Người theo dõi

Thứ Bảy, 20 tháng 8, 2016

Thi xã Bích Động. Trần Quang Triều

Thi xã Bích Động. Trần Quang Triều


Chùa Quỳnh Lâm

Từ những năm 1978, đã có những thông tin về một thi xã được xem là sớm nhất trong lịch sử văn học Việt Nam. Thi xã Bích Động.
Nhưng diện mạo của thi xã như thế nào thì chỉ là những nghiên cứu lẻ tẻ, đàng này một ít, đàng kia một tí.
Trong điều kiện tư liệu hạn hẹp và HRG thì lại không có điều kiện đi đến tận nơi cũng như được tiếp xúc với những tư liệu cần thiết, nên đành gom góp lại để tìm ra một diện mạo ban đầu như là một phác thảo.
Dù người chủ trương là một thân vương. Văn Huệ Vương Trần Quang Triều và những người tham gia thi xã là những quan lại, nhưng trước nhất cần phải khẳng định đây là một tổ chúc văn học tư nhân. Họ hoàn toàn tự do trong hoạt động sáng tác và không mang tính nhà nước như Tao Đàn của vua Lê Thánh Tông hay là hội Nhà Văn hiện nay.
Nói chính xác hơn đây là một nhóm thân hữu đến với nhau cùng đàm luận và sáng tác thơ ca.
Mộ tháp sau chùa
Ở đây LTD không có tham vọng đi sâu vào nghiên cứu, mà chỉ giới thiệu một số tác phẩm của những thành viên. Để cho các bạn tiện theo dõi. Mỗi một entry là một thành viên trong thi xã gồm 2 phần; tiểu sử và chí ít 3 tác phẩm tiêu biểu cùng đường line để các bạn tham khảo:
Trần Quang Triều
Nguyễn Trung Ngạn
Nguyễn Sưởng
Nguyễn Ức
Phạm Tông Mại
Phạm Tông Ngộ
Tự Lạc Tiên Sinh Trần Quốc Ân  (không còn tác  phẩm)


Trần Quang Triều
Trần Quang Triều 陳光朝 (1286-1325) còn có tên là Nguyên Đạo và Nguyên Thụ, hiệu là Cúc Đường chủ nhân và Vô Sơn Ông, sinh năm Giáp Ngọ (1286), mất năm Ất Sửu (1325), nguyên quán ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, nay thuộc Nam Định. Là con trai cả Trần Quốc Tảng, cháu nội Trần Quốc Tuấn và anh vợ vua Trần Anh Tông. Trần Quang Triều được nhà Trần biệt đãi, nên năm 1301, mới 15 tuổi đã được phong tước Văn Huệ Vương, kế đó vào làm quan trong triều. Ông giỏi văn và giỏi cả võ, đã từng hăng hái cầm quân đi đánh dẹp Thích Na. Tuy vậy ông không tham công danh, phú quý. Sau vợ là công chúa Thượng Trân mất, ông càng muốn cáo quan. Nhiều khi trên đường đi công cán, ông cũng tỏ ý nhớ nhà muốn về. Cuối cùng ông đã xin về ở am Bích Động gần chùa Bình Lâm, nay thuộc huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, lập ra thi xã Bích Động xướng họa với các bạn thơ và cũng là bạn đồng liêu như Nguyễn Sưởng, Nguyễn Trung Ngạn, Nguyễn Ức, Tự Lạc tiên sinh. Năm 1321, vua Trần Minh Tông triệu ông ra gánh vác việc nước, chức Nhập nội kiểm hiện tư đồ cho ông, nhưng chẳng được bao lâu thì mất thương tiếc ông, các bạn đã làm thơ viếng và thu thập, biên tập thơ ông thành "Cúc Đường di cảo".
Về thơ, Trần Quang Triều là nhà thơ giàu tình cảm, tinh tế, phóng khoáng, tài hoa. Thơ ông ý hàm súc, lời cô đọng, giản dị, dễ hiễu, hầu hết nói đến thú ở ẩn, thú du ngoạn, uống rượu ngâm thơ cùng bạn bè đồng điệu. Ông vui với thiên nhiên và cuộc sống trù phú của dân chúng nơi thôn dã, đồng thời cũng bộc lộ tâm sự buồn nản, chán công danh, ghét thói đơn bạc - dấu hiệu suy vi của triều Trần. Thơ tả cảnh qua đó lồng tâm tư tình cảm của Trần Quang Triều thật đặc sắc. Ông có những nhận xét tinh tế về nét riêng của thiên nhiên nước ta. Thơ ông được Phan Huy Chú đánh giá là "thanh thoát, đáng ưa".
Tác phẩm: tập "Cúc Đường di cảo" nay đã thất lạc, hiện còn 11 bài thơ chép trong "Việt âm thi tập", "Toàn Việt thi lục".

題嘉林寺
心灰蝸角夢,
步履到禪堂。
春晚花容薄,
林幽蟬韻長。
雨收天一碧,
池凈月分涼。
客去僧無語,
松花滿地香。

Đề Gia Lâm tự
Tâm khôi oa giác* mộng,
Bộ lý đáo thiền đường.
Xuân vãn hoa dung bạc,
Lâm u thiền vận trường.
Vũ thu thiên nhất bích,
Trì tịnh nguyệt phân lương.
Khách khứ tăng vô ngữ,
Tùng hoa mãn địa hương.

CHÙA GIA LÂM
Giấc mộng bon chen đã nhạt
Rảo chân dọc theo hiên chùa
Xuân tàn sắc hoa dượm úa
Rừng vắng tiếng ve gọi hè
Mưa tạnh khung trời chợt biếc
Hồ trong ánh trăng lại về
Khách đi và sư không nói
Thông rụng hương hoa bốn bề.
QT. Nguyễn Hiền Nhu

舟中獨酌
秋滿山城倍寂寥,
家書不到海天遙。
人情疏密敲蓬雨,
世態高低拍漫潮。
松菊故留嗟異路,
琴書晚喜同條。
幾多磊塊胸中事,
且向樽前譬一驕。

Chu trung độc chước
Thu mãn sơn thành bội tịch liêu,
Gia thư bất đáo hải thiên diêu.
Nhân tình sơ mật xao bồng vũ,
Thế thái cao đê phách mạn triều.
Tùng cúc cố lưu ta dị lộ,
Cầm thư tuế vãn hỷ đồng điều.
Kỷ đa lỗi khối hung trung sự,
Thả hướng tôn tiền thí nhất kiêu.

MỘT MÌNH UỐNG RƯỢU TRONG THUYỀN
Thu hiu quạnh bủa thành trên núi
Chắng được thư nhà lạnh biển xa
Lề thói thấp cao, con sóng vỗ
Chuyện đời thưa nhặt, hạt mưa sa
Cúc tùng bạn cũ, đành ngăn cách
Đàn sách chiều buông, hợp ấy mà
Lực bực trong lòng chi lắm nỗi
Thôi thì chén rượu nhẹ lòng ra
QT. Nguyễn Hiền Nhu

梅村廢寺
荒草前朝寺,
秋風舊戰場。
殘碑沉暮雨,
古佛臥斜陽。
石室藏雲衲,
花臺供野香。
應身無處所,
與世共興亡。

Mai thôn phế tự
Hoang thảo tiền triều tự,
Thu phong cựu chiến trường.
Tàn bi trầm mộ vũ,
Cổ Phật ngọa tà dương.
Thạch thất tàng vân nạp,
Hoa đài cúng dã hương.
Ứng thân vô xứ sở,
Dữ thế cộng hưng vong.

CHÙA HOANG Ở  XÓM MAI
Chùa hoang cỏ xanh loang khắp
Chiến trường xưa gió thu đùa
Phật đài long lanh bóng ráng
Bia cũ lay phay hạt mưa
Thạch thất khói mây mờ phủ
Đài hoa hương đồng thoảng qua
Một thân không nơi nương tựa
Còn mất theo đời đong đưa
QT. Nguyễn Hiền Nhu





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét