Người theo dõi

Thứ Hai, 5 tháng 9, 2016

Thi Xã Bích Động - PHẠM TÔNG NGỘ -


Phạm Ngộ 范悟 cũng thường gọi là Phạm Tông Ngộ  范宗悟  hiệu Liêu Khê, sinh và mất năm nào chưa rõ. Người hương Kính Chủ huyện Giáp Sơn, phủ Tân Hưng, nay thuộc tỉnh Hải Hưng, là anh ruột của Phạm Mại. Hai anh em là học trò Nguyễn Sĩ Cố. Ông nguyên họ Chúc tên Kiên sau cùng em là Phạm Tông Mại theo Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông. Thái Thượng Hoàng cho rằng họ Chúc không phải là họ lớn nên đổi làm họ Phạm. Còn Kiên thì lại trùng với tên của Phán thủ Huệ Nghĩa nên đổi làm Ngộ. (về niên đại của ông xem phần Phạm Tông Mại). Có một chi tiết về thân thế “gia đình văn học” của anh em ông được hé lộ trong bài thơ “Du Phù Thạch nham nãi tiên tổ du hành chi địa chu trung tác”Cha và anh em ông đuợc ví như là Tam Tô: (Tô Tuân (cha); Tô Thức, Tô Triệt (con)
Pham Ngộ tính tình ngay thẳng, làm quan nổi tiếng thanh liêm. Bắt đầu vào triều với chức Thị nội học sinh, dưới triều Trần Minh Tông (1314-1329) ông giữ chức Tri thẩm hình viện sự, sau được thăng Tả ty lang trung rồi lại thăng Tri chính sự, đồng tri thượng thư tả ty sự.
Về thơ văn, sáng tác của Phạm Ngộ hiện còn rất ít, tuy vậy cũng có thể nhận ra ở ông một ngòi bút tả cảnh và trữ tình tinh tế, một thi vị man mác của người hiểu rõ ý nghĩa cuộc đời. Thơ ông rất cô đọng, nhiều ý ít lời.



大灘夜泊
十載江湖一葉舟,
西風吹盡黑貂裘。
霜寒野寺鐘初夜,
月滿江村雁正秋。
今古無窮吾道在,
乾坤不礙此身浮。
明時苦戀歸心未,
慚愧雲山遶夢遊。


Đại Than* Dạ Bạc
Thập tải giang hồ nhất diệp chu,
Tây phong xuy tận hắc điêu cừu.
Sương hàn dã tự chung sơ dạ,
Nguyệt mãn giang thôn nhạn chính thu.
Kim cổ vô cùng ngô đạo tại,
Càn khôn bất ngại thử thân phù.
Minh thời khổ luyến quy tâm vị,
Tàm quý vân sơn nhiễu mộng du.

--------------------
* Ðại Than là tên một khúc sông, còn gọi là Bình Than. Khúc sông này là đoạn dưới của sông Thiên Ðức (tức sông Ðuống ngày nay)

Đêm Ghé Thuyền Bến Đại Than
Mười năm sông nước con thuyền lẻ
Chiếc áo lông cừu đẫm gió thu
Chuông điểm chùa quê sương buốt lạnh
Trăng đầy xóm nhỏ nhạn vi vu
Xưa nay đi suốt đường sáng
Trời đất mịt mù kiếp lãng du
Tiếc cảnh thanh bình chưa ở ẩn
Thẹn cùng mây núi, giấc chiêm bao
QT. Nguyễn Hiền Nhu

至靈道中
野趣跋還涉,
山行雨欲晴。
幽花垂帽重,
空翠著衣輕。
坐石逢僧話,
看雲了世情。
因貪幽興極,
歸路月東明。


Chí Linh Đạo Trung
Dã thú bạt hoàn thiệp,
Sơn hành vũ dục tình.
U hoa thuỳ mạo trọng,
Không thuý trước y khinh.
Toạ thạch phùng tăng thoại,
Khan vân liễu thế tình.
Nhân tham u hứng cực,
Quy lộ nguyệt đông minh.


Trên Đường Đi Chí Linh
Thú quê trèo núi qua đồng
Con đường cong quẹo hạt mưa không
Bông hoa vướng nhụy trên vành nón
Trời biếc tuôn mây xuống áo bồng
Trên đá cùng sư đàm đạo
Ngắm mây hiểu chuyện bụi hồng
Quá vui với cảnh nơi thôn dã
Đường về trăng nhú đàng đông.
QT. Nguyễn Hiền Nhu
------------------------------------------------------

舟中夜景
淒涼夜月煙凝雪,
幾點哀鴻叫天末。
長江如練水映空,
一聲漁笛千山月。


Chu Trung Dạ Cảnh
Thê lương dạ nguyệt yên ngưng tuyết,
Kỷ điểm ai hồng khiếu thiên mạt.
Trường giang như luyện thuỷ ánh không,
Nhất thanh ngư địch thiên sơn nguyệt.

        

 Đêm Trong Thuyền
Chừng sương đọng tuyết, trăng buông lạnh
Nơi góc trời xa khản giọng hồng
Ánh bạc tuôn sông nên dãi lụa
Sáo chài gọi nguyệt đỉnh non không
QT. Nguyễn Hiền Nhu
------------------------------------------------------

遊浮石巖乃先祖修行之地舟中作
昔年曾作浮石遊, 
童顏丫髻陪親娛。 
題詩叫詠石壁下, 
時人竊比眉三蘇。 
今年重作浮石遊, 
江山如故人白頭。 
追歡歲月已不再, 
煙波千里生閒愁。 
勝遊邂逅那可必, 
塵土重來又何日。 
悠悠身世倚欄杆, 
天外客帆歸鳥疾。


Du Phù Thạch nham nãi tiên tổ du hành chi địa chu trung tác
Tích niên tằng tác Phù Thạch* du, 
Đồng nhan a kế bồi thân ngu. 
Đề thi khiếu vịnh thạch bích hạ, 
Thời nhân thiết tỉ Mi tam Tô. 
Kim niên trùng tác Phù Thạch du, 
Giang sơn như cố, nhân bạch đầu. 
Truy hoan tuế nguyệt dĩ bất tái, 
Yên ba thiên lý sinh nhàn sầu. 
Thắng du giải cấu na khả tất, 
Trần thổ trùng lai hựu hà nhật. 
Du du thân thế ỷ lan can, 
Thiên ngoại khách phàm quy điểu tật.

--------------
* Là núi Lam Thành (rú Thành), xưa gọi là núi Tuyên Nghĩa (Hà Tĩnh). Núi còn có các tên khác: rú Rum, Hùng Sơn, Đồng Trụ, Nghĩa Liệt. Tương truyền xưa Mã Viện từng dựng cột đồng ở núi này. 

Cảm tác lúc đi thuyền dạo chơi ở động Phù Thạch là nơi tổ tiên tu hành
Núi Phù Thạch năm nào dạo bước
Vẻ ngây thơ, tóc chỏm đào xanh
Hầu cha ngâm vịnh thỏa tình
Người người thầm ví nhà thành tam Tô
Trở lại cảnh cũ còn nguyên đó
Núi sông xưa, người đã bạc đầu
Tháng năm thì vẫn trôi mau
Dặm nghìn khói sóng một màu buồn tênh
Người và cảnh tình cờ gặp lại
Có chắc gì mãi mãi bên nhau
Nghĩ đời cát bụi mà đau
Lênh đênh thân thế nhuốm màu thời gian
Loang loáng buồm no làn gió lạnh
Ráng hồng tuôn vội cánh chim bay
Bao giờ trở lại nơi đây
Tựa lan can ngắm vầng mây lững lờ
QT. Nguyễn Hiền Nhu
--------------------------------------------------------

秋夜即事
破屋看星夜未央,
簫簫四璧遶寒螿。
青燈對影雙蓬鬢,
黃卷論心一炷香。
風送秋聲隨樹遠,
月分夜氣入窗涼。
羈懷冷卻渾無事,
時聽庭梧落曉霜。


Thu Dạ Tức Sự
Phá ốc khan tinh dạ vị ương,
Tiêu tiêu tứ bích nhiễu hàn tương.
Thanh đăng đối ảnh song bồng mấn,
Hoàng quyển luân tâm nhất chú hương.
Phong tống thu thanh tuỳ thụ viễn,
Nguyệt phân dạ khí nhập song lương.
Ky hoài lãnh khước hồn vô sự,
Thời thính đình ngô lạc hiểu sương.


Tức Cảnh Đêm Thu
Nhà thủng nhìn sao, đêm chậm hết
Vách ran dế hát giọng hiu buồn
Đèn xanh hắt bóng hai màu tóc
Sách mở soi lòng một chút hương
Gió gọi lời thu xao xác lá
Song mời ánh nguyệt lạnh lùng gương
Thân nơi xa xứ lòng không bận
Sân trước ngô đồng lộp độp sương
QT. Nguyễn Hiền Nhu
-------------------------------------------------------

謁萬載祠堂
重門不掩雞聲午,
落花滿地紅無主。
荒涼故里木千章,
寂寞空山煙一縷。
浮雲富貴事已非,
汗竹功名終不朽。
客來感舊不勝情,
謁罷叢祠淚如雨。


Yết Vạn Tải Từ Đường
Trùng môn bất yểm kê thanh ngọ,
Lạc hoa mãn địa hồng vô chủ.
Hoang lương cố lý mộc thiên chương,
Tịch mịch không sơn yên nhất lũ.
Phù vân phú quý sự dĩ phi,
Hãn trúc công danh chung bất hủ.
Khách lai cảm cựu bất thăng tình,
Yết bãi tùng từ lệ như vũ.


Viếng Nhà Thờ Tổ ở Vạn Tải
Gà gáy vọng vào khung cửa mở
Hồng không chủ rụng khắp sân trưa
Xóm hoang vắng lặng cây muôn vẻ
Núi lạnh mênh mang khói lượn lờ
Mây nổi lỡ gom làm của cải
Danh thơm thì giữ mãi không mờ
Cảnh xưa xao động lòng cô khách
Đền cũ thăm rồi lệ lẫn mưa
QT. Nguyễn Hiền Nhu

THAY LỜI KẾT
Lật lại từng trang sử cũ, trong lúc vô tình, tôi gặp được một điều rất thú vị. Một tổ chức văn học, có thể gọi là đầu tiên trong lịch sử, được hình thành vào đầu thế kỷ XIV. Thi xã Bích Động, do thân vương Trần Quang Triều thành lập với sự tham gia của những nhà thơ tài hoa như Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Tông Mại, Phạm Tông Ngộ, Nguyễn Xưởng, Nguyễn Ức, Tự Lạc tiên sinh… Dù là một tổ chức mang tính cá nhân, nhưng thi xã Bích Động đã đóng góp cho nền văn học nước nhà rất nhiều tác phẩm văn thơ có giá trị, phản ảnh trung thực đời sống tình cảm và tâm tình của những con người đương đại.
Với khả năng hạn hẹp của mình. Tôi chỉ có thể cảm nhận được những lời hay ý đẹp của tiền nhân và mạo muội chuyển ngữ một số ít những tác phẩm của các vị, mà không dám có một ý kiến nào khác. Tất nhiên những khiếm khuyết là không tránh khỏi, xin các bạn vui lòng bỏ qua và chỉ điểm thêm. Trân Trọng. 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét