Người theo dõi

Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2016

Thi Xã Bích Động - Phạm Tông Mại -

Phạm Tông Mại

Phạm Mại 范邁 cũng thường gọi Phạm Tông Mại 范宗邁 hiệu Kính Khê, sinh và mất năm nào chưa rõ.  Người hương Kính Chủ, huyện Giáp Sơn, phủ Tân Hưng, là em ruột của Phạm Ngộ. Ông nguyên họ Chúc tên Cố, sau khi vua Trần Nhân Tông (trị vì từ  1278 đến  1293) nhường ngôi cho con là vua Trần Anh Tông rồi đi tu, ông cùng anh là Phạm Tông Ngộ được theo hầu. Thái Thượng Hoàng cho rằng họ Chúc không phải là một họ lớn nên đổi làm họ Phạm. Còn tên Cố thì lại trùng với tên thầy học Nguyễn Sĩ Cố nên đổi sang Mại. Có một điểm cần lưu ý là suốt trong thời gian trị vì của mình, vua Trần Nhân Tông không tổ chức một kỳ thi nào, có lẽ Ngài dồn hết tâm lực cho cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, nên việc lưu ý và bỗ dụng nhân tài không qua thi cử là lẽ đương nhiên. Anh em nhà họ Phạm nằm trong số đó. Ngoài ra, có một chi tiết khá thú vị là vua Trần Nhân Tông cùng anh em ông đều là học trò của Nguyễn Sĩ Cố. Phải chăng lúc đó anh em ông đã trên 20 tuổi.
Trong bài thơ Lâm Chung Thị Ý, ông tự nhận mình ngoài sáu mươi. Do đó niên đại của ông có thể là 1268-1330 (- + 10?) 

Trong Đại Việt Sử Ký của Ngô Sĩ Liên đã nhiều lần nhắc đến ông như là một người công minh, thẳng thắn nên trong đời làm quan từng nhiều phen bị giáng chức. Bắt đầu vào triều với chức Thị nội học sinh. Dưới triều Trần Minh Tông (1314-1329), Năm 1314 ông có đi sứ nhà Minh cùng với Nguyễn Trung Ngạn. Khi về làm chức Ngự sử trung tán,  năm 1328 bị bãi chức trong vụ án Huệ Vũ Vương Trần Quốc Chẩn, rồi sau khi vụ án sáng tỏ, ông thăng lên chức Môn hạ sảnh đồng tri.
Thơ văn Phạm Mại hiện còn rất ít, giọng thơ cũng thanh thoát, đạm bạc như thơ người anh nhưng không sắc nét bằng. Niềm tâm sự gửi gắm trong thơ ông là một tinh thần nhập thế tích cực, dẫu phải nếm trải bao nhiêu gian lao vất vả vẫn không muốn rời bỏ chức vị mà trở về núi cũ.

題隱者所居和韻
到處知均臭味蘭,
杖藜敲破碧苔斑。
一襟人物渾無分,
數畝田園足自寬。
陶令歸心帶松菊,
少陵吟興動江山。
多情最愛堂前景,
雲外悠悠倦鳥還。

Đề ẩn Giả Sở Cư Hoạ Vận
Đáo xứ tri quân xú vị lan,
Trượng lê xao phá bích đài ban.
Nhất khâm nhân vật hồn vô phận,
Sổ mẫu điền viên túc tự khoan.
Đào lệnh quy tâm đới tùng cúc,
Thiếu Lăng ngâm hứng động giang san.
Đa tình tối ái đường tiền cảnh,
Vân ngoại du du quyện điểu hoàn.

Hoạ Vần Bài Thơ Đề Nơi Ở Của Ẩn Sĩ
Nhà ngát hương lan ai cũng biết
Gậy lê in dấu khắp sân rêu
Ruộng vườn đôi mẫu cười thong thả
Danh lợi đòi phen áo bạc màu
Lồng lộng núi sông câu Đỗ Phủ
Săm soi tùng cúc học ông Đào
Cảnh ngoài sân trước yêu lăm lắm
Mây trắng chim chiều quấn quýt nhau
QT. Nguyễn Hiền Nhu
---------------------------

北使偶成
野館曾經宿,
吟鞭故少留。
白雲當戶曉,
黃葉滿林秋。
斷雁稀家信,
蹄猿自客愁。
此生休更問,
行止任悠悠。
Bắc Sứ Ngẫu Thành
Dã quán tằng kinh túc,
Ngâm tiên cố thiểu lưu.
Bạch vân đương hộ hiểu,
Hoàng diệp mãn lâm thu.
Đoạn nhạn hy gia tín,
Đề viên tự khách sầu.
Thử sinh hưu cánh vấn,
Hành chỉ nhậm du du.
Thơ Làm Khi Đi Sứ
Lều quê đã từng nghỉ lại
Câu thơ một thoáng lỡ làng
Hừng đông rập rờn mây trắng
Rừng thu lác đác lá vàng
Chờ thư… nhìn con nhạn lẻ
Khách sầu… nghe vượn oán than
Đứng đi cũng đành phó mặc
Hỏi chi đời lắm ngỡ ngàng
QT. Nguyễn Hiền Nhu
---------------------------

臨終示意
自從謫落下人間,
六十餘年一瞬看。
白玉樓前秋夜月,
朝真依舊徬欗杆。
Lâm chung thị ý
Tự lòng trích lạc hạ nhân gian,
Lục thập dư niên nhất thuấn khan.
Bạch Ngọc lâu tiền thu dạ nguyệt,
Triều chân y cựu bạng lan can.
Bày tỏ ý mình khi sắp mất
Từ khi nhảy phóc xuống nhân gian
Nháy mắt mà hơn sáu chục năm
Lầu Ngọc trăng thu đang tỏ rạng
Về trời y cũ dựa lan can
Nguyễn Hiền Nhu
----------------------

閒居題水墨幛子小景
紅樹一溪流水,
青山千里斜陽。
欲喚扁舟歸去,
此生未卜行藏。
Nhàn Cư Đề Thuỷ Mặc Trướng Tử Tiểu Cảnh
Hồng thụ nhất khê lưu thuỷ,
Thanh sơn thiên lý tà dương.
Dục hoán biển chu quy khứ,
Thử sinh vị bốc hành tàng.
Đề Thơ Bức Tranh Nhỏ Trên Tấm Trướng Thuỷ Mặc
Cây đỏ ven khe nước chảy
Ráng chiều ngàn dặm non xanh
Muốn gọi thuyền con quay lại
Hai đường đi ở lênh đênh
QT. Nguyễn Hiền Nhu
---------------------------

訪僧
脫塵中簿牒忙,
暫攜僚吏訪僧房。
碧溪雪凈茶甌爽,
紅樹風多竹院涼。
徐步要窮終日興,
清談為解十年狂。
詩禪勘破聊歸去,
一路蒲花荻葉芳。
Phỏng Tăng
Bãi thoát trần trung bạ điệp mang,
Tạm huề liêu lại phỏng tăng phường.
Bích khê tuyết tịnh trà âu sảng,
Hồng thụ phong đa trúc viện lương.
Từ bộ yếu cùng chung nhật hứng,
Thanh đàm vi giải thập niên cuồng.
Thi thiền khám phá liêu quy khứ,
Nhất lộ bồ hoa địch diệp phương.
Thăm Sư
Thoát cảnh lu bu mới chạy rông
Rủ rê bạn cũ đến chùa không
Trúc xanh cây đỏ long rong gió
Suối biếc trà thơm sóng sánh giòng
Chậm rãi bước đi ngày khoai khoái
Tha hồ cười nói chuyện lông bông
Thiền thơ thấm ý  xin từ tạ
Sậy cói đưa hương loáng thoáng nồng
QT. Nguyễn Hiền Nhu


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét