Khi nhón chân vào thơ Đường, nếu như người đọc tìm thấy cái hào sảng
của Lý Bạch, cái tĩnh lặng của Vương Duy, cái hồn nhiên của Bạch Cư Dị, và tài
hoa của Thôi Hiệu, Thôi Hộ, Đỗ Mục, Trương Kế… thì chúng ta cũng không thể nào
quên được cái nỗi đau của Đỗ Phủ với tấm lòng của một con người nhân ái, yêu
hòa bình, nhưng phải chứng kiến những
tàn khốc của chiến tranh; chiến tranh vì tranh quyền đoạt vị, chiến tranh vì đi
xâm lược và bị xâm lược, mạng sống của con người bị xem như cỏ rác, và đó là
một thuộc tính không thể tách rời của xã hội, của văn hóa Trung Quốc (bất kể
hình thái xã hội ấy ra sao)
Bài thơ Binh Xa Hành dưới đây là một trong rất nhiều bài thơ nói
lên cái nỗi đau ấy.
Hơn ai hết những con người cầm bút làm thơ của dân tộc Trung Hoa đều
nhận ra điều này và qua biết bao nhiêu thế hệ họ vẫn giữ trong tâm hồn mình cái
niềm đau lưu cửu ấy mà Đỗ Phủ là một tiêu biểu
車轔轔,
馬蕭蕭,
行人弓箭各在腰。
耶孃妻子走相送,
塵埃不見咸陽橋。
牽衣頓足攔道哭,
哭聲直上干雲霄。
道旁過者問行人,
行人但云點行頻。
或從十五北防河,
便至四十西營田。
去時里正與裹頭,
歸來頭白還戍邊。
邊亭流血成海水,
武皇開邊意未已。
君不聞漢家山東二百州,
千村萬落生荊杞。
縱有健婦把鋤犁,
禾生隴畝無東西。
況復秦兵耐苦戰,
被驅不異犬與雞。
長者雖有問,
役夫敢申恨。
且如今年冬,
未休關西卒。
縣官急索租,
租稅從何出。
信知生男惡,
反是生女好。
生女猶得嫁比鄰,
生男埋沒隨百草。
君不見青海頭,
古來白骨無人收。
新鬼煩冤舊鬼哭,
天陰雨濕聲啾啾。
馬蕭蕭,
行人弓箭各在腰。
耶孃妻子走相送,
塵埃不見咸陽橋。
牽衣頓足攔道哭,
哭聲直上干雲霄。
道旁過者問行人,
行人但云點行頻。
或從十五北防河,
便至四十西營田。
去時里正與裹頭,
歸來頭白還戍邊。
邊亭流血成海水,
武皇開邊意未已。
君不聞漢家山東二百州,
千村萬落生荊杞。
縱有健婦把鋤犁,
禾生隴畝無東西。
況復秦兵耐苦戰,
被驅不異犬與雞。
長者雖有問,
役夫敢申恨。
且如今年冬,
未休關西卒。
縣官急索租,
租稅從何出。
信知生男惡,
反是生女好。
生女猶得嫁比鄰,
生男埋沒隨百草。
君不見青海頭,
古來白骨無人收。
新鬼煩冤舊鬼哭,
天陰雨濕聲啾啾。
Binh Xa Hành
Xa lân lân,
Mã tiêu tiêu,
Hành nhân cung tiễn các tại yêu.
Gia nương thê tử tẩu tương tống,
Trần ai bất kiến Hàm Dương kiều.
Khiên y đốn túc lan đạo khốc,
Mã tiêu tiêu,
Hành nhân cung tiễn các tại yêu.
Gia nương thê tử tẩu tương tống,
Trần ai bất kiến Hàm Dương kiều.
Khiên y đốn túc lan đạo khốc,
Khốc thanh trực thướng can vân tiêu.
Đạo bàng quá giả vấn hành nhân,
Hành nhân đãn vân: điểm hành tần.
Hoặc tòng thập ngũ bắc phòng Hà,
Tiện chí tứ thập tây doanh điền.
Khứ thời lý chính dữ khoả đầu,
Quy lai đầu bạch hoàn thú biên.
Biên đình lưu huyết thành hải thuỷ,
Vũ Hoàng khai biên ý vị dĩ.
Quân bất văn: Hán gia Sơn Đông nhị bách châu,
Thiên thôn vạn lạc sinh kinh kỷ?
Túng hữu kiện phụ bả sừ lê,
Hoà sinh lũng mẫu vô đông tê.
Huống phục Tần binh nại khổ chiến,
Bị khu bất dị khuyển dữ kê!
Trưởng giả tuy hữu vấn,
Dịch phu cảm thân hận!
Thả như kim niên đông,
Vị hưu Quan Tây tốt.
Huyện quan cấp sách tô,
Tô thuế tòng hà xuất?
Tín tri sinh nam ác,
Phản thị sinh nữ hảo.
Sinh nữ do đắc giá tị lân,
Sinh nam mai một tuỳ bách thảo.
Quân bất kiến Thanh Hải đầu,
Cổ lai bạch cốt vô nhân thu?
Tân quỷ phiền oan, cựu quỷ khốc,
Thiên âm vũ thấp, thanh thu thu.
Đạo bàng quá giả vấn hành nhân,
Hành nhân đãn vân: điểm hành tần.
Hoặc tòng thập ngũ bắc phòng Hà,
Tiện chí tứ thập tây doanh điền.
Khứ thời lý chính dữ khoả đầu,
Quy lai đầu bạch hoàn thú biên.
Biên đình lưu huyết thành hải thuỷ,
Vũ Hoàng khai biên ý vị dĩ.
Quân bất văn: Hán gia Sơn Đông nhị bách châu,
Thiên thôn vạn lạc sinh kinh kỷ?
Túng hữu kiện phụ bả sừ lê,
Hoà sinh lũng mẫu vô đông tê.
Huống phục Tần binh nại khổ chiến,
Bị khu bất dị khuyển dữ kê!
Trưởng giả tuy hữu vấn,
Dịch phu cảm thân hận!
Thả như kim niên đông,
Vị hưu Quan Tây tốt.
Huyện quan cấp sách tô,
Tô thuế tòng hà xuất?
Tín tri sinh nam ác,
Phản thị sinh nữ hảo.
Sinh nữ do đắc giá tị lân,
Sinh nam mai một tuỳ bách thảo.
Quân bất kiến Thanh Hải đầu,
Cổ lai bạch cốt vô nhân thu?
Tân quỷ phiền oan, cựu quỷ khốc,
Thiên âm vũ thấp, thanh thu thu.
Đỗ Phủ
Dịch nghĩa
Xe chạy ầm ầm
Ngựa hý vang
Người ra đi cung tiễn đều đeo bên lưng
Cha mẹ vợ con đi đưa tiễn
Bụi tung mù mịt chẳng thấy cầu Hàm Dương
Níu áo, giậm chân, khóc lóc đầy đường
Tiếng khóc than vang lên đến tầng mây cao
Người đi đường qua đó hỏi kẻ ra đi
Kẻ ra đi đáp rằng luôn có việc bắt lính
Có người mới mười lăm tuổi đã đi phòng giữ Hoàng Hà phía bắc
Ðến bốn mươi tuổi thì qua khai thác ruộng đất ở phía tây
Khi ra đi viên lý trưởng cho chiếc khăn bịt đầu
Khi trở về đầu đã bạc lại đi trấn thủ biên cương
Ở biên thuỳ máu chảy thành sông thành biển
Ý muốn mở mang bờ cõi của Vũ Hoàng vẫn chưa ngưng
Ông không nghe sao
Mé Sơn Đông nhà Hán gồm hai trăm châu
Ngàn thôn vạn xóm gai góc mọc đầy
Dầu có những người đàn bà khoẻ mạnh vác nổi cây bừa
Thì lúa mọc bừa bãi trên đồng ruộng cũng chẳng có được gì
Quân Tần lại đánh gấp ghê
Bị lùa đi chẳng khác gì gà chó
Ngài dù có hỏi đến
Nhưng kẻ dịch phu này đâu dám tỏ hết nỗi oán hận
Còn như mùa đông năm nay
Lính ở Quan Tây chưa được nghỉ
Quan huyện hối thúc nộp thuế
Thuế tô biết lấy đâu ra
Thế mới biết sinh con trai là xấu
Ngược lại, sinh con gái mới tốt
Sinh con gái còn được gả chồng gần
Sinh con trai chỉ tổ vùi thây trong đám cỏ
Ngài thấy chăng: ở miền Thanh Hải
Xưa đến giờ đống xương trắng không ai thu dọn
Ma mới oán than, ma cũ khóc lóc
Trời đất âm u, mưa rơi rả rích, tiếng than rên rỉ
Ngựa hý vang
Người ra đi cung tiễn đều đeo bên lưng
Cha mẹ vợ con đi đưa tiễn
Bụi tung mù mịt chẳng thấy cầu Hàm Dương
Níu áo, giậm chân, khóc lóc đầy đường
Tiếng khóc than vang lên đến tầng mây cao
Người đi đường qua đó hỏi kẻ ra đi
Kẻ ra đi đáp rằng luôn có việc bắt lính
Có người mới mười lăm tuổi đã đi phòng giữ Hoàng Hà phía bắc
Ðến bốn mươi tuổi thì qua khai thác ruộng đất ở phía tây
Khi ra đi viên lý trưởng cho chiếc khăn bịt đầu
Khi trở về đầu đã bạc lại đi trấn thủ biên cương
Ở biên thuỳ máu chảy thành sông thành biển
Ý muốn mở mang bờ cõi của Vũ Hoàng vẫn chưa ngưng
Ông không nghe sao
Mé Sơn Đông nhà Hán gồm hai trăm châu
Ngàn thôn vạn xóm gai góc mọc đầy
Dầu có những người đàn bà khoẻ mạnh vác nổi cây bừa
Thì lúa mọc bừa bãi trên đồng ruộng cũng chẳng có được gì
Quân Tần lại đánh gấp ghê
Bị lùa đi chẳng khác gì gà chó
Ngài dù có hỏi đến
Nhưng kẻ dịch phu này đâu dám tỏ hết nỗi oán hận
Còn như mùa đông năm nay
Lính ở Quan Tây chưa được nghỉ
Quan huyện hối thúc nộp thuế
Thuế tô biết lấy đâu ra
Thế mới biết sinh con trai là xấu
Ngược lại, sinh con gái mới tốt
Sinh con gái còn được gả chồng gần
Sinh con trai chỉ tổ vùi thây trong đám cỏ
Ngài thấy chăng: ở miền Thanh Hải
Xưa đến giờ đống xương trắng không ai thu dọn
Ma mới oán than, ma cũ khóc lóc
Trời đất âm u, mưa rơi rả rích, tiếng than rên rỉ
ĐOÀN XE RA TRẬN.
Run trời đất ngựa xe nhốn nháo,
Nặng cung tên quân kéo nhau đi.
Vợ con gào khóc như ri,
Mẹ cha đưa tiển mặt đầy lệ tuôn.
Cầu Hàm Dương bụi tung mù mịt,
Tiếng khóc la tít tắp trời cao.
Níu chân kéo áo lòng đau,
Người bên đường hỏi thăm nhau vội vàng.
Rằng: bao lượt người ra chiến trận,
Tuổi mười lăm lên Bắc giữ sông.
Bốn mươi lưng đã nhuốm còng,
Đày đi cày cấy trên đồng phía tây.
Quấn khăn đầu khi đi chưa biết,
Lúc trở về tóc trắng như bông.
Phải làm lính thú biên phòng,
Chiến trường máu chảy thành sông. Hãi hùng.
Ý vua mở biên cương cho rộng,
Hai trăm châu cỏ mọc ngập đồng.
Giá như những kẻ vắng chồng,
Làm nên ngô lúa cũng không vui gì.
Quân Tần vốn giỏi nghề trận mạc,
Thân phận người gà, chó lao xao
Hận lòng dám nói ra đâu
Người già có hỏi lắc đầu lặng thinh.
Mùa đông này mông mênh tuyết phủ,
Lính ải Tây nào có nghỉ ngơi .
Huyện quan xiết thuế đêm ngày
Tiền đâu nộp thuế hỏi trời thấu cho
Sinh con trai thời nay quá dở,
Sinh gái xem ra vậy mà hay.
Gả gần còn giúp đôi ngày,
Trai thì lại phải vùi thây nơi nào.
Có thấy chăng địa đầu Thanh Hải,
Đống xương khô ai đắp điếm cho.
Ma trơi rền rĩ đêm mưa
Hồn ma cũ oán, hồn ma mới gào.
Quán Tâm Nguyễn Hiền Nhu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét