Người theo dõi

Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2016

Thi xã Bích Động -Nguyễn Sưởng-

Nguyễn Sưởng


Nguyễn Sưởng 阮鬯 hiệu là Thích Liêu, quê quán, năm sinh, năm mất đều chưa rõ, chỉ biết sống cùng thời với Trần Quang Triều (1286-1325), Nguyễn Ức (?-?), Nguyễn Trung Ngạn (1289-1368)... và mất sau Trần Quang Triều.
Thơ văn của Nguyễn Sưởng cho thấy ông từng làm quan dưới triều Trần, nhưng triều chính lúc này đã sa sút, tình người đã thay đổi nên ông cũng có tâm trạng như một số người cùng thời: chán công danh, ưa ở ẩn, vui với bầu bạn và thiên nhiên. Ông tham gia thi xã Bích Động do Trần Quang Triều sáng lập. Trong số bạn thơ cùng thi xã. Trần Quang Triều là người tri kỷ được Nguyễn Sưởng đánh giá cao, kính trọng và yêu mến nhất: 16 bài thơ còn lại của ông đã có đến 5 bài dành cho Trần Quang Triều. Cái chết của người bạn đối với Nguyễn Sưởng là một mất mát lớn và theo ông đó cũng là một tổn thất cho triều đình, cho dân chúng. Từ sau đó, Nguyễn Sưởng tuy vẫn có bạn tâm giao là các nhà sư hoặc đồng liêu cũ, nhưng ông không có ai được như Trần Quang Triều.
Trong thơ, Nguyễn Sưởng rất ít nói về mình, tuy vậy cũng thấy được ông là người sống trong sạch, thanh bạch không bon chen như thói đời. Ngoài các bạn thân ra, ông dành nhiều tình cảm cho thiên nhiên. Thơ thiên nhiên của Nguyễn Sưởng giản dị, trong sáng, giàu tình cảm và trau chuốt. Đó cũng là những đặc điểm của của thơ đời Trần nói chung, của thi xã Bích-động nói riêng.
Tác phẩm: còn lại 16 bài thơ trong Việt âm thi tập và Toàn Việt Thi Lục.


白藤江
京觀如山草木春,
海潮洶洶石嶙峋。
誰知萬古重興業,
半在關河半在人。

Bạch Đằng Giang
Kinh quán sơn hà thảo mộc xuân,
Hải triều húng húng thạch lân tuân.
Thuỳ tri vạn cổ Trùng Hưng nghiệp,
Bán tại quan hà bán tại nhân.

Sông Bạch Đằng
Khắp nước mộ thù xanh sắc cỏ
Núi chơm chởm đá, sóng mênh mông  
Mãi  ghi  sự nghiệp Trùng Hưng đó
Nửa tại lòng người, nửa núi sông
QT. Nguyễn Hiền Nhu

舟中即事
江闊潮平日又斜,
叩舷乘興答漁歌。
斷虹掛漢天收雨,
畫鷁沿流水寂波。
湖海十年知己少,
功名兩字歉人多。
扁舟塍欲尋張翰,
一味蒪鱸奈爾何。

Chu Trung Tức Sự
Giang khoát triều bình nhật hựu tà,
Khấu huyền thừa hứng đáp ngư ca.
Đoạn hồng quải hán thiên thu vũ,
Hoạ ích duyên lưu thuỷ tịch ba.
Hồ hải thập niên tri kỷ thiểu,
Công danh lưỡng tự ngộn nhân đa.
Biển chu thăng dục tầm Trương Hãn,*
Nhất vị thuần lô nại nhĩ hà.

Nỗi Lòng Người Trên Thuyền
Sóng yên sông rộng ráng chiều phai
Cùng gõ xuồng ca với bạn chài
Trời uốn cầu vồng mưa đã tạnh
Mũi thuyền rẽ sóng nước trôi xuôi
Mười năm phiêu lãng chừng không đã
Hai chữ công danh lắm kẻ hoài
Những muốn bơi xuồng về chốn cũ
Canh rô rau đắng mát lòng ai
QT. Nguyễn Hiền Nhu
----------------------------
*Trương Hàn (ở đây đọc Trương Hãn theo luật) người đời Tấn đang làm quan ở Lạc Dương, một hôm nhận thấy gió thu bắt đầu thổi, chạnh nhớ những món ăn rau cô, canh thuần, gỏi cá lư (hay cá vược) quê nhà, bèn từ quan về làng cũ.

江行
岸轉樹斜出,
溪深花倒開。
晚霞孤鳥沒,
春雨片帆來。
Giang Hành
Ngạn chuyển, thụ tà xuất,
Khê thâm, hoa đảo khai.
Vãn hà, cô điểu một,
Hiểu vũ, phiến phàm lai.

Đi Trên Sông
Bờ cong, cành xanh uốn lượn
Khe sâu, hoa cỏ tươi cười
Bóng chim chìm trong ráng lịm
Cánh buồm chấp chới mưa bay
QT. Nguyễn Hiền Nhu

村居
匆匆春已夏,
樹底鳥聲忙。
簷月移花影,
窗風借竹涼。
圍棋閒得地,
對酒醉為鄉。
喚出華胥國,
鄰雞隔短牆。
Thôn Cư
Thông thông xuân dĩ hạ,
Thụ để điểu thanh mang.
Thiềm nguyệt di hoa ảnh,
Song phong tá trúc lương.
Vi kỳ nhàn đắc địa,
Ðối tửu tuý vi hương.
Hoán xuất Hoa Tư quốc,*
Lân kê cách đoản tường.

Ở Làng
Xuân hết lại sang hè
Trong vườn ríu rít tiếng chim quê
Hiên trăng lấp lánh hoa soi bóng
Giậu trúc lơ phơ gió thoảng về
Thủng thỉnh cuộc cờ không vội
Nồng nàn chén rượu tỉnh mê
Hoa Tư giấc mộng chừng như thật
Bên dậu tiếng gà gáy te.
QT. Nguyễn Hiền Nhu

----------------------------------
*Tức Hoa Tư quốc, nước của họ Hoa Tư, tương truyền nơi thanh bình không có vua, người dân đều hạnh phúc. Điển cố theo sách "Liệt tử", Hoàng Đế trưa nằm ngủ mơ thấy đến nước Hoa Tư. Sau thường dùng tích này để chỉ cảnh thái bình, hoặc chỉ mộng cảnh.


重到瓊林碧洞庵留題
花表風吹騎去鶴,
草蘆雲護臥岡龍。
蒼生一念堪惆悵,
月冷瓊林半夜鍾。

Trùng Đáo Quế Lâm Bích Động Am Lưu Đề
Hoa biểu phong xuy kỵ khứ hạc,
Thảo lư vân hộ ngọa cương long.
Thương sinh nhất niệm kham trù trướng,
Nguyệt lãnh Quỳnh Lâm bán dạ chung.

Viết Khi Đến Am Bích Động ở Quỳnh Lâm
Gió vờn lay lắt cội hoa
Ơi người cưỡi hạc bay xa xa rồi
Nhà tranh mây phủ bời bời
Rồng nằm lưng núi ngắm trời trống không
Thương dân mà buốt cả lòng
Chuông rung bóng nguyệt lạnh thềm Quỳnh Lâm
QT. Nguyễn Hiền Nhu


Về  Tự Lạc Tiên Sinh:
Hiện nay chưa có một thông tin nào về ông. Ngoài một bài thơ của Nguyễn Sưởng họa lại bài thơ của Trần Quang Triều  (Nhưng bài thơ này cũng không còn). Rất có thể ông là một cư sĩ và đã có một mối quan hệ khá chặt chẽ với Hội Thơ. Qua bài thơ chúng ta có thể đoán được một phần nào về tính cách và hành trạng của ông.

菊堂題開元觀自樂先生僑居,因次其韻
世緣消卻外妻兒,
俗客寧容欸竹扉。
石鼎烹茶僧共語,
松壇步月鶴同歸。
陶詩靜坐幽閒想,
羲劃先探動靜機。
對塌暫時陪笑語,
京塵迴首悟前非。

Cúc Đường đề Khai Nguyên quán Tự Lạc tiên sinh kiều cư, nhân thứ kỳ vận
Thế duyên tiêu khước ngoại thê nhi,
Tục khách ninh dung thoản trúc phi.
Thạch đỉnh phanh trà tăng cộng thoại,
Tùng đàn bộ nguyệt hạc đồng quy.
Đào thi tĩnh ngoạn u nhàn tưởng,
Hy hoặch tiên tham động tĩnh ky.
Đối tháp tạm thời bồi tiếu ngữ,
Kinh trần hồi thủ ngộ tiền phi.

Cúc Đường đề thơ ở quán Khai Nguyên nơi trọ của tiên sinh Tự Lạc, nhân hoạ vần
Bỏ quách sự đời chẳng díu dan,
Cửa tre nào đón khách trần gian.
Nấu trà vạc đá sư cùng chuyện,
Chơi nguyệt nền thông hạc lẫn đàn.
Gieo quẻ Hy xem cơ động tĩnh,
Ngâm thơ Đào gẫm ý u nhàn.
Sẵn đây bên ghế hầu câu chuyện,
Mới biết lầm xưa tới cửa quan.
(Người dịch: Nguyên Lợi)



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét