + sơn (shan):  (  =  +  => tiên = nhân + sơn ) đã xác nhận rõ ' Âu Cơ' là dân miền núi rừng, tức chủng Thái hay Mường.
Bởi cái tên Kinh Dương Vương chứa chữ 'Dương', chỉ đất Dương, tác giả truyền thuyết mới dựng nên được một nhân vật chủng Lạc (Việt) mang tên Lạc Long Quân. Lạc Long Quân, với họ Lạc, tên lót ‘Long’, tức rồng chỉ dân miền đồng bằng gần sông biển. Tiêu biểu chủng Lạc (Việt). Đây có thể là điểm 'tuyệt chiêu' của các tác giả truyền thuyết, chứng tỏ tác giả đã không để một sơ sót về hồ sơ chủng tộc của Lạc Long Quân. Bởi nếu cho cha của Lạc Long Quân là Kinh Vương - vấn đề sẽ gảy vỡ ngay tại chỗ, bởi đất Kinh chỉ có chủng Thái chủ lực mà thôi. Đất Dương mớí có chủng Lạc. Muốn cho chắc chắn tác giả cho thêm vào 'Long Wang' từ bản nguyên thủy của Mường họ LẠC, thành Lạc Long Quân, để nhấn mạnh y có máu và DNA của chủng Việt (Nam). Do ở chỗ tác giả đã bao gồm 'Dương' trong tên 'Kinh Dương Vương', việc cho Lạc Long Quân mang máu Lạc 100% mới được hợp lí . Về sau, để ý đến tên hiệu An Dương Vương của Thục Phán. 'An Dương' có thể mang nghĩa 'trị an xứ Dương', ám chỉ một người chủng Âu (tức Thái) trị AN được xứ DƯƠNG của chủng Lạc.
Hôn nhân giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân là thứ hôn nhân của hai người dị chủng, một thứ 'tình không biên giới', biểu tượng cho thí nghiệm hợp chủng giữa Âu và Lạc, qua chuyện di tản thuở ban đầu của dân chúng ở hai châu Kinh (Thái) và Dương (Việt), chạy trốn sức ép của vua quân nước Chu, nước Sở (chuyên đi dẹp các đám rợ), nước Tần, ... HOẶC qua việc Thục Phán, người chủng Âu chiếm xứ Lạc và lập nên nước Âu Lạc. Hay biểu tượng cho việc Triệu Đà sát nhập miệt dưới của xứ Âu Lạc, gồm đa số chủng Lạc, với đất Nam Việt thuở ban đầu bao gồm phần lớn Lưỡng Quảng, thuộc chủng Âu, tức Thái. Hợp chủng Việt với Thái theo truyền thuyết có thể xảy ra từ lúc hai chủng còn sinh sống bên nhau ở nước Sở, qua các địa danh và nhân danh như: Hồ Động Đình, Ngũ Lĩnh, Kinh Dương Vương (châu Kinh hợp với châu Dương), Thần Nông (vị thần có đầu mang sừng tlu (trâu), hiện còn được thờ tại Hồ Bắc, tức Sở ngày xưa),…
Truyền thuyết, cả Mường lẫn Việt, nói rất rõ vợ Âu Cơ và chồng Lạc Long Quân thuộc hai chủng tộc khác nhau: Âu Cơ chủng tiên hay nai có đốm sao, Lạc Long Quân, giống rồng hay cá. Ở nhau lâu dài không đặng. Nên đành phải chia tay. Nàng Âu dẫn 50 con đi về quê thật sự của mình: tức miền rừng núi. (Để ý cả ‘tiên’ lẫn ‘nai’ đều là biểu tượng của rừng núi). Trong khi chàng Lạc dẫn con xuôi về miền đồng bằng gần sông gần biển (giống rồng hay cá đều có môi trường sinh sống là nước).
Cuộc chia tay giữa vợ Âu và chồng Lạc nói thật rõ: chủng nào nên trở về địa bàn sinh sống nguyên thủy của chủng ấy. Trên thực tế, chúng ta đã thấy người Hán sau khi xâm chiếm toàn cõi Hoa Nam đã tách nước Nam Việt thành 2 phần: phía Bắc gọi Quảng Châu bao gồm toàn dân Âu tức Thái. Phía Nam gọi Giao Châu với thành phần chủ lực là dân Lạc, tức Việt. Quảng Châu có rất nhiều núi rừng thích hợp với dân Âu. Giao Châu trở thành nơi tụ tập hoặc tiếp nhận dân Việt chủng Lạc, thích địa bàn gần sông gần biển.
Ngay tại địa phận Giao Châu, những người gốc Âu (Thái) cũng cảm thấy việc hợp chủng có mòi thất bại, và cũng theo truyền thống can cường xưa cũ không chịu được thế lực đô hộ Bắc phương, nên một số lại di cư về miền rừng núi. Lâu ngày họ trở thành người Mường. Người chủng Lạc (Việt), cùng với một số chủng Âu, ở lại miền đồng bằng châu thổ, trở thành người Kinh. Đó là ý nghĩa của Âu Cơ dẫn nửa đám con lên núi, và Lạc Long Quân đưa con xuôi về miền sông biển, của cả hai truyền thuyết Việt lẫn Mường.
2. TRUYỀN THUYẾT PHẢN ÁNH QUA NGÔN NGỮ
Sau đây chúng ta thử xem lại ảnh hưởng của biến đổi tiếng Việt, đi theo với truyền thuyết Âu Cơ, giải mã ở phía trên. Nhưng xin phép nhấn mạnh đây chỉ một thứ kiểm chứng ở một vài điểm chính, giống như ‘spot check’ trong ngành kỹ sư. Ảnh hưởng tiếng Hán ròng trên tiếng Việt, khoảng 60%, được xem như một vấn đề khá xưa cũ, và sẽ không được đề cập đến [10].
Ảnh hưởng các chủng thời sơ khai
Theo thiển ý, những từ căn bản cần để ý nhất là những từ liên hệ đến đầu mình và tứ chi, những từ chỉ số đếm, chỉ đồ ăn thức uống, chỉ những gia cầm súc vật gần gũi với con người, và nhất là từ chỉ 'Người'.
Đề tài này cũng rất rộng và cần đến một hai luận văn nghiên cứu ở đại học. Độc giả có thể tìm đọc 'quyển Mã Lai' của Bình Nguyên Lộc [4] để thu thập một số ngữ vựng cần thiết. Nhưng cần để ý tác giả 'quyển Mã Lai' luôn quy về nguồn gốc Mã Lai của các từ vựng, với mục đích chứng minh: Bách Việt chính ra xuất phát từ một chủng lớn, chủng Mã Lai. Bách Việt = Mã Lai. Hoặc quyển sách mỏng của Nguyễn Cung Thông [11] về một số từ cơ bản, đặc biệt các từ dùng âm /M/ để chỉ những 'thành tố' của 'mặt', như: mặt, mắt, mũi, mụn, má, mi, miệng, môi,...
Do ở giới hạn trang giấy bài viết, chúng tôi chỉ xin trình bày một cách đại cương ảnh hưởng các chủng sơ khai trong tiếng Việt qua một vài từ hoặc tiết mục chọn lọc.
Trước hết xin nhấn mạnh điểm thiếu sót trong hằng ngàn sách vở: Ở vòng đai bỉên giới phiá Bắc của nước Việt vào thời xưa, phần lớn bao gồm chủng Âu tức Thái. Người Quảng Đông ngày nay, phần lớn chính là gốc chủng Thái đã bị Hán hoá. Chủng Âu khi xưa, vào thời đại thiên niên kỷ đầu trước Công Nguyên, là một khối chủ lực đa số có địa bàn chạy dài từ đất Kinh Cức (hay Kinh Man, hoặc Kinh Việt) xuống đến rặng Ngũ Lĩnh, xứ Dạ Lang (Quí Châu bây giờ), Điền Việt (Vân Nam), và Tây Âu (Âu Việt) tức Lưỡng Quảng ngày nay. Địa bàn chủng Âu xa biển và bao gồm nhiều núi rừng.
Chủng Lạc, tức chủng khởi thủy dân Việt Nam, chiếm một địa bàn khác, ven theo bờ biển phía Đông nước Tàu. Kéo dài từ khu vực ở tận sông Hoàng Hà, miền tỉnh Sơn Đông - Hà Bắc ngày nay, xuống đến tận địa bàn xứ Mân Việt xưa, tức Phúc Kiến ngày nay. Thêm vào đó, có một nhóm thành phần du mục cũng thuộc chủng Yueh, thường gọi Bách Bộc hay Bộc Việt, đã có mặt trên nhiều chiến trường ở thời Đông Chu Liệt Quốc [18]. Bình Nguyên Lộc [4] trong một đoạn cuối của 'quyển Mã Lai' đã theo dõi đám Bộc Việt này và cho rằng chính đám Bộc Việt này đã tạo nên thành phần chủ lực của cuộc Nam tiến của chủng Việt. Nhưng tác giả 'Mã Lai' không xác định đám Bộc Việt này hiện nay ra sao, và là ai. Cũng như thời điểm dân Bộc Việt tràn vào bình nguyên sông Hồng. Chúng tôi, với một số phát hiện tình cờ, tạm cho rằng nhóm người chủ lực tạo nên phần lớn DNA và cá tính chủng Việt Nam, chính do ở đám Bộc Việt này. Phát hiện của chúng tôi, qua tài liệu ngôn ngữ, cũng cho biết thêm nhóm người kỳ bí nhất Trung Quốc hiện nay, thường được gọi Hẹ, hay Hakka hoặc Khách Gia [12] chính là hậu duệ người Bộc Việt thời xa xưa. Hy vọng sẽ trở lại đề tài này vào một zịp khác.
Người Việt từ xưa đến nay vẫn thường lầm tộc người ở gần ta nhất bên kia biên giới Việt-Hoa cũng mang chủng Việt ở thời xa xưa. Thật ra, không phải. Họ mang chủng Âu tức Thái. Người Hoa từ thời cổ đại cho đến bây giờ vẫn gọi họ là 'Yue' (Việt), y hệt như họ gọi 'Yue' (Việt) cho 'Yue Nan', tức Việt Nam. Nhưng họ đã phân biệt rõ hai thứ 'YUE' khác nhau: Việt dùng để chỉ chủng Thái ở Lưỡng Quảng và Nam Chiếu, v.v. họ viết bằng chữ Mễ (gạo)  nằm trên chữ Yiệt (rìu hình lưỡi liềm):   'Việt' dùng để chỉ 'Việt Nam' (Yue Nan) họ viết theo chữ Yượt (vượt), bao gồm chữ 'Tẩu' nằm kế chữ 'qua' để chỉ 'giáo mác':  
Điểm rất quan trọng cần chú ý: Bởi ở vị thế địa dư, sát ngay ở 'biên giới' phía Bắc, chủng tộc có đông đảo nhất tại nước Việt trong vòng thiên niên kỷ đầu trước Công Nguyên (0-1000 TCN), có lẽ là chủng Thái. Chủng Lạc (Việt), mặc dù cũng đã có mặt tại vùng đất chữ S, nhưng chỉ ồ ạt đến sau, nhất là vào thời Xuân Thu Chiến quốc, cùng một lúc với di dân chủng Thái (đợt 2, 3, ...N), và các chủng Bách Việt khác ở miền Hoa Nam. Vào lúc những bộ lạc hoặc xứ sở của các chủng này bị Hoa chủng xâm lấn và tiêu diệt. Xin được phép nhắc lại, khối Bách Việt có chừng 4 chủng Yueh chính, trong đó chủng Âu và Lạc là lớn nhất.
Xin trở lại với tài liệu ngôn ngữ. Trước hết hệ thống số đếm.
Hệ thống số đếm cho thấy những chủng người 'có văn hoá' đầu tiên đến Bắc Việt rất có thể là những đám thuộc 'bọn rợ Tây Nhung', với địa bàn nằm phía Tây của Tứ Xuyên và Thiểm Tây. Sử sách Tàu, theo trích dẫn [4], có chữ viết để chỉ bọn này bằng chữ Lạc viết theo bộ Chuy, và Lạc bộ Khương. Những đám rợ này còn gọi rợ Khuyển Nhung hay Khương Nhung, thường được xem tiền thân của nhóm tộc Miến Điện và Cam Bốt. Đám Yueh tộc này cũng rất dữ, và chính là đám 'rợ' đã từng tiến chiếm kinh đô nhà Tây Châu giết được vua U Vương, khiến nhà Châu phải thiên đô về phía Đông và tạo dựng nên Đông Châu. Rất có khả năng, rợ Tây Nhung đã là chủ nhân của những vùng đất ở phía Tây của nước Tàu ngày nay. Gần khu vực nước Ba và Thục, chung quanh và ở hướng Tây của Trùng Khánh, Tứ Xuyên, Cam Túc ngày nay. Người Ba hiện có hậu duệ là người Tujia (Thổ gia) cư ngụ chung quanh Hồ Nam và Hồ Bắc. Người Thục đa số thuộc chủng THÁI [14], di dân xuôi về Nam, hội nhập với dân xứ Tây Âu, và sang phía Đông hội nhập với dân ở Kinh Việt tức nước Sở. Theo cổ sử Tàu, có thể kiểm chứng qua internet, hai nước Ba (Ba state) và Thục (Shu state) đều bị nước Tần dứt điểm trước tiên, vào thế kỷ thứ 4 trước Công Nguyên.Trước các nước thuộc chủng Bách Việt ở Hoa Nam. Một đám người di cư, chung với rợ Khương, di dân về phía Nam, đến tận các khu vực Lào, Bắc Việt, Thái Lan, Miến Điện ngày nay. Đám này bao gồm, phần chính: chủng Khmer, chủng Môn, chủng Âu (tức Thái).
Hệ thống đếm của người Việt cổ, tuy về mặt địa lý rất gần chủng Thái tại Quảng Tây Quảng Đông nhưng lại không giống đa số các số mã đếm của dân Thái và Quảng Đông, hay của Hoa chủng. Đặc biệt hệ thống đếm từ 0-10 của chủng Thái lại rất giống hệ của người Quảng Đông hoặc người Tàu nói chung.
Xin liệt kê hệ thống số đếm của Việt, cùng với các ghi chú về xuất xứ của tên các số mã như sau, phần lớn trích dẫn từ [13]:
0 = không := xuất từ tiếng miền Hoa Nam, /kong/, đặc biệt Phúc Kiến. Và cũng giống
/kosong/ tiếng Mã Lai.
1 = một := từ số đếm tiếng Khmer, muay, đọc như /mooeh/
2 = hai := có lẽ bắt nguồn từ /er/ quan thoại. Hoặc /Hờ-ni/ tiếng Miến Điện. Có âm tương
tự /Hal/ của Mường.
Đặc biệt, theo từ điển Mã Lai, tiếng gọi 'HI' (Thí dụ: Hi Mary, Hi Bill) của tiếng Mỹ có tương đương là /HAI/ trong tiếng Mã Lai (xem Malay Dictionary, Pelanduk). Ở tiếng Việt, theo [4] 'Hai' chính là 'Ê', hay 'Ơi', 'Ới'. Hoặc ‘Hỡi’. Tức có sự chuyển âm qua lại giữa /hai/ <=> /Ơi/ hay /Ê/. Hoặc qua lại: Hai ó Er.
Không còn gì ngờ nữa, trong tiếng quan thoại (phổ thông), người Hoa gọi số 2 bằng /Er/ phát âm giữa /Ê/ và /Ơi/. Và từ đó /Er/ tiếng phổ thông có biến âm qua lại với /Hai/ tiếng Mã Lai, dùng để kêu gọi. Tức ER quan thoại = HAI Mã Lai. Nhưng, HAI (Mã Lai)= Hi (Mỹ)= Hello (Anh), mang nghĩa 'Ê' hoặc 'Ơi' trong tiếng Việt. Do đó, số ‘Hai' =2 của tiếng Việt rất có thể đã bắt nguồn từ 'Hai' Mã Lai, và 'Er' quan thoại. Rất ngộ, trong tiếng Myanmar, số 2 được gọi như /Hờ-nyi/. Tách từ đa âm 'Hờ-nyi' ra hai thứ đơn âm ta sẽ có: 'Hờ' và 'Nyi'. /Hờ/ dễ dàng sinh ra /Hai/ và /Er/ để chỉ 'số 2'. /Hờ/ cũng sinh ra /Hỡi/ hoặc /Ê/ tiếng Việt dùng để gọi nhau. Và /Nyi/ đã biến ra tiếng Quảng Đông: Yì, Việt: 'Nhị', hạng Nhì.
3 = ba := Khmer => bey
4 = bốn := Khmer => buan
5 = năm := Khmer => bram. Chú ý: /Bram/ ngày xưa, có lẽ phát âm như /Blam/ => /Lam/
/Lam/ => /Nam/ => 'Năm'. Biến chuyển y như 'làm lụng' => 'nàm nụng'.
6 = sáu := tiếng Persian (Ba Tư, tức Iran ngày nay): shesh, phát âm giống /sáu/ và sinh ra
Six trong tiếng Anh-Pháp. Tiếng Myanmar (Miến điện) thu nhập /shesh/ thành ra /chow/ tức /cháu/ => sáu. Có thể /chow/ cũng sinh ra ‘Chín’ (9) trong nhầm lẫn. Tiếng Ấn gọi ‘6’ là /cheh/, âm cũng giống ‘9’ (chín).
7 = bảy := tiếng Khmer gọi {8} (tám) bằng /bram-bay/ tức {5+3}. Một sự lộn xộn nào đóđã dùng đuôi của /bram-BAY/ thành /bảy/ và gán qua số 7 chứ không phải 8.
8 = tám := tiếng Persian /hasht/ sinh ra ‘hachi’ tiếng Nhật. Sinh ra /aath/ tiếng Ấn. Và/ata/ tiếng Sinhalese của xứ Sri Lanka (Tích Lan). Có lẽ chính /aTA/ của tiếng
Sinhalese đã biến chuyển ra ‘Tám’.
9 = chín := Không có tiếng nào có âm giống /chín/ trừ những âm dùng cho số 6. Như tiếng Ấn /cheh/ (= 6). Hoặc tiếng Myanmar: /Chow/, cũng chỉ số 6. Lộn xộn đọc 9 từ số 6 cũng giống như đọc 8 tiếng Khmer ra 7, và 11 tiếng Khmer thành 10.
10= mười := có lẽ lộn xộn từ số 11 tiếng Khmer: dop-muay, có phát âm /dup-mooeh/
Tiếng Việt cổ đã vay đuôi 'mooih' của số 11 /dup-mooih/, thuộc tiếng Khmer rồigán cho số 10.
Để ý, số đếm và số học nói chung, có xuất xứ từ Trung Đông. Đặc biệt các xứ Á rập và Ba Tư. Số đếm, tiếng Ba Tư gọi ‘Shomare’ y hệt như ‘số mã’ trong tiếng Việt hay đọc ngược ‘mã số’, tức /ma shu/ hay /shu ma/ trong tiếng quan thoại. Đặc biệt người Trung Đông từ xưa vẫn dùng hệ thống đếm số 10.
Số đếm của người Khmer ở cổ thời chính là hệ thống đếm theo số 5, dùng dựa trên 5 ngón tay. Tức khi đếm đến 5, người ta đếm tiếp bằng 5+1, đọc bram(5)-mooeh(1) (tức 6), rồi 5+2, đọc bram(5)-bpêe(2) (tức 7), v.v. Y hệt như hệ số 10, khi đếm số trên mười, người ta quay trở lại với 10: 10+1 = mười một, 10+2 = mười hai,v.v. (Xin xem bài về 'thuyết Hùng Vương' số 1).
Nhìn lại bảng đối chiếu phía trên, chúng ta thấy đa số tên gọi các số đếm từ 0-10 có vẻ như bắt nguồn ở hệ số đếm của người Khmer. Tiền nhân có vẻ rất lúng túng khi chuyển từ hệ 5 sang hệ 10, sau khi người Hán đến chiếm nước Nam. Họ phải vay mượn từ vài nguồn khác để trám lấp các con số từ 6-10, đã không có trong hệ số 5.
Ngày xưa, trước khi tiếng Việt được xếp vào nhóm Việt-Mường thuộc hệ Nam Á, tiếng Việt thuộc vào nhóm Môn-Khmer, tức có cấu trúc và nhiều từ vay mượn (hoặc cho vay mượn), hai chủng Môn (chủ nhân đầu tiên của Miến Điện) và Khmer (Cam-Bốt). Nên nhớ địa bàn ban đầu của người Khmer là ở Lục Chân Lạp chính là tại xứ Lào ngày nay, sát bên xứ người chủng Âu+Lạc bên sông Hồng. Người Miến Điện xưa cũng xê dịch lung tung và cũng có thời gian cư ngụ tại lãnh thổ Thái Lan ngày nay. Đến thế kỷ 13, dưới sức ép của việc tìm kiếm địa bàn sinh sống, người chủng Thái ở miền cực Nam nước Tàu mới tràn xuống phía Nam, đuổi người Khmer và Miến đi chỗ khác, và gầy dựng nên Lào và Thái Lan.
Bây giờ xin trích dẫn quyển sách về 'âm M trong tiếng Việt' [11], phối hợp với từ điển Mường-Việt [15], để kiểm chứng xuất xứ của các từ căn bản trên mặt con người:
Chỉ những tiếng có từ mang âm gần giống.
Mắt => bahk-tsiu (PK), mye'si (MĐ), mata (ML), mata (P), me (N), măt (M2)
Chú ý: âm /b/ trong /bahk/ của tiếng Phúc Kiến, có thể xem rất gần với /m/
Mũi => ja-(l)mook (TL), j'ra-moh (KHM), mùi (M2)
Miệng => mulut (ML), pnum (KHM), mẽnh (M2)
Mặt => mihn (QĐ), muk (KHM), mye'hna (MĐ), muka (ML), mukha (P), măt (M2)
Mí => roam pneek (KHM), ma-buta (N)
Mày => ma-yu (N), mái (QT), mi (M2)
Má => miànjiá (QT), gaam (Lào), kaem (TL), mả (M2)
Môi => rim fee bpaht (TL), moa-ut (KHM), môi (M2)
Mồm => mồm (M2)
Chú thích: PK: Phúc Kiến; MĐ: Miến Điện; ML: Mã Lai; P: Phi / Tagalog; N: Nhật; M2: Mường; KHM: Khmer; TL: Thái Lan; QĐ: Quảng Đông; QT: Quan thoại.
Tiếng Khmer và Miến Điện xuất hiện rất nhiều trong danh sách các từ dùng âm /M/ trên mặt. Đặc biệt mỗi từ 'M' trong các từ chỉ đến điểm trên 'mặt', ở tiếng Việt đều có từ 'M' giống hệt trong tiếng Mường. Tiếng Nhật được ghi ở đây để cho thấy rất có khả năng có một nhóm chủng Yueh, thay vì di tản về hướng Nam đã vượt biển Đông sang Nhật vào thời loạn lạc của Xuân Thu Chiến Quốc.
Xin ghi thêm một vài từ 'cơ bản':
Ngày (day)= tngay (Khmer), nal (Hàn), naal (Tamil)
Bạc (silver)= Brak (Khmer), ngân (QĐ), nguhn (Thượng Lào), perak (Mã Lai)
Đất (soil)= Đây (Khmer), Đin (Thái), Tất (Mường)
Nâu (brown)= Nyou (Miến Điện)
Người (human being, person)= Mwai, Ngwai, ngai (Mường), Ngôi (Thái cổ),
Muang (Thái), M'nư (Khmer), Ngaai (Jarai), Ngìn (Hẹ). 'Muang' tiếng Thái và
'Mwai' tiếng Mường lâu ngày mang nghĩa 'xóm đông người, thôn xã' và chuyển
thành 'Mường' để chỉ ngài Mường.
Ruồi (fly)= Ko rui (Môn / Miến), Ko Ruy (Khmer), Ko Ruuêi (Mường)
Sạch (clean)= Soạt (Khmer)
Kẻ lạ (stranger)= Ka la (Myanmar)
Chân (leg)= Chơn (Khmer)
Tay (arm)= Tangơl (Chăm), Đaai (Khmer)
Trăng (moon)= Chắng (Thái cổ), Bulăng (Mã Lai), Blang (Việt cổ), Blăang (Miến Điện), Duang Jan (Thái). Xin để ý: 'Yue' và 'Nguyệt' trong tiếng Tàu dùng để chỉ 'Mặt Tlăng' và 'Tháng' (month). Tiếng Thái có 'Duang Jan'. /Duang/ sinh ra /Tháng/ và /Jan/ sinh ra /Giăng/ như một số đồng bào phía Bắc ở khu vực gần người Mường (Thái cổ) ưa phát âm từ ‘Trăng’..Cũng để ý ‘tháng Giêng’ có liên hệ gốc gác với ‘Duan Chiêng’ (January), thuộc tiếng người P’u Noi, cũng chủng Thái cổ [14].
Muỗi (mosquito)= Mú (Khmer), Mok (Mã Lai)
Ảnh hưởng tiếng Mã Lai xin được lướt qua ở đây, bởi đã được đi vào tất cả các chi tiết trong quyển classic về Mã Lai của Bình Nguyên Lộc [4]. Đại khái, ‘chủng’ Mã Lai có rất nhiều từ đã thành cơ bản, hay tương cận với từ của rất nhiều chủng từ Madagascar, Nam Ấn, xuyên qua Miến Điện, Thái Lan, lên đến miền Hoa Nam, rồi sang Nhật, xuống tận Inđô-nêxia và Mã Lai.
Bây giờ xin để ý đến một chủng rất quan trọng, chủ lực của nước Việt ở thời kỳ sơ khởi đầu tiên, đúng y như truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân. Đó chính là chủng Thái, ngày xa xưa tự xưng là Âu.
Dấu vết của chủng Âu tức Thái
Nhắc lại bên kia biên giới Hoa-Việt, vào cổ thời chính là điạ bàn của chủng Thái. Khi đó họ thường tự xưng chủng Âu hay Thái. Rất nhiều nước thuộc về chủng Thái này, từ xưa đến giờ chúng ta thường nhầm lẫn cũng giống y như người chủng Việt (Nam). Bởi người Tàu ngày trước gọi chung các chủng rợ đặc biệt ở phía Nam sông Dương Tử là khối Bách Việt. Đụng thứ gì họ cũng gọi là Yueh (Việt) hết. Hoặc đôi khi họ gọi chủng Lạc.
Có tất cả chừng 4 chủng Lạc, nhưng hai chủng Âu và Việt chiếm đa số.
Chủng Âu (Thái) chiếm vùng đất phía trong ngay trục thẳng đứng đối chiếu với nước Việt Nam trên bản đồ. Chủng Thái bao gồm nước Thục (khu Trùng Khánh - Tứ Xuyên), nước Sở (Hồ Bắc - Hồ Nam), Dạ Lang (Quí Châu), Điền Việt (tức Nam Chiếu, Đại Lý, hiện nay: Vân Nam), Quảng Tây và Quảng Đông, ngày nay. Riêng Quảng Tây, Quảng Đông và Dạ Lang ở thời Chiến Quốc là một nước rất kiên cường mang tên Tây Âu. Nổi tiếng nhất ở thời Xuân Thu Chiến quốc chính là nước Sở. Một nước ban đầu được xem như vùng đất của rợ, nhưng về sau trở nên văn minh hùng cường suýt chút có thể lãnh đạo thống nhất nước Tàu. Đến thời cực điểm, Sở Trang Vương được xếp vào hàng 'võ lâm (oops) Ngũ Bá' cùng với Việt Vương Câu Tiễn, Tề Hoàn Công, v.v. Hy vọng sẽ đi vào chi tiết về chủng Âu ở phía Bắc bên kia biên giới, vào một yịp khác.
Chủng Lạc (Việt) chiếm vùng gần biển, kéo dài từ khu vực Sơn Đông tận sông Hoàng Hà đến phía nam tỉnh Phúc Kiến (tức Mân Việt thời xa xưa). Ngoài ra còn có một nhóm 'du mục' rất kiên cường xuất xứ từ vùng sông Hoàng Hà, gọi Bách Bộc hay Bộc Việt [4] [8] [18], thường có mặt trên nhiều chiến trường thời Xuân Thu. Về sau nhóm này di dân vào định cư 'tạm' ở vùng Đông Nam nước Sở.
Truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân chính là câu chuyện di tản hằng khối của hai chủng Âu và Lạc, chạy trốn chủng Hoa, đi sang một địa bàn sinh sống mới. Đầu tiên với dụng ý hợp nhập lại thành 1 chủng mới để chống trả với Hoa chủng. Nhưng ước mơ ban đầu nhiều phen đã đưa đến thất bại. Y hệt như tình vợ chồng giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân, sau cùng cũng dẫn đến phân ly.
Phân ly đầu tiên: Phong kiến phương Bắc sau khi thôn tính Nam Việt, tách rời chủng Thái ra khỏi chủng Việt. Chủng Thái phía Bắc trở thành Quảng Châu. Chủng Việt phía Nam đặt tên: Giao Châu.
Phân ly thứ hai: Chủng Âu tại Giao Châu có một số người không chịu được bọn Hoa chủng thống trị, kéo nhau trở về địa bàn rừng núi xưa cũ. Ở đó họ hội nhập với các sắc dân bản địa lâu năm như người Négrito, người Melanesian (cùng gốc dân hải đảo), và trở thành ngài Mường. Nhóm chủng Lạc ở lại miền đồng bằng ven sông biển, cùng với nhóm Thái biến chuyển được, trở thành người Kinh. Đặc biệt xin nhấn mạnh, trong số người dân tộc như Mường cũng có thể có chủng Lạc gốc. Và trong số người Kinh cũng có thể vẫn có người chủng Âu (Thái cổ) chọn lựa ở lại. Y hệt như hai đám con của Âu Cơ và Lạc Long Quân. Đám nào cũng mang hai giòng máu, Âu và Lạc.
Phân ly thứ ba: Thử thách qua nhiều thế kỷ của chủng Thái từ xứ Nam chiếu, bằng cách đánh phá nước Nam, với mục đích chính xin 'đoàn tụ' hai chủng trở lại, đã bất thành. Nhất là vào thời Tiết Độ Sứ Cao Biền đem quân bình định nước Nam Chiếu, vào cuối thế kỷ thứ 9. Để ý trên nhiều trận chiến giữa quân nước Nam và Nam Chiếu, người 'Thổ Man', tức người Mường, ưa đứng về phía bên Nam Chiếu. Bởi họ cùng chủng với nhau. Đến khi sức ép của Bắc phương càng ngày càng nặng nề khốc liệt. Cuối cùng dân Thái ở Nam Chiếu đành theo vết chân người xưa, tràn qua chiếm vùng đất phía Nam, thành lập nên Lào và Xiêm La (Thái Lan), vào thế kỷ 13. Hai chủng Thái - Việt vĩnh viễn phân ly. Ăn khớp với cuộc chia tay giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân.
Khi quan sát về ảnh hưởng chủng Thái, cần nhớ không phải bất kỳ người chủng Thái (Âu) nào cũng đi theo bà Âu Cơ đi về miền rừng núi, rồi trở thành người Mường. Ngược lại, rất có thể có một số đông tiếp tục hợp chủng với chủng Lạc và trở thành người Kinh. Điển hình, nước Nam đã có nhiều nhà lãnh đạo tài ba và triều đại huy hoàng gốc Mường (tức Thái cổ) như: Hai Bà Trưng, Lê Hoàn, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Lị (tức Lê Lợi) [20]. Ảnh hưởng ngôn ngữ Thái (cổ) trong tiếng Việt rất sâu đậm. Ngược lại ảnh hưởng ngữ ngôn của chủng Lạc trên khối người Mường (hiện nay trên 1 triệu người) cũng rất đậm nét.
Xin xem qua một vài nét đại cương:
Tiếng Thái Lan có 5 thanh điệu (dấu) => Tiếng Mường cũng 5 thanh điệu. Nhưng tiếng Việt có đến 6 thanh điệu (thêm dấu NẶNG).
Tiếng Thái Lan, tiếng Mường, tiếng Quảng Đông đều KHÔNG có phân biệt âm /SH/ và âm /X/. Cả 3 thứ tiếng của cùng một chủng gốc Âu đều chỉ có 1 âm /X/. Trong khi chủng Việt (Nam) mang ảnh hưởng nhóm 'Bộc Việt' xuất phát từ các khu vực miền Hoa Bắc nên giống quan thoại, có cả âm /SH/ và /X/. Điểm này sẽ giải thích tại sao rất nhiều nơi ở Bắc Bộ người Việt thường không phân biệt /X/ và /S/ trong cách phát âm: 'Bổ sung' ưa phát âm như 'bổ xung'. Bởi những nơi đó chắc chắn có rất nhiều người gốc Thái cổ hay người Mường cư trú.
Tiếng Thái Lan cổ xưa cũng có khuynh hướng không có /R/. Âm /R/ được 'bổ sung' bằng những âm /J/ xưa cũ, hoặc âm /L/, nhất là khi ảnh hưởng Tây phương trờ tới. Ở Việt Nam, thể hiện qua chữ quốc ngữ. Y hệt như tiếng Quảng Đông, tiếng Mường, Việt ngữ và ... tiếng Hẹ. Thí dụ: Rượu, người Mường đọc 'Rão', xuất từ /jiu/ quan thoại, và /jẩu/ quảng đông, /txiu/ tiếng Triều Châu (Phúc Kiến). Từ /txiu/ sinh ra /tửu/ người Bắc Bộ phát âm như /tỉu/. Nếu để ý, như đã trình bài trong loạt bài 'chữ Nôm & quốc ngữ' [7], âm 'iu' và 'ou' (hay 'ao') ưa biến chuyển qua lại với nhau trong các phương ngữ Bách Việt (tức Hoa Nam), ta có từ Thái chỉ rượu là /Lao/: R <=> L / và 'ươu' (tức /iu/) <=> ao. Rượu (Việt) <=> Lao.(Thái) => Rão (Mường). Tương tự /L/ và /N/ cũng ưa hoán chuyển với nhau y như tiếng Quảng Đông: Tiếng Thái của động từ 'to float' (nổi) là /Loi/, cho biết rất rõ /L/ nhảy qua /N/ như tiếng Quảng Đông, y như tiếng Việt: 'Anh nàm (làm) gì thế?'.
Hệ thống đếm của tiếng Thái có số đếm rất giống số đếm tiếng Quảng Đông [21].
Việt: Một Hai Ba Bốn Năm Sáu Bảy Tám Chín Mười
Thái: nung song sam si ha hok jet paet kau sip
Q Đ: yat yi sam sei ung luk chat băat gau sap
Để ý: 2 tiếng Thái là /song/. Tương đương tiếng Quảng: /song/ hay /leung/ (lưỡng).
Trong khi đó, tiếng Mường có vẻ vẫn còn mang hai ảnh hưởng. Thứ nhất: ảnh hưởng hệ đếm số 9 của thời cổ đại (xem bài '18 đời Hùng Vương). Thứ hai: ảnh hưởng tiếng Việt cho tên gọi các số đếm.
Ảnh hưởng ngôn ngữ bà con giữa Thái / Quảng Đông / Mường, còn được thể hiện qua:
Cả 3 thứ tiếng không có âm Z. Riêng Mường vì là Thái cổ, sống chung và hợp chủng với Việt (Lạc) cho nên có chứa âm /Dz/ như kiểu người Bộc Việt (Hẹ), hoặc Hải Nam (tức Lạc Lê [4]). Con dzê => quốc ngữ viết là 'dê'.
Quảng Đông và Thái đều không có âm 'V', như 'đi về', mà chỉ có âm 'W': 'Wir'. Thái: Wong Klom => vòng tròn. Wang => vọng => mong. Quảng Đông: Wân Nam => Vân Nam. Mường cũng vậy. Thời xa xưa cũng không có âm 'V': con Way => Việt cổ: con Woi => con Voi (quốc ngữ). Nhưng sau hằng ngàn năm chung sống và hợp chủng với Lạc cũng đã nhập vào âm 'V': 'bà Byợ' hay 'bà Vợ'.
Thái / Quảng Đông / Mường đều có âm 'Y' như trong 'Yeung Gui Fei' (QĐ), bua Yịt Yàng (Mường: vua Việt chủng màu Yàng), Ya (Thái: dược, thuốc men). Tiếng Việt bị các cố đạo lọc bỏ âm /Y/ và chỉ dùng 1 thứ âm /D/ cho hai thứ 'Y' và 'Dz'. Phía Bắc chọn 'Dz' và phía Nam chọn 'Y'.
Sau đây, xin liệt kê bảng đối chiếu các từ Việt, Thái, Quảng Đông hiện tại để xem những dấu vết dư âm xưa cũ.
Việt
Thái
Quảng Đông
Ghi chú
Đơn độc
dod dio
daan duk
Thái: dod dio, có âm giống: độc đơn
Than (coal)
than
than
3 thứ tiếng y hệt. Để ý âm /TH/
tròn
klom
yuen
klom => tròn, yuen => viên
rễ (root)
rak
gan
gan => căn. Âm c <=> g
ho
ai
khaat
khaat => khạc nhổ *
trái
sai
juo
juo => tả. Nhật: hidari
măt (phải)
khwa
yau bin
yau => hữu. Nhật: migi. A Kha: amá
Mây
mek
wan
Quảng Đông giống Mã Lai: aWan
Sắc (màu)
si
sik
Color
xài
chai
tsai / yong
chai = xài tiền= dùng đồ vật **
cơm
kow
fan
thời cổ xưa – gần âm 'phàn' ***
dược (thuốc)
ya
yeuk
để ý âm /d/ tương ứng /y/
la (lừa)
la
la
Donkey
sương mù
mok
mo-o
Fog
hy vọng
wang
hèi mong
mong (Việt) =>   Quảng Đông
CHÚ THÍCH
* Việt: Ho => Thái: Ai. Chuyển biến âm giữa Ho => Ai, giống y như giữa Hai => Ôr, Ê, Ơi, quan thoại 'Er' (=2), như đã mô tả phía trên. Để ý tiếng Việt thu nhập 'khạc' rồi mang vào nghĩa hơi khác với một từ tương đương 'Ai' dành cho 'Ho'.
** Cần phải để ý đến điểm này - rất quan trọng. 'Xài' trong tiếng Việt mang hai nghĩa: Xài tiền', và 'Xử dụng đồ vật', 'dùng đồ vật'. 'Hôm đi chơi Thái Lan, anh đã xài hết bao nhiêu?' hoặc: 'Anh đã xài chiếc xe hơi nầy được bao lâu rồi, mà bây giờ mới tính bán cho tôi?' Tiếng Thái cũng Y HỆT như vậy. Từ điển ghi rõ, 'Chai' = spend money, xài tiền. 'Chai' = Use, xài đồ vật. Điểm độc đáo đi sâu vào văn hoá dân tộc, một từ cùng mang 2 nghĩa trong hai thứ tiếng cho thấy hai dân tộc chắc chắn đã từng sống bên nhau, hoặc có tình bà con chị em với nhau vào thuở cổ thời. Thí dụ khác: 'Yue' (nguyệt) trong tiếng Tàu vừa mang nghĩa 'Tháng' vừa mang nghĩa 'mặt trăng' (y như: bulan, Mã Lai). Thoạt nhìn tửơng tiếng Việt có 2 thứ 'tháng' và 'mặt trăng'. Nhưng từ tiếng Thái chỉ 'mặt trăng' là /Duan Jan/. 'Duan' chuyển thành 'Tháng' và 'Jan' chính là 'Giăng', là Trăng. Tiếng Việt trước hồi quốc ngữ là Bulăng (y như tiếng Mã Lai), chuyển qua 'Blăng', rồi quốc ngữ biến /L/ thành /R/: Blăng => Brăng => Trăng.
*** Đây cũng là từ độc đáo. 'Cơm' mang hai nghĩa: 'gạo nấu chín' và 'bữa ăn'. Thí dụ: 'Nồi cơm chưa chín mà anh đã dọn bàn rồi' / Cơm= gạo nấu chín, và 'Anh chị đã ăn cơm tối chưa?' / Cơm= bữa ăn. Tiếng Thái có từ 'Kow' có âm sinh ra 'Cơm' và 'Gạo' tùy theo cách phát âm gần giống. Và ‘KOW cũng vưa mang nghĩa ‘cơm/gạo’ vừa nghĩa ‘bữa ăn’.
Đặc biệt, từ chỉ 'Gạo' của tiếng Mã Lai là PA-ĐI. Từ 'Pa-đi' đã sinh ra tiếng Anh Paddy, như paddy field: ruộng luá [4].
Người dân tộc Rhađê => Pơ-đai. Gia-rai => Pơ-đai. Chăm => Pơ-đai.
Mường => Pơ-đuông (cũng dùng từ ‘cơm’ như Việt)
Mường chịu ảnh hưởng đơn âm của Tàu nên bỏ bớt 'Pơ' còn lại 'Đuông' => sông Đuống.
Người Quảng Đông (có gốc Thái cổ) cũng bỏ bớt một âm, nhưng âm cuối của 'Pa-Đi' còn lại 'PA'. Theo thiển ý, /PA/ sinh ra /Pan/, rồi tiến đến /Phàn/ không bao lâu.
/Phàn/ cũng mang 2 nghĩa: cơm và bữa ăn. 'xik fan' = ăn cơm, 'chow fan' = cơm chiên
Tiếng Quan Thoại cũng vay mượn tương tự: /mi fan/ = cơm. /fan dian/ = tiệm ăn.
**** Ảnh hưởng của đóng góp dân hải đảo (Melanesian) cũng có thể tìm thấy qua số ngữ vựng thông thường. Thí dụ: Bên mặt (phải) tiếng Fiji gọi: Matau, rất giống 'mặt' tiếng Việt. Tương tự, tiếng Tonga: taoMatau. Trễ (muộn) có âm giống tiếng Tahiti: Taere, v.v.
***** Những ai đã học tiếng Thái đều thấy tiếng Thái rất giống tiếng Việt. Từ cú pháp, văn phạm, đến cách xử dụng thì quá khứ và tương lai. Giống như nhận xét của (Đại tá) Henri Roux [14]
3. TÓM LƯỢC
Xin tóm tắt như sau:
(i) Thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân được giải mã dưới góc nhìn mới chú trọng đến sự chia ly giữa bà Âu và ông Lạc, cũng như thời điểm chính xác của khởi đầu câu chuyện.
(ii) Âu Cơ được xem tiêu biểu cho chủng Âu, tức Thái có địa bàn xa biển và gần núi rừng. Lạc Long Quân biểu tượng cho chủng Lạc tức Việt, từng chiếm địa bàn vùng đồng bằng gần sông gần biển.
(iii) Kinh Dương Vương, đại diện cho hai nhóm người từ đất Kinh và đất Dương. Đất Kinh (tức Kinh Cức hay Kinh Man hoặc Kinh Việt) chứa đa số chủng Âu (tức Thái). Đất Dương (tức Dương Việt) là địa bàn tạm trú của chủng Lạc (tức Việt). Cả hai đều thuộc địa bàn nước Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu. Lãnh tụ nước Sở truyền qua hai mươi mấy đời đều mang họ Hùng, và tự xưng Vương, bắt đầu từ đời Hùng Thông.
(iv) Tất cả nhân danh địa danh trong truyện cổ Âu Cơ đó đều liên hệ đến nước Sở - một nước có giới lãnh đạo thuộc chủng Hoa nhưng thần dân gồm đa số rợ Yueh, chi Thái và Việt. Tất cả các nhân vật trong câu chuyện không một người nào mang máu Tàu hết. Từ Thần Nông, sang Đế Minh, Đế Nghi,.v..v. (xem bài 'Hùng Vương (2)'). Tất cả đều là cư 'dân' vùng nước Sở.
(v) Hôn nhân giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân biểu tượng cho việc hợp chủng thử thách giữa chủng Âu và Lạc, để chống lại sức ép Hoa tộc hoá, và về sau khủng bố của các đoàn quân xâm lược thuộc chủng Hoa. Cũng để nắm tay nhau chạy giặc, và di tản đến vùng đất mới. Điển hình là việc quân chủng Hoa đi xâm lấn và tiêu diệt toàn bộ các bộ lạc hoặc những nước lớn nhỏ của chủng Yueh: Phía chi Âu: nước Thục, Sở, Tây Âu, Đông Âu, v.v. Phía chi Lạc: Ngô, U Việt, Dương Việt, Mân Việt, và đặc biệt bộ tộc du mục Bộc Việt,v.v.
(vi) Địa điểm dừng chân cuối cùng của hai chủng Âu-Lạc chính là tại miền Bắc Việt hiện nay. Nhưng rồi thời cuộc đưa đẩy, cuộc hợp chủng bất thành: Chủng Âu kéo nhau về núi rừng, trở lại địa bàn sinh sống quen thuộc. Chủng Lạc xuôi về miền đồng bằng ven sông, biển. Trên thực tế, có 3 lần phân cách: Thứ nhất, Hán tộc phân chia đất đô hộ ra làm hai. Phía Bắc gọi Quảng Châu, bao gồm chủng Thái cổ. Phía Nam, Giao Châu chứa đa số chủng Lạc. Gần như 50 - 50. Thứ hai, tại đất Giao Châu, chủng Âu và một số chủng Lạc thấy không hợp với người Hoa, kéo lên miền rừng núi, hợp chủng với người Negrito, Melanesian, và những chủng bản địa, như Môn - Khmer, lâu năm trở thành ngài Mường. Trong khi đó chủng Lạc, nhất là đám Bộc Việt, vốn quen thuộc với chủng Hoa ngay từ hồi còn ở Hoa Bắc, cùng với một số chủng Âu thích làm ăn sinh sống dễ dãi, ở lại vùng đồng bằng, và tạo thành người Kinh. Và thứ ba, chủng Âu đại diện bằng nước Nam Chiếu trong nhiều thế kỷ sau Công Nguyên tiếp tục níu kéo trở lại tinh thần hợp quần hợp chủng năm xưa, nhưng bị mũi dùi của thế lực đô hộ của Bắc phương phá vỡ. Sau cùng chủng Âu đành vĩnh viễn chia tay với chủng Lạc bằng cách tràn vào vùng đất khác, tạo dựng nên Lào và Xiêm La (Thái Lan).
(v) Kiểm chứng bỏ túi một số tài liệu ngôn ngữ có trước mắt đã xác nhận rõ rệt ảnh hưởng của nhóm người đến vùng đất này sớm hơn, như dân Môn và Khmer. Xong rồi đến ảnh hưởng của chủng Thái. Ảnh hưởng chủng Thái rất sâu đậm qua hiện diện của người Mường trên 2000 năm, và các di dân thuộc chủng Thái từ phía bên kia biên giới Hoa Việt, trong nhiều thế kỷ sau. Ngược lại chủng Âu bởi hợp chủng và sống chung lâu năm với chủng Lạc (Việt) nên tiếng Mường cũng bị Việt hoá rất rõ nét. Chính ảnh hưởng giao tác đó đã khiến phân loại tiếng Việt thời tiền chiến là nhóm Môn-Khmer, đổi thành nhóm Việt-Mường nằm trong khối ngôn ngữ Nam-Á.
Trong một bài tới chúng ta sẽ quan sát các thành phần chủ lực của đám Lạc, đã hợp cùng chủng Thái, tạo nên nền móng và từ vựng cho tiếng Việt, và hun đúc nên cá tính tiêu biểu của người Việt Nam.
GHI CHÚ
[1] Nguyên Nguyên (2005) Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương (1): Quốc tổ mang hai giòng máu. Xem Khoahoc.net, aihuucongchanh.com, perso.wanadoo.fr/charite, honque.net.
[2] Nguyên Nguyên (2005) 18 đời vua Hùng: Một ý niệm về liên tục. Khoahoc.net, aihuucongchanh.com, honque.net, perso.wanadoo.fr/charite.
[3] Tra cứu internet qua sử lược của các quốc gia như Miến Điện (Myanmar), Siam (Thailand), Cambodia (Khmer), và đặc biệt lịch sử thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu, v.v. sẽ đưa đến một lối nhìn rộng hơn, và một bức tranh toàn diện hơn. Thí dụ: Lịch sử Myanmar cho biết dân họ xuất phát từ miền Trung Á, tức phía Tây nước Tàu, địa bàn của rợ Tây Nhung đã sách nhiễu nhà Châu, giết được Châu U Vương, và khiến nhà Châu thiên đô về Đông (770 TCN). Sử Thái Lan, cho biết rõ dân họ xuất xứ từ miệt Hoa Nam, đặc biệt nước Nam Chiếu (Nan Zhao), tức Điền Việt, hay Đại Lý (Nhất Dương Chỉ của Kim Dung), và chính là Vân Nam bây giờ.
[4] Bình Nguyên Lộc [1971] Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt nam. Nxb Xuân Thu (tái bản tại Hoa Kỳ)
[5] Xin đưa ra ba thí dụ, có thể tìm thấy qua internet, về thảo luận rất hay của tác giả 'quyển Mã Lai' xuất hiện từ năm 1970, đến ngày nay đã được các sử gia Tây phương xử dụng. Thứ nhất xác định nước Tây Âu, một nước rất kiên cường, chủng Yueh nhưng chi THÁI (tức Âu), đã chống trả chiến tranh xâm lăng của nhà Tần vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên. Và khẳng định không có nước nào mang tên Tây Âu Lạc hết. Chỉ có Tây Âu, và nước này nằm ở địa bàn Lưỡng Quảng và Quí Châu ngày nay. Các sử gia Việt mãi cho đến năm 2005 vẫn thường xuyên nhầm lẫn chiến tranh chống quân Tần là cuộc chiến anh dũng của dân ... Việt Nam. Thứ hai, tự dạng chữ Việt (Yiệt) cổ nhất để chỉ chủng Việt có hình cái rìu lưỡi liềm, chứ không phải tự dạng 'Yue' dùng để chỉ chủng Việt chi THÁI ở Lưỡng Quảng  bao gồm chữ /Mễ/ chỉ hột gạo nằm trên chữ /yiệt/ chỉ 'rìu lưỡi liềm', và cũng không phải mang tự dạng /yue/  dùng để chỉ chủng Việt chi Lạc (tức Việt Nam ngày nay), mang nghĩa: 'Yượt' (vượt). Và thứ ba, phân tích về tên vị tướng nước Sở 'Nậu Ô Đồ', mang nghĩa 'bú sữa cọp' để qui 'Nậu Ô Đồ' về từ có gốc Mã Lai. (Xin xem bài: Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương (2)).
[6] Jeanne Cuisinier (1946) Les Mường, Géographie et Sociologie humaine. Institut d'Ethnologie.
[7] Nguyên Nguyên (2004) Từ chữ Nôm đến quốc ngữ. Trọn bộ 8 bài. Trên các báo mạng như: aihuucongchanh.com, honque.net, perso.wanadoo.fr/charite, khoahoc.net.
[8] Đường Nhạn Sinh, Bạo Thúc Diễm & Chu Chính Thư (2002) Mưu Trí thời Xuân Thu. (Ông Văn Tùng & Vũ Ngọc Quỳnh dịch). Nxb Văn Nghệ, TP HCM
[9] Nicola Di Cosmo (2004) Ancient China and its Enemies – The Rise of Nomadic Power in East Asian History. Cambridge University Press.
[10] Rất dễ kiểm chứng số phần trăm các từ gốc Hán trong tiếng Việt: Đếm tất cả các số từ trong vài trang sách, hoặc báo tiếng Việt. Rồi lọc ra các từ gốc chữ Hán. Đếm lại các từ gốc Hán rồi chia cho tổng số từ của các trang sách báo đã chọn. Nhân cho 100, ta sẽ có đại khái số phần trăm từ gốc Hán trong tiếng Việt.
[11] Nguyễn Cung Thông (1997) Tiếng Việt Tuyệt Vời - Âm M trong tiếng Việt. Tác giả xuất bản (MelbourneAustralia). ISBN 0646 35730 1.
[12] Dân số người chủng Hẹ ngày nay tại Trung quốc lên đến khoảng 35 triệu. Nếu kể di dân gốc Hẹ khắp nơi trên thế giới, có thể đến 60-70 triệu. Người Hẹ nổi tiếng có thể kể: tài tử Châu Nhuận Phát, Đặng Tiểu Bình, anh chị em nhà họ Tống: Tống Khánh Linh, Tống Mỹ Linh, Tống Tử Văn; tiểu thuyết gia Han Suyin (Hàn Tố Âm), cựu thủ tướng Singapore Lee Kwan Yew (Lý Quang Yiệu), lãnh tụ Thái Bình Thiên quốc Hồng Tú Toàn,...
[13] Charles Hamblin (1984) Languages of Asia & The Pacific. Angus & Robertson.
[14] Henri Roux (1954) Quelques Minorités Ethniques du Nord-Indochine. France-Asie. Janvier-Février 92-93. Tome X. Đặc biệt, theo tài liệu này, người Thái đen và Thái trắng tại Bắc phần chính là hậu duệ người nước Thục (tức Tứ Xuyên ngày nay). Đừng nhầm nước Thục này với nước Thục của con cháu Lưu Bị ở thời Tam Quốc: Ngụy, Ngô và Thục.
[15] Nguyễn Văn Khang (chủ biên), Bùi Chỉ - Hoàng Văn Hành (2002) Từ Điển Mường Việt. Nxb Văn Hoá Dân Tộc. Hànội.
[16] Hoài Nam Wương Liu An (cháu của Liu Bang) thuật rõ trận chiến theo lối du kích của dân Tây Âu trong quyển 'Hoài Nam Tử', 'xuất bản' trong khoảng thế kỷ 2 trước Công Nguyên (xem [4] & [17]. Trong cuộc chiến đó, quân Tần giết được vua Tây Âu là Trạch (Dịch) Hu Tống. Dân Tây Âu (tức Âu 'Việt') rút vào rừng kháng chiến và giết lại được tướng Tần là Uất Đồ Thư. Một nhầm lẫn khác: nước Tây Âu Lạc. Thật ra không có nước nào mang tên nước Tây Âu Lạc cả. Chỉ có nước Tây Âu và nước Âu Lạc. Nước Âu Lạc nằm về phía Tây của Nam Hải. (xem [4] & [17]).
[17] Keith Weller Taylor (1983) The Birth of VietnamUniversity of California Press.
[18] Charles Higham (1996) The Bronze Age of Southeast AsiaCambridge University Press.
[19] Xin phép dùng máy bay làm phương tiện chuyên chở cho chuyến tuần thú của Đế Minh để gợi lên ý niệm 'Fast Forward' đã ẩn tàng trong truyền thuyết, trên dưới 600 năm qua.

[20] Tất cả những vị này đều xuất thân từ những khu vực tập trung nhiều người Mường. Keith Weller Taylor [17] ở trang website của ông, trong bài phỏng vấn của đài BBC đã nêu lên vấn đề chủng tộc nguyên thủy của những vị anh hùng dân tộc này. Đặc biệt, theo thiển ý, rất có khả năng Hai Bà Trưng có giòng máu Thái cổ, bởi vào thời đó có lẽ người Mường hãy còn giữ Mẫu hệ, theo như truyền thuyết Âu (Ngu) Cơ của họ. Lý do khác: Khi hai Bà khởi nghĩa có sự hưởng ứng của dân Nhật Nam và Hợp Phố. Đặc biệt, Hợp Phố thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay, có chủng Thái, chưa bị Hán hoá vào thời đó. Riêng Lê Lị (Lợi), đã được Nhượng Tống, theo trích dẫn [4], chứng minh rất rõ mang chủng Mường. Rất nhiều học giả, trong đó có Nhượng Tống, đã chỉ trích Ngô Sĩ Liên vì muốn bợ đỡ triều Lê đã đem rất nhiều truyền tích rặc Mường vào quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Theo quyển từ điển Mường Việt [15] tổng dân số Mường ở tỉnh Hoà Bình, ngày nay, chiếm đến gần 70% dân toàn tỉnh. Như vậy rất rõ chủ nhân của nền 'văn minh' Hoà Bình, theo khám phá của Colani, và theo toán xác suất, chắc chắn thuộc chủng Thái cổ, chứ không phải Lạc Việt.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét